16 con nguoi
1.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác-Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Trước hết, Mác thừa nhận con người là động vật cao cấp nhất, là sản phẩm
của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên như tiến hóa luận của Đác-uyn đã khẳng
định. Như mọi động vật khác, con người là một bộ phận của thiên nhiên. Con người
phải tìm kiếm thức ăn, nước uống… từ trong thiên nhiên và phải đấu tranh để tồn
tại, ăn uống, sinh con đẻ cái. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật,
biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và
mối quan hệ của con người đối với tự nhiên. Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan
điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản
năng sinh vật của con người cho dù con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những
đặc trưng của sinh vật nhưng con người vẫn có nhiều điểm để phân biệt với những
sinh vật khác.
Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự
nhiên con người hoàn toàn khác con vật ở chỗ tự nhiên chỉ là cơ thể vô cơ của con
người và con người có khả năng tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên trong khi đó
con vật hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên và chỉ sản xuất ra bản thân nó. Ngọn nguồn
của sự khác biệt đó chính do hoạt động thực tiễn quy định. Thông qua hoạt động lao
động sản xuất con người, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục
vụ đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ
xã hội. Chính vì vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình phát triển luôn luôn
bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ
thống quy luật tự nhiên - quy định phương diện sinh học. Hệ thống quy luật tâm lý
ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người. Hệ thống các
quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người và người.
Ba hệ thống quy luật này cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ và
xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
đời sống con người.
Mặt sinh học và mặt xã hội, nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi
con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt này
hòa quyện với nhau tạo thành thực thể Người.
1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội
Sự khác biệt về bản chất của con người với con vật là ở ba quan hệ: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Ba mối quan hệ này đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản
chất, bao trùm mọi hoạt động của con người, cả trong lao động, sinh con đẻ cái và
trong tư duy.
Mác khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội". Khẳng định này đã chỉ rõ ba quan hệ (quan hệ với thiên
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân) cấu thành bản chất của con
người thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Vì vậy, không có con
người trừu tượng mà chỉ có những con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất
định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là con
người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý
thức. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó, con người mới bộc lộ và
thực hiện được bản chất thực sự của mình. Xét về bản chất của một con người cũng
như của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội ấy.
Điều cần lưu ý là khi Mác nhấn mạnh mặt xã hội trong việc xác định bản
chất của con người không đồng nghĩa với việc phủ mặt tự nhiên trong đời sống con
người mà nhấn mạnh với mục đích chỉ rõ tiêu chí phân biệt con người với con vật
chính là ở bản chất xã hội và sự khác biệt trong việc giải quyết vấn đề con người
của C. Mác với các nhà triết học trước C. Mác cũng là ở bản chất xã hội của con
người mà các triết gia đó không thấy. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ
biến. Cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất, do đó cần phải thấy
được cái biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong
cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
1.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Vì vậy không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Song điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử.
Với tư cách là thực thể xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên và thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch
sử - xã hội.
Hoạt động lao động sản xuất không chỉ là điều kiện tồn tại mà còn là
phương thức để biến đổi đời sống và thay đổi bộ mặt xã hội. Do vậy, mỗi bước tiến
của lịch sử, của xã hội luôn luôn là kết quả của hoạt động thực tiễn của con người.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần con
người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục đích và nhu cầu
đặt ra. Từ đó có thể khẳng định: không có hoạt động của con người thì không có
quy luật xã hội mà không có quy luật xã hội thì cũng không có xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
cụ thể của lịch sử. Xã hội luôn vận động và phát triển vì vậy, bản chất con người
không thể là một hệ thống đóng kín mà là một hệ thống mở tương ứng với điều kiện
tồn tại luôn biến đổi của con người. Và trong sự biến đổi ấy, bản chất con người
cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên
của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại
hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử,
hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy
luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội
loài người.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip