A Mạch tòng quân - CUỐN THỨ NĂM
CUỐN THỨ NĂM
CAO TRIỂN SÍ BẰNG TRÌNH THIÊN VẠN LÝ
(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)
CHƯƠNG 105
MẠCH TUỆ – Sửa chữa sai lầm
Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở cười, A Mạch là một tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc, bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại thành “chẳng qua chỉ là một nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta là loại người nào?”
Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt nói: “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là một nữ nhân thôi sao, chúng ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta không tin đám mọi rợ Nam Hạ có thể chấp nhận một tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”
“Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, lạnh giọng nói: “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, trên chiến trường lại thất bại trong tay nữ nhân đã là một nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người ta ủy thân cho mình!”
Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh thật sự tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám nhỏ giọng nói thầm: “Ta cũng chỉ nói thế thôi, đại ca đừng giận a.”
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh lùng như trước, nói: “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, thì cũng là ở trên chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt sẽ không ngấm ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi đấy!”
Thôi Diễn nghe xong vội vàng nói: “Đại ca, ta không có ý đó.”
“Tốt nhất là không có,” sắc mặt Thường Ngọc Thanh thoáng dịu đi, ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Về sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”
Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ, nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ một lát lại hỏi: “Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta sẽ nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng không còn đánh trận nữa, thế thì làm sao ở trên chiến trường mà cướp người được?”
Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn một lúc lâu, thấy trên mặt Thôi Diễn không hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thật sự đang thắc mắc về vấn đề này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ nói: “Chẳng qua chỉ là một cách nói khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở trên chiến trường, trước mặt thiên binh vạn mã mà cướp người được! Lại nói lần này chúng ta nghị hòa cũng không biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ không bao giờ còn đánh trận nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta một ngày chưa bình định thiên hạ, thì trận chiến này chỉ là đánh trước hay đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhẹ nhàng nhếch môi cười, lại nói tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, trên tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, trên tay nàng cũng dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy thì còn có thể như thế nào được nữa?”
Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”
“Đại ca không phải thích nàng sao?”
Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười nói: “Bây giờ nên làm thế nào thì cứ làm thế ấy đi, ngươi không phải cũng đã nói rồi sao? Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân!” Vừa nói, vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám trên người, rồi một mình xoay người rời đi.
——————-
Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, trên bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như trên chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn đã tập trung hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa thất bại liền tấn công Nam Hạ.
Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương đã bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng thì đã đành, nhưng hai châu Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất trong thực tế không hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa không thành thì lại tiếp tục đánh, trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi không thấy có kết quả, chưa nói đến quốc khố không thể duy trì chi phí quân sự khổng lồ này, mà chỉ cần nói vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, thì Nam Hạ lập tức sẽ rơi vào hiểm cảnh mất nước.
Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những biện thủ(1) trên bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia đã mang chỉ thị mới nhất của triều đình đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng không ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!
Nếu nhất định phải cắt nhường hai châu đó thì thật uất ức! Nếu không cắt nhường thì lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?
Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy anh ta vẫn cúi thấp đầu, không nhanh không chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm lắng không lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết không chịu đồng ý, vậy thì phải tiếp tục đàm phán rồi!
Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu nói gì. Bộ dạng của vị Phật gia này trên bàn đàm phán nếu không phải híp mắt ngủ gà ngủ gật thì là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần cũng không bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.
Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp tục thương lượng thôi: Nếu không làm như thế này đi, chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các ngươi sẽ nhiều lên một chút, được không?
Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: Không được, tiền cống hàng năm các ngươi không thể ít hơn, mà hai châu Thanh, Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.
Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?
Biện thủ Bắc Mạc khinh thường nói: Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!
Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi nói ngươi có có thừa sức? Nói suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của ngươi đi, không cần phải “Phân tích” nhiều! Trên bàn đàm phán tất cả những thứ phân tích đều không thể thừa nhận được.
Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông nói: Tốt lắm, vậy thì chúng ta đánh tiếp.
Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp? Binh lực triều đình chủ yếu đã tập trung bình định Vân Tây, sao còn có tinh lực cho phương bắc nữa!
Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống đã, có gì chúng ta cứ tiếp tục thương lượng, thương lượng…
Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đã đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên sẽ bắt đầu, hàng năm vào mùa xuân sẽ đưa tới Thái Hưng giao nộp.
Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn không thấu.
Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, thì ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao không lấy nốt cả Ký Châu?”
Trần Khởi một thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật một trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu sẽ không cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại cũng không tốt.”
Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải nói chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”
Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra một ý cười thản nhiên, nói: “Lời nói của Nam Hạ thì làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ thì mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta cũng đã là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng thật công phu, biết cũng nhiều!”
Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, nói: “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh Đô, Thường gia tấn công đã lâu mà không hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu. Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ sẽ được phong hầu.”
Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia đã tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn một Ký Châu nhỏ bé như vậy!
Khương Thành Dực do dự một lát, lại hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn không hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với Nam Hạ, hiện giờ tình thế của chúng ta đang rất tốt, sao không tiếp tục truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế giáp công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ diệt được Nam Hạ!”
Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, nói: “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”
“Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.
Trần Khởi cân nhắc một chút rồi chậm rãi nói: “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa vào ưu thế của kỵ binh, thực hiện tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đã đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở, phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”
Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong lòng được khai sáng, không khỏi nói tiếp: “Mà quân ta nếu một mình xâm nhập quá sâu, sẽ rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng đi về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”
Trần Khởi cười, nói: “Không sai, cho nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối đầu với Nam Hạ, không bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo về sau(2), trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển không đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng không muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của Nam Hạ.”
Khương Thành Dực nghe được kêu lớn một tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia lại thống nhất ý kiến, không để ý đến sự phản đối trong triều mà nghị hòa, thì ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”
Trần Khởi cười mà không nói, lại cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn không được lại hỏi: “Nhưng trước thì hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là không hay cho lắm.”
Trần Khởi cười liếc nhìn anh ta, vui đùa nói: “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng không phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng không biết đấy chứ?”
Khương Thành Dực đỏ mặt, đang muốn biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, không khỏi nhìn về phía Trần Khởi, thấy trên mặt Trần Khởi cũng hiện lên một tia ngạc nhiên, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương Thành Dực đang lúc cảm thấy lạ thì Trần Khởi đã lên tiếng: “Mời Tạ đại nhân vào.”
Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến một tin tức ngoài dự liệu cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân Giang Bắc yêu cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, đi qua cửa nam thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang Nam.
Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rất rõ ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải đi về Giang Nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc là đi thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới độ nam(3), vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu này. Đừng nói Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy cũng nhất thời không hiểu.
Vệ Hưng định làm gì?
Tạ Thừa Ân nói: “Vệ Hưng nói quân Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại quân thiệt hại mất quá nửa, hiện nay nhất định phải độ nam, nói cái gì mà muốn cho tướng sĩ được một lần tiến vào thành Thái Hưng.”
Trần Khởi trầm mặc không nói gì, giống như đang cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc nhiên nói: “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành đã độ nam hơn phân nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc hiện tại không đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng thì có thể làm được gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu sao?”
Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”
Trên mặt Tạ Thừa Ân hiện lên vẻ ngượng nghịu, do dự một chút rồi nói: “Hiện tại hòa ước mặc dù đã ký kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc một ngày chưa di chuyển về phía nam, hòa ước có khả năng sẽ xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là, chi bằng…”
“Chi bằng trước hết làm theo ý bọn họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.” Trần Khởi cười, anh ta biết rõ tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần nghị hòa, đương nhiên mọi sự đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.
Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi nói thẳng tâm tư của mình ra, không khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng nói thêm: “Hạ quan không hiểu việc quân, cũng không đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”
Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử sự làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ Thừa Ân nói thế, liền cười nói: “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng đã giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy thì Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng biến.”
Trần Khởi tuy nói như vậy, nhưng Tạ Thừa Ân cũng không dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy, thấy Trần Khởi cũng không cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ, nói rằng sẽ đi chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc đi qua thành Thái Hưng thành nam độ.
Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại, cười nói: “Đàm phán đã thành công, ta ở lại trong thành cũng không có tác dụng nữa, hai ngày sau sẽ rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, sau này sẽ cùng đại quân vào thành.”
Lời này vừa nói ra, lập tức khiến Tạ Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc, thì có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ một lát sau liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức nói: “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn sẽ đốt pháo nghênh đón Trần soái vào thành!”
Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài. Một lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta sao?”
Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là âm thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” Nói tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục nói: “Mặc dù đại quân chỉ cách Thái Hưng khoảng một trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… không thể không đề phòng.”
Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc âm thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là Tạ Thừa Ân đồng ý cho quân Giang Bắc của Nam Hạ đi qua thành Thái Hưng mà nam độ.
Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ một trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đã đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh đã nhỏ giọng hỏi: “Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”
Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn không được lên tiếng nói: “Nguyên soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng hắn mở cổng doanh trại ra là được.” Nói xong liền đi lên định tìm tên quan giữ cổng, vừa nhấc được một bước chân đã bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang nhếch khóe miệng cười, tuy không rõ điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.
Một lát sau, cổng doanh trại mở ra, phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, một mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, một mặt thấp giọng nói với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân đang ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”
Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đã đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”
Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không nhịn được.” Thôi Diễn lần này không ngốc đến nỗi hỏi lại anh ta hôm qua mình kể chuyện cười gì, nhưng cũng không tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể không nghe thấy Thường Ngọc Thanh nói gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên triệu ta vào yết kiến sao?”
Viên phó tướng gật đầu nói: “Hoàng Thượng tuyên một mình nguyên soái vào yết kiến.”
Bên ngoài đại trướng, binh khí như rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đã đến, liền vội vàng cho người triệu Trần Khởi vào trướng.
Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can gián mà nói rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn một trăm dặm, Hoàng Thượng không nên mạo hiểm đến đây.”
Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy, mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của một thiếu niên ít tuổi, cười nói: “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể gặp nguy hiểm được!”
Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn nói lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo nói: “Ngươi chớ có học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự Châu ước chừng đã hơn một năm nay, thật sự rất nhàm chán, Thái Hậu lại còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”
Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng cười, mượn cơ hội này không nói lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định đòi vào thành Thái Hưng nói ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ Hưng không có đủ hai vạn quân, thì chẳng buồn để ý, thậm chí còn nói đùa một câu: “Nghe nói Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam Hạ, một thân nội gia công phu rất cao, cứ để hắn ta chạy đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”
Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại không nói gì.
Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi một chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình, Khương Thành Dực đã là chờ ở đó, hai người chưa kịp nói chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ bên cạnh hoàng đế tiến vào, trên mặt lộ nụ cười lấy lòng, đem một phong thư đặt vào tay Trần Khởi, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, nói là vừa rồi quên mất.”
Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi nói: “Làm phiền tiểu công công rồi.”
Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng không chịu đi, vừa cười vừa nói: “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn Trần soái đọc thư xong rồi mới được đi.”
Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo lời mở phong thư ra, rút ra một bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công cũng che miệng cười, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới Trần soái, nếu muốn hồi âm thì cứ viết một phong thư để Hoàng Thượng mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định sẽ không đọc đâu.”
Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công nói: “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”
Tiểu công công lúc này mới đi. Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là Ninh Quốc trưởng công chúa?”
Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ nghĩ, cảm thấy thế cũng không hay, lại cầm lá thư lên.
Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi nói chuyện cũng không câu thúc, lại biết Ninh Quốc Trưởng công chúa từ nhỏ vốn ái mộ Trần Khởi, không khỏi cười nói: “Nguyên soái vốn đã sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe nói Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”
Trên mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên hiện lên bóng dáng của A Mạch, khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình hỏi khi nào thì sẽ lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười, chẳng nói gì.
Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần Khởi không tốt, liền thôi không nói tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi đã bình ổn lại, thản nhiên cười nói: “Trước cứ chờ xem đã.”
Ngày mùng một tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.
Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng không đi ra theo cửa phía nam như đã nói mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng không động chạm gì đến phái đoàn nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa hàng của các phú hộ trong thành.
Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ thì mọi người đã nhất thời sáng tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng sẽ được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp nguyên tắc, lúc sắp đi muốn cướp phá sạch sẽ rồi mới tiến về phía nam.
Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!
Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc nhiên. Lặng im một lát, tiểu hoàng đế mới than nhẹ một tiếng: “Vệ Hưng đã từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa đầy một năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân Giang Bắc chẳng lẽ chính là một nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”
Chư tướng trong trướng phần nhiều đã cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự lợi hại của quân Giang Bắc thì sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa thông qua đầu óc, lập tức nói: “Cũng không phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo một đám kỵ binh đánh cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”
Thôi Diễn nói đến đây mới đột nhiên tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm không tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.
Tiểu hoàng đế vốn đang nghe, thấy Thôi Diễn đột nhiên không nói nữa, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi: “Mạch Tuệ có phải là kẻ đã mai phục Thường Ngọc Tông không? Lại thế nào, sao không nói tiếp?”
Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu đã xoay chuyển vài vòng, trên mặt liền hiện ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Thần là bại tướng dưới tay hắn ta, không có mặt mũi nào để nói hắn.”
Tiểu hoàng đế cũng đang lúc vui vẻ, nên chẳng những không có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi anh ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng không cần phải như vậy.”
Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhẹ nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu tử Thôi Diễn này đúng là một tên ngốc thành thực, vận khí cũng không tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế đang rất tốt. Vệ Hưng dung túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười nói: “Cứ để mặc cho Vệ Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể hiện rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa yêu dân.”
Tuy nói như thế, song tiểu hoàng đế vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, thì từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái Hưng đi về hướng đông!
Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc sắc mặt âm trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng đi vào, dâng một tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc đi.”
Trong trướng lập tức vang lên thanh âm the thé của tiểu công công:
“Mạch Tuệ, quê quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi.
Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.
……
Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.
Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan truy binh của Thôi Diễn…”
———————-
Chú thích:
1- Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.
2- Mối lo về sau: nguyên văn: Hậu cố chi ưu
3- Nam độ: tiến quân về phía nam
chương 106
22THÁNG 12201160 phản hồi
by CÚN CON SAY SỮA in A Mạch tòng quân
ĐÔNG TIẾN
Bên trong đại trướng yên lặng như tờ. Cứ thế mà tính ra, thì mấy viên đại tướng chinh nam của Bắc Mạc, liên quan đến nguyên soái Trần Khởi, hóa ra đều từng là bại tướng dưới tay của Mạch Tuệ! Chu Chí Nhẫn, Chu lão tướng quân đứng nghiêm trang trước án trong tư thế mắt nhòm mũi, mũi nhòm mồm, hoàn toàn rơi vào trạng thái của một lão tăng nhập định, trầm mặc không nói năng gì. Trần Khởi cụp mắt xuống, che khuất thần sắc trong ánh mắt. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh thì vẫn không thay đổi, khóe môi khẽ nhếch lên. Chỉ có Thôi Diễn khuôn mặt trắng bệch lộ ra vẻ vô cùng giận dữ.
Thanh âm của tiểu hoàng đế có chút âm lãnh vang lên, phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch trong trướng: “Hay cho một gã Mạch Tuệ!”
Đây có thể coi như một lời kết án không?
Khá khen cho ý niệm quá mức mạnh mẽ của tiểu hoàng đế, khiến cho A Mạch dù đã đi về hướng đông, cách rất xa thành Thái Hưng, hiện đang đứng ở điểm cao quan sát đại quân hạ trại, cũng cảm nhận được mà không khỏi hắt xì một cái thật to. Phía sau, cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận thúc ngựa vài bước chạy lên. Anh ta đã thay trang phục thân binh, lông mày có vẻ dày lên không ít, trên mặt cũng xuất hiện râu quai nón, vừa nhìn thấy liền có cảm giác như đã biến thành người khác, chỉ có ánh mắt kia là vẫn trong trẻo như trước, giọng điệu mang theo vài phần mỉa mai, tựa tiếu phi tiếu liếc nhìn A Mạch, hỏi: “Thế nào? Mạch tướng quân bị trúng phong hàn sao?”
A Mạch biết anh ta đối với việc lừa giết Vệ Hưng còn có chút oán khí, cũng không muốn cùng anh ta so đo, chỉ quay đầu nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Những ngày này thời tiết hay thay đổi, chúng ta lại hành quân ngày đêm, trong quân sợ là cũng có không ít người bị phong hàn, ngươi đi thông báo với Lý Thiếu Hướng, bảo anh ta làm canh sinh khương(1), không phân biệt là quan hay binh, mỗi người đều nên uống một ít.”
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch căn bản không để ý tới mình, trong lòng lại khó chịu, trên mặt liền ra vẻ kinh ngạc, hỏi: “Sao thế? Mạch tướng quân ngay cả sinh khương cũng cướp sao?”
Lời này vừa nói ra liền chọc cho Trương Sĩ Cường tức giận trợn mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, song A Mạch vẫn không hề bực mình, chỉ bảo Trương Sĩ Cường: “Mau đi đi.” Trương Sĩ Cường lườm Lâm Mẫn Thận một cái rồi lĩnh mệnh mà đi. A Mạch lại cho thân binh bên cạnh đều lui xuống, lúc này mới quay lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên hỏi: “Vệ Hưng là ai giết?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, theo bản năng trả lời: “Không phải ngươi bày kế dụ ông ta ra để giết sao?”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Vệ Hưng một thân công phu vang danh khắp từ nam ra bắc, những tướng lãnh binh sĩ bình thường khác đâu thể nào là địch thủ của ông ta?”
Lâm Mẫn Thận hiểu ám chỉ trong lời nói của A Mạch, lạnh mặt nói: “Không sai, là ta giết. Mặc dù ngươi bày kế khiến vết thương cũ của anh ta vỡ toác ra, nhưng kẻ ra sát chiêu cuối cùng là ta.”
Sắc mặt A Mạch thay đổi, lạnh lùng nói: “Nếu người là do ngươi giết, vậy thì ngươi cũng không nên nói quá nhiều những lời rắm thối như vậy?”
Lâm Mẫn Thận bị lời lẽ thô tụng của A Mạch chặn ngang họng, liền nhìn A Mạch trân trối: “Ngươi, ngươi…”
A Mạch nói tiếp: “Vệ Hưng võ công cao cường, cho dù vết thương cũ bị vỡ, nội lực bị hao tổn, nhưng nếu ngươi niệm tình xưa nghĩa cũ không chịu động thủ, thì ta có thể làm gì được ông ta? Ngươi đã xuống tay giết ông ta, giờ có nói cái gì cũng đã muộn rồi, cứ cứ cau cau có có chẳng qua là muốn tìm cho mình một lý do để rũ bỏ trách nhiệm, khiến cho thâm tâm mình được thoải mái một chút mà thôi.” Nói đến đó, thần sắc của A Mạch bỗng trở nên lạnh lùng, ánh mắt như phủ một tầng sương lạnh,“Giết chính là giết, vì quyền thế cũng được, mà vì danh lợi cũng thế, có gan thừa nhận cũng coi như có can đảm. Tốt xấu gì cũng là một nam nhân, đừng có hơi một chút lại làm những việc khiến người ta phải coi thường!”
Một hơi lôi hết tâm tư trong lòng Lâm Mẫn Thận ra, khiến anh ta á khẩu không trả lời được, nghẹn hơn nửa ngày mới không cam lòng tranh cãi: “Nhưng ngươi rõ ràng có thể lưu tánh mạng ông ta lại, hơn nữa cho dù giết ông ta là bất đắc dĩ, vì sao còn hắt thêm bát nước bẩn lên người ông ta? Ông ta dung túng cho binh lính cướp phá khi nào? Chẳng qua chính ngươi muốn nhân cơ hội này đánh cướp vật tư quân lương thì có! Còn giả mù sa mưa dán thông báo an dân, thế tại sao không thấy ngươi đem tiền tài trả lại cho dân chúng?”
Lông mày A Mạch khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Vệ Hưng làm ảnh hưởng đến danh tiếng mấy vạn tướng sĩ quân Giang Bắc, vì sao ta không thể giết anh ta? Ta không đánh cướp quân tư, thì ai có thể đem tới cho ta? Về phần vì sao ta phải đem tội danh này đổ lên đầu Vệ Hưng, chẳng lẽ thân là công tử của Lâm tể tướng mà ngươi lại không biết duyên cớ bên trong hay sao?” A Mạch cười xùy một tiếng, chế nhạo: “Việc này, vốn dĩ Lâm tể tướng thành thục hơn người khác rất nhiều, Lâm công tử lẽ nào lại chưa từng thấy qua? Chẳng lẽ Lâm tể tướng vẫn nuôi ngươi như nuôi con gái mà nhốt ở trong nhà sao?”
