4. Những nội dung cơ bản của tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản
- Thực tiễn các phong trào yêu nước chống Pháp ở nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo ngọn cờ tư tưởng phong kiến và ngọn cờ tư tưởng tư sản đều bị rơi vào thất bại.
Sự thất bại của những đường lối cứu nước trong thời kỳ này chứng tỏ rằng: Những đường lối đó đã không đáp ứng được nhu cầu bức thiết và cơ bản của dân tộc, đã lỗi thời trước thời đại và hoàn toàn bất lực trước chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đất nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Do hoàn cảnh lịch sử quy định và bằng thiên tài trí tuệ, Nguyễn ái Quốc lựa chọn con đường cứu nước theo cách mạng vô sản và truyền bá vào nước ta, nhằm đưa sự nghiệp cứu nước đến thắng lợi và phát triển đât nước phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước trong thời gian dài đến đây đã được giải quyết. Người đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, trang 314).
- Cách mạng vô sản trước hết là giành lại độc lập cho dân tộc, tiếp theo là đi lên CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Thực hiện gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH
Phải làm cho đến nơi nghĩa là “làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 270)
Phải gắn sự nghiệp cách mạng của dân tộc vào sự nghiệp cách mạng của thời đại. Hồ Chí Minh chỉ rõ: chủ nghĩa tư bản thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc bị áp bức, đồng thời là kẻ thù giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc. Người coi cách mạng thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Hai phong trào cách mạng phải có sự phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa, có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, trang 298).
Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp.
Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nền tảng là liên minh công nông và lao động trí óc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Hồ Chí Minh khẳng định: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào là việc chung của cả dân chúng. Dân chúng phải được giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo mới giành được thắng lợi. Vì vậy, làm cách mạng trước hết phải có đảng cách mạng để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 267).
Đảng phải được xây dựng vững mạnh mới lãnh đạo đưa cách mạng đến thành công. “Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 268).
Đảng muốn vững phải được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, phải được xây dựng theo nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân tộc
Hồ Chí Minh nêu rõ: cách mạng là việc chung của cả dân chúng, phải “đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 265). “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sỹ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 266)
Như vậy theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng phải có sự đoàn kết của toàn dân tộc.
Người cũng khẳng định: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền chí, cách mệnh càng quyết” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 266).
Công nông bị áp bức nặng hơn, công nông là lực lượng đông nhất, cho nên “công nông là người chủ cách mạng”, “công nông là gốc cách mệnh”. Tức là công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt, là đội quân chủ lực của cách mạng.
Còn “học trò nhỏ, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không khổ cực bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 226). Trong cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm tất cả các lực lượng yêu nước trong dân tộc. Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, đại bộ phận nông dân và dựa vững vào nông dân nghèo. Hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt… đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Hồ Chí Minh đã đánh giá cống hiến lớn lao của Lênin đối với phong trào giải phóng dân tộc: “ Lênin là người đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn các dân tộc thuộc địa vào phong trào cách mạng. Lênin là người đầu tiên đã chỉ ra rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa thì cách mạng xã hội không thể có được.” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 136)
“Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 136).
Người đã làm rõ luận điểm của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và xác định: hai phong trào cách mạng phải có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu cùng chống kẻ thù chung.
Về mối quan hệ giữa hai phong trào cách mạng nói trên, thì trong Quốc tế Cộng sản đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc nên đã cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc giành được thắng lợi. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản năm 1928 nêu: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Đó là sự đánh giá thấp và xem thường cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã đánh giá khả năng cách mạng to lớn của các dân tộc thuộc địa và khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa.“Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa… Nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, trang 273-274).
Người đưa ra quan điểm về tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Người viết: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 128)
Người cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của CNTB là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập1, trang 36)
Đây là một luận điểm sáng tạo có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin , định hướng cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển nhanh chóng và giành thắng lợi.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo lực
Bạo lực trong cách mạng giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được “ chủ nghĩa thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu”. Chúng sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Người cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Theo quan điểm của Người, bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân. Cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị của toàn dân và lực lượng vũ trang nhân nhân. Trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang.
Phương thức tiến hành cách mạng bạo lực bao gồm đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và phải kết hợp hai phương thức ấy cho phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để giành thắng lợi. Người tranh thủ dùng cách đấu tranh ít đổ máu nhất để giành và giữ chính quyền.
Sau khi đã giành được chính quyền, Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang là khởi nghĩa vũ trang toàn dân, do toàn thể dân tộc tiến hành. Trên cơ sở đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cùng với việc xây dựng lực lượng, phải tìm mọi cách tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để kịp thời phát động khởi nghĩa.
Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5/1941), Người cùng với Đảng ta đã chỉ ra con đường khởi nghĩa giành chính quyền ở nước ta là tiến hành khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn để giành thắng lợi trong toàn quốc
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip