13.tài sản vô hình và tài sản hữu hình

I.Tài sản vô hình và tài sản hữu hình

1. Khái niệm:

- Tài sản: Tài sản là một khái niệm pháp lý bao gồm tất cả các quyền, quyền lợi, lợi nhuận có liên quan đến quyền sở hữu, bao gồm: quyền sở hữu cá nhân, nghĩa là chủ sở hữu được hưởng những quyền lợi, lợi ích nhất định khi làm chủ sở hữu tài sản đó. (Theo ủy ban thẩm định giá quốc tế - IVSC). Căn cứ vào tính có hay không có tính chất vật lý tài sản có thể chia thành tài sản vô hình (TSVH) và tài sản hữu hình (TSHH).

- TSHH là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, xí nghiệp... mang thuộc tính vật chất. Ví dụ như: nhà xưởng, máy mọc, dụng cụ, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hay những tài sản trong xây dựng và phát triển, có khả năng mang lại lợi nhuận cho chủ sở hữu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sản phẩm được sản xuất ra.

- TSVH là những tài sản tự biểu lộ, thể hiện thông qua những đặc điểm kinh tế của chúng. Những tài sản này không có hình thái vật chất nhưng có thể tạo ra được những lợi thế và quyền hạn để mang lại giá trị kinh tế cho người sở hữu nó.

2. Đặc điểm của tài sản vô hình và tài sản hữu hình

2.1. Đặc điểm của tài sản vô hình

- TSVH là những tài sản không mang hình thái cụ thể, chúng ta không thể cầm nắm được. Nó không thể nhìn thấy hay cảm nhận được bằng mùi vị, màu sắc nhưng chúng ta có thể cảm nhận được bằng trực giác của mình. Nó mang lại những giá trị khác với giá trị sử dụng thông thường.

- Giá trị của TSVH gắn với những yếu tố thuộc về tâm lý, do vậy giá trị của nó phụ thuộc vào đời sống của người dân, thời điểm và ảnh hưởng của phần tài sản vô hình tác động đến họ trong thời điểm đó và vị thế của họ trong xã hội.

-Tài sản vô hình gắn liền với chủ thể nhất định và mang lợi ích của chủ thể đó.

2.2. Đặc điểm của tài sản hữu hình

- Tồn tại ở hình thái vật chất cụ thể: tài sản hữu hình do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ nguyên liệu vật liệu sử dụng những tài sản này để tạo ra sản phẩm nên những tài sản này chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy và nhận biết được

- Khó di dời: do tài sản hữu hình thường là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị, dụng cụ...được hình thành sau quá trình thi công xây dựng hoặc được dùng trong sản xuất kinh doanh nên thường khó di chuyển

- Có thể dễ dàng định giá tài sản: Tài sản hữu hình được đánh giá lần đầu và có thể đánh giá lại trong quá trình sử dụng. Tài sản hữu hình được tính giá theo nguyên giá (giá trị ban đầu), giá trị đã hao mòn và giá trị còn lại.

Nguyên giá là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được tài sản hữu hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng

Giá trị đã hao mòn (Giá trị phải khấu hao) là nguyên giá của tài sản hữu hình ghi trên báo cáo tài chính trừ đi giá trị thanh lý ước tính của tài sản đó

Giá trị thanh lý (Giá trị còn lại) là giá trị ước tính thu được khi hết thời gian sử dụng hữu ích của tài sản sau khi trừ chi phí thanh lý ước tính.

II. Đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình

1. Khái niệm

- Đầu tư là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những năng lực sản xuất tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.

- Đầu tư vào TSHH chính là hoạt động đầu tư vào phần giá trị hữu hình của nhà máy, xí nghiệp nhằm mục đích nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí...

- Đầu tư vào TSVH là hành động bỏ vốn để nâng cao năng lực, giá trị vai trò của TSVH đối với công ty như thương hiệu, các mối quan hệ, những công nghệ, bí quyết mới bằng cách quảng cáo, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, mua lại bản quyền hay tự nghiên cứu sáng chế.

2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình

2.1. Đầu tư tài sản hữu hình

Đầu tư vao TSHH là một hoạt động đầu tư quan trọng của doanh nghiệp vì nếu không có TSHH thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tồn tại. Muốn có hàng hóa con người cần phải sản xuất, để sản xuất chúng ta cần có công cụ, địa điểm và các yếu tố cần thiết. Đầu tư TSHH được chia làm 2 loại: đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư bổ xung hàng tồn trữ.

2.1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản

Khái niệm: Đầu tư xây dựng cơ bản chính là hoạt động đầu tư nhằm tạo mới hoặc bổ sung, nâng cấp đối với các tài sản cố định của doanh nghiệp. Đây là hoạt động đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đầu tư. Hình thái sử dụng rất rõ nét bao gồm:

Chi phí đầu tư ban đầu, đất đai.

Chi phí xây dựng sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng.

Chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị, phương tiện vận chuyển.

Các chi phí khác: chi phí khảo sát thực tế, bảo vệ môi trường, chi phí kiểm định...

Trong phạm vi doanh nghiệp, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản luôn đóng vai trò quan trọng bởi đây luôn là khoản đầu tư được quan tâm nhiều nhất. những lĩnh vực xây dựng cơ bản được quan tâm đầu tư là: xây dựng nhà xưởng, công trình hay đầu tư mua sắm máy móc thiết bị... Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản thường sử dụng nhiều vốn, thời gian hoàn vốn lâu nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó là yếu tố thiết yếu, có tác động lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp cả ở khía cạnh trực tiếp và gián tiếp. Vốn đầu tư cơ bản là số vốn đầu tư để tạo ra tài sản cố định, nó bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn tài sản cố định. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm hai bộ phận hợp thành, vốn đầu tư để mua sắm máy móc thiết bị và vốn đầu tư xây dựng mới tài sản cố định.

Đầu tư xây dựng công trình là hoạt động có liên quan đến bỏ vốn ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo dựng tài sản cố định là công trình xây dựng để sau đó tiến hành khai thác công trình, sinh lợi với một khoảng thời gian nhất định nào đó ở tương lai. Đối với một doanh nghiệp, hoạt động xây lắp là các hoạt động xây dựng nhà xưởng, văn phòng, nhà ở, bệnh viện... cho cán bộ nhân viên trong từng doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp thì các sản phẩm của họ không phải là đầu tư phát triển trên góc độ doanh nghiệp nếu nó không phục vụ cho người lao động của doanh nghiệp đó.

Hoạt động đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị cũng là một lĩnh vực chính của đầu tư xây dựng cơ bản trong doanh nghiệp vì nó chiếm một lượng vốn tương đối lớn và diễn ra thường xuyên trong nhiều năm. Đầu tư mua sắm trang thiết bị mới làm tăng năng suất lao động cao hơn hoặc sản phẩm sản xuất ra có tính cạnh tranh cao hơn.

2.1.2 Đầu tư vào hàng tồn trữ

a) Khái niệm

Đầu tư vào hàng tồn trữ là khoản chi cho các hàng hóa tồn tại dưới dạng nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

b) Nguyên nhân đầu tư vào hàng tồn trữ:

Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất vật chất, hàng dự trữ là một lĩnh vực hết sức quan trọng bởi nó có ý nghĩa trọng yếu đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Một quy mô hàng dự trữ hợp lý tránh cho doanh nghiệp không bị tác động bởi những biến động của thị trường, đồng thời sử dụng các nguồn lực: vốn, công nghệ... hiệu quả hơn. Đồng thời, đầu tư vào hàng dự trữ còn giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra đầu tư vào hàng tồn trữ là rất cần thiết do nó có thể giảm được thời gian cần thiết đáp ứng nhu cầu, làm ổn định mức sản xuất của doanh nghiệp trong khi nhu cầu biến đổi và bảo vệ doanh nghiệp trước những dự báo thấp về nhu cầu.

c) Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản:

- Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra một số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho.

- Lượng tồn kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự đoán được sự thya đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách về lượng tồn kho dự phòng.

- Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.

- Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ hoặc bán hàng vào mùa bán ế để duy trì và tăng cường và phục vụ khách hàng vào mùa bán chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tồn kho dự đinh theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêmkhi sản xuất ổn định ( chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác...).

Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc:

- Nhu cầu độc lập: là nhu cầu do thị trường quyết định. Ví dụ: nhu cầu đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng như tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những lúc này nhu cầu nào sẽ nảy sinh? Mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. tuy nhiên với phạm vi dao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lich sử và các nhân tố tương quan khác.

- Nhu cầu phụ thuộc: là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy giặt cần phải sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy được gọi là nhu cầu phụ thuộc.

Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xác định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng.

* Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau:

- Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:

+ Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.

+ Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi...

+ Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn.

Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn.

- Chi phí đặt hàng: Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất, chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.

- Chi phí thiếu hàng: Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca...chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng.

Mặc dù đầu tư bổ sung hàng tồn trữ là rất cần thiết nhưng nếu dự trữ quá nhiều sẽ là doanh nghiệp lãng phí nguồn vốn đầu tư, do vậy cần phải xác định mức tồn kho hợp lý để làm cực tiểu tổng chi phí liên quan đến tồn kho. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ chủ yếu là xác định quy mô dự trữ tối ưu. Để xác định được giá trị này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những phân tích chính xác và kịp thời về thị trường, đối thủ cạnh tranh hay các xu hướng sắp tới. Chi phí cho hoạt động đầu tư vào hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng bỏ ra để mua chúng. Đây cũng sẽ là một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp bởi nếu như lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ lớn sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư.

• Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình

a) Khái niệm hiệu quả đầu tư

Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định

Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu quả. Việc xác định các chỉ tiêu này phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư đưa ra

Hiệu quả đầu tư được đánh giá là có hiệu quả khi trị số của các chỉ tiêu đo lường hiệu quả thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ đầu tư định ra

b) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư

Hệ thống đánh giá hiệu quả tài chính của đầu tư gồm có:

- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án

+ Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho tưng năm, cho cả đời dự án hoặc bình quân năm của đời dự án

Lợi nhuận thuần từng năm được xác định như sau:

Wi = Oi - Ci

Trong đó: Wi : Lợi nhuận thuần năm i

Oi : Doanh thu thuần năm i

Ci : Các chi phí ở năm i

+ Tổng lợi nhuận thuần: PV(W)

PV(W) = = W1 + W2 1(1+r)2 + ...+ Wn 1(1+r)n

Lợi nhuận thuần bình quân:

+ Chỉ tiêu thu nhập thuần: NPV: Thu nhập thuần của dự án thường được tính chuyển về mặt bằng hiện tại đầu thời kỳ phân tích

- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: phản ánh mức lợi nhuận thuần hoặc thu nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng

- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có: Vốn tự có là một bộ phận của vốn đầu tư, là một yếu tố cơ bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư. Tỷ suất sinh lời vốn tự có càng cao thì hoạt động đầu tư càng có hiệu quả

- Chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm vốn đầu tư. Nếu trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao

- Chỉ tiêu tỷ số lợi ích - chi phí: B/C

- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: T

- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ: IRR

- Chỉ tiêu điểm hòa vốn

c) Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH

Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH gồm có:

- Khối lượng vốn đầu tư thực hiện: là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác mua sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và chi phí khác

- Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm

+ Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay

+ Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm: Khi các tài sản cố định được huy động vào sử dụng, chúng đã làm gia tăng năng lực sản xuất, phục vụ cho nền kinh tế. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ. Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động

2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình

Trong doanh nghiệp, TSVH ngày càng được quan tâm đầu tư, nhất là trong điều kiện xã hội ngày nay. Tài sản vô hình trong doanh nghiệp có thể là thương hiệu, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ hay các quyền lợi khác được pháp luật bảo hộ... Tài sản vô hình ngày càng trở nên quan trọng bởi nó là một lợi thế cạnh tranh vô cùng hữu hiệu khi mà các tài sản vật chất tạo ra ít lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình ngày càng được chú ý.

2.2.1.Đầu tư phát triển nhân lực

Đầu tư phát triển nhân lực là hoạt động mở rộng quy mô hoặc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực làm việc trực tiếp tại các doanh nghiệp thông qua các hoạt động đào tạo, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe người lao động...

Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo dành thắng lợi trong cạnh tranh. Vì vậy đầu tư cho nguồn nhân lực là bộ phận quan trọng của đầu tư vào tài sản vô hình, là yếu tố thể hiện rõ nhất đặc điểm, tính chất của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Đó là các hoạt động tuyển dụng, đào tạo, đào tạo lại, có thể được thực hiện trước sau, xen kẽ hoặc tách biệt tùy thuộc vào mục đích và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.

Tuyển dụng đòi hỏi chi phí không nhiều nhưng lại cần được chuẩn bị chu đáo và bài bản bởi nó có vai trò quan trọng trong các hoạt động tương lai của doanh nghiệp, từ hoạt động thông báo tuyển dụng đến hoạt động tuyển chọn để đạt hiệu quả cao nhất.

Sử dụng lao động:có ảnh hướng lớn tới doanh nghiệp vì sử dụng người lao động đúng lúc, đúng chỗ có thể phát huy tối đa năng lực của người lao động, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động này đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ càng, chính xác của lãnh đạo doanh nghiệp.

Đào tạo: góp phần quyết định năng lực, trình độ, phẩm chất của người lao động. Đối tượng đào tạo có thể phân chia thành: lực lượng cán bộ quản lý; lực lượng cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ; công nhân đào tạo tay nghề.

2.2.2. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ.

Đây là đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Tuy hoạt động đầu tư này có mức độ rủi ro cao nhưng nếu thành công sẽ mang lại lợi ích rất lớn.

Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động nghiên cứu mới đòi hỏi cần đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và rủi ro cao. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.

Khoa học kỹ thuật là một hệ thống những tri thức của con người về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học kỹ thuật còn cụ thể hóa những tri thức, quy luật đó thành việc sản xuất và sử dụng những công cụ lao động, nguyên nhiên liệu... Đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, công nghệ chưa bao giờ là thừa, đặc biệt trong điều kiện xã hội ngày nay, khi mà khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như của các doanh nghiệp. Đối với khoa học kỹ thuật và công nghệ, các doanh nghiệp trong thời đại này đều phải cố gắng nắm bắt và ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh càng nhanh càng tốt, bởi đó là một lợi thế cạnh tranh không thể phủ nhận. trong phạm vi doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, công nghệ thể hiện ở một số hoạt động:

Đầu tư đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa trong sản xuất:doanh nghiệp sẽ chủ động chi những khoản tiền phục cho hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật và đổi mới và sản xuất. Đây là một hướng đi quan trọng để phát triển khoa học kỹ thuật ở mỗi quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong doanh nghiệp, bộ phận phụ trách phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ thường là bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D). Các khoản đầu tư chính thường được tập trung cho bộ phận này.

Đầu tư cho các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm hay các cơ sở chuyên nghiên cứu để có được các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất. Từ đó có được lợi thế cạnh tranh đối với các doanh nghiệp khác. Hoạt động đầu tư này thường được thực hiện thông qua các mô hình liên kết nghiên cứu hay các hợp đồng nghiên cứu theo đơn đặt hàng.

Đầu tư cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ:doanh nghiệp cần phải đầu tư cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật trực tiếp vận hành các máy móc thiết bị và đội ngũ cán bộ quản lý khoa học kỹ thuật bởi nếu không hiểu về khoa học kỹ thuật thì hoạt động quản lý chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả. Doanh nghiệp có thể đầu tư thông qua hoạt động đào tạo, tuyển dụng và các hoạt động khác nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, nhân viên.

2.2.3.Đầu tư hoạt động marketing

Đầu tư cho hoạt động marketing là chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu để nâng cao vị thế, củng cố uy tín của doanh nghiệp trên thị trường và tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp. Đầu tư cho hoạt động này cần chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.

2.2.4. Đầu tư xây dựng thương hiệu

Dù không hữu hình như một toà cao ốc hay một dây chuyền sản xuất, nhưng thương hiệu chắc chắn góp phần không nhỏ vào doanh thu và lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp đang "ăn nên làm ra". Tại sao một chiếc máy tính thương hiệu IBM lại có thể bán mắc hơn một chiếc máy cùng cấu hình mang thương hiệu DELL? Đơn giản là vì thương hiệu IBM đã tạo ra những giá trị cộng thêm bên cạnh những giá trị cơn bản của mình. Ngày nay, người tiêu dùng mua xe gắn máy không chỉ để đi lại, mua điện thoại di động không chỉ để nghe và nhắn tin, hay mua quần áo đơn thuần chỉ để mặc mà họ sẵn sàng chi thêm tiền để mua những giá trị vô hình như: sự sang trọng, lịch lãm, sự sành điệu, trẻ trung, hay đơn thuần chỉ để thể hiện tính cách hay đẳng cấp của mình. Họ chọn thương hiệu này thay vì thương hiệu kia bởi vì họ cảm nhận được ở chúng những giá trị riêng biệt. Nếu thương hiệu không có bản sắc riêng, nó chỉ là một nhãn hiệu hàng hoá đơn thuần. Nhưng một khi đã tìm được chỗ đứng cho mình trong tâm trí khách hàng, bản sắc thương hiệu sẽ phát huy vai trò "giữ chân" khách hàng cũng như xây dựng lòng trung thành của họ đối với thương hiệu. Với tinh thần như vậy, những khoản chi dành cho xây dựng thương hiệu nói riêng và Marketing nói chung cần được xem như khoản đầu tư hơn là chi phí hoạt động của doanh nghiệp.

Tầm quan trọng của việc định giá thương hiệu: Nếu xem thương hiệu là một tài sản của doanh nghiệp, vậy thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể trao đổi, mua bán hoặc cho thuê tài sản này và sử dụng như phần vốn góp trong các dự án kinh doanh với các đối tác bên ngoài. Đây chính là lý do vì sao định giá thương hiệu đang là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất tronng thời gian gần đây. Xu hướng toàn cầu hoá cùng sự phát triển của thị trường chứng khoán tạo ra những động lực thúc đẩy nhu cầu xác định giá trị của thương hiệu. Bởi vì chỉ khi xác định được giá trị này, doanh nghiệp mới có cơ sở nền tảng để sử dụng thương hiệu như một tài sản đúng nghĩa, cả trên thị trường và cả trên sổ sách kế toán. Bên cạnh việc xác định được giá trị của thương hiệu trong tổng giá trị tài sản của công ty, việc định giá thương hiệu còn giúp chúng ta có được sự tham chiếu cần thiết và tương đối chính xác với các thương hiệu cạnh tranh trực tiếp hay gián tiếp trên thị trường.

Ngày nay, một doanh nghiệp chuyên nghiệp và hiện đại là doanh nghiệp có khả năng tạo ra, nắm bắt cũng như phát triển những giá trị thương hiệu thuộc quyền sở hữu và sử dụng của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta hiện nay, định giá thương hiệu vẫn chưa đóng vai trò quan trọng và cần thiết vốn của nó trong hoạt động kinh doanh và quá trình cổ phần hoá và sự phát triển tất yếu của thị trường chứng khoán, chắc chắn định giá thương hiệu sẽ trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.

• Đánh giá hiệu quả của đầu tư vào tài sản vô hình

Năm 2003, Tạp chí Business Week hợp tác cùng Tập đoàn Interbrand công bố danh sách 100 thương hiệu hàng đầu thế giới (thương hiệu là 1 loại tài sản vô hình quan trọng của các doanh nghiệp): dẫn đầu là Coca Cola (69,637 tỷ USD), Microsoft (64,09 tỷ USD), IBM (51,188 tỷ USD), General Electric (41,311 tỷ USD), Intel (30,861 tỷ USD, Nokia (29,970 tỷ USD), Disney (29,256 tỷ USD), Mc Donald's (26,375 tỷ USD), Marlboro (24,151 tỷ USD), Mercedes (21,101 tỷ USD)... Ở Việt Nam cũng đã có một số Công ty xác định giá trị nhãn hiệu hàng hoá của mình như: giá trị nhãn hiệu của Công ty P/S là 5,3 triệu USD, nhãn hiệu Bia Sài Gòn là 9,5 triệu USD... Tất cả những điều trên muốn nói rằng, khi xem xét đánh giá một doanh nghiệp không thể không đi vào đánh giá yếu tố vô hình trong đó, bởi vì doanh nghiệp khác với các tài sản thông thường, đây là một thực thể động và có sự tham gia của con người.

Trước đây, tài sản hữu hình vẫn được coi nhân tố chính tạo nên giá trị doanh nghiệp. Ngày nay, hoàn toàn có thể nói rằng phần lớn giá trị doanh nghiệp là nằm ở tài sản vô hình. Mối quan tâm của các cấp quản lý đối với loại tài sản này đã gia tăng một cách đáng kể.Vậy làm thế nào để đánh giá hiệu quả đầu tư tài sản vô hình cũng như làm thế nào để định giá tài sản vô hình?

Thực ra thì thị trường cũng nhận thức được sự hiện diện của tài sản vô hình nhưng giá trị cụ thể của nó là không rõ ràng và chưa định lượng được. Ngay cả ngày nay, trong quá trình xác định lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, việc tính toán chỉ dựa trên các chỉ số như tỷ suất sinh lợi đầu tư, tài sản, vốn chủ sở hữu chứ không hề dựa vào các chỉ số liên quan đến tài sản vô hình. . Thương hiệu, công nghệ, bằng sáng chế, nhân lực là những nhân tố sống còn cho sự thành công của doanh nghiệp nhưng hiếm khi được xác định giá trị một cách chi tiết, nó chỉ được tính gộp vào tổng giá trị tài sản một cách tương đối.

Có 2 cách dịnh giá tài sản vô hình đó là :

- Cách 1: Trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình

- Cách 2: Gián tiếp tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó.

• Trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình. Theo hướng này có phương pháp cơ bản sau:

- Các phương pháp chi phí: các phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng giá trị của một tài sản được đo bằng chi phí để làm ra tài sản đó. Và hiện tại, có 2 phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình dựa trên chi phí: một là, phương pháp chi phí quá khứ và hai là, phương pháp chi phí tái tạo.

+ Phương pháp chi phí quá khứ: để xác định giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp, người ta đi vào trực tiếp xác định và tổng hợp các chi phí đã phát sinh trong quá trình xây dựng tài sản vô hình đó. Phương pháp này có ưu điểm, chỉ ra được những chi phí cụ thể để tạo ra tài sản vô hình. Tuy nhiên, nó lại chứa đựng nhược điểm lớn, đó là chi phí không phản ánh giá trị thị trường hiện tại của tài sản vô hình, đồng thời phương pháp này không tính đến những lợi ích mà tài sản vô hình mang lại trong tương lai.

+ Phương pháp chi phí tái tạo: phương pháp này đi vào tính toán tất cả các chi phí cần thiết hiện nay để tạo dựng tài sản vô hình như hiện tại. Như vậy, phương pháp chi phí tái tạo cho phép xác định giá trị tài sản vô hình với giá trị thị trường hơn, nhưng một trong những khó khăn của phương pháp này là khó khăn khi xác định các chi phí hiện tại tương đương để hình thành ra tài sản, đặc biệt khi tài sản đó lại là tài sản vô hình.

+ Phương pháp tính siêu lợi nhuận: phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng 1 doanh nghiệp có thể đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận trung bình của ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động, bởi vì doanh nghiệp đó có tài sản vô hình. Cho nên, giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp chính là giá trị hiện tại của dòng siêu lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong tương lai.

Cách tiếp cận này cũng tương tự như cách tiếp cận trong việc xác định lợi thế thương mại, được nêu ra trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính.

Việc xác định giá trị tài sản theo phương pháp này có ưu điểm nổi trội đó là đã tính đến khả năng đóng góp và lợi ích mà tài sản vô hình mang lại trong tương lai, từ đó, giá trị tính toán ra có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, phương pháp này gặp khó khăn trong việc lập luận về dòng siêu lợi nhuận trong tương lai, cũng như khó khăn trong việc xác định các tham số như: n, i...

• Gián tiếp tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó.

Theo hướng này, trước hết chúng ta đi vào xác định tổng thể giá trị doanh nghiệp (bao gồm cả giá trị sản sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình) bằng các phương pháp khác nhau, như các phương pháp chiết khấu dòng tiền... sau đó đi vào đánh giá trực tiếp giá trị của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản (nếu công tác kế toán ở đình độ cao, chung ta có thể lấy trực tiếp kết quả trong bảng cân đối kế toán, còn không thì phải đi vào đánh giá lại toàn bộ giá trị của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp theo giá thị trường - như phương pháp tài sản trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính). Khi đã xác định được 2 đại lượng nêu trên, chúng ta nhanh chóng tìm ra được giá trị của tài sản vô hình trong doanh nghiệp bằng cách lấy giá trị tổng thể của doanh nghiệp trừ đi giá trị của tài sản hữu hình đã đánh giá lại theo giá thị trường của doanh nghiệp đó.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH

Nền kinh tế thị trường với đa dạng sản phẩm,chủng loại,phù hợp với nhu cầu cuộc sống. Khả năng cạnh tranh để chiếm thị phần cũng như tạo được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp đang là một vấn đề nóng hổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết lựa chọn con đường đi phù hợp đúng đắn, tạo dựng cho mình một vị thế trên thị trường. Các doanh nghiệp tự lựa chọn con đường đi khác nhau cho riêng mình, nhưng chung qui lại họ cần phải nhận biết được tài sản hữu hình, tài sản vô hình, cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, từ đó khắc phục được ưu nhược điểm của doanh nghiệp, phát triển doanh nghiêp của mình ngày càng lớn mạnh

Không chỉ đối với doanh nghiêp ở tầm vi mô. Ở tầm vĩ mô,nhà nước muốn nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững cũng phải chú trọng đến đầu tư vào tài sản hữu hình, tài sản vô hình, mối quan hệ giữa chúng , xác đinh cơ cấu đầu tư hợp lí, từ đó co những kế hoạch nhằm phát triển kinh tế -xã hội

Trong những phần trên, ta đã nghiên cứu về nội dung và tầm quan trọng của tài sản hữu hình, tài sản vô hình.Vậy mối liện hệ giữa chúng là gì? Cần phải xác định cơ cấu đầu tư như thế nào là hợp lí đế phát triển doanh nghiệp của mình

1. Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình đối với đầu tư vào tài sản vô hình

1.1.Đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở, nền tảng cho đầu tư vào tài sản vô hình

Tài sản hữu hình với tư cách là kết cấu hạ tầng của sản xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc... đều rất cần thiết đối với quá trình sản xuất, chỉ khi có được một cơ sở hạ tầng nhất định thì doanh nghiệp mới có thể đầu tư vào tài sản vô hình một cách có hiệu quả. Nếu không có tài sản hữu hình thì quá trình sản xuất không thể tồn tại vì để sản xuất chúng ta cần phải có công cụ, nhà xưởng, nguyên vật liêu và các yếu tố khác. Do vậy, tài sản hữu hình chính là điều kiện để con người tạo ra sản phẩm hay nói cách khác đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở và là tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình như đào tạo nâng cao trình độ người lao động, nghiên cứu tìm bí quyết kỹ thuật, thiết kế sản phẩm... cũng đòi hỏi phải có những cơ sở vật chất nhất định. Khi có một lượng cơ sở nhất định thì doanh nghiệp mới có thể tính đến đầu tư vào tài sản vô hình như thế nào là tốt, như thế nào là hợp lý nhằm phát triển doanh nghiệp của mình. Cơ sở vật chất càng phát triển thì hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình càng mang lại hiệu quả cao và nhanh chóng.

Ngoài ra , tài sản hữu hình còn là nguồn gốc của mọi tài sản vô hình. Khi một doanh nghiệp đầu tư vào tài sản hữu hình người ta sẽ tính đến vấn đề đầu tư vào tài sản vô hình như thế nào nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực sản xuất kinh doanh. Thật vậy, khi đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại cần phải chú ý đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp, cần phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực như thế nào thì mới đáp ứng được trình độ hiện đại của máy móc thiết bị. Xác định được sản phẩm mà mình sản xuất ra từ đó có kế hoạch đầu tư cho hoạt động Marketing như thế nào, quảng cáo thương hiệu ra làm sao.

Tóm lai, đầu tư vào tài sản hữu hình chính là cơ sở, nền tảng cho đầu tư vào tài sản vô hình, muốn đầu tư vào tài sản vô hình thì trước hết phải có được cơ sở vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh, có vậy mới nâng cao được hiệu quả của doanh nghiệp.

1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình tăng tiềm lực cho đầu tư vào tài sản vô hình

Khi tài sản hữu hình được quan tâm đầu tư, cơ sở hạ tầng được cải thiện, nâng cấp máy móc trang thiết bị tiên tiến hiện đại, nguyên vật liệu được chọn lọc có chất lượng tốt,... thì sản phẩm của doanh nghiệp không những tăng về số lượng mà chất lượng cũng cao hơn, được nhiều người tiêu dùng và lựa chọn. Từ đó nâng cao giá trị của các tài sản vô hình như uy tín của công ty, thương hiệu sản phẩm... Khi một sản phẩm có chất lượng tốt xâm nhập vào thị trường làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh ngiệp và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong nền kinh tế, từ đó phát triển thương hiệu của mình, nâng cao vị thế của mình trên đầu trường trong nước cũng như quốc tế. Khi đó lợi nhuận ngày càng tăng lên tạo nên động lực thúc đẩy đầu tư vào vốn con người: lương công nhân ngày một tăng lên khuyến khích tạo hứng thú hăng say làm việc. Một mặt đầu tư cho công nhân đi học, nâng cao trình độ, đảm bảo tính năng động, hiệu quả và sáng tạo trong công việc và sáng tạo trong công việc.