Lâm Mẫn Thận bị A Mạch dùng lời nói chèn ép mà đỏ bừng cả mặt, rốt cuộc không còn giữ được dáng vẻ cà lơ phất phơ nữa, chỉ thẳng vào A Mạch giận dữ nói: “Ngươi! Ngươi…”
A Mạch cười lạnh nói tiếp: “Ta làm sao? Ta chưa bao giờ tự nhận mình là bậc đại thánh nhân Bi Thiên Mẫn Nhân(2), cũng không nghĩ sẽ làm đại anh hùng Nghĩa Bạc Vân Thiên(3), cho nên ngươi không được chỉ trích ta, nói cho cùng thì ngươi chẳng có tư cách này, Lâm gia nếu thật sự là trung thần lương tướng, thì hiện giờ Lâm Mẫn Thận ngươi cũng sẽ không có mặt ở đây!”
Lâm Mẫn Thận vẫn chưa từ bỏ ý định bài bác liền nói: “Hiện nay hoàng đế chính là kẻ giết huynh đoạt quyền, Lâm gia ta nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống, như thế có gì là sai?”
A Mạch cười khẩy nói: “Lâm gia nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống? Vậy thì phải làm sớm hơn từ vài chục năm trước kia? Ngươi cho là ta không biết sao? Tề Cảnh mặc dù không phải ngồi lên ngôi vị hoàng đế một cách chính thống, nhưng trong lòng lại rất nặng hai chữ “Chính thống” này. Thái tử trời sinh thông minh, tính tình lại quá mức trung hậu, Tề Cảnh sợ thái tử sau này không khống chế được những lão thần quyền cao chức trọng, trước thuận tiện giúp Nhị hoàng tử Tề Mẫn mài đao, một mặt quan sát mũi dao nhọn của thái tử, thuận tiện thanh trừ những thần tử có dị tâm. Lâm tể tướng là kẻ cáo già như thế nào, chẳng lẽ lại không nhìn thấu tâm can của đế vương, vì thế liền làm ra một bộ dạng thần tử thuần túy vô hại, căn bản không can dự vào chuyện tranh đấu của các hoàng tử. Đáng tiếc, hoàng đế cũng chẳng phải là kẻ lương thiện, nên vẫn quyết tâm phải ra tay trước, thay thái tử diệt trừ cây đại thụ là Lâm tể tướng này, cho nên mấy năm qua luôn tỉa bỏ cành lá của Lâm tể tướng, chờ đến khi chỉ còn lại một thân cây trơ trụi, để cho tân đế sau khi đăng cơ sẽ đạp đổ thân cây đó để lập uy. Mặc dù Lâm gia hiện giờ nhìn vào thì phong quang sáng lạn, kỳ thật sớm đã là gan thỏ trước miệng cọp rồi…”
Lâm Mẫn Thận nói không nên lời, kinh ngạc nhìn A Mạch, như thể không còn nhận ra nàng là ai nữa.
Loại người như Lâm Mẫn Thận được gọi là đệ tử thế gia, mặc dù trên mặt đối với ai cũng đều thân thiện, nhưng trong lòng thật ra lại rất xem thường người khác, A Mạch một phen nói tuột hết tâm can của anh ta ra, khiến anh ta khó tránh khỏi chấn động đến nỗi nhất thời thất thố. A Mạch khinh thường cười cười, lại nói tiếp: “Nếu không Lâm tể tướng vốn là kẻ dưới một người trên vạn nhân, vì sao lại phải chạy đi phù trợ một thái tử mồ côi từ trong bụng mẹ, giữ gìn chính thống cái gì! Ta nói vậy đúng hay sai, Lâm công tử? Ta không thích sự nhiễu loạn ở Thịnh Đô nhưng không có nghĩa là ta không nhìn thấu sự nhiễu loạn đó! Lâm công tử, A Mạch ta nói có chỗ nào sai không?”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt một hồi lâu, lúc này mới chậm rãi nói: “Có một chỗ ngươi nói sai rồi…”
A Mạch nhướng mày: “Vậy à?”
Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Lâm tướng công tử đã chết theo Vệ Hưng rồi, trước mặt ngươi không phải là Lâm công tử, mà chính là thân binh của Mạch tướng quân tên là Mục Bạch mà thôi.”
A Mạch đanh mặt, lạnh giọng nói: “Ngươi còn nhớ thân phận của mình là tốt rồi!”
Nói xong cũng không buồn để ý đến Lâm Mẫn Thận nữa mà giục ngựa chạy về chân núi nơi đại quân hạ trại.
Lâm Mẫn Thận nhất thời không có phản ứng gì, thần sắc phức tạp nhìn theo bóng dáng A Mạch. Sau biến cố ở thành Thái Hưng, anh ta đã cải trang trà trộn vào trong đội thân binh của A Mạch, mới đầu còn sợ bị người khác nhận ra thân phận, rồi lại thấy A Mạch chẳng cố kỵ chút nào mà sai khiến mình khiến anh ta càng cảm thấy kỳ quái, sau suy nghĩ cẩn thận lại liền thông suốt. Từ lúc còn ở trong núi Ô Lan, khi đó các doanh phân tán khắp nơi, anh ta và tướng lĩnh các doanh tiếp xúc không nhiều lắm. Sau lại trải qua vài trận chiến, nhiều tướng lãnh đã hy sinh, những người còn sống sót cũng không nhiều, quen biết anh ta lại càng ít. Hơn nữa, sau biến cố tại Thái Hưng, A Mạch đã tiêu diệt hết tâm phúc của Vệ Hưng, nên những kẻ có thể nhận ra Lâm Mẫn Thận lại càng không có mấy. Nếu có, cũng đều là tâm phúc của A Mạch.
Tham quân Lâm Mẫn Thận sớm đã chết ở trong thành Thái Hưng, kẻ hiện giờ còn sống chẳng qua là tên thân binh Mục Bạch mà thôi! Lâm Mẫn Thận chậm rãi lắc lắc đầu, thong thả cưỡi ngựa đi về hướng doanh trại.
Trong quân đã bắt đầu nổi lửa thổi cơm, binh lính tuy bận rộn nhưng cũng không hề bối rối, chỉ trong chốc lát đã ngửi thấy mùi cơm chín. Trước lúc xảy ra biến cố ở Thái Hưng, A Mạch đã âm thầm phái người giả làm thương lái đi về hướng Thanh Châu thu mua tích trữ lương thảo ở các trấn dọc đường! Bởi vậy lần này, quân Giang Bắc không có xe chở đồ lương thảo, quân nhu đi cùng, lại hành quân ngày đêm, tốc độ cực nhanh, hiện nay đã tiến vào vùng trung du phía đông Tương Châu. Nơi này cách Thái Hưng rất xa, lại có địa hình thuận lợi, kỵ binh Bắc Mạc truy kích theo lại bị Trương Sinh dẫn kỵ binh quấy nhiễu, hiện giờ cũng chỉ có thể nhìn theo bóng lưng của quân Giang Bắc mà than thở.
Lâm Mẫn Thận không khỏi than nhẹ một tiếng, A Mạch người này tâm tư kín đáo, lắm mưu nhiều kế, thật không giống với nữ nhân, thực không thể xem nhẹ nàng.
Giữa tháng chín, quân Giang Bắc thoát khỏi sự truy đuổi của truy binh Bắc Mạc mà vượt trước đến phía tây thành Thanh Châu, quân Bắc Mạc do Thường Tu An làm chủ tướng vốn trú quân ở ngoài thành Thanh Châu, do sớm nhận được chiến báo(4) của Trần Khởi, nên đã cho quân mai phục cách thành Thanh Châu bốn mươi dặm về hướng tây để ngăn chặn quân Giang Bắc. Ai ngờ quân Thanh Châu vốn từ lâu đóng cửa ở trong thành như gấu ngủ đông đột nhiên lại theo sát sau lưng, cùng quân Giang Bắc giáp kích trước, sau khiến quân của Thường Tu An đại bại, sau đó, quân Giang Bắc lại không chút hoang mang mà tiến thẳng vào thành Thanh Châu, khiến kỵ binh Bắc Mạc dù đuổi sát tới nơi cũng chỉ có thể đứng ngó ở ngoài cổng thành.
Thành Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, phía sau cắt ngang qua dãy Thái Hành khoảng một trăm dặm là khe núi Phi Long. Vách núi hai bên cao chót vót, một con đường nhỏ hẹp xuyên qua hơn trăm dặm. Người xưa cho rằng: chiếm cứ Phi Long, chèn ép cổ họng phía sau, tiến sát đến Ký, Lỗ, nhất định thắng. Theo khe núi phía đông có thể tấn công Ký Châu, theo phía nam vượt qua sông Uyển có thể tấn công Nghi thành, theo phía tây có thể uy hiếp Tân Dã, Dự Châu, đúng là một cửa ải quân sự hiểm yếu, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.
Quân Giang Bắc đã vào Thanh Châu, Bắc Mạc dù có mấy vạn kỵ binh cũng chỉ có thể nhìn tòa thành mà than thở. Thường Ngọc Tông truy kích thẳng một đường đến đây, nhìn thành Thanh Châu không nhịn được mà chửi ầm lên, nhưng mắng chửi một hồi cũng cảm thấy thật vô vị, đành mang theo ba ngàn quân tiên phong phẫn nộ mà quay về. Đợi bại binh của Thường Tu An quay trở về, Thường Ngọc Thanh tự mình giúp thúc phụ Thường Tu An thu thập tàn quân. Ba chú cháu Thường gia tề tụ trong trướng, thúc thúc Thường Tu An kích động thiếu chút nữa ngay cả nước mắt cũng rớt xuống, hai bàn tay nắm chặt lại, thầm nghĩ hai tiểu tử các ngươi mà đến muộn thêm chút nữa, thì cái mạng già của thúc thúc này có lẽ đã bỏ lại tại đây.
Thường Ngọc Tông vẫn vì chuyện mình thiếu chút nữa đuổi theo quân Giang Bắc mà canh cánh trong lòng, Thường Ngọc Thanh liếc mắt nhìn anh ta, cười nhạo nói: “Ta sớm đã nói là không cho ngươi truy đuổi, nếu quân Giang Bắc đã dám quay lại thu dọn chiến trường thì sợ gì sự truy đuổi của ngươi, coi như mọi chuyện đã định rồi, ngươi có đuổi theo cũng không kịp!”
Thường Ngọc Tông cúi đầu không nói gì, chỉ có Thường Tu An tức giận tiếp lời: “Thất nhi, ngươi cùng quân Giang Bắc giao chiến đã nhiều, ngươi nói cho tam thúc nghe, quân Giang Bắc rốt cuộc là loại quân gì? Ngươi xem, bọn chúng thu dọn chiến trường so với dùng chổi sắt quét còn sạch hơn! Đừng nói đến khí giới mà chúng ta vất vả chế tạo đều bị đoạt đi, mà ngay cả áo giáp trên người những tướng sĩ chết trận của ta chúng cũng cởi sạch! Thế này, thế này, thế này hóa ra còn không bằng cả thổ phỉ!”
——————————
Chú thích:
1- Sinh khương: tên một vị thuốc họ gừng có công dụng trị cảm lạnh.
2- Bi thiên mẫn nhân: Bi, tức là chữ bi trong từ bi, “bi thiên mẫn nhân” tức là cảm thán thời đại bấp bênh, thương xót đời người thống khổ
3- Nghĩa bạc vân thiên: có tình có nghĩa
4- Chiến báo: chiến nghĩa là chiếu đấu, chiến tranh; báo nghĩa là thông báo.
chương 107
THANH CHÂU
Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”
“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.
A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”
Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”
A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”
“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”
Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.
Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.
A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”
A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”
Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.
Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”
Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”
A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”
Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”
A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”
Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”
A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”
Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”
Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”
Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”
Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”
A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”
“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.
A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”
Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”
A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”
Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”
A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”
Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”
Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.
Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”
Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.
Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”
Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”
Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”
Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”
Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”
Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.
Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”
Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”
Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”
Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”
Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”
Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.
Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”
Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”
Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”
Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”
Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”
Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”
Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”
Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”
Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”
Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”
Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”
Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”
Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”
Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”
Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”
“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”
Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”
Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”
Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”
————————
Chú thích:
1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.
chương 108
TÌNH THẾ
Cuối tháng chín, trước áp lực của Bắc Mạc, Nam Hạ tuyên bố quân Giang Bắc là quân phản loạn, song cũng không xuất binh chinh phạt. Đối diện với sự chất vấn, khiển trách của sứ thần Bắc Mạc, viên quan Nam Hạ hai tay buông xuôi vô lực, vẻ mặt bất đắc dĩ nói: Trời thì ban mưa xuống, con gái lớn thì phải lấy chồng, đây đều là những việc mà triều định không thể quản được! Quân Giang Bắc không nghe lời muốn tạo phản, chúng ta cũng không có biện pháp, đúng không? Thanh Châu nếu đã giao cho các ngươi, các ngươi cứ tự mình đi đánh là được, chẳng phải các ngươi còn mấy vạn binh ở Võ An sao? Có Sát tướng Thường Ngọc Thanh ở đó nữa mà, thế thì làm gì có thành nào mà không hạ được a!
Sứ giả Bắc Mạc bị những lời vô sỉ của viên quan Nam Hạ này làm cho tức giận đến nỗi gân xanh nổi đầy mặt, hận không thể tiến lên túm lấy anh ta đánh cho một trận rồi nói sau. Chẳng qua làm công việc của sứ thần này, kiêng kị nhất chính là cùng người khác động thủ, vì thế chỉ có thể cố gắng nén lại, đem tình hình trình tấu lên triều đình Bắc Mạc.
Đợi đến khi đám người Thường Ngọc Thanh ở Võ An biết được tin này thì đã là tháng mười, Thường Ngọc Tông còn chưa nói gì, Thường Tu An thân là trưởng bối nhất tuổi nhất đã vùng đứng dậy mắng: “Bà nội nó! Lũ mọi rợ Nam hạ này không phải muốn đùa giỡn chúng ta sao, nói là đem Thanh Châu giao cho chúng ta, hiện giờ lại bị phản quân của anh ta chiếm mất, lại còn bảo chúng ta phải tự mình đi đánh, thế thì còn ký hòa ước cái cứt chó gì nữa! Mọi rợ Nam Hạ, các ngươi cứ chờ đấy, chờ lão tử đánh hạ Thanh Châu, chẳng lẽ không thuận đường thu thập luôn Ký Châu hay sao!”
Thấy tam thúc kích động như thế, Thường Ngọc Tông ngược lại không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Chẳng lẽ quân Giang Bắc đến Thanh Châu thật sự là do triều đình Nam Hạ đã sớm thương lượng trước rồi sao?”
Thường Ngọc Thanh nghĩ rồi lắc đầu, khẽ cười nói: “Chưa chắc.”
Thường Tu An và Thường Ngọc Tông đều thấy khó hiểu. Thường Ngọc Thanh thấy hai người bọn họ đều có vẻ mặt nghi nghi hoặc hoặc, đành phải giải thích: “Nếu bọn họ đã sớm thương lượng tốt, thì Thương Dịch Chi sau khi hồi triều sẽ không bị chèn ép, quấy nhiễu như vậy.”
Thường Ngọc Thanh nói không sai, sau khi Thương Dịch Chi trở về liền bị hoàng đế Tề Cảnh hoài nghi, nên vẫn chưa được tin dùng. Lâm tể tướng lại dâng một tấu chương chỉ đích danh Thương Dịch Chi đã âm thầm dung túng binh lính mưu phản, khiến Thương Dịch Chi vừa về đến Thịnh Đô đã bị đặt vào cảnh đầu sóng ngọn gió.
Đầu tiên, quân Giang Bắc vốn xem như do Thương Dịch Chi thành lập, mặc dù Thương Dịch Chi đã thoát ly quân Giang Bắc, nhưng khó tránh khỏi có ngàn vạn mối dây liên hệ. Thứ đến, nếu do Vệ Hưng mang binh tạo phản thì cũng thôi, nhưng đằng này lại do Mạch Tuệ một đao giết chết Vệ Hưng rồi dấy binh tạo phản, rõ ràng là không chịu thừa nhận Vệ Hưng là nguyên soái. Lại nữa, phản quân Giang Bắc sau khi ra khỏi Thái Hưng đi đâu chẳng đi, mà lại thẳng tiến đến Thanh Châu, mà tướng Tiết Võ thủ thành Thanh Châu cũng lại mở rộng cửa thành đón quân Giang Bắc tiến vào. Thanh Châu là nơi nào? Chính là nơi Thương Dịch Chi coi giữ trước đây nha!
Cái khác tạm thời không nói đến, chỉ với ba điểm này, Tề Cảnh không thể không đem lòng nghi ngờ quân Giang Bắc làm phản có sự sai khiến của Thương Dịch Chi. Chỉ có một điều khiến cho ông ta không thể nghĩ ra được là vì sao Thương Dịch Chi phải làm như vậy? Đã làm như vậy rồi sao còn trở lại Thịnh Đô?
Tề Cảnh nhất thời cũng có chút nghi hoặc, chẳng qua ông ta còn chưa làm gì Thương Dịch Chi, thì mẫu thân của Thương Dịch Chi là Thịnh Hoa Trưởng công chúa đã động thủ trước, trực tiếp mang Thương Dịch Chi vào cung yết kiến, đợi gặp Tề Cảnh, Trưởng công chúa vốn là người yểu điệu mảnh mai, chỉ một cái tát liền đem con quỳ gối xuống trước mặt Tề Cảnh, sau đó khóc sướt mướt hướng về phía Tề Cảnh cầu xin: “Hoàng Thượng thay ta quản tiểu súc sinh này đi.”
Tề Cảnh thấy Trưởng công chúa đột nhiên vừa đến đây đã như vậy, đành phải hỏi là đã xảy ra chuyện gì, Trưởng công chúa lúc này mới vừa khóc vừa kể nói: “Quân Giang Bắc đến Thanh Châu đúng là do tiểu súc sinh này cho chủ ý, còn viết thư cho Tiết Võ ở Thanh Châu, để anh ta mở cửa thành cho quân Giang Bắc vào.”
Tề Cảnh lông mày nhíu chặt, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, lạnh giọng hỏi: “Việc này là thật sao?”
Thương Dịch Chi quỳ thẳng tắp, vẻ mặt quật cường, ngẩng đầu nhìn Tề Cảnh, cao giọng đáp: “Thát tử bức chúng ta ngay cả Thanh, Ký châu cũng phải cắt, trong lòng thần thật sự rất khó chịu, vừa lúc Vệ Hưng lén tìm thần hỏi việc nghị hoà, thần hỏi anh ta vài câu. Vệ Hưng cũng hận thát tử thấu xương, chúng thần tính toán nửa ngày liền nghĩ ra một cách, đó là giả đem Thanh Châu cấp cho thát tử để thỏa mãn lòng tham của chúng, đợi sau khi hòa ước ký kết xong, quân Giang Bắc giả kháng chỉ không tuân theo hiệu lệnh, tạo phản ở Thái Hưng, sau đó chiếm cứ Thanh Châu cùng thát tử giằng co. Đến lúc đó triều đình chối phắt đi rằng không có mối liên hệ với quân Giang Bắc. Vậy nên, thần đã viết một phong thư cho Tiết Võ giao cho Vệ Hưng.”
“Vậy vì sao lại giết Vệ Hưng?” Tề Cảnh hỏi, sắc mặt mặc dù bình thản, nhưng thanh âm lại lạnh đến thấu xương.
Thương Dịch Chi cúi đầu, thấp giọng đáp: “Thần cũng không biết, quân Giang Bắc làm phản ra khỏi Thái Hưng vốn do thần và Vệ Hưng hai người cùng hợp mưu, chẳng may khi rơi vào mắt người khác lại thành đại tội mưu phản nên hai chúng thần không dám để cho người khác biết, vì vậy thương nghị chờ thần quay về Thịnh Đô sẽ mật tấu lên Hoàng Thượng, ai ngờ vừa về đến Thịnh Đô lại nghe được tin Vệ Hưng bị Mạch Tuệ giết chết, thần lập tức tỉnh mộng, lại nhớ đến phong thư thần viết cho Tiết Võ, vội vàng phái người đến Thanh Châu truyền tin, ai ngờ vẫn chậm hơn Mạch Tuệ một bước.”
Tề Cảnh sau một lúc lâu không hề động tĩnh, chỉ yên lặng đánh giá Thương Dịch Chi. Trưởng công chúa vốn vẫn im lặng, bỗng dùng khăn che miệng khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Hoàng Thượng, ta đời này chỉ có duy nhất một đứa con là hắn, khó tránh khỏi có chút nuông chiều, không ngờ tên tiểu súc sinh này lại gây ra tội lỗi ngập trời như vậy. Chẳng những đã chết Vệ Hưng, mà ngay cả con trai duy nhất của Lâm Hiền cũng bị Mạch Tuệ giết, Lâm Hiền vốn không vừa mắt tiểu súc sinh này rồi, nếu biết, tất sẽ muốn bắt hắn phải đền mạng. Hơn nữa tiểu súc sinh lại phạm phải tội tru di cửu tộc, chỉ thương cho Thương lão tử cả đời vì nước, cuối cùng lại bị tiểu súc sinh này liên lụy.”
Tề Cảnh không khỏi nhíu mày, khiển trách: “Thương tướng quân bình định phản quân Vân Tây, càng vất vả công lao lại càng lớn, sao lại liên lụy đến hắn ta!”
Trưởng công chúa càng cảm thấy ủy khuất, không khỏi khóc nói: “Hoàng Thượng, cũng đều tại người và phụ hoàng, lúc trước ta không muốn gả cho Thương Duy là một quân nhân, các người lại cứ muốn ta phải lấy hắn, nếu lúc ấy người ta lấy là một Trạng Nguyên, thì đâu thể sinh ra một tiểu súc sinh lúc nào cũng muốn đấu tranh đến thành tính như thế này!”
Tề Cảnh bị Trưởng công chúa càn quấy khiến cho dở khóc dở cười, đành phải quát lớn: “Thế này mà cũng nói được sao, ngươi làm như mình vẫn là tiểu cô nương không bằng!”
Trưởng công chúa dùng khăn lau lệ nghẹn ngào không nói. Thương Dịch Chi lại đột nhiên lên tiếng: “Hoàng Thượng, thần và Tiết Võ vẫn liên lạc với nhau, để thần cho anh ta biết tình hình thực tế, rồi kêu anh ta phản Mạch Tuệ quy thuận triều đình được không?”
“Không thể!” Tề Cảnh chắp tay sau lưng đi qua đi lại đi giữa hai người, cuối cùng dừng lại nhìn chằm chằm Thương Dịch Chi nói: “Việc này tuy ngươi có chút lỗ mãng, nhưng cũng là một lòng vì nước. Trẫm biết ngươi rất khổ tâm, việc này về sau không được nhắc lại, nếu không, trẫm cũng chẳng có cách nào bảo hộ cho ngươi.”
“Nhưng Thanh Châu thì làm sao bây giờ?” Thương Dịch Chi không khỏi hỏi.
Tề Cảnh cẩn thận cân nhắc, trầm giọng đáp: “Trước cứ để cho quân Giang Bắc chiếm cũng tốt.”
Trưởng công chúa thấy Tề Cảnh không hề truy cứu việc này thì nhất thời mừng rỡ, vội vàng dắt Thương Dịch Chi tạ ơn, cam đoan sau khi trở về sẽ quản giáo con mình cẩn thận. Nỗi nghi ngờ trong lòng Tề Cảnh đối với Thương Dịch Chi đã hết, thầm nghĩ mình đã nắm được nhược điểm mưu đồ phản nghịch của Thương Dịch Chi ở trong tay, nên những kiêng kị đối với Thương Duy ở Vân Tây xa xôi cũng bớt đi ít nhiều.
Chưa đầy mấy ngày sau, Trưởng công chúa lại vào cung, lần này đến là vì cầu thân cho Thương Dịch Chi, không phải là người nào khác, mà chính là công chúa do đương kim hoàng hậu sinh ra. Tề Cảnh đầu tiên là ngẩn người, sau đó thì tảng đá vốn đè nặng trong lòng trong suốt hơn hai mươi năm rốt cuộc rơi xuống đất. Chưa từng nghĩ đến Trưởng công chúa cửa trước vừa rời đi, cửa sau hoàng hậu đã cầu kiến, không nói hai lời liền quỳ xuống trước mặt Tề Cảnh, sống chết không chịu đem nữ nhi gả cho Thương tiểu Hầu gia phong lưu thành tánh kia.
Vì thế, Trưởng công chúa và hoàng hậu, cảnh đấu tranh giữa chị dâu, em chồng chính thức kéo màn che, điều này khiến cho Tề Cảnh rất đau đầu, trái phải cân nhắc hồi lâu, cuối cùng vì không chịu nổi việc hoàng hậu cả ngày ở trước mặt mình khóc sướt mướt, đành phải cự tuyệt lời cầu hôn của Trưởng công chúa. Đồng thời, để trấn an Thương gia, mà không buồn để ý đến sự phản đối của Lâm tể tướng, lệnh cho Thương Duy làm đại nguyên soái của đại quân ở Vân Tây, đồng thời lệnh cho cháu ngoại của Lâm tể tướng là Giang Hùng làm phó soái để kiềm chế, lệnh cho Thương Duy và Giang Hùng cùng hợp lực bình định Vân Tây.
Thịnh Đô khí thế đấu tranh ngất trời, đồng thời, trong thành Thanh Châu một tình thế mới cũng dần dần được hình thành. Quân Giang Bắc cùng quân Thanh Châu kết hợp và tổ chức lại rất thuận lợi, A Mạch tự phong là tướng quân quân Giang Bắc, phong Tiết Võ làm tả phó tướng quân Giang Bắc, nguyên thống lĩnh bộ binh quân Giang Bắc là tướng Mạc Hải làm hữu phó tướng quân, nguyên giáo úy kỵ binh quân Giang Bắc là Trương Sinh phong làm thống lĩnh kỵ binh, nguyên giáo úy bộ binh thất doanh quân Giang Bắc, Vương Thất, thăng làm thống lĩnh bộ binh, chưởng quản lương thảo quân nhu Lý Thiếu Hướng phong làm quan quân nhu. Ngoại trừ mấy người này, bất luận chư tướng trong quân Giang Bắc đi theo A Mạch tiến vào Thanh Châu hay là thủ hạ của Tiết Võ, nguyên thủ thành Thanh Châu, đều căn cứ theo năng lực mà an bài thích đáng.
Trong quân trên dưới đều rất vừa lòng, trong thành Thanh Châu là một mảnh hài hòa.
Ngày mười lăm tháng mười, thời tiết rất đẹp. Trên con đường phía tây thành Thanh Châu có một chiếc xe la chạy vội vã, người đánh xe là một hán tử mặt đen chừng hơn ba mươi tuổi, một thân vải thô đen gọn gàng, một tay cầm cương, một tay cầm roi, ngồi ở trước xe, thỉnh thoảng lại vung roi thúc giục con la trước xe, khiến cỗ xe chạy như bay lên phía trước.
Xe la đến dưới thành Thanh Châu, trên tường thành, thủ binh nhô đầu ra lớn tiếng quát hỏi “Người vừa đến là kẻ nào?”, hán tử mặt đen lúc này mới dừng xe la lại, chưa vội trả lời câu hỏi của thủ binh, mà nhảy xuống xe, hướng vào bên trong nói: “Tiên sinh, đã đến rồi.”
Người bên trong cũng không nói chuyện, sau một lúc lâu, từ trong thùng xe có một cánh tay vén tấm màn phía trước xe lên, tinh tế đánh giá hai chữ “Thanh Châu” bút lực mạnh mẽ trên cổng thành, qua một lúc mới có chút không xác định giống như hỏi: “Đã đến rồi?”
Hán tử mặt đen hán tử, gật đầu nói: “Đến rồi, tiên sinh.”
Trên tường thành, binh lính thấy người phía dưới không lên tiếng trả lời, liền giương cung tên nhắm vào hán tử mặt đen, kêu lên: “Nếu không nói ta sẽ bắn!”
Hán tử mặt đen nghe xong lời này cũng chẳng buồn đến ý, chỉ ngẩng đầu liếc mắt một cái lên tường thành, hỏi người trong xe: “Tiên sinh, có nên nói rõ thân phận để vào thành không?”
Người bên trong xe cân nhắc một lát rồi đáp: “Không cần, cứ nói tới tìm A Mạch đi.”
Hán tử mặt đen cung kính vâng lời, buông màn xe xuống, xoay người nói với binh lính trên tường thành: “Ta tới tìm Mạch Tuệ, Mạch tướng quân.”
Thủ binh trên tường thành vừa nghe nói là đến tìm Mạch tướng quân, liền vội vàng thu cung tên, phái người đi gọi tướng đang trực cổng thành đến. Trong chốc lát, thân ảnh Trương Sinh đã xuất hiện ở phía trên tường thành. Anh ta chỉ liếc mắt nhìn xe la dưới thành một cái, trên mặt liền lộ ra thần sắc vừa mừng vừa sợ, vội vàng kêu thân binh bên người đi báo tin cho A Mạch, còn mình lại bước nhanh xuống dưới thành.
Cầu treo ngoài cổng thành chậm rãi thả xuống, Trương Sinh từ trong thành đi ra, cung kính chào người trong xe: “Tiên sinh.”
Người trong xe thản nhiên đáp lời.
Trương Sinh cười nói: “Tiên sinh cuối cùng cũng đã đến, Mạch đại nhân đợi tiên sinh đã lâu.” Nói xong, hướng về phía hán tử mặt đen gật gật đầu xem như chào hỏi, lại nhận lấy dây cương từ trong tay anh ta, vừa vội vàng đánh xe hướng vào trong thành, vừa tiếp tục nói chuyện với người trong xe: “Mạch đại nhân tính toán tiên sinh mấy ngày nay sẽ đến, nên đã chờ ở cổng thành mấy ngày rồi, nhưng hôm nay có việc quân quan trọng phải chủ trì, nên mới rời đi, mạt tướng đã cho người đi thông tri với Mạch đại nhân, chỉ lát nữa Mạch đại nhân sẽ tới đón tiên sinh.”
Vừa dứt lời, trên ngã tư đường đã vang lên tiếng vó ngựa, A Mạch mang theo vài tên thân vệ từ xa phi đến. A Mạch phóng ngựa trước nhất, phi như bay đến trước xe la mới vội vàng kéo cương ngựa lại, rồi từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất chạy đến bên xe la, vén màn xe lên, hướng vào bên trong kêu lên: “Từ tiên sinh!”
Trong xe, Từ Tĩnh khó nén nổi vẻ mỏi mệt, biểu hiện cũng có chút bất đắc dĩ, theo thói quen lại đưa tay vuốt chòm râu trên cằm, nói với A Mạch: “A Mạch, ngươi chẳng gì cũng đã là người tối cao trong quân, tại sao lại không thấy một chút trầm ổn của đại tướng quân!”
A Mạch cười gượng hai tiếng, ánh mắt trong suốt nhìn Từ Tĩnh, đáp: “Chẳng phải nhìn thấy tiên sinh mà cao hứng quá đó sao!” Nói xong xoay người phân phó mọi người về thành phủ, tự mình lại chui vào bên trong xe, ngồi xếp bằng đối diện Từ Tĩnh, hỏi: “Tiên sinh đi đường có thuận lợi không?”
Từ Tĩnh đưa đôi mắt trắng dã nhìn nàng, âm dương quái khí đáp: “Thuận lợi! Tất nhiên là thuận lợi rồi! Có Hắc Diện đi theo, ta có thể không thuận lợi được sao? Ta ngày hai mươi sáu tháng chín ra khỏi Ô Lan, hôm nay đã chạy tới đây, chưa dám trì hoãn dù chỉ một ngày, còn có thể thuận lợi như thế nào nữa? Nếu thuận lợi hơn chút nữa, mấy cái xương già của lão phu có lẽ đã rơi ở dọc đường rồi!”
A Mạch nhếch miệng cười, giải vây thay Hắc Diện nói: “Hắc Diện tính tình vốn nóng nảy, tiên sinh chớ nên trách anh ta, đều là ta không phải.”
Từ Tĩnh hắc hắc cười lạnh hai tiếng, nói: “Ta biết đều là ngươi không phải, ngươi kêu Hắc Diện đưa ta trở về, còn bày đặt mĩ danh là để bảo vệ ta, sợ là trong bụng cũng sẽ không nghĩ tốt như vậy!”
A Mạch vội vàng cười nói: “Sao có thể! Sao có thể! Kêu Hắc Diện đi đón tiên sinh đúng thật là vì sự an toàn của tiên sinh. Tiên sinh cũng không phải không biết, anh ta là người có võ nghệ tốt nhất ở trong doanh ta đấy.”
Từ Tĩnh bĩu môi, hiển nhiên không tin.
A Mạch lại cười tiếp rồi nói: “Đương nhiên, cũng có một chút tính toán riêng.” Nàng lúc ấy phái Hắc Diện đi đón Từ Tĩnh, ngoại trừ bảo đảm an toàn cho Từ Tĩnh, còn lại chủ yếu là lo Hắc Diện người này vốn luôn luôn không quá phục nàng, ở trong doanh sợ là không dễ khống chế, chi bằng lệnh cho anh ta đi theo Từ Tĩnh để bảo vệ.
Từ Tĩnh thấy A Mạch thản nhiên thừa nhận, nếu tiếp tục so đo với nàng cũng không hay, đành phải đảo cặp mắt trắng dã coi như bỏ qua việc này.
A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta như thế liền biết việc này xem như đã trôi chảy, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tiên sinh thấy thành Thanh Châu này thế nào?”
Ai ngờ Từ Tĩnh phản ứng lại có phần lãnh đạm, chỉ khẽ gật đầu, đáp lấy lệ: “Thành cao thế hiểm, dễ thủ khó công.”
A Mạch cười cười, nói: “Chẳng lẽ không phải như thế, đâu thể nơi nào cũng có núi Thái Hành làm cánh cửa bảo vệ, phía sau còn yểm trợ được cho cả hai vùng Ký Châu và Sơn Đông nữa.”
Từ Tĩnh giương mắt nhìn A Mạch, đột nhiên hỏi: “Ngươi cũng biết Thường Ngọc Thanh đang trú quân ở Võ An?”
chương 109
KHỐN CẢNH
A Mạch không khỏi ngẩn người, lặng đi một lúc mới đáp: “Biết.”
Từ Tĩnh lại hỏi: “Võ An cách Thanh Châu bao xa?”
“Chưa đến hai trăm dặm.”
Từ Tĩnh sắc mặt hơi trầm xuống: “Nếu biết chưa đến hai trăm dặm, vì sao còn dung túng cho anh ta đến lúc này?”
A Mạch giải thích nói: “Quân Giang Bắc mới đến Thanh Châu, căn cơ chưa ổn định, phía sau, Tiếu Dực lại chưa tỏ rõ thái độ có phải bằng hữu hay không, nên ta không dám tùy tiện xuất binh. Hơn nữa trong tay Thường Ngọc Thanh cùng lắm cũng chỉ có khoảng ba, bốn vạn binh, phần lớn lại là kỵ binh, không có ưu thế công thành, nên khó có thể uy hiếp Thanh Châu. Chi bằng trước mắt không cần để ý tới anh ta, nhân cơ hội này cứ chỉnh đốn lại Thanh Châu cho ổn định vững chắc đã.”
Từ Tĩnh dùng khí thế bức người nói: “Ngươi cẩn thận chặt chẽ chỉ cầu yên ổn, lại quên mất Thường Ngọc Thanh là người như thế nào rồi sao! Hổ sói sát bên sườn, mà vẫn yên tâm say ngủ! Thường Ngọc Thanh tuy trẻ tuổi nhưng lại có thể leo lên hàng ngũ danh tướng Bắc Mạc, cái tên ‘Sát tướng’ đâu phải vô duyên cớ mà có. Vì sao anh ta phải trú quân ở một thành nhỏ như Võ An? Ngươi có từng nghĩ tới nguyên nhân chưa?”
A Mạch nhất thời trầm mặc, tất nhiên nàng đã từng nghĩ tới nguyên nhân vì sao Thường Ngọc Thanh lại đem đại quân đóng ở thành Võ An, Võ An chính là nơi mà quân Thanh Châu khi xuất quân về hướng tây bắc chắc chắn phải đi qua, Thường Ngọc Thanh đóng quân ở nơi này, chẳng những có thể đợi viện binh, lại có thể đề phòng quân Giang Bắc đánh lén, lại có thể khống chế việc quân Giang Bắc tiến quân theo hướng tây bắc, ngoại trừ ba điều này, chẳng lẽ anh ta còn có ý đồ khác sao?
Từ Tĩnh hừ lạnh một tiếng, nói thêm: “Nếu Thường Ngọc Thanh dung túng binh lính ở Võ An đánh cướp, giết chóc dân chúng những quận huyện xung quanh, khiến dân chúng hoảng loạn chạy trốn, sau đó lại phái kỵ binh đuổi lưu dân về hướng Thanh Châu, lùa dân chúng công thành, ngươi sẽ làm thế nào? Có dùng tên bắn chết dân chúng công thành để bảo đảm an toàn cho Thanh Châu hay không?”
“Không thể!” A Mạch theo bản năng đáp.
“Không thể?” Từ Tĩnh cười lạnh, chế nhạo nói: “Vậy ngươi muốn liều mạng hy sinh quân đội, mạo hiểm việc thành có thể bị phá để cho dân chúng vào thành sao?”
A Mạch chau mày, mím môi không nói. Không cần Từ Tĩnh phải giảng giải, nàng cũng biết tuyệt đối không thể cho dân chúng vào thành, bởi vì trong đó chắc chắn sẽ có gian tế của thát tử, hoặc chúng sẽ đoạt cổng thành, hoặc sẽ vào trong thành làm nội ứng, khi đó thành Thanh Châu khó có thể giữ được.
Từ Tĩnh nhìn A Mạch chằm chằm, lại tiếp tục ép hỏi: “Vừa không dám cho dân chúng vào thành, lại không muốn bắn chết dân chúng, vậy ngươi phải làm thế nào? Theo sát phía sau dân chúng là gót sắt của kỵ binh thát tử, đừng nói ngươi không bắn chết dân chúng, chỉ cần ngươi nhất thời hơi do dự, bắn chậm một chút, thát tử đã có thể vọt tới dưới thành, cung thủ trên tường thành của ngươi còn có tác dụng gì nữa không? Còn nữa, một khi dân chúng đến gần sông đào bảo vệ thành, ngươi giết hay không giết? Nếu giết, đó đều là dân chúng Nam Hạ, thậm chí còn có những người có quan hệ họ hàng với quan quân giữ thành của ngươi, họ đều bị thát tử chĩa đao kề sát phía sau mà buộc phải chạy đến đây, nếu giết, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí. Nhưng nếu không giết, một khi bọn họ chạy đến chật kín như nêm, khí giới công thành của thát tử cũng được đẩy đến, cổng thành của ngươi có thể phòng thủ kiên cố được nữa không?”
A Mạch biến sắc mặt, trên người đã đã toát ra một thân mồ hôi lạnh. Lùa dân chúng công thành thật sự là một độc kế. Bất kể là giết hay không giết, đều ảnh hưởng rất lớn đến sĩ khí của quân sĩ thủ thành. Giết, sẽ gây hao tổn vật tư thủ thành, cũng như thể lực cùng sĩ khí của binh lính. Không giết, thát tử sẽ thoải mái công thành.
Từ Tĩnh dựa lưng vào thùng xe, ngửa đầu thở dài, thản nhiên nói: “Thường Ngọc Thanh là người có năng lực tiềm tàng, nhiều ngày rồi mà vẫn bất động như thế tất nhiên là có dự tính, nếu như lão phu không đoán sai, giờ phút này anh ta đang tăng cường chế tạo binh khí công thành.”
A Mạch nghe xong lại càng kinh hãi, nàng và Thường Ngọc Thanh quen biết đã lâu, vài lần gặp nhau mặc dù đều là tranh đấu đến ngươi chết ta sống, nhưng trong suy nghĩ đã mơ hồ nhận định người này tuy không phải là chính nhân quân tử, nhưng cũng không thể là kẻ âm hiểm đê tiện, đúng là bản thân đã quên mất anh ta còn có tên là “Sát tướng”, quên mất “Sự tích” anh ta từng chôn sống hơn sáu vạn hàng binh!
Từ Tĩnh lâu không nghe thấy A Mạch có động tĩnh gì, biết nàng đã đem những lời của mình lọt vào trong tai, cũng không nói nhiều lời, chỉ dựa vào thùng xe nhắm mắt dưỡng thần, cho A Mạch có thời gian tự mình cân nhắc cho thông suốt. Ngoài xe, Trương Sinh cùng Hắc Diện mơ hồ nghe được đối thoại giữa Từ Tĩnh và A Mạch, hai người nhìn nhau, đều rơi vào im lặng.
Đoàn người lặng lẽ đi tới thành phủ, vốn hôm nay là ngày quân nghị, các tướng lĩnh tề tụ thật chỉnh tề, bọn Lý Thiếu Hướng, Vương Thất đã sớm chờ ở ngoài cửa, thấy xe la trở về, tất cả đều vây quanh lại, đón A Mạch và Từ Tĩnh vào trong phủ. Từ Tĩnh đơn giản chỉ cùng mọi người chạm mặt, rồi nói thẳng ra rằng thân thể mỏi mệt nên muốn đi nghỉ trước. A Mạch sớm đã cho người chuẩn bị phòng cho ông ta, nghe vậy liền sai Trương Sĩ Cường đưa Từ Tĩnh đi nghỉ, còn mình tiếp tục chủ trì hội nghị quân sự mỗi tuần một lần.