Nếu việc đầu tư vào tài sản hữu hình không đươc chú trọng thì trình độ trang thiết bị máy móc ngày một lạc hậu, công nghệ chậm đổi mới, không theo kịp với xu thế của thời đại sẽ gây cản trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo ra một ngoại ứng tiêu cực, năng suất lao động thấp kèm theo sản phẩm kém chất lượng, lợi nhuận thấp từ đó kìm hãm cơ hội đầu tư vào các hoạt động như: Marketing, hoạt động chăm sóc khách hàng, quảng cáo, chi phí để nắm và phân tích thị trường...

Như vậy, chú trọng đầu tư vào tài sản hữu hình tạo đà cho đầu tư phát triển tài sản vô hình. Nhưng việc đầu tư vào tài sản vô hình như thế nào cho phù hợp với qui mô và chất lượng của doanh nghiệp đang là một câu hỏi khó cho các soanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và hỏ. Muốn tìm được lời giải cho câu hỏi trước hết ta cần làm rõ được tâm quan trọng của tài sản vô hình và sự tác đồng của đầu tư vào tài sản vô hình đối với tài sản hữu hình là như thế nào?

2.Tác động của đầu tư vào TSVH đối với đầu tư vào TSHH

2.1. Đầu tư vào tài sản vô hình tạo điều kiện thúc đẩy trở lại đầu tư vào tài sản hữu hình.

Ban đầu, đầu tư vào TSHH mang lại hiệu quả cao do, năng suất cận biên và năng suất bình quân tăng. Nhưng do quy luật của năng suất cận biên giảm dần, đến một lúc nào đó đầu tư vào tài sản hữu hình không còn mang lại hiệu quả như trước, hiệu suất sử dụng vốn giảm. Lúc này, để tăng hiệu suất sử dụng vốn và cũng đã có được cơ sở hạ tầng nhất định, các doanh nghiệp chuyển sang chú trọng hơn đầu tư vào tài sản vô hình. Khoa học kỹ thuật phát triển, máy móc dần thay thế cho lao động thủ công, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ kỹ năng người lao động. Cung hàng hóa và dịch vụ tăng do có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường hơn, tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt.

- Xét về đầu tư vào thương hiệu:

Doanh nghiệp muốn có được thị phần, muốn sản phẩm của mình có chỗ đứng trên thị trường thì phải tạo được cho sản phẩm của mình có những ưu điểm riêng về tính năng, thiết kế...khi đầu tư thành công vào TSVH, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp đã được nhiều người biết đến, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được nhiều người mua, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng tức là phát triển đầu tư tài sản hữu hình.

Hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình của doanh nghiệp như đầu tư vào nghiên cứu khoa học công nghệ, thiết kế sản phẩm, đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên, marketing... sẽ có những tác động tích cực đến quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường tiềm lực cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư vào tài sản hữu hình.

- Xét về đầu tư vào nguồn nhân lực:

Trong quá trình sản xuất, yếu tố con người được xem là một trong những yếu tố quan hàng đầu. Có máy móc nhưng không có con người để vận hành sẽ không tạo ra sản phẩm. Một mặt, con người không có kiến thức, không có kĩ năng, không có kinh nghiệm sẽ làm giảm năng suất lao động, kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.

Đầu tư vào con người là một tất yếu, nó không chỉ ảnh hưởng đến tài sản vô hình mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt của doanh nghiệp.

Việc đầu tư vào nguồn nhân lực nhằm tạo nên đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ nhân sự cao cấp, có kĩ năng làm việc, có hiệu quả và sáng tạo cao sẽ có ý nghĩa quyết định đến vấn đề vận hành và sử dụng hệ thống tài sản vật chất của doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động, tạo lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp. Đội ngũ công - nhân viên của công ty không chỉ là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của quá trình vận hành tài sản vật chất mà còn tạo nên nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp từ đó tạo nên động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào tài sản vật chất khác, nâng cao chất lượng,năng suất lao động cho sản phẩm.

- Xét về đầu tư vào nghiên cứu và triển khai công nghệ

Thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ khi nào các doanh nghiệp coi trọng khoa học và công nghệ, đổi mới và cập nhật với thế giới thì mới tồn tại và phát triển được.

Đầu tư vào công nghệ mới tạo ra năng suất lao động cao hơn, giảm giá thành sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm từ đó tăng sức cạnh tranh trên thị trưòng ,giúp cho các doanh nghiệp ngày một tăng trưởng và phát triển. Từ đó tăng thêm nguồn vốn đầu tư vào tài sản hữu hình.

Mặt khác đầu tư vào nghiên cứu và triển khai công nghệ làm cho doanh nghiệp luôn luôn đổi mới, tránh tụt hậu so với các doanh nghiệp trong nước cũng như so với nước ngoài, từ đó máy móc trang thiết bị, nhà xưởng luôn được mở rộng,cải tạo, ngày một hiện đại, tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của con người.