Quân Giang Bắc ngụ tại Thanh Châu đã hơn một tháng, việc kết hợp và tổ chức lại cũng đã hoàn thành, trong thành, biên chế của binh lính tác chiến đã có bốn vạn bảy ngàn sáu trăm năm mươi sáu người, trong đó kỵ binh có bốn ngàn năm trăm ba mươi mốt người. Cái khác tạm thời không nói, chỉ riêng chuyện xuất lương thảo mỗi ngày thôi đã phải chi phí rất lớn rồi. Mặc dù tiền bạc được thưởng từ Thái Hưng khá nhiều, nhưng cũng không thể lo nổi chi phí sinh hoạt cho bốn vạn người, mỗi khi nhắc tới việc này, quân nhu quan Lý Thiếu Hướng lại giống như vừa ăn phải hoàng liên(1), hé miệng là có thể phun ra mật vàng bất cứ lúc nào.
Thanh Châu là vùng đất nghèo, trước đây đều phải dựa vào sự cung dưỡng của Ký Châu mà tồn tại, hiện giờ bề ngoài Thanh Châu và Ký Châu đã thành thế đối địch, tuy Tiếu Dực thủ thành Ký Châu vẫn chưa tiến hành phong tỏa kinh tế đối với Thanh Châu nhưng cũng không tiếp tục cung cấp tiền, lương cho Thanh Châu nữa.
“Xem tình thế này, chi bằng chúng ta phải nhanh chóng hạ Ký Châu thôi.” Hữu phó tướng quân Giang Bắc đương nhiệm Mạc Hải đề nghị.
Tiết Vũ lắc đầu, nói: “Võ An còn có đại quân của thát tử, chúng ta vốn giơ cao lá cờ chống lại thát tử, giờ chưa thấy khai chiến với thát tử, lại đi đánh người trong nhà trước, e là sẽ ảnh hưởng không tốt đến danh tiếng.”
Mạc Hải vốn xuất thân từ quân Dự Châu, là một người cao lớn thô kệch, tính tình cũng rất ngay thẳng, nghe Tiết Vũ nói như thế liền phản bác: “Tiết tướng quân quên là chúng ta đã làm phản rồi sao? Chẳng lẽ vì thanh danh mà để cho mọi người chết đói? Cả mấy vạn người như vậy, miệng ăn núi lở, không lấy Ký Châu thì làm sao bây giờ? Thái Hành không thể so với Ô Lan được, cái gì cũng không có, thì lấy gì để nuôi quân?”
Nghe Mạc Hải nói như vậy, sắc mặt Tiết Vũ liền có chút không tốt, anh ta sinh ra và lớn lên ở Thái Hành, tất nhiên không thích nghe người khác nói xấu Thái Hành nửa câu, mặc dù Thái Hành đúng là nơi đất bạc dân nghèo.
Vương Thất nhìn thấy Tiết Vũ không vui, sợ Mạc Hải tiếp tục đắc tội với người ta, vội vang cười nói: “Ngẫm lại có lẽ sẽ nghĩ ra biện pháp, nhớ ngày đó mới vào Ô Lan, mọi người lúc đó chẳng phải đều sợ trong núi không có gì nuôi quân đó thôi, nhưng kết quả thì sao, quân Giang Bắc chúng ta không chỉ nuôi được, mà còn lớn mạnh lên không ít còn gì!”
A Mạch đưa mắt nhìn Tiết Vũ, dò hỏi: “Tiết tướng quân, trước đây binh lính giữ thành Thanh Châu cũng có hai vạn người, ngoại trừ lương thảo do triều đình cấp, còn có nguồn cung cấp nào khác nữa không?”
Tiết Vũ lắc đầu nói: “Chỉ trông vào lương thảo do triều đình cấp mà miễn cưỡng nuôi quân, Thanh Châu vốn đã nổi danh là vùng đất nghèo, nên trong triều có rất nhiều người không nguyện đến đây làm quan.”
A Mạch cười, nàng biết Thanh Châu nghèo, chỉ có điều nhìn phủ đệ của các tướng lãnh trong thành này lại chẳng có vẻ khốn cùng như Tiết Vũ nói, vì thế lại hỏi: “Những người đến đây thì sao? Cũng không thể để cho họ ngay cả người nhà cũng không nuôi nổi!”
Tiết Vũ nghĩ nghĩ nói: “Thanh Châu là nơi tận cùng, triều đình cấp bổng lộc lại thiếu, nếu chỉ duy nhất một người đến thì không nói làm gì, nhưng nếu mang theo gia quyến đến thì đúng là không nuôi nổi. Về sau lại có một vị tướng thủ thành nghĩ ra một cách, đó là phân cho họ mỗi người một đỉnh núi Thái Hành, thu hoạch sản vật sẵn có đem về dùng trong gia đình.” Anh ta nói xong nhìn về phía đám người Vương Thất và Lý Thiếu Hướng, nói: “Nhị vị đã từng từ thành Thanh Châu ra ngoài, hẳn là vẫn còn nhớ rõ chứ?”
Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, đây là chuyện giữ kín trong quân đội Thanh Châu, nói là phân cho đỉnh núi, kỳ thật chính là bị các tướng lĩnh cao cấp này chiếm lấy, sau đó sai sử binh lính đi canh tác thay bọn họ. Hai người bọn họ đều là mới phát đạt sau khi gia nhập quân Giang Bắc, ở Thanh Châu cũng không ít lần lên “Đỉnh núi” khổ lao. Hiện giờ Tiết Vũ điểm danh đến hai người, bọn họ bất giác đều có chút xấu hổ.
Lý Thiếu Hướng con mắt vòng vo xoay chuyển, cười nói: “Trước kia đúng thật là có nghe đến.”
Vương Thất nói thẳng: “Nhớ, ta còn lên núi ở lại mấy ngày. Nếu nhớ không lầm, vườn đào trên núi Phi Hà là của nhà Tiết tướng quân?”
Mặt Tiết Vũ đỏ hồng lên, có chút không được tự nhiên, ứng phó nói: “Chuyện trong nhà đều do nội tử để ý, ta cũng không quá quan tâm.”
Trương Sinh nhìn thấy Tiết Vũ không được tự nhiên, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tình hình ở đây với trên núi Ô Lan không giống nhau, liệu có thể đem các doanh tản vào trong núi được không?”
Người khác còn chưa mở miệng, Lý Thiếu Hướng cũng đã liên tục lắc đầu, phản đối: “Không được, vùng núi này rất hoang sơ, khí hậu lại khô hạn, chỉ trông chờ vào chút cao lương, sản lượng lại không cao. Những hộ nông gia trên núi ăn còn không đủ no, nên kể cả có tiền cũng không thể mua được lương thực.”
Không thiếu chư tướng trong quân là người Thanh Châu, tất nhiên cũng biết đó đều là tình hình thực tế, đều gật đầu công nhận, nhất tề nhìn về phía A Mạch, chờ chủ ý của nàng. A Mạch vẫn trầm mặc, vừa rồi khi Trương Sinh nói đem các doanh phân tán vào trong núi khiến trong lòng A Mạch vừa động, cũng nhân việc nuôi quân mà nghĩ ra cách giải quyết một vần đề nan giải.
Mọi người thấy A Mạch trầm mặc không nói, cũng theo nhau mà trở nên im lặng, nhưng đợi đến nửa ngày vẫn không thấy A Mạch có phản ứng gì, trong lòng đều không khỏi cảm thấy kỳ quái. Vương Thất nhìn thoáng qua Lý Thiếu Hướng ở bên cạnh, dùng khuỷu tay khẽ huých anh ta, hướng về phía A Mạch bĩu môi. Lý Thiếu Hướng đối với động tác nhỏ của Vương Thất làm như không thấy, chỉ khẽ đằng hắng trong họng, đang định mở miệng, thì Trương Sinh đã lên tiếng gọi A Mạch trước: “Mạch đại nhân, ngài nói đi? Trong núi này không đủ sản vật và lương thực nuôi quân, Ký Châu mặc dù trù phú, nhưng chúng ta có nhờ cậy được hay không vẫn còn rất khó nói, dù sao chúng ta cũng phải nghĩ ra biện pháp mới được.”
A Mạch giờ phút này đã là phục hồi lại tinh thần, Trương Sinh nói lại vô cùng rõ ràng, A Mạch hiểu được ý tốt của Trương Sinh, trước hướng anh ta khẽ cười rồi mới hỏi chư tướng: “Mọi người nghĩ thế nào?”
Lý Thiếu Hướng chần chờ một chút rồi nói: “Nếu không, ta cho người đi tìm vài ngọn núi thu hoạch ít sản vật tự nhiên đi?”
A Mạch cười nói: “Khai hoang trồng trọt cũng là một cách, chỉ có điều ít nhất phải hai năm mới nhìn thấy kết quả, không phải giải pháp trước mắt. Ngươi trước cứ cho người tìm, cũng là làm một việc tốt cho dân chúng Thanh Châu.”
Lý Thiếu Hướng gật đầu nói phải.
A Mạch còn nói thêm: “Nhất định phải giải quyết vấn đề ăn mặc, biện pháp tốt nhất chính là lấy từ vùng đất Ký Châu trù phú, chỉ có điều hiện tại có quân đội thát tử ở Võ An, chúng ta không có cách nào khác để xoay sở, cũng không thể làm ra cảnh nồi da nấu thịt mà biến người nhà thành kẻ địch được.”
Tiết Vũ nghe xong lời ấy vội vàng gật đầu, nói: “Đúng là như thế.”
A Mạch nói tiếp: “Cho nên, tốt nhất là Tiếu tướng quân ở Ký Châu có thể chủ động đưa lương, tiền cho chúng ta là tốt nhất.” Thấy trên mặt chư tướng đều lộ vẻ khó hiểu, A Mạch cười cười, lại nói với Tiết Vũ: “Việc này phải phiền Tiết tướng quân tự mình đi Ký Châu một chuyến, nói quân Giang Bắc chúng ta không đủ lương thảo, trước mắt tính phải bỏ Thanh Châu, xin Tiếu tướng quân tạm thời cho quân ta mượn tạm vài quận huyện để làm chỗ trốn tránh.”
Tiết Vũ nghe đến đây biết A Mạch muốn mình đi lừa đảo, mặc dù không hoàn toàn tán thành, nhưng cũng khó mà nói khác, đành phải trầm giọng lĩnh mệnh.
Đợi cho quân nghị chấm dứt, sắc trời đã tối. Tiết Vũ theo mọi người rời khỏi phòng nghị sự, cố ý đi chậm vài bước tụt lại phía sau mọi người, vụng trộm kéo Lý Thiếu Hướng lại, thấp giọng dò hỏi: “Lý tướng quân, không biết vị Từ tiên sinh mà lúc trước mọi người ra khỏi phủ nghênh đón là người phương nào?”
Lý Thiếu Hướng giơ ngón tay cái về phía Tiết Vũ, đáp: “Đó là người lắm mưu nhiều kế nhất quân Giang Bắc ta, vốn là quân sư bên cạnh Thương soái, Từ Tĩnh, Từ tiên sinh.”
Tiết Vũ có chút kinh ngạc, nói: “Quân sư của Thương soái? Nhưng sao lại có vẻ rất thân thiết với Mạch đại nhân vậy?”
Lý Thiếu Hướng thần bí cười cười: “Bởi vì Từ tiên sinh là thúc trượng của Mạch đại nhân!”
“Thúc trượng?” Tiết Vũ không khỏi kinh ngạc,“Mạch đại nhân đúng là đã có thê tử rồi sao?”
Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc, hỏi: “Thấy không giống người có thê tử phải không?”
Tiết Vũ theo bản năng lắc lắc đầu, trong lòng đột nhiên cảm thấy vô cùng may mắn, may là thê tử chưa tìm bà mối đem muội tử nhà mình gả cho Mạch đại nhân, nếu không, người khác còn không hiểu tại sao mình lại đem muội muội gả cho thủ trưởng làm thiếp? Đang nghĩ ngợi, chợt nghe Lý Thiếu Hướng hô: “Mạch đại nhân”, Tiết Vũ vừa đưa mắt nhìn lên, thấy A Mạch mang theo thân vệ từ trước mặt đi tới, vội vàng cất tiếng chào: “Mạch đại nhân.”
A Mạch cười cười, nói với Tiết Vũ: “Đúng lúc Tiết tướng quân còn chưa đi, vừa rồi có câu quên chưa nói với tướng quân, khi nào Tiết tướng quân đi Ký Châu, nhất định phải nói rõ với Tiếu tướng quân rằng quân Giang Bắc chúng ta đúng là bất đắc dĩ mới dùng đến hạ sách này, chỉ mong Tiếu tướng quân niệm tình dân chúng Thanh Châu, quân Giang Bắc ta thật không đành lòng bỏ dân chúng Thanh Châu lại cho thát tử giết hại.”
Tiết Vũ và Lý Thiếu Hướng đều ngẩn ra, tên thân vệ phía sau A Mạch lại phì cười thành tiếng. A Mạch quay đầu liếc nhìn anh ta một cái, anh ta vội vàng nghiêm mặt cúi đầu xuống.
Tiết Vũ bị tiếng cười của tên thị vệ kia làm cho bừng tỉnh, vội vàng đồng ý nói: “Thuộc hạ hiểu rồi.”
A Mạch lại hàn huyên cùng anh ta vài câu, rồi mang theo tên thị vệ kia xoay người rời đi.
Tiết Vũ vẫn ngây ngốc đứng nguyên tại chỗ, Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc vỗ vai anh ta, nói: “Không phải buồn, dù sao ngươi và Tiếu lão tướng quân cũng không phải người ngoài, ta bảo thật, ngươi đi thì cứ việc nói thẳng: Ngài cấp lương thảo cho chúng ta đi, nếu cho, chúng ta nhất định nhớ kỹ ơn của ngài. Còn không cho? Tốt lắm, đừng trách chúng ta da mặt quá dày, cũng chỉ có thể mang theo dân chúng Thanh Châu đến chỗ ngài tìm nơi nương náu, ngài mau chuẩn bị phòng ở cho chúng ta đi!”
Tiết Vũ chớp chớp ánh mắt nhìn Lý Thiếu Hướng mà cảm thấy vô cùng choáng váng.
Lại nói A Mạch mang theo tên thân vệ kia rời đi, cũng không về chỗ ở của mình, mà đi vòng đến chỗ của Từ Tĩnh. Trong phòng Từ Tĩnh đã sáng đèn, Trương Sĩ Cường đang chỉ huy hai tiểu binh khiêng một thùng nước nóng lớn, đưa mắt lên thấy A Mạch đang lại gần, vội vàng bảo hai tiểu binh đưa thùng nước ra ngoài, còn mình thì bước nhanh ra nghênh đón, kêu lên: “Đại nhân.”
A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, hỏi anh ta: “Tiên sinh không ngủ sao?”
Trương Sĩ Cường lắc đầu nói: “Tiên sinh nói rong ruổi trên đường cả người rất khó chịu, cho nên nhất định phải tắm rửa, cũng vừa thu dọn xong.”
Trong phòng, Từ Tĩnh đã nghe được A Mạch và Trương Sĩ Cường nói chuyện, liền cất giọng hỏi: “Là A Mạch sao?”
A Mạch vội vàng cao giọng đáp: “Tiên sinh, là ta, A Mạch.”
———————-
Chú thích:
1- Hoàng liên: một vị thuốc trong Đông y, rễ to bằng đầu đũa, khúc khuỷu, ít rễ con nhiều, nhánh như bàn chân gà, ngoài vàng sẫm, trong vàng tươi, vị rất đắng.
chương 110
QUÂN SƯ
Rèm cửa được vén lên, Từ Tĩnh đã thay xong một thân quần áo sạch sẽ từ trong phòng chậm rãi bước ra, nhìn A Mạch hỏi: “Hội nghị quân sự xong rồi sao?”
A Mạch vội nói: “Đã xong rồi, ta đến đây thăm tiên sinh, phải chăng đã quấy rầy tiên sinh nghỉ ngơi?”
Từ Tĩnh không trả lời, tầm mắt dừng lại trên người tên thân vệ sau lưng A Mạch, từ lúc ông ta vào thành đã phát hiện thấy tên thân vệ này vẫn không rời khỏi A Mạch nửa bước, không khỏi hỏi A Mạch: “Ai vậy? Sao lúc nào cũng như cái đuôi bám sau lưng ngươi thế?”
A Mạch còn chưa trả lời, tên thân vệ kia đã tranh lời nói trước: “Từ tiên sinh, tại hạ họ Mục.”
“Họ Mộc(1)?” Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu.
Thân vệ này chính là Mục Bạch, một cái tên giả của Lâm Mẫn Thận, anh ta thấy Từ Tĩnh hỏi, thản nhiên cười, đáp: “Đúng vậy, tại hạ là Mục Bạch, đối với Từ tiên sinh…” Không để cho Lâm Mẫn Thận kịp nói hết lời, Từ Tĩnh liền ngắt lời nói: “Hai cây(2) thành rừng?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn người, lập tức liền hiểu ra, ánh mắt lộ vẻ khâm phục, khen: “Đúng vậy, Từ tiên sinh quả nhiên lợi hại.”
Từ Tĩnh nhíu mày, tức giận nói: “Ngươi không sợ người khác biết ngươi là ai sao?” Nói xong lại quay đầu giáo huấn A Mạch: “Sao ngươi lại thu nhận con chim công này bên người thế?”
Lâm Mẫn Thận nhất thời lúng túng, trêm mặt hết đỏ lại trắng, Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh cũng cười xì một tiếng. A Mạch nhịn cười, đáp: “Là do Thương soái an bài, ta cũng chẳng có cách nào.”
Từ Tĩnh lại nhìn nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên nói: “Đổi lại đi!”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt, lại nghe Từ Tĩnh nói tiếp: “Đừng gọi là Mục Bạch, đổi thành Bạch Mục(3) tốt hơn.”
Lâm Mẫn Thận nổi giận nói: “Từ tiên sinh sao lại nói thế, uổng cho tại hạ từ lâu ngưỡng mộ tiên sinh…”
“Mục Bạch!” A Mạch lên tiếng ngăn Lâm Mẫn Thận lại: “Không được làm càn!”
Lâm Mẫn Thận mặt đỏ đỏ phừng phừng vẫn muốn nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh đã xoay người sang nói với A Mạch: “Ngươi theo ta đi dạo quanh đây đi.” Lâm Mẫn Thận thấy Từ Tĩnh coi khinh mình như thế, trong lòng lại tức giận, muốn vượt lên phía trước Từ Tĩnh để tranh luận phải trái. Nhưng Trương Sĩ Cường đã vội vàng túm anh ta lại, kéo ra ngoài sân: “Đại nhân và Từ tiên sinh có việc muốn nói, ngươi và ta ra ngoài vườn canh gác.”
Lâm Mẫn Thận bị Trương Sĩ Cường lôi ra khỏi cửa, A Mạch thong thả đi bộ cùng Từ Tĩnh dọc theo con đường mòn trong vườn, cười khuyên nhủ: “Tiên sinh cần gì phải bực bội với anh ta như vậy.”
Từ Tĩnh im lặng một lát, đột nhiên nói: “Anh ta không nên như vậy, dùng người thì không nên nghi ngờ, người đã nghi ngờ thì không nên dùng, làm như vậy trái lại thật là tầm thường.”
A Mạch sửng sốt, lập tức liền hiểu được “anh ta” mà Từ Tĩnh nhắc đến là chỉ Thương Dịch Chi. A Mạch lặng đi một lúc rồi nói: “Võ công của Lâm Mẫn Thận rất tốt.” Thấy Từ Tĩnh quay lại nhìn mình, A Mạch thản nhiên cười cười, giải thích: “Anh ta cũng là có ý tốt, có chuyện này chắc tiên sinh chưa biết, khi ta ở Thái Hưng có bị thương một lần, thiếu chút nữa thì mất mạng. Anh ta đầu tư trên người ta nhiều lắm, sợ chưa kịp thu hồi vốn thì ta đã bị kẻ khác giết mất, thế nên mới đặc biệt để Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh để bảo vệ ta.”
Từ Tĩnh quan sát A Mạch một khắc, nở nụ cười, nói: “Xem ra ngươi đã thông suốt rồi, so với ngươi, lão phu trái lại đã thấp kém hơn rồi.”
A Mạch vội nói: “Tiên sinh đừng nói như vậy, tiên sinh đối với A Mạch chính là thầy tốt bạn hiền, nếu không có tiên sinh, A Mạch sao có ngày hôm nay.”
Từ Tĩnh nhìn một cách xem thường, không khách khí nói: “Ngươi đừng vuốt mông ngựa ta, trong lòng ta và ngươi đều hiểu, chúng ta cùng nhau kết hợp lại là vì nhu cầu, ngươi không nhận ân tình của ta, ta cũng chẳng thiếu ân tình của ngươi.”
A Mạch cười cười: “A Mạch biết.”
Từ Tĩnh vuốt râu, nói trắng ra: “Biết là tốt, cho nên về sau hãy thu hồi cái sự khôn vặt của ngươi lại, lão phu không cần cái này. Hơn nữa, ngươi giờ đã là người giữ vị trí cao nhất ở trong quân, không cần phải nhìn vẻ mặt của người khác để sống nữa, phải cứng rắn lên, chỉ cần ngươi có thể đánh thắng trận, người khác tự nhiên sẽ phải kính trọng ngươi, sợ ngươi.”
A Mạch biết Từ Tĩnh có ý tốt, trong lòng không khỏi có chút cảm kích, lại theo thói quen ôm quyền vái một cái, cung kính nói: “Đa tạ tiên sinh dạy bảo.”
Từ Tĩnh thấy vậy lại nhướn mắt nhìn một cách xem thường, rồi chép miệng lắc lắc đầu, không chịu nói tiếp nữa. A Mạch thấy thế không khỏi cười khổ, nàng vốn phải sống như vậy trong một thời gian rất lâu rồi, nhất thời muốn sửa cũng không phải chuyện dễ.
Từ Tĩnh hỏi: “Ngươi tới tìm lão phu có việc gì?”
A Mạch suy nghĩ, nói: “Vẫn là việc Thường Ngọc Thanh ở Võ An, ta đã cẩn thận suy nghĩ rồi, cảm thấy hiện giờ vẫn chưa phải thời cơ tốt để chủ động tấn công. Hơn nữa, hiện giờ quân Giang Bắc cũng vừa bại trận chưa kịp hồi phục.”
Từ Tĩnh nghe vậy liền dừng cước bộ, xoay người nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra đối sách rồi sao?”
Khuôn mặt A Mạch trở nên kiên nghị, trầm giọng đáp: “Thuận theo tình thế, gặp dịp thì biến hóa. Vả lại phải xem động tác của Thường Ngọc Thanh như thế nào, nếu vẫn lùa dân chúng đến công thành, thì sẽ tương kế tựu kế dụ anh ta vào thành rồi tiêu diệt.”
“Vậy dân chúng thì sao?” Từ Tĩnh hỏi.
A Mạch mím chặt môi, đáp: “Dân chúng nếu có thể cứu liền cứu, không thể cứu thì dùng làm mồi nhử.”
Từ Tĩnh lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi hiện tại mới chân chính là một tướng quân.”
A Mạch cười khổ nói: “Tiên sinh đừng nói móc ta.”
“Không, không phải nói móc, mà là khen ngươi!” Từ Tĩnh nghiêm mặt nói: “Từ xưa đến nay không có tướng quân nào được lưu danh vì có tấm lòng từ bi nhân ái, câu nhân từ không thể cầm quân chính là ý này, nếu ngươi chỉ lo nhân ái đối với dân chúng ở dưới thành thì sẽ bất nhân với dân chúng trong thành và quân giữ thành, một khi thành bị phá, tất cả đều sẽ bị tàn sát.”
A Mạch thản nhiên cười.
Từ Tĩnh ngồi xuống một tảng đá, lại tiếp tục theo câu chuyện vừa rồi mà hỏi: “Nếu Thường Ngọc Thanh lùa dân chúng đến sông đào bảo vệ thành thì sao?”
A Mạch ngồi xuống đối diện với Từ Tĩnh, không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh mà nói: “Tiên sinh, ta muốn lấy một bộ phận tinh nhuệ từ kỵ binh dùng làm đội du kích, còn lại sắp xếp cho các bộ binh doanh.”
Hiện nay cơ cấu trong quân chính là lấy đội làm đơn vị chiến thuật cơ bản, một đội có một trăm người, quản lý mười ngũ, trên đội là doanh, trên doanh là quân đoàn. Trong đó, bộ binh, kỵ binh là doanh độc lập, không có quan hệ quản lý trực tiếp. Trong bộ binh doanh mặc dù cũng có kỵ binh, nhưng số lượng rất nhỏ, phần lớn làm thân vệ cho các tướng lĩnh hoặc làm thám báo trong doanh.
Từ Tĩnh bỗng nhiên phát sinh hứng thú, lại dùng tay khẽ vuốt râu, hỏi: “Nói thử một chút nghe xem, ngươi có ý tưởng gì?”
A Mạch nói: “Một số kỵ binh vì không có chiến mã tốt nên không thể dùng trong chiến đấu, chi bằng phối hợp với bộ binh doanh, thứ nhất, có thể đảm nhiệm làm lính liên lạc cho các tướng lĩnh, hoặc dùng để vận tải đồ quân nhu. Thứ hai, có thể làm một đội độc lập, dùng để tiến hành trinh sát và chiếm lĩnh một số vị trí trọng yếu trong trận địa, hoặc khi quân địch lộ vẻ hỗn loạn, bố trí thành đội hình chiến đấu ở mặt sau bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng quân bộ binh, có thể lợi dụng thời cơ có lợi mà truy đuổi quân địch.”
Từ Tĩnh nghe xong, trong mắt lập tức lóe tinh quang, tay vẫn không ngừng vuốt râu, đột nhiên hỏi: “Nếu là đại binh tác chiến, thì kỵ binh dùng như thế nào?”
A Mạch ngượng ngùng cười, đáp: “Nhất thời còn chưa nghĩ đến, chỉ nghĩ dù sao những kỵ binh đó nếu giao chiến trực diện cùng thiết kỵ thát tử thì sẽ gặp nguy hiểm, chi bằng lưu lại để dùng vào việc khác có ích hơn.”
Trên mặt Từ Tĩnh lộ ra vẻ suy ngẫm, tự mình nghiên cứu, khảo xét, qua một lúc lâu mới vừa cười vừa hỏi: “Vậy ngươi muốn thả kỵ binh tinh nhuệ ra ngoài để làm gì? Đề phòng Thường Ngọc Thanh công thành sao?”
A Mạch đáp: “Đúng vậy, chỉ cần một sư (4) du kích tinh nhuệ bên ngoài, cho dù Thường Ngọc Thanh có công thành, chúng ta cũng chiếm được phần thắng nhiều hơn.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, lại hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đi rồi, hiện giờ ai thống lĩnh kỵ binh?”
“Trương Sinh.” A Mạch đáp.
Từ Tĩnh nghe vậy thì kinh ngạc nhìn A Mạch.
A Mạch bất đắc dĩ cười, nói: “Đã nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, ta tin anh ta.”
Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nói: “Vậy ngươi cần thương lượng trước với anh ta về việc thay đổi này, dù sao chủ yếu vẫn là điều động kỵ binh.”
A Mạch gật đầu đáp: “Ta ngày mai sẽ đi.”
Sáng sớm hôm sau, A Mạch đến giáo trường kỵ binh doanh tìm Trương Sinh, ai ngờ còn chưa nhìn thấy Trương Sinh đâu, lại đã thấy Vương Thất và Lý Thiếu Hướng ở góc giáo trường xa xa phía trước. Lý Thiếu Hướng đang giơ hai tay ngăn cản Vương Thất, giống như hai người đang tranh luận chuyện gì đó.
A Mạch thấy lạ, liền đi lại gần nghe, chợt thấy Lý Thiếu Hướng nói: “Không được, không được, Vương Thất ngươi không được quấy phá lung tung!”
Vương Thất trên người dính đầy bụi, vừa đẩy mạnh Lý Thiếu Hướng, vừa chửi bậy nói: “Ngươi giữ lại con súc sinh này mới là quấy phá lung tung, lãng phí lương thảo chưa nói, lại còn cả ngày coi hắn như đại gia mà cho người đến hầu hạ, ôi giời! Ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn cái bộ dạng của nó xem! Đúng là chủ làm sao, tớ làm vậy!”
Vương Thất kêu lên chỉ về phía sau Lý Thiếu Hướng, A Mạch nhìn theo hướng đó, thấy trên giáo trường không có ai, nhưng tại bãi cỏ, phía trên cọc gỗ có buộc một thần tuấn chiến mã hung hãn lông màu trắng, bờm dựng đứng, vẻ mặt hiên ngang. A Mạch nhíu mày nhìn kỹ, càng nhìn càng cảm thấy con ngựa này rất quen, trong giây lát chợt nhớ ra đây đúng là con ngựa mà Thường Ngọc Thanh vẫn thường cưỡi, hình như có tên là “Chiếu Dạ Bạch”.
Lý Thiếu Hướng trong lúc vô tình nhìn thấy A Mạch, liền thở phảo nhẹ nhõm, vội vàng kéo Vương Thất lại, kêu lên: “Đại nhân, ngài mau phân xử giúp chúng ta đi.”
Thì ra A Mạch không nhớ lầm, chiến mã này quả nhiên chính là con Chiếu Dạ Bạch, trong đại chiến tại sông Tử Nha, Thường Ngọc Thanh đã lưu lại bên bờ sông. Lần đại chiến đó, Thường Ngọc Thanh trúng kế bị vây hãm, liền kéo theo A Mạch nhảy xuống sông trốn thoát, để lại con ngựa mình cưỡi trên bờ sông, sau trận chiến liền bị Lý Thiếu Hướng coi như bảo bối “nhặt được” mà đem về, cất giấu lén lút mang đến Thanh Châu.
Mấy ngày trước đây, Vương Thất tới tìm Lý Thiếu Hướng để lấy chiến mã, vừa lúc trông thấy con Chiếu Dạ Bạch này, thấy nó là thần tuấn, liền chẳng nói qua với Lý Thiếu Hướng lời nào đã nhảy lên cưỡi. Ai ngờ Chiếu Dạ Bạch tính tình rất quái. Ngươi nói nó ôn hòa nhu thuận, nhưng nó lại không chịu để cho ngươi khống chế, bất kể là ai nhảy lên lưng nó để cưỡi đều bị nó hất ngã. Nhưng nếu ngươi nói nó là con ngựa trái tính trái nết, thì ai cho nó lương thảo nó đều ăn, đúng là một con ngựa không có khí tiết.
Nói ngắn gọn, thì con Chiếu Dạ Bạch chính là một con ngựa vô lại. Vương Thất mấy lần thử thuần phục con ngựa này đều không thành, tức giận đến nỗi chỉ muốn giết ngay con tuấn mã này cho hả giận, nhưng Lý Thiếu Hướng thì đâu thể để cho anh ta làm thế được, vì thế hai người liền bắt đầu tranh cãi.
A Mạch nghe xong liền đưa mắt nhìn Chiếu Dạ Bạch bên sân kia đang vươn cổ ngẩng cao đầu, trong đầu đột nhiên hiện lên khuôn mặt của Thường Ngọc Thanh, cũng một vẻ kiêu ngạo, hiên nganh như vậy…
Lý Thiếu Hướng vẫn còn đang lải nhải: “Đại nhân, ngài nói một con thần tuấn như vậy, chẳng lẽ lại không có cá tính hay sao? Vương Thất tự mình không thuần phục được, nên mới đòi giết nó cho hả giận, ngài nói anh ta đây có phải là quấy phá lung tung hay không?”
Vương Thất lại tức giận: “Ngươi nuôi nó mấy tháng, có thấy ngươi thuần phục nó đâu, nếu không thể thuần phục thì còn lưu nó lại làm gì? Không bằng giết đi cho rảnh nợ!”
Lý Thiếu Hướng nghe xong tất nhiên lại cãi lại, hai người ngươi một câu, ta một câu, đứng cãi nhau trước mặt A Mạch, cuối cùng nhất tề hỏi A Mạch: “Đại nhân, ngài nói xem phải làm thế nào?”
——————–
Chú thích:
1, 2 – Mục và Mộc: đều có nghĩa là gỗ.
3- Bạch Mục: gỗ rỗng
4- Hai cây thành rừng: nguyên văn “Song mục thành lâm”, ý nói thân phận thật của Mục Bạch không phải là họ Mục mà là họ Lâm.
chương 111
KHÍCH TƯỚNG
“Đưa trở về!” A Mạch bỗng nói, “đea đến Võ An cho Thường Ngọc Thanh để anh ta bỏ tiền ra chuộc, nếu không chịu thì giết chết con ngựa này ngay ngoài thành Võ An.”
Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, ngay cả con Dạ Chiếu Bạch kia dường như nghe cũng hiểu được lời A Mạch, liền há mồm trợn mắt, ngẩng đầu hí vang, dãy dụa muốn giật đứt dây cương mà chạy. Lý Thiếu Hướng vẫn có chút do dự không muốn, Vương Thất thì vỗ tay trầm trồ khen ngợi nói: “Đúng! Kêu Thường Ngọc Thanh lấy tiền ra chuộc, chúng ta vừa kiếm được bạc lại vừa khiến anh ta mất mặt, một công đôi việc.”
“Còn có thể thăm dò tình hình quân địch ở Võ An.” A Mạch cười cười, lại dặn dò: “Gọi người cưỡi khoái mã đi, không cần thiết thì không quay trở lại.”
Vương Thất vội vàng gật đầu nhận lệnh, quay về tuyển chọn một số người thông minh, linh hoạt từ đội thám báo, dặn dò cứ làm như thế, như thế, lại cho bọn họ cưỡi ngựa hàng đôi, đem theo con Dạ Chiếu Bạch phi thẳng đến thành Võ An.
Thành Võ An cách Thanh Châu chưa đến hai trăm dặm về phía tây bắc, ra roi thúc ngựa chỉ một ngày là đến. Mấy thám báo vốn đã được Vương Thất dặn dò, trên đường đi cũng không hề vội vã, đi đến dòng suối cạn cách Võ An ba mươi dặm liền cố ý dừng lại nghỉ ngơi, đợi sáng sớm ngày hôm sau, trước thì cho ngựa ăn uống thật no nê, để lại hai cánh quân cưỡi chiến mã chờ trong rừng cây cạnh dòng suối, những người khác lúc này vừa cưỡi tuấn mã, vừa dắt Dạ Chiếu Bạch đi về phía thành Võ An.
Trong thành Võ An, Thường Ngọc Tông nghe thấy tiểu giáo gác cổng thành bẩm báo, vội vàng lên vọng lâu trên cổng thành xem, chỉ thấy phía ngoài cổng thành, ngoài một tầm tên bắn quả thực có mấy kỵ binh Nam Hạ, ở giữa nổi bật lên một thần tuấn chiến mã màu trắng béo tốt, cường tráng, đúng là con Dạ Chiếu Bạch mà Thường Ngọc Thanh vẫn cưỡi. Thường Ngọc Tông quay đầu hỏi giáo úy bên cạnh: “Bọn chúng đòi đổi lấy cái gì?”
“Năm ngàn lượng bạc trắng” Giáo úy kia đáp. Trong lòng Thường Ngọc Tông bỗng mừng thầm, nhưng trong người lại không mang theo nhiều bạc như vậy, chắc là bọn thuộc hạ cũng thế. Viên giáo úy kia sau khi do dự lại nói tiếp: “Nói không cần bạc trắng, chỉ cần ngân phiếu, nếu không có ngân phiếu của Nam Hạ thì ngân phiếu Bắc Mạc của chúng ta cũng được.”
Thường Ngọc Tông sửng sốt, đợi đến khi phản ứng được liền tức giận mắng: “Bọn mọi rợ Nam Hạ thật đáng hận!”
Viên giáo úy kia lén nhìn sắc mặt Thường Ngọc Tông, cẩn thận hỏi: “Tướng quân, chúng ta làm làm thế nào bây giờ?”
Theo như Thường Ngọc Thanh vẫn nói, Thường Ngọc Tông mặc dù tuổi chưa nhiều, nhưng làm việc lại ít khi lỗ mãng, rõ ràng giờ phút này trong lòng rất tức giận, nhưng vẫn không có ý định làm việc sơ xuất, liền dặn dò viên giáo úy: “Trước cố gắng kéo dài thời gian, rồi mau phái người đi bẩm báo đại tướng quân.”
Viên giáo úy nghe xong khẽ gật đầu, phái người nói với kỵ sĩ Nam Hạ dưới thành rằng phải đi gom góp ngân lượng, rồi âm thầm phái người cưỡi khoái mã đi thông báo với đại tướng quân Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Tông ở trên tường thành chờ đường huynh, kết quả là chưa đợi được Thường Ngọc Thanh, nhưng lại chờ được thúc phụ Thường Tu An đến.
Thường Tu An người chưa lên đến thành nhưng đã nghe thấy tiếng: “Để ta xem xem, để ta xem xem, có đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất không?”
Thường Ngọc Tông nghe thấy liền kinh ngạc quay người lại, chỉ thấy Thường Tu An bước từng bước đến lỗ châu mai, híp mắt quan sát cẩn thận, rồi kêu lên thành tiếng: “Ô! Đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất, sao lại rơi vào tay bọn mọi rợ Nam Hạ được nhỉ?”
Thường Ngọc Tông không trả lời, chỉ nhìn lướt qua vẻ mặt bất đắc dĩ của tên lính liên lạc đi theo sau Thường Tu An, liền hỏi Thường Tu An: “Sao tam thúc lại đến đây?”
Thường Tu An vừa nhìn vừa đáp: “Lão Thất đi đôn đốc việc chế tạo khí giới công thành, việc nhỏ thế này không đáng phải đi tìm anh ta.” Ông ta nói xong lại quay người nhìn Thường Ngọc Tông, dùng giọng trưởng bối giáo huấn: “Không phải ta nói ngươi a, Lão Thập Nhất, ngươi chuyện gì cũng tốt, chỉ có điều là làm việc quá cẩn thận, có mỗi việc cỏn con này mà ngươi cũng phải đi hỏi Lão Thất sao?”
Thường Ngọc Tông thầm nghĩ đây chính là chuyện liên quan đến Mạch Tuệ, ta có thể không cẩn thận sao? Ta cũng vì một lần không cẩn thận, kết quả liền bị Mạch Tuệ tiêu diệt mất ba vạn tinh kỵ binh… Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng trên mặt cũng không dám tỏ vẻ bất kính, chỉ cúi đầu cụp mắt nói: “Tam thúc dạy phải lắm.”
Thường Tu An cười ha hả, dùng tay vỗ vỗ vai Thường Ngọc Tông, ghé sát vào tai nói: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này đi đường xa từ Thanh Châu mà đến, chắc chắn là người, ngựa đều kiệt sức, ngươi trước cứ dùng ngân phiếu đổi lấy Dạ Chiếu Bạch về, sau lại phái người truy kích, bọn chúng chỉ có vài tên, còn có thể chạy được sao?”
Thường Ngọc Tông có chút do dự, hỏi: “Làm như vậy có được hay không… Cái này… có chút…?”
Thường Tu An trừng mắt: “Có chút cái gì mà có chút? Ngươi chẳng lẽ muốn nói chuyện tín nghĩa với bọn mọi rợ Nam Hạ này hay sao, lúc bọn chúng lột áo giáp của những tướng sĩ chết trận của chúng ta thì có nói đến chuyện tín nghĩa hay không? Hơn nữa, mấy tên mọi rợ Nam Hạ dưới thành này không chừng đến để tìm hiểu động tĩnh của chúng ta, sao có thể thả cho chúng còn sống mà trở về được!”
Trong lòng Thường Ngọc Tông vẫn cảm thấy có chút gì đó không yên tâm, chần chờ một chút rồi hỏi: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này cũng chỉ đứng ở dưới thành thì có thể tìm hiểu được tin tức gì ở trong thành chúng ta được? Đừng trúng kế dụ địch của chúng!”
Thường Tu An không kiên nhẫn khoát tay áo, trực tiếp căn dặn tiểu giáo canh giữ cổng thành: “Chuẩn bị ngân phiếu theo yêu cầu của chúng, chờ hai bên giao dịch xong, khi Dạ Chiếu Bạch về đến tay, lập tức giết chết mấy tên mọi rợ đó đi.”
Tên tiểu giáo lại liếc trộm Thường Ngọc Tông, thấy anh ta cũng không có ý ngăn cản, lúc này mới ôm quyền nói: “Tuân lệnh!” Khi tên tiểu giáo vừa xoay người bước đi, Thường Tu An lại cao giọng gọi anh ta, vẫy vẫy tay ý bảo tiểu giáo quay lại, thấp giọng nói: “Tốt nhất là bắt sống để chúng ta thẩm vấn tình hình của chúng ở Thanh Châu.”
Ngoài thành, kỵ binh quân Giang Bắc vốn đã sớm yêu cầu trong thành chỉ được phái ra một người cầm ngân phiếu, đi bộ ra đổi ngựa, chỉ cần nhiều hơn một người, bọn họ sẽ lập tức sẽ giết chết Dạ Chiếu Bạch. Chính vì thế, tiểu giáo Bắc Mạc đặc phái một tên lính can đảm một mình ra khỏi thành, còn mình thì tự lĩnh một đội kỵ binh nấp sau cửa thành, chỉ đợi tên lính kia đổi bạc lấy Dạ Chiếu Bạch xong, anh ta liền dẫn người xông ra, nhất định phải bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.