Điều này được thể hiện rõ qua sự tăng trưởng và phát triển của tổng công ty tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Khi mới thành lập Vinashin có 23 doanh nghiệp thành viên và sau gần 10 năm hoạt động đã phát triển hơn 100 thành viên.Vinashin đã xác định hướng đi của mình là " tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại đầu tư phát triển năng lực đổi mới công nghệ nâng cao khả năng cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường trong nước, chia sẻ thị phần khu vực và xuất khẩu tàu ra nước ngoài". Cùng với việc kết hợp với các công ty nước ngoài để chủ động thiết kế các tàu cỡ lớn, mua các phần mềm như Mars, Autoship, Autoplate...Vinashin đã triển khai hàng chục đề tài nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học trong vòng 10 năm, Vinashin đã có bước phát triển thần kì tư chỗ "sống dở chết dở" Vinashin đã có những cơ sở đóng được tàu hàng trăm nghìn tấn và họ cũng đã kí được nhiều hợp đồng hàng tỷ USD đóng tàu cho nước ngoài.

Quá trình đầu tư vào tài sản hữu hình lẫn việc đầu tư vào tài sản giống như vòng tròn xoắn ốc. Nó đều tác động lại lẫn nhau và đều làm cho doanh nghiệp ngày càng được mở rộng và phát triển một cách bền vững. Tất cả những nhận định, những phân tích trên đều cho ta thấy tầm quan trọng của tài sản hữu hình, tài sản vô hình và mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Tuy nhiên cần phải xác định được cơ cấu đầu tư như thế nào là hợp lý tránh đầu tư lệch trong các doanh nghiệp từ đó gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cũng như doanh thu của công ty.

Việc đầu tư lệch không chỉ không mang lại hiệu quả cho một dự án đầu tư mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn thể doanh nghiêp.

Nếu doanh nghiệp chỉ chú trọng đầu tư vào các loại tài sản vật chất mà quên đi việc đầu tư phát triển đội ngủ cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với trình độ của công nghệ sẽ làm cho năng suất lao động giảm,sản phẩm kém,kìm hãm hiệu quả của vốn đầu tư. Chỉ chú trọng đến chất lượng sản phẩm mà quên đầu tư vào quảng bá sản phẩm, quảng bá thương hiệu thì liệu rằng sản phẩm đó có nhanh chóng được mọi người biết đến?

Ngựơc lại, quá chú trọng đến đầu tư vào tài sản vô hình mà quên đi tài sản hưu hình thì cũng gây ảnh hưởng tiêu cực cho doanh nghiệp: Chú trọng đến đầu tư vào con người nhằm nâng cao trình độ của công nhân viên trong khi trang thiết bị thì ngày một lạc hậu càng làm kìm hãm sự sáng tạo, hăng say lao đông của công nhân. Chú trọng đầu tư vào nâng cao thương hiệu, trong lúc đó sản phẩm còn kém, chưa đủ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng thì thương hiệu cũng không thể tồn tại và phát triển được.

Như vậy, một doanh nghiệp muốn phát triển bền vững cần nắm đươc tầm quan trọng của việc đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình như thế nào cho hợp lý. Nhìn nhận được cách kết hợp trong việc đầu tư vào chúng,từ đó nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư.

2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình nâng cao giá trị của tài sản hữu hình.

Hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình không chỉ giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm mà qua đó còn gián tiếp nâng cao giá trị của tài sản hữu hình, nâng cao giá trị của doanh nghiệp. Khoa học kỹ thuật phát triển đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao động. Máy móc, trang thiết bị hiện đại chỉ phát huy hết tác dụng khi có đội ngũ công nhân làm việc chuyên nghiệp. Một doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, nguyên vật liệu tốt và sản xuất là sản phẩm tốt chưa hẳn đã tạo ra nhiều lợi nhuận, chiếm được sự ưu ái của khách hàng hơn so với một sản phẩm chất lượng vừa phải mà có sự marketing tốt. Đó chính là ưu thế của việc đầu tư phát triển thương hiệu và phát triển hoạt động marketing. Bằng việc nghiên cứu kiểu dáng, nhãn hiệu của các sản phẩm, các chiến dịch marketing làm cho sản phẩm của doanh nghiệp được biết đến rộng rãi, nâng cao vị thế sản phẩm trên thị trường.

Lấy ví dụ về Unilever (một tập đoàn Hà Lan kinh doanh theo phong cách đa nhãn với hành trăm nhãn hiệu được đăng kí tại thị trường Việt Nam và được tiếp thị một các hoàn toàn độc lập với nhau) mua lại thương hiệu kem đánh răng P/S và khai thác chỉ dẫn địa lí "Phú Quốc"với sản phẩm nứơc mắm Knorr Phú Quốc.Từ một thương hiệu khá nổi tiếng trên thị trường Việt Nam nhưng không còn đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài,Unilever đã biến P/S thành một thương hiệu nổi tiếng với các sản phẩm có chât lượng cao, đa dạng về chủng loại,phong phú về mẫu mã

Một lợi thế khá rõ nét khi xây dựng, đầu tư vào tài sản vô hình đó chính là nâng cao chất lượng của sản phẩm, nâng cao giá trị của sản phẩm, không chỉ dừng lại ở đó. Viêc đầu tư vào tài sản vô hình còn tác động tích cực và mạnh mẽ tới việc đầu tư vào tài sản hữu hình, đảm bảo cho việc đầu tư vào các đối tượng vật chất được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #anh#chuyen