Ban đầu, mọi chuyện đều tiến hành rất thuận lợi, tên lính Bắc Mạc kia đưa mắt kiểm tra Dạ Chiếu Bạch, thấy toàn thân cũng không có thương tích gì, lúc này mới lấy ngân phiếu năm vạn lượng giao cho kỵ binh quân Giang Bắc rồi cầm lấy dây cương của Dạ Chiếu Bạch. Vốn anh ta trước khi ra khỏi thành đã được dặn rằng Dạ Chiếu Bạch không bao giờ để người khác cưỡi, cho nên cũng không lên ngựa, chỉ dắt Dạ Chiếu Bạch thong thả đi về phía cổng thành. Mới đi được nửa đường, cổng thành đột nhiên mở rộng, đại đội kỵ binh từ trong thành phóng ngựa lao ra, phi như bay về hướng mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.
Lại nói mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc sau khi cầm được ngân phiếu liền quay ngựa đi, chưa đi được xa lắm liền nghe thấy phía sau đột nhiên truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập như sấm động, không khỏi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một đội kỵ binh Bắc Mạc tay vung loan đao từ trong thành vọt ra rất nhanh, bụi đất theo vó ngựa cuộn lên, miệng hét rất lớn, thanh thế bức người.
“Đi mau!” Tên kỵ binh cầm đầu quân Giang Bắc gấp giọng quát, hai chân dùng sức kẹp bụng ngựa rồi giục ngựa phi nước đại, còn mình thì ở trên lưng ngựa xoay người giương cung, ngắm thẳng vào con Dạ Chiếu Bạch chưa đến cổng thành mà bắn. Những tên kỵ binh bên cạnh cũng rất nhanh xoay người lại lắp cung tên mà bắn.
Tên lính Bắc Mạc vừa rồi thấy cổng thành mở rộng, liền nắm lấy Dạ Chiếu Bạch mà chạy như bay, may mà con Dạ Chiếu Bạch này cũng rất biết phối hợp chạy theo. Mắt thấy sẽ lọt vào bên trong vòng bảo vệ của kỵ binh quân mình, ai ngờ Dạ Chiếu Bạch lại đột nhiên giở chứng, chẳng những không hề chạy theo anh ta, mà còn đột nhiên kéo anh ta sang hướng khác mà phóng đi. Tên lính kia trong lòng rất khẩn trương, lại không dám buông dây cương, thiếu chút nữa bị Dạ Chiếu Bạch kéo ngã, vừa lảo đảo mấy bước lại nghe thấy tiếng gào thét thất thanh của người bên cạnh, một mũi tên lướt sát qua bên cạnh anh ta. Tên lính ngẩn người, trên người bỗng toát mồ hôi lạnh.
Mấy kỵ binh quân Giang Bắc chỉ bắn một mũi tên rồi quất ngựa chạy đi, ngựa mà bọn họ cưỡi vốn đều là tuấn mã do Vương Thất cố ý chọn trong quân Giang Bắc, hơn nữa lại sớm có đề phòng, cho nên kỵ binh quân Bắc Mạc phía sau mặc dù cố hết sức đuổi theo nhưng vẫn bị rớt lại khoảng một tầm tên bay. Hai bên cứ như vậy mà chạy thẳng đến ba mươi dặm, đến lúc này thì thể lực kỵ binh quân Giang Bắc lộ rõ vẻ không thể chống đỡ nổi, tốc độ dần dần chậm lại. Phía sau, giáo úy chỉ huy đội quân truy kích Bắc Mạc trong lòng mừng rỡ, biết rằng ngựa của mình tuy cũng đã bắt đầu mỏi mệt, nhưng vẫn còn tốt hơn so với đối phương, chỉ cần tiếp tục kiên trì một lát nữa thôi thì nhất định có thể bắt sống được bọn mọi rợ Nam Hạ. Nhưng anh ta lại không biết rằng ở phía trước, phía sau một khe núi, có một dòng suối cạn, ở hai bên rừng cây của con đường núi, hai cánh kỵ binh quân Giang Bắc đã chuẩn bị sẵn cung tên cưỡi chiến mã đứng chờ…
Thường Tu An và Thường Ngọc Tông ở trên tường thành cũng có chút nghi hoặc, Dạ Chiếu Bạch và tên lính kia đã an toàn trở về thành, nhưng đợi rất lâu mà không thấy đội kỵ binh quay lại. Hai người nhìn nhau, đều thấy trong mắt người kia lộ ra một tia nhìn chột dạ.
Thường Tu An lẩm bẩm như thể tự an ủi mình: “Chúng ta không nghe thấy động tĩnh gì, chắc sẽ không phải là bọn chúng dùng kế dụ binh, nhưng không hiểu bọn chúng đuổi mấy thằng nhãi kia đến tận đâu vậy?”
Thường Ngọc Tông suy nghĩ rồi hỏi Thường Tu An: “Tam thúc, có nên đi báo cho Thất ca một tiếng không?” Một lời của anh ta thốt ra lại sợ Thường Tu An suy nghĩ nhiều, vội vàng nói thêm: “Nếu Thất ca biết tìm được Dạ Chiếu Bạch chắc chắn sẽ rất cao hứng.”
Lần này Thường Tu An không phản đối, Thường Ngọc Tông vội vàng gọi người dắt Dạ Chiếu Bạch đi đến phía thành bắc, chỗ chế tạo quân giới tìm Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh đang quan sát thợ thủ công thí nghiệm máy bắn đá vừa mới chế tạo ra. Đây là một loại vũ khí công thành rất lợi hại, có thể bắn đá vào quân địch trên tường thành hoặc bắn vào trong thành, gây sát thương rất lớn cho quân giữ thành. Nhưng Thường Ngọc Thanh vẫn chưa cảm thấy hài lòng đối với cái máy bắn đá do thợ thủ công vừa mới làm ra, ngay như trong thí nghiệm vừa rồi, tầm bắn của máy bắn đá này còn chưa đến năm mươi trượng, trong khi quân giữ thành Thanh Châu lại có thể dùng ưu thế của tháp cao cùng công sự trên mặt thành mà thoải mái bắn tên tới khoảng cách này. Nếu không thể tăng tầm bắn của máy bắn đá thì rất khó tạo thành lực sát thương đối với quân lính và công sự phòng ngự trên tường thành.
Người đời đều biết Thường Ngọc Thanh nổi tiếng nhờ kỵ binh, lại thấy anh ta xuất thân từ tướng môn vọng tộc, ngày thường làm việc cuồng ngạo không kiềm chế, rất khó tưởng tượng được là anh ta sẽ lại tới những nơi như chỗ chế tạo quân giới này, lại càng không thể ngờ rằng anh ta lại vô cùng kiên nhẫn thảo luận cùng thợ thủ công về cách làm thế nào để kéo dài tầm bắn cho máy bắn đá.
Dạ Chiếu Bạch từ phía xa đã nhìn thấy Thường Ngọc Thanh, liền hí dài một tiếng, giật dây cương ra khỏi tay tên lính mà chạy thẳng đến chỗ Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh kinh ngạc xoay người, thấy Dạ Chiếu Bạch chạy đến bên cạnh dùng cổ cọ vào người anh ta, nhất thời cảm thấy vô cùng mừng rỡ, vừa lấy tay vuốt ve bờm của Dạ Chiếu Bạch, vừa hỏi tên lính chạy theo phía sau: “Sao lại thế này? Tìm được ở đâu thế?”
Tên lính kia đem sự tình đầu đuôi kể lại, Thường Ngọc Thanh càng nghe, sắc mặt càng lạnh, sau khi nghe xong, trên mặt đã phủ một tầng sương lạnh buốt, dùng tay ấn lên người Dạ Chiếu Bạch một cái, thân thể đã nhẹ nhàng bay lên rồi rơi xuống yên ngựa, giật dây cương phi như bay.
Phía trên vọng lâu tướng thành, Thường Tu An nhìn thấy Thường Ngọc Thanh cưỡi ngựa chạy vội từ trong thành ra, trong lòng bất giác có chút không yên, nhất thời không dám đi xuống giáp mặt Thường Ngọc Thanh, chỉ bắt Thường Ngọc Tông đi xuống nghênh đón Thường Ngọc Thanh. Ai ngờ Thường Ngọc Thanh lại không xuống ngựa, chỉ quát lớn với Thường Ngọc Tông vừa từ trên tường thành xuống nghênh đón: “Mở cửa thành!”
Thường Ngọc Tông vội vàng tiến lên vài bước, kéo con ngựa Thường Ngọc Thanh đang cưỡi, khuyên nhủ: “Thất ca, huynh bình tĩnh một chút, đừng tiếp tục trúng kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ nữa.”
Thường Ngọc Thanh biết phái kỵ binh đuổi theo giết quân Giang Bắc không phải chủ ý của Thường Ngọc Tông, nhưng Thường Tu An dù sao cũng là trưởng bối, anh ta không thể nói nặng lời được, nên chỉ có thể phát hỏa với Thường Ngọc Tông: “Ngươi cũng biết đó là kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ sao? Vậy sao ngươi còn phái một đội kỵ binh đuổi theo giết bọn họ?”
Kỵ binh Bắc Mạc xây dựng theo biên chế một trăm người thành một đội, một ngàn người thành một đoàn, một đội kỵ binh đó ước chừng có một trăm kỵ binh. Kỳ thật cho dù muốn bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì cũng không đáng phải dùng nhiều kỵ binh như vậy, nhưng Thường Tu An phái nhiều người như vậy chỉ để giết chết mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì rõ ràng là có ý bỡn cợt.
Thường Ngọc Tông bị Thường Ngọc Thanh răn dạy thì nói không nên lời, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa ầm ầm như sấm dậy, quay đầu nhìn lại, thấy phía sau Thường Ngọc Thanh có một đại đội kỵ binh đang chạy đến. Trong lòng Thường Ngọc Tông càng gấp, vội vàng ngẩng đầu nhìn lên phía trên tường thành, hy vọng Thường Tu An có thể xuống dưới khuyên Thường Ngọc Thanh, ai ngờ Thường Tu An đã sợ tới mức ngay cả đầu cũng không dám lộ ra. Thường Ngọc Tông bất đắc dĩ đành phải giữ chặt lấy đầu Dạ Chiếu Bạch, gấp giọng khuyên nhủ: “Thất ca, Thất ca, nếu huynh cứ như vậy mà xông ra ngoài, chẳng phải là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao! Ngàn vạn lần không thể đi được!”
Thường Ngọc Thanh cười lạnh nói: “Nếu ta không đi, mới là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ! Nhân số một đội không nhiều cũng không ít, vừa hợp với khẩu vị của bọn chúng! Nếu còn chậm thêm chút nữa, e rằng đến một người cũng chẳng cứu nổi! Buông tay!” Thường Ngọc Thanh gầm lên một tiếng, vung mũi thương vào bàn tay đang giữ dây cương của Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông sợ hãi vội vàng buông tay, không dám tiếp tục ngăn cản, đành phải bảo quân sĩ mở cổng thành.
Cổng thành Võ An một lần nữa lại mở rộng, đại tướng quân Thường Ngọc Thanh tự mình thân chinh mang theo một ngàn kỵ binh đi cứu đội kỵ binh lúc trước ra khỏi thành truy bắt mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc. Một đường đuổi theo đến hơn một trăm dặm, đến rạng sáng ngày thứ hai mới đuổi kịp đội kỵ binh quân Bắc Mạc. Mà lúc này, đội kỵ binh đã bị kỵ binh quân Giang Bắc tầng tầng lớp lớp vây quanh, đang khốn khổ chống đỡ.
chương 112
GIẰNG CO
A Mạch lập tức đến một chỗ trên sườn dốc cao thoai thoải, yên lặng chăm chú nhìn cảnh chém giết trên chiến trường. Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh mắt thấy cảnh chém giết náo nhiệt phía dưới, không khỏi cũng có chút nóng lòng muốn thử xem sao, như thể cảm nhận được tâm tình của anh ta, con ngựa anh ta đang cưỡi cũng không an phận mà gõ móng liên hồi xuống đất. A Mạch quay sang nhìn, không đợi Lâm Mẫn Thận kịp mở miệng liền thản nhiên nói: “Hiện giờ thân phận của ngươi là thân vệ, nhiệm vụ chính là bảo vệ sự an toàn cho ta.”
Lâm Mẫn Thận nghe vậy, cảm xúc nhất thời xẹp xuống, cúi đầu nói một tiếng “Phải”. A Mạch không tiếp tục để ý tới anh ta, quay lại tiếp tục quan sát tình hình chiến đấu bên dưới. Nàng đoán Thường Ngọc Thanh sẽ không thèm làm khó vài tên lính Giang Bắc tới đòi chuộc ngựa nên sẽ không phái binh truy đuổi theo, chỉ vì không chịu được sự ầm ĩ, huyên náo của Vương Thất nên mới dựa vào ý tưởng cho kỵ binh thao luyện chiến thuật phục kích mà mai phục ở đây, không ngờ lại có truy binh đuổi theo thật mà lại còn đến hẳn một đội kỵ binh Bắc Mạc.
Mắt thấy đội kỵ binh Bắc Mạc càng ngày càng ít, A Mạch đang nghĩ miếng thịt béo này đúng là từ trên trời rơi xuống, bất chợt nghe thám báo báo tin rằng từ phía thành Võ An lại xuất hiện một đại đội kỵ binh quân Bắc Mạc. A Mạch không khỏi hơi nhíu mày lại, cân nhắc một chút rồi lệnh cho Trương Sĩ Cường dùng cờ ra tín hiệu truyền lệnh thu binh, toàn bộ kỵ binh liền nhanh chóng lui về thành.
Giờ phút này, bên cạnh tên giáo úy Bắc Mạc phụng mệnh truy kích chỉ còn lại chừng hơn chục người, anh ta vốn định bất chấp sống chết, điều chỉnh đội hình để liều chết xông ra lần cuối, ai ngờ kỵ binh quân Giang Bắc đang vây quanh bốn phía lại đột nhiên rút lui. Viên giáo úy này còn chưa biết đại đội kỵ binh của Thường Ngọc Thanh chỉ còn cách đó vài dặm, nên cho là quân Giang Bắc lại có gian kế gì đó, nhất thời không dám tùy ý manh động.
Kỵ binh quân Giang Bắc một lần nữa bày lại đội hình, ngay ngắn thần tốc rút lui về phía Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh đến chậm một bước, dẫn quân đuổi tới dưới thành Thanh Châu, trơ mắt nhìn kỵ binh quân Giang Bắc đâu vào đấy lui vào trong thành, sau đó lại không chút hoang mang thu hồi cầu treo bắc qua sông đào bảo vệ thành. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh xanh mét, một mình mang theo mấy kỵ binh phi ngựa như bay tới trước cầu treo, đưa mắt lạnh lùng nhìn về phía vọng lâu trên cổng thành Thanh Châu. Quả nhiên, chỉ một lúc sau, A Mạch một thân giáp trụ chỉnh tề xuất hiện phía trên vọng lâu. Hai người sau khi chia tay nhau ở phía tây thành Thái Hưng chưa từng gặp lại, giờ phút này người trên thành, kẻ dưới thành từ xa xa nhìn lại, cảm xúc trong lòng đều phức tạp đến vô cùng.
Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc thấp giọng hỏi A Mạc: “Đại nhân, mấy kỵ binh thát tử bắt được nên xử lý như thế nào?”
A Mạch khuôn mặt kiên nghị, trầm giọng nói: “Treo lên cổng thành, giết chết để cổ động sĩ khí!”
Trương Sinh nghe xong nhất thời có chút trợn tròn mắt, Vương Thất liền nói: “Ta đến đây, cho các ngươi nhìn ta!” Nói xong liền chỉ huy binh sĩ đem mấy kỵ binh Bắc Mạc bị thương té ngựa trói lại thật chặt, sau đó treo ngược lên trước cổng thành, rồi hướng về phía Thường Ngọc Thanh đứng ở dưới thành mà kêu lớn: “Thường tướng quân, ngài vừa dùng năm ngàn lượng bạc chuộc lại ngựa, lúc này lấy thêm chút bạc nữa đến chuộc người đi! Chúng ta buôn bán lớn một chút, mỗi người một ngàn lượng, ngài thấy thế nào?”
Thường Ngọc Thanh giận dữ mà cười, đừng nói trên người anh ta không mang theo nhiều ngân phiếu như vậy, mà kể cả có mang theo, nếu cứ như thế lấy bạc ra mà chuộc người về, ngày sau tất trở thành chuyện cười cho cả bốn nước!
Vương Thất thấy bên dưới thành Thường Ngọc Thanh không lên tiếng trả lời, liền dùng đao đặt lên phía trên sợi dây thừng đang treo ngược tù binh Bắc Mạc, lại hướng về phía dưới thành hô: “Ngài nên quyết định nhanh lên a, nếu không có tiền đến chuộc người, chúng ta cũng chẳng cần cố mua cố bán làm gì, ta sẽ chặt đứt mấy sợi dây thừng này, cũng giúp cho họ được thoải mái, ngài nói có đúng không? Cảm giác bị treo ngược lên thế này có lẽ cũng chẳng dễ chịu gì.”
Thường Ngọc Thanh không khỏi cười lạnh, cất giọng uy hiếp nói: “Ngươi dám giết một người, ta sẽ dùng một trăm tính mạng quân Giang Bắc của ngươi để đền mạng.”
Lời còn chưa dứt, trên tường thành, A Mạch đột nhiên rút bội đao, vung tay chém đứt sợi dây thừng, tên lính Bắc Mạc bị treo chân vào sợi dây thừng nhất thời kêu lên sợ hãi rồi rơi thẳng xuống, gần như ngay lập tức tiếng hét đó lập tức im bặt.
Tường thành cao mấy chục trượng, rơi xuống tất nhiên là tan xương nát thịt.
Mọi người nhất thời đều bị này cảnh tượng này làm cho chấn động, trên tường thành đột nhiên trở nên tĩnh lặng. Thanh âm A Mạch ở trên vọng lâu trở nên vang dội: “Quân Bắc Mạc của ngươi giết chết ngàn ngàn, hàng vạn dân chúng Giang Bắc ta! Chỉ vài người này đâu đủ để đền mạng!”
Dây thừng lại được nâng lên, lưỡi đao sắc bén hạ xuống, hơn mười tù binh Bắc Mạc bị thương lần lượt từ trên cổng thành rơi xuống, mỗi một âm thanh va đập nặng nề đều truyền thẳng vào tai Thường Ngọc Thanh, khiến hai mắt anh ta dường như có thể phun ra lửa. Anh ta nghiến chặt khớp hàm, ngẩng cao đầu, trợn mắt nhìn lên tường thành.
Phía trên tường thành A Mạch lại khẽ cười. Ánh nắng mùa thu sạch sẽ, nhẹ nhàng, khoan khoái từ trên bầu trời trút xuống, đọng lại trên đầu và trên người nàng, chiếu lên tua mũ bay phấp phới vô cùng diễm lệ, càng khiến cho nụ cười tươi của nàng trở nên sáng lạn đến vô cùng. Cuối cùng, nàng đã từ một nữ mật thám nhát gan, sợ chết, bước đi liêu xiêu, lảo đảo ở thành Dự Châu lột xác thành một vị tướng quân tàn nhẫn, sắt đá, A Mạch cuối cùng đã trở thành Mạch Tuệ…
Thường Ngọc Thanh cuối cùng nâng thương chỉ về hướng A Mạch, lạnh giọng nói: “Mạch Tuệ, ta nhất định sẽ san bằng Thanh Châu của ngươi!”
Nụ cười trên mặt A Mạch càng thêm chói mắt, nhẹ giọng trả lời Thường Ngọc Thanh: “Được, ta chờ ngươi!”
Thường Ngọc Thanh quay ngựa lui trở về phía trước đại quân, trường thương trong tay thu về sát ngang người, phía sau, kỵ binh bắt đầu biến hóa trận hình, dường như sẽ quyết chiến cùng quân Giang Bắc ở dưới thành. Trên tường thành, quân Giang Bắc lập tức cũng chuyển sang trạng thái chiến đấu. Trương Sinh thấy kỵ binh của Thường Ngọc Thanh cùng lắm cũng chỉ hơn ngàn người, trong lòng vừa động, liền tiến lên thấp giọng hỏi A Mạch: “Thường Ngọc Thanh cũng quá khinh xuất, dám mang theo chỉ ngần ấy người đến đây, nếu chúng ta lén phái kỵ binh chặn hậu đường lui của anh ta, nhất định sẽ…”
A Mạch khẽ lắc đầu: “Ngươi quá coi thường anh ta rồi.”
Trương Sinh thấy khó hiểu, còn chưa kịp hỏi, vừa lúc có thân binh từ trong thành chạy đến mang theo lời nhắn của Từ Tĩnh: Không được nóng vội ra khỏi thành nghênh chiến! A Mạch cười cười, xoay người dặn dò tên thân binh kia quay về trả lời với Từ Tĩnh rằng ông ta cứ yên tâm, trong lòng nàng đều hiểu rõ.
Dưới thành, quân Bắc Mạc mạo hiểm xông vào màn mưa tên mà cướp lại những thi thể của mấy tên lính đồng đội bị rơi xuống, sau đó lớn giọng khiêu chiến. Đám người Vương Thất không chịu nổi kích động, nghe được vài câu liền la hét đòi ra khỏi thành giết giặc, lại bị A Mạch lạnh giọng quát, chỉ truyền lệnh: “Mặc kệ bọn họ khiêu chiến thế nào cũng không được để ý, chỉ cần tiến vào trong tầm bắn thì lập tức bắn tên.”
Chỉ một chiêu này liền điều trị được quân Bắc Mạc, chiến thuật mắng chửi thay đổi cả mấy lần mà cũng không thể mắng cho cổng thành Thanh Châu động đậy, còn có kẻ mắng kích động đến nỗi tiến lại quá gần tường thành, kết quả là một loạt mũi tên nhọn từ trên tường thành bắn xuống, nếu không phải chân tay nhanh nhẹn mà lẩn thoát thì thể nào cũng bị tên nhọn gim tua tủa đầy người như lông nhím.
Thường Ngọc Thanh thấy A Mạch lâu không ứng chiến, trong lòng tuy không cam lòng nhưng cũng chẳng có cách nào, để bản thân hả giận liền giương cung bắn rơi quân kỳ Giang Bắc trên vọng lâu thành Thanh Châu, rồi hạ lệnh cho kỵ binh rút lui. Đại đội kỵ binh Bắc Mạc chậm rãi rút về phía sau, lần này hành quân thần tốc suốt đêm rồi lại vô công quay về, sĩ khí binh lính đều giảm sút, đội hình hành quân bắt đầu có chút tán loạn.
Vương Thất ở trên tường thành nhìn thấy vậy liền dậm chân, trong lòng cảm thấy tiếc hận cơ hội lần này thật khó mà có được, nếu có thể thừa dịp sĩ khí quân địch giảm sút mà phái binh ra khỏi thành truy kích, chắc chắn có khả năng thắng một trận lớn. Trương Sinh thấy A Mạch vẫn nhìn ra ngoài thành trầm mặc không nói gì, liền đưa tay giật giật áo choàng của Vương Thất. Vương Thất khó hiểu nhìn Trương Sinh, thấy anh ta hướng về phía mình khẽ lắc đầu, sau đó lại nhìn về phía A Mạch.
A Mạch lại đột nhiên nở nụ cười, quay đầu nhìn Vương Thất nói: “Không nhất định là ngươi đúng, Thường Ngọc Thanh cũng không có tiếp ứng ở phía sau, chẳng qua cũng chỉ hơn một ngàn kỵ binh, thật ra chúng ta cũng có thể nuốt trôi được, cứ thả anh ta đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”
A Mạch nói vậy, Vương Thất nhất thời có chút nghẹn họng nhìn trân trối, ngược lại không phải làm thế nào.
Trương Sinh hỏi A Mạch nói: “Đại nhân, ngươi nói Thường Ngọc Thanh lần này trở về có lập tức mang đại quân đến tấn công không?”
A Mạch suy nghĩ rồi lắc đầu nói: “Nếu là ta, ta sẽ không làm vậy.”
Trương Sinh và Vương Thất đều cảm thấy khó hiểu, nhưng A Mạch không muốn giải thích, chỉ thản nhiên cười cười, xoay người đi vào trong thành. Vương Thất nghi hoặc nhìn bóng dáng A Mạch càng lúc càng xa, không khỏi lên tiếng hỏi Trương Sinh: “Trương thống lĩnh, ngươi nói Thường Ngọc Thanh còn chờ cái gì?”
Cũng vấn đề này, Thường Ngọc Tông mang theo đại quân đuổi theo phía sau cũng đã hỏi. Sau khi Thường Ngọc Thanh giận dữ mang binh ra khỏi thành, Thường Ngọc Tông sợ anh ta xảy ra sơ xuất liền tập kết đại quân đuổi theo phía sau, khi còn cách Thanh Châu năm mươi dặm về phía tây thì gặp Thường Ngọc Thanh quay về từ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Tông nhìn thấy thi thể của mấy chục binh lính tử vong không khỏi cũng trở nên giận dữ, liền lập tức muốn dẫn quân tấn công Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh lại không cho phép, chỉ lệnh cho đại quân quay về Võ An. Thường Ngọc Tông nghe xong không hiểu chút nào, liền truy hỏi: “Thất ca! Chúng ta đã đợi ở Võ An hơn một tháng rồi, vì sao vẫn không tấn công Thanh Châu? Huynh rốt cuộc đang đợi cái gì?”
“Thời cơ.” Thường Ngọc Thanh thản nhiên đáp.
Thường Ngọc Tông khó hiểu nhìn đường huynh: “Vẫn đợi thời cơ nữa hay sao? Nhưng nếu tiếp tục đợi nữa, thì quân Giang Bắc đã đứng vững chân ở thành Thanh Châu rồi!”
Thường Ngọc Thanh lại không trả lời vấn đề này, mà có chút đăm chiêu hỏi: “Ngươi nói Thanh Châu và Ký Châu có thể có quan hệ như thế nào?”
Thường Ngọc Tông bị hỏi thì sửng sốt, Thường Ngọc Thanh cười cười, chuyển hướng đề tài lại nói tiếp: “Trong thành Thanh Châu có khoảng năm vạn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, chúng ta lại chỉ có ba vạn khinh kị binh, một vạn bộ binh, nếu muốn cắt đứt tuyến tiếp viện cho Thanh Châu thì rất dễ, nhưng nếu muốn công phá Thanh Châu thì cơ hồ hầu như không thể.”
Thường Ngọc Tông theo không kịp tư duy của Thường Ngọc Thanh, theo bản năng liền hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh bật cười, nói tiếp: “Có thể làm sao bây giờ? Chỉ có thể khiến cho quân Giang Bắc ra khỏi thành cùng chúng ta giao chiến mà thôi.”
Làm một tướng lĩnh kỵ binh, Thường Ngọc Tông tất nhiên biết nếu có thể khiến cho bộ binh quân Giang Bắc phải ra ngoài tác chiến với kỵ binh Bắc Mạc là tốt nhất, nhưng Mạch Tuệ, tướng quân quân Giang Bắc lại không phải là đồ ngốc, trái lại còn là kẻ vô cùng giảo hoạt, sao có thể cứ ngoan ngoãn mà ra khỏi thành? Trong lòng Thường Ngọc Tông đang nghi nghi hoặc hoặc, lại nghe Thường Ngọc Thanh kiên nhẫn nói: “Thanh Châu không thể so với Thái Hưng, thành Thái Hưng vốn có lương, chỉ cần quyết tâm tử thủ thì thủ đến vài năm cũng không phải việc khó, mà lương thảo trong thành Thanh Châu trước kia lại chủ yếu là do Ký Châu cung cấp.”
Thường Ngọc Tông cũng dần dần hiểu ra: “Thất ca, huynh muốn chờ Thanh Châu hết lương thảo rồi mới tấn công sao? Khiến cho bọn họ ra khỏi thành?”
Thường Ngọc Thanh lắc đầu nói: “Không cần hết lương thảo, chỉ cần đợi đến sang năm lúc gặt lúa mạch là được, quân Giang Bắc vì muốn bảo vệ an toàn cho khu vực sản xuất lương thực thì bắt buộc phải giao chiến với chúng ta.”
Thường Ngọc Tông không khỏi nhíu mày: “Như thế chẳng phải là chúng ta còn phải đợi đến mấy tháng nữa sao?”
Thường Ngọc Thanh nhìn Thường Ngọc Tông, đột nhiên nói: “Thật ra còn có một cách nữa, không cần phải phiền toái như thế.”
Thường Ngọc Tông trong lòng vui vẻ, vội vàng hỏi: “Cách gì?”
Khóe môi Thường Ngọc Thanh khẽ cong lên, cười nói: “Lùa dân chúng mọi rợ Nam Hạ công thành.”
Thường Ngọc Tông giật mình, lập tức liền hiểu ngay, do dự nói: “E là Trần Khởi không đồng ý, anh ta vốn là người mua danh chuộc tiếng, Thất ca chỉ tàn sát một thành Hán Bảo nhỏ bé mà còn chọc cho anh ta lên án này nọ, nếu lần này lại dùng dân chúng mọi rợ Nam Hạ công thành, không biết ở trước mặt hoàng thượng anh ta còn gièm pha những gì. Chỉ vì một thành Thanh Châu mà hủy hoại danh dự và tiền đồ của Thất ca, thật không đáng.”
Thường Ngọc Thanh cũng là cười nhạo nói: “Thân là võ tướng lại còn muốn nói chuyện danh dự thì thật buồn cười! Chỉ có điều lần này ta không muốn dùng dân chúng công thành không phải vì sợ Trần Khởi, mà vì ta muốn làm cho nàng Mạch Tuệ thua tâm phục khẩu phục!”
chương 113
MÊ MAN
Trong thành Thanh Châu, từ lúc A Mạch từ trên tường thành xuống vẫn có chút trầm mặc ít lời. Trở lại trong thành thủ, tả phó tướng quân Tiết Vũ đã đi Ký Châu xin lương thảo, chỉ có hữu phó tướng quân Mạc Hải còn ở lại phòng nghị sự chờ A Mạch phụng mệnh. Trước đó, anh ta nghe từ miệng thân binh đã biết được tình hình trên tường thành, trong lòng rất cao hứng, nghe nói A Mạch trở về liền đem theo niềm vui rạo rực ra cửa đón nàng, không ngờ lại thấy trên khuôn mặt A Mạch chẳng có đến nửa phần vui sướng. Trong lòng Mạc Hải thấy lạ, nhịn không được lén giữ Trương Sĩ Cường đi sau A Mạch hỏi: “Đại nhân làm sao vậy?”
Trương Sĩ Cường âm thầm lắc lắc đầu. A Mạch đối với động tác nhỏ này của Mạc Hải và Trương Sĩ Cường coi như không thấy, chỉ đơn giản dặn dò vắn tắt mấy việc quân vụ trọng yếu rồi giải tán quân nghị, sau đó một mình ngồi trong phòng nghị sự ngẩn cả người. Trương Sĩ Cường nhận ra tâm tình của nàng có chút bất thường, liền mượn cớ đi lấy nước rồi ra khỏi phòng nghị sự, lén phái thân binh đi mời Từ Tĩnh đến, còn tự mình lại canh giữ ở ngoài cửa.
Một lát sau, Từ Tĩnh chắp tay sau lưng, bước chân thư thả, không vội cũng không chậm từ xa đi đến. Trương Sĩ Cường nhìn thấy, vội vàng tiến lên đón Từ Tĩnh, nhỏ giọng nói: “Tiên sinh mau qua xem đi, ta thấy đại nhân có chút khác thường.”
Từ Tĩnh lại vẫn không vội, vừa bị Trương Sĩ Cường lôi kéo, vừa vuốt râu thì thầm: “Không vội, không vội, với tính tình đại nhân nhà ngươi, sẽ không giữ chuyện gì luẩn quẩn trong lòng đâu.”
Nhưng Trương Sĩ Cường không cảm thấy thế, anh ta đi theo A Mạch đã hơn hai năm, nhưng chưa bao giờ thấy A Mạch có diện mạo như thế. Trương Sĩ Cường cầm tay Từ Tĩnh kéo đến cửa, rồi thay ông ta kéo rèm, hướng vào trong phòng bẩm báo: “Đại nhân, Từ tiên sinh đến.”
A Mạch nghe vậy liền ngẩng đầu, thấy Từ Tĩnh từ bên ngoài tiến vào, liền đứng dậy, cung kính gọi: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh gật gật đầu, tùy ý ngồi đối diện với A Mạch, nghiêng đầu quan sát A Mạch, đột nhiên hỏi: “Nguyên nhân là vì mấy tù binh Bắc Mạc kia phải không?”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức hiểu ý của Từ Tĩnh, cũng không vội trả lời ngay câu hỏi của anh ta, mà quay đầu sai Trương Sĩ Cường: “Đi pha cho tiên sinh chén trà.”
Trương Sĩ Cường thưa “Vâng”, rồi lui ra ngoài.
A Mạch lúc này mới lại nhìn về phía Từ Tĩnh, cân nhắc một chút rồi nói: “Không phải.”
“A?” Từ Tĩnh không khỏi kỳ quái, mở to hai mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Vậy thì vì chuyện gì?”
A Mạch đáp: “Tiên sinh cũng biết, bản thân mình tòng quân đã giết không ít người, sẽ không vì giết thêm vài tù nhân mà biến thành người khác. Chỉ là khi đi từ trên tường thành xuống, ta đột nhiên nghĩ tới một cách đối phó với việc Thường Ngọc Thanh dùng dân chúng công thành.”
Từ Tĩnh cảm thấy hứng thú, nhướn mày hỏi: “Biện pháp gì?”
A Mạch thong dong đáp: “Chính là trước thì hóa trang thành thát tử tản ra lẫn với dân chúng ngoài thành, sau đó xuất binh ra khỏi thành ép xông trận, khiến cho dân chúng phải quay về, ta lại dùng kỵ binh vòng ra sau lưng địch đánh lén… Cuối cùng, sau trận chiến lại làm lễ tế dân chúng, giả bộ cắt tóc hoặc tự trừng phạt mình, nhân tiện kích động lòng căm thù thát tử của mọi người dâng cao, rồi quay lại trắng trợn khen thưởng bách tính…”
Từ Tĩnh nghe rất chăm chú, vuốt râu khẽ gật đầu: “Không sai, cách này quả thật không sai.”
“Đúng vậy, ta cũng hiểu là cách này không sai. Chỉ đột nhiên lại muốn biết một điều, đó là từ khi nào thì ta bắt đầu không thèm để ý đến tính mạng của người khác như thế? Khi chém đứt sợi dây thừng kia không một chút do dự, khi nghĩ cách phá kế lùa dân công thành cũng không chút bận tâm đến sự sống chết của dân chúng bị ép quay về. Tiên sinh, ta đột nhiên cảm thấy sợ hãi,” A Mạch ngẩng đầu lên nhìn Từ Tĩnh, trong con ngươi trong suốt không hoàn toàn là sự kiên định như mọi ngày, mà lộ ra chút mờ mịt: “Ta từ khi nào thì biến thành kẻ như thế này? Về sau ta có thể còn biến thành dạng gì? Có thành một kẻ mà để đạt được mục đích sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào không?”
Từ Tĩnh bị A Mạch hỏi thì nghẹn lời, im lặng một lát rồi mới trầm giọng hỏi: “A Mạch, mục đích mà ngươi nhất định muốn đạt được là gì?”
Nhất định phải đạt được mục đích gì? Mục đích này đã xoay chuyển hàng trăm ngàn lần trong đầu A Mạch, A Mạch liền thốt lên: “Bảo vệ vinh quang của phụ thân, đuổi thát tử, khôi phục non sông.”
Từ Tĩnh nghe xong, chậm rãi lắc đầu: “Mục đích này sợ là không thể chống đỡ cho ngươi đi đến cuối cùng.”
Trong lòng A Mạch khó hiểu, không khỏi hỏi lại: “Vì sao?”
Từ Tĩnh lại chỉ cười cười, nói: “Loại chuyện này người khác không thể giúp được, chỉ có thể chờ ngươi sau này tự mình nghĩ thông suốt thôi, vả lại trước cứ như vậy mà tiến lên phía trước đi, chờ khi gặp được lối rẽ, tự mình sẽ biết phải đi về hướng nào.”
A Mạch là người thông minh, chỉ vừa nghe Từ Tĩnh trả lời liền biết ông ta sẽ không nói tiếp, hơn nữa, giờ phút này trong lòng mặc dù vẫn còn nhiều điều chưa rõ, nhưng so với vừa rồi đã khá hơn rất nhiều, lập tức liền đứng dậy chính thức vái một vái cám tạ Từ Tĩnh: “A Mạch đa tạ tiên sinh chỉ điểm bến mê.”
Từ Tĩnh ngồi ngay ngắn, không chút khách khí nhận lễ của A Mạch, sau đó mới đột nhiên nhớ đến Trương Sĩ Cường liền kêu lên: “Trương Sĩ Cường đâu? Anh ta đi đâu pha trà cho lão phu vậy? Chẳng lẽ giờ mới nhóm lửa đun nước?”
A Mạch cười cười, đi tới trước cửa cao giọng gọi Trương Sĩ Cường, lời còn chưa dứt, Trương Sĩ Cường liền đem theo một bình trà mới từ ngoài cửa tiến vào, trên mặt mang theo nụ cười lấy lòng, cười ha ha với Từ Tĩnh nói: “Tiên sinh, ngài thử thưởng thức loại trà này xem thế nào, Lý Thiếu Hướng vơ vét được từ một hộ phú thương ở Thái Hưng đấy, vẫn cất giấu không cho ai uống, hôm nay mới đồng ý để cho ta đem đến đây.”
Trương Sĩ Cường dùng nước nóng rót vào chén trà đưa cho Từ Tĩnh, cẩn thận nâng đến trước mặt Từ Tĩnh. Từ Tĩnh thuận tay tiếp nhận, thổi thổi rồi uống một ngụm, giương mắt lên liền bắt gặp Trương Sĩ Cường vẫn đang dùng cặp mắt tha thiết quan sát mình, thuận miệng khen: “Khà, không sai, đúng là loại dùng để ngâm vào nước sôi.” Thấy trên mặt Trương Sĩ Cường khó nén khỏi sự thất vọng, nhịn không được cười nhạo một tiếng nói: “Thành Thái Hưng bị thát tử vây khốn hai năm, trong thành làm gì có cái gọi là trà ngon? Có thứ ngâm vào nước để uống là tốt rồi.”
Trương Sĩ Cường tức giận nói: “Lý Thiếu Hướng đúng là cái đồ lừa đảo, còn gạt ta nói là loại trà tốt nhất, cái gì mà ‘Minh Tiền, Minh Hậu’, nghe xong ta còn cảm thấy loạn cả đầu!”
Lời này vừa nói ra, ngay cả A Mạch cũng nhịn không nhịn được mà bật cười. Sắc giận trên mặt Trương Sĩ Cường càng đậm, quyết đi tìm Lý Thiếu Hướng để tính sổ. A Mạch vội gọi anh ta dừng lại, khuyên nhủ: “Tính tình Lý Thiếu Hướng hay giấu diếm nọ kia, ngươi thấy anh ta có cái gì là không giấu không? Cũng chưa chắc cố ý nói gạt ngươi đâu.”
Từ Tĩnh đâu có thật sự phẩm trà, liền nói tiếp: “Anh ta đúng là không lừa ngươi, trà này đúng là Minh Tiền, chẳng qua không biết là năm Minh Tiền nào.”
A Mạch nhịn cười, cúi đầu uống ngụm trà, rồi buông chén xuống, nghiêm sắc mặt hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngươi nói Tiếu Dực có cho Tiết Vũ lương thảo không?”
Trương Sĩ Cường thấy A Mạch cùng Từ Tĩnh bàn chuyện quân sự, không cần phân phó liền nhẹ nhàng lui đi ra ngoài, thuận tay khép cửa phòng lại.
Từ Tĩnh cũng thu hồi vẻ mặt trêu đùa vừa rồi, cụp mắt suy nghĩ một lát, chậm rãi lắc đầu nói: “Ta thấy Tiếu Dực chưa chắc sẽ nể mặt cháu ngoại là Tiết Vũ đâu.”
A Mạch nói: “Nhưng Thương soái đã đáp ứng sẽ giúp ta nắm bắt lấy Ký Châu.”
Từ Tĩnh cười nhạt, nói: “Phụ thân của Thương soái là Thương Duy vừa nắm được binh quyền ở Vân Tây, giờ chính là thời khắc quan trọng, tuyệt không thể khiến hoàng đế nảy sinh lòng nghi ngờ. Nếu ngươi là Thương soái, một bên là Giang Nam – nửa giang sơn, một bên là một góc Giang Bắc, ngươi sẽ chọn cái nào?”
Đó là một vấn đề căn bản không cần phải lựa chọn, Thương Dịch Chi một khi đã nguyện ý đến làm sứ thần nghị hòa thì đã tính bỏ rơi Giang Bắc rồi, chẳng qua nhất thời nghe A Mạch nói liền động tâm, lúc đó mới không đặt việc làm tổn hại lợi ích lớn của mình lên làm điều kiện tiên quyết mà để nàng đông tiến Thanh Châu thuận lợi. A Mạch sau một lúc im lặng mới hỏi: “Chúng ta phải làm sao bây giờ? Lương thảo trong thành chỉ miễn cưỡng chống đỡ được đến vụ gặt lúa mạch sang năm, chỉ có điều hiện giờ Thường Ngọc Thanh có thể áp chế tức giận mà tạm thời chưa công thành, e là cũng muốn đợi cho đến lúc đó.”
Từ Tĩnh khẽ gật đầu, vuốt râu nói: “Không sai, nếu trong thành hết lương, thành Thanh Châu dù khó công cũng không thể thủ được.”
Điều khiến A Mạch lo lắng cũng chính là chuyện này, hai quân đối đầu, khó nhất không phải là không thể biết được bước tiếp theo địch nhân sẽ hành động ra sao, mà là ngươi rõ ràng có thể đoán được ý đồ của anh ta nhưng lại không thể nghĩ ra đối sách ứng phó. Từ Tĩnh và A Mạch nhất thời đều không nói gì, A Mạch suy nghĩ một lát cũng không nghĩ ra được cách gì, liền đứng dậy nói: “Trước cứ như vậy đã, dù sao đợi cho đến vụ gặt sang năm vẫn còn non nửa năm nữa, trong thời gian đó có lẽ sẽ có chuyển biến gì đó không biết chừng. Hơn nữa, Tiết Vũ tốt xấu gì cũng là cháu ngoại của Tiếu Dực, với mối quan hệ này, Tiếu Dực có lẽ cũng chưa đến nỗi chẳng biết xấu hổ mà để cho Tiết Vũ về tay không, ít nhiều gì chắc cũng cho một ít.”
Nói xong, liền gọi Trương Sĩ Cường vào giúp mình cởi áo giáp, sau đó vừa cười vừa nhìn về phía Từ Tĩnh, nói: “Cũng không còn sớm nữa, ta cùng tiên sinh ăn cơm trước đã, hôm nay Lý Thiếu Hướng ở ngoài thành kiếm được mấy món ăn thôn quê, nói là muốn làm cho tiên sinh nhắm rượu.”
Từ Tĩnh nghe vậy chỉ vuốt râu cười, cũng không chối từ. Vật tư trong thành vốn có hạn, A Mạch nêu gương tốt nên ăn uống giống như binh lính, vì vậy các chư tướng cũng đều dùng thực phẩm thô ráp. Từ Tĩnh đến sau, A Mạch lo lắng cho sức khỏe của ông ta nên cố ý lệnh cho Lý Thiếu Hướng một ngày ba bữa đều phải dùng lương thực tinh chế để chế biến đồ ăn cho Từ Tĩnh, mọi ngày, thức ăn mặn cũng không phải những thứ thông thường.
A Mạch sai Trương Sĩ Cường xuống phòng bếp hỏi đồ ăn, còn mình lại cùng Từ Tĩnh nói chuyện phiếm về phong thổ ở hai châu Thanh, Ký. Một lát sau, hai người đang nói tới mấy món ăn dân dã nổi tiếng ở núi Thái Hành, ngoài phòng bỗng có mùi thơm ngào ngạt bay tới, khiến hai người đều dừng câu chuyện, nhất tề quay đầu nhìn về phía cửa.
Rèm cửa bị Trương Sĩ Cường kéo cao lên, Lý Thiếu Hướng bên hông mặc tạp dề bằng vải thô, bưng một cái nồi sắt lớn bước nhanh vào, miệng còn liên thanh kêu lên: “Mau tránh ra một chút, mau tránh ra một chút, nóng lắm!”
Nhìn thấy đường đường quan quân nhu quân Giang Bắc lại hạ mình làm đầu bếp, A Mạch cùng Từ Tĩnh bất giác đều có chút trố mắt, trong đầu không hẹn mà cùng hiện lên một câu: Chồn chúc tết gà, tất không có hảo tâm.
Lý Thiếu Hướng đem nồi sắt đặt lên trên bàn, nóng hôi hổi, lập tức liền chiếm mất quá nửa diện tích mặt bàn. Lý Thiếu Hướng hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải, vừa lòng ngắm nghía cái nồi một phen, quay đầu thấy A Mạch và Từ Tĩnh đều vẫn ngồi ngây ra đó, vội vàng nhét vào tay mỗi người một đôi đũa, sau đó rảnh rang bắt chuyện: “Đại nhân, Từ tiên sinh, đừng khách khí a, nếm thử đi, đây chính là bí quyết gia truyền của Lý gia chúng ta đấy.”
A Mạch nhìn vẻ mặt mong đợi của Lý Thiếu Hướng, không tiện từ chối ý tốt của anh ta, đành mời Từ Tĩnh hạ đũa trước, lúc này mới đưa đũa gắp một miếng thịt bỏ vào trong miệng tinh tế nếm thử, không đợi nàng kịp nuốt trôi miếng thịt, quả nhiên nghe thấy Lý Thiếu Hướng mở miệng nói: “Đại nhân, ta có việc muốn cùng đại nhân thương lượng.”
Trong lòng A Mạch vốn vẫn đề phòng Lý Thiếu Hướng, nghe anh ta mở miệng, không nhịn được mà toàn thân phát run, ngẩng đầu liếc mắt nhìn Từ Tĩnh đang lẳng lặng ăn cơm, bất động thanh sắc hỏi Lý Thiếu Hướng: “Chuyện gì?”
chương 114
MƯU ĐỒ
Lý Thiếu Hướng ghé mông ngồi xuống ghế, nở nụ cười lấy lòng nói: “Chuyện là như vầy, Thái Hành Sơn có không ít lợn rừng, dê núi và các loại thú hoang khác, dù sao hiện giờ tạm thời cũng chưa đánh trận, binh lính của doanh trại cung nỏ cũng nhàn rỗi, theo ta thấy không bằng cho họ lên núi đi săn thú, giờ lại đúng thời điểm thú rừng rất béo và mập mạp…”
A Mạch nghe nhưng không nói gì, thầm nghĩ hay thật, ta chỉ vừa mới ăn của ngươi một miếng thịt, trong khi cách nơi này hơn hai trăm dặm còn có đại quân của Thường Ngọc Thanh nhòm ngó, ngươi đã nghĩ đến chuyện đem binh lính mấy doanh cung nỏ của ta kéo ra ngoài giúp ngươi đi săn thú. Nếu ta ăn hết cả nồi thịt này, có phải là ngươi sẽ đòi toàn bộ binh lính quân Giang Bắc của ta lên núi Thái Hành đi kiếm lương thực cho ngươi không?
Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì phản ứng gì, trong lòng cũng dần dần cảm thấy chột dạ, nhưng vẫn không chịu từ bỏ ý định, xoa xoa hai tay vào nhau tiếp tục du thuyết(1): “Những tấm bia chết trên giáo trường đâu thể so được với những tấm bia sống trong núi, thứ nhất, đại nhân có thể cải thiện bữa ăn cho mọi người, thứ hai nếu săn được nhiều thú hoang còn có thể sấy khô để làm lương thực dự trữ, làm thực phẩm cho lễ mừng năm mới cũng rất tốt.”
A Mạch nhíu mày ngắt lời Lý Thiếu Hướng: “Ngươi có ý tốt nhưng cách này không thể làm được. Thát tử ở Võ An đối với chúng ta như hổ rình mồi, cách nơi này cùng lắm chỉ hơn hai trăm dặm, thiết kỵ chỉ cần một ngày một đêm là có thể phi ngựa đến đây, sao có thể đem các doanh cung nỏ phái lên núi săn thú được! Hơn nữa, ta đã tính đem các doanh cung nỏ sát nhập vào bộ binh doanh, nên lại càng không thể điều động riêng bọn họ ra ngoài được.”
Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói vậy thì có chút ngượng ngùng, xoa xoa tay nói không ra lời. A Mạch không muốn anh ta sượng mặt, suy nghĩ một lát lại nói thêm: “Nhưng quả thật binh lính thao luyện cũng rất vất vả, cũng nên thường xuyên cải thiện bữa ăn cho họ. Như vậy đi, ta gọi Vương Thất trước lấy những người già yếu trong bộ binh ra cho ngươi dùng.”
Lý Thiếu Hướng thầm nghĩ ‘ngươi cho ta một đám người già yếu, bọn họ còn có khả năng lên núi săn thú ư!’ Song anh ta cũng là người khéo đưa đẩy, mặc dù trong lòng không vui cũng sẽ không biểu lộ ra mặt, chỉ nhìn A Mạch cười gượng hai tiếng.
A Mạch biết Lý Thiếu Hướng không vui, lập tức cười cười, còn nói thêm: “Ngươi đừng xem thường đám người này, cho dù không thể đi săn thú cho ngươi, thì cũng có thể giúp ngươi nuôi gà nuôi lợn cũng rất tốt. Trước kia ta từng nghe có người nói qua vài cách nuôi gà rất hay, đó là đem gà mái chia ra nuôi nhốt trong những lồng sắt nhỏ, mỗi ngày đều cho nó ăn nhưng không cho vận động nhiều, nó sẽ lớn rất nhanh, một con gà con chỉ cần hơn một tháng là thành gà lớn, thịt cũng rất nhiều.”
Thật ra Lý Thiếu Hướng chưa từng nghe thấy cách nuôi gà nào như thế này, cũng không biết có thể nuôi một con gà con trong vòng hơn một tháng là có thể thành gà lớn hay không, nhưng anh ta vừa nghe A Mạch nói đến mỗi ngày chỉ cho gà ăn mà không cho nó vận động, trên mặt lập tức xuất hiện một nụ cười rất tươi, đôi mắt một mí chỉ lộ ra khe hở hẹp nhìn A Mạch cười mà không nói gì.
A Mạch nhìn thế nào cũng cảm thấy nụ cười tươi này có chút quái dị.
Từ Tĩnh ngồi đối diện vốn vẫn yên lặng ăn cơm, đột nhiên ngẩng đầu lên nói với A Mạch: “Cách này thật ra rất hay, chỉ có điều lương thực cho người ăn còn không có thì ngươi bảo anh ta kiếm đâu ra lương thực cho gà ăn?”
Nàng chẳng qua là nhân lúc nghe Lý Thiếu Hướng nói đến chuyện săn thú, mới nhớ đến trước kia mẫu thân từng thuận miệng nói qua cách nuôi gà như vậy, hiện giờ bị Từ Tĩnh hỏi, không khỏi có chút ngượng ngùng. Nụ cười trên mặt Lý Thiếu Hướng lại càng tươi hơn, còn tự tay cầm đũa gắp một cái chân thỏ hoang thả vào trong bát của Từ Tĩnh mời mọc: “Từ tiên sinh, ngài nếm thử cái này đi, xem hương vị thế nào?”
A Mạch nhìn mà bực mình, nhưng cũng không nói thêm nữa, chỉ bảo: “Không nói chuyện này nữa, chờ Tiết Vũ về xem tình hình thế nào rồi sẽ nói sau.”
Nói xong, cũng không khách khí mà thò đũa vào nồi gắp một miếng thịt gà lớn bỏ vào bát.
Mùng sáu tháng mười một, Tiết Vũ từ Ký Châu tay không trở về. Nghe nói Tiếu Dực vốn cho anh ta mấy xe lương thực, Tiếu phu nhân còn cho thê tử của cháu trai ngoại một xe son phấn và tơ lụa, nhưng Tiết Vũ không lấy bất cứ thứ gì, xoay người trở về Thanh Châu.
Trong lòng A Mạch đã sớm đoán được điều này, lựa lời an ủi Tiết Vũ vài câu, rồi bảo anh ta về trước nghỉ ngơi, nhưng Lý Thiếu Hướng thì lại vô cùng tiếc nuối hơn chục cái xe kia, cứ nhắc mãi rằng: “Con ruồi tuy nhỏ nhưng cũng là thịt a, còn hơn là chẳng có gì a.”
Đối với việc này, Vương Thất vốn tán thành với cách xử sự của Tiết Vũ, giờ nghe Lý Thiếu Hướng nói thế không khỏi liếc xéo anh ta một cái, cả giận nói: “Ngươi không sợ ăn thịt ruồi bọ sẽ mắc ói sao!”
Lý Thiếu Hướng xoa xoa hai tay, bất đắc dĩ nói: “Ngươi mà thấy tình trạng của đám lính thì mới biết nỗi khó xử của ta.”
Vì chuyện lương thảo mà lo lắng không chỉ có một mình Lý Thiếu Hướng mà còn có chủ tướng A Mạch của quân Giang Bắc. Tuy đã sớm cùng Từ Tĩnh nhận định rằng Tiếu Dực khó có khả năng cho lương thực, nhưng trong lòng dù sao vẫn có chút hy vọng, hiện giờ chút hy vọng ấy đã tan thành mây khói, ngay cả A Mạch cũng khó tránh khỏi có chút sa sút tinh thần. Nhưng trước mặt Tiết Vũ và chư tướng quân Giang Bắc, nàng không dám mảy may biểu lộ, chỉ khi ở trước mặt Từ Tĩnh mới dám để lộ ra vẻ mặt đau khổ.
Từ Tĩnh vẫn uống loại trà Long Tĩnh không biết từ năm Minh Tiền thứ bao nhiêu mà Trương Sĩ Cường lấy được từ chỗ của Lý Thiếu Hướng, thần thái có chút khoan thai, hoàn toàn không thấy khẩn trương lo lắng, chỉ cười nói: “Ngươi lo cái gì? Chẳng phải trước khi Tiết Vũ đi ngươi đã dặn dò anh ta cách đối phó với Tiếu Dực rất rõ rồi hay sao? Quân Giang Bắc ở Thanh Châu không trụ nổi nữa, chỉ có thể mang theo dân chúng đến tìm ông ta để nương tựa thôi!”
A Mạch cười khổ nói: “Đó chẳng qua chỉ để dọa Tiếu Dực mà thôi, chẳng lẽ có thể thực sự đến chỗ ông ta để tìm nơi nương tựa sao? Ông ta cũng đâu để bị chúng ta uy hiếp.”
Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe tinh quang, nghiêm trang nói: “Sao lại là dọa? Trong thành của ngươi đã hết lương, không chạy về hướng đông thì chạy đi đâu? Chẳng lẽ lại ra khỏi thành quyết chiến cùng Thường Ngọc Thanh? Thế chẳng phải chính là rơi vào quỷ kế của Thường Ngọc Thanh thì là gì!”
A Mạch nhận ra trong lời nói của Từ Tĩnh còn có ý khác, không khỏi khẽ nghiêng người về trước nhìn Từ Tĩnh chằm chằm, hỏi: “Tiên sinh có kế sách đối phó với Thường Ngọc Thanh chăng?”
Từ Tĩnh vuốt râu khẽ cười hỏi: “Cái này còn phải xem ngươi có bỏ được thành Thanh Châu hay không.”
A Mạch hơi hơi mím môi, sau khi thoáng cân nhắc liền nói với Từ Tĩnh: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”
Từ Tĩnh lại hỏi A Mạch: “Nhưng ngươi có dám bỏ Thanh Châu mà đi không?”
A Mạch yên lặng nhìn Từ Tĩnh một lát, phút chốc nở nụ cười, đáp: “Đánh không lại, bỏ thành đào tẩu chẳng qua cũng là chuyện thường tình của nhà binh. Việc này ta không phải là kẻ đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng làm vậy, tiên sinh nói có phải không?”
Từ Tĩnh nghe vậy vỗ tay cười to: “Không sai, nếu đánh không lại, cũng chỉ có thể bỏ chạy, dù sao thành là vật chết, người mới là vật sống!”
A Mạch đợi Từ Tĩnh ngưng cười, lại trầm giọng hỏi: “Tiếp đó thì sao?”
“Vào vụ gặt lúa mạch, trước khi Thường Ngọc Thanh đến tấn công, quân ta mượn cớ thát tử sẽ tàn sát thành mà gây rối loạn lòng dân trong thành, lưu chút tinh binh che dấu trong dân chúng, sau đó bỏ ngỏ việc phòng thủ thành Thanh Châu,” Từ Tĩnh đưa tay di chuyển đến trạm kế tiếp trên sa bàn, chỉ vào địa hình trên sa bàn nói: “Mai phục hai vạn tinh binh tại bờ sông Tử Nha phía bắc thành Thanh Châu, còn lại thì ẩn tại khe núi Phi Long. Nếu Thường Ngọc Thanh vào thành, thì nhanh chóng vây thành, bộ binh phối hợp với loạn dân toàn lực công thành, tiến hành chiến đấu trên đường phố, kỵ binh phân tán ở phía tây và phía nam thành, hai phía đánh du kích cắt đứt đường lui của Thường Ngọc Thanh, trận chiến này chắc thắng. Nếu Thường Ngọc Thanh trú quân ngoài thành không chịu vào…”
A Mạch nhanh chóng tính toán trong đâu, theo bản năng lại hỏi tiếp: “Chúng ta sẽ làm như thế nào?”
Từ Tĩnh nheo mắt, trầm giọng nói: “Chúng ta cũng không để ý tới loạn dân trong thành, cho năm vạn đại quân nấp trong khe núi phía đông thành cấp tốc rút rui về phía sau, dụ Thường Ngọc Thanh lọt vào khe núi Phi Long, hai vạn tinh binh mai phục bên bờ sông Tử Nha đánh tới, trận này thắng nhỏ, nhưng cũng phải chém được hơn vạn địch; Thát tử thất bại mà bỏ chạy,“Năm vạn đại quân” giữ vững, nhưng hai vạn tinh binh không đủ sức vây kín nên để trống phía tây nam, khiến cho địch phá vòng vây chạy về phía đó, lại dùng kỵ binh chặn đánh ở phía tây nam, tất đại thắng.”
A Mạch nghe xong trầm mặc không nói gì, chỉ dùng ngón tay gõ khẽ lên sa bàn nhìn đến thất thần. Từ Tĩnh biết nàng tất có chủ kiến, cho nên cũng không lên tiếng quấy rầy, chỉ ngồi xuống bên bàn lẳng lặng uống trà. A Mạch yên lặng nhìn một lát, lông mày khi thì nhăn lại, khi thì giãn ra, mọi cách tính kế đều nhất nhất xoay chuyển, cân nhắc trong đầu, lúc này mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Nếu người khác dẫn quân thì tốt, nhưng nếu là Thường Ngọc Thanh e là sẽ không dễ dàng rơi vào bẫy như thế.”
Từ Tĩnh khẽ cười nói: “Nếu anh ta vẫn án binh bất động, kỵ binh bên ta thừa dịp đêm xuống mà xông đến doanh trại, từng bước vây sát, trận chiến này vẫn thắng.”
A Mạch chậm rãi lắc đầu: “Không phải ở đây, mà là ở đây.” Nàng đưa tay chỉ vào khe núi Phi Long, nói: “Với tính cách của Thường Ngọc Thanh, anh ta sẽ không dễ gì bị chúng ta dụ dỗ xâm nhập sâu vào khe núi Phi Long, mà trước khi chúng ta lui vào trong khe núi Phi Long sẽ phái kỵ binh vòng lại đây cắt đứt đường lui của quân ta, khi đó, trái lại là quân ta hai mặt thụ địch.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, đưa mắt thận trọng nhìn sa bàn, lại ngưng thần suy nghĩ.
A Mạch lại nói tiếp: “Còn nữa, theo binh pháp, khi bộ binh cùng thiết kỵ thát tử đối trận thì rất ít khi giành được thắng lợi, điều đó rất dễ khiến quân sĩ của ta nảy sinh tâm lý sợ hãi, khi còn giữ thế phòng thủ thì không sao, nhưng một khi chuyển sang thế tấn công lại thành họa lớn.”
Từ Tĩnh vuốt râu gật đầu, rất tán thành với ý kiến của A Mạch, nhưng nếu muốn tìm bộ binh áp chế trực diện thiết kỵ của thát tử lại vô cùng khó khăn. Nam Hạ thiếu chiến mã, căn bản không thể lập thành một lực lượng lớn để có thể cùng thiết kỵ thát tử đối đầu trực diện. Mà trận địa bộ binh nếu bị kỵ binh đánh sâu vào sẽ rất dễ mất trận, cho nên về cơ bản là không thể cùng kỵ binh dã chiến, nhất định phải dựa vào công sự phòng ngự hoặc là thành trì để cùng kỵ binh đối kháng.
A Mạch suy nghĩ một lát, nói: “Trừ phi ở thành đông chúng ta không chỉ dụ binh mà còn có thể có cùng Thường Ngọc Thanh trực tiếp ganh đua thực lực!” Nói đến đây, một luồng suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu A Mạch, nàng đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, ngữ khí đột nhiên thay đổi, đè nén một tia hưng phấn hỏi: “Tiên sinh, nếu đã đánh cược, chúng ta có thể đánh cược lớn hơn một chút được không?”
Từ Tĩnh nghe xong khẽ rùng mình, hỏi: “Đánh cược như thế nào?”
A Mạch đáp: “Ta đã từng xem qua đâu đó một loại chiến pháp, thật ra có thể khắc chế kỵ binh thát tử, chỉ có điều chưa từng nghe qua có người sử dụng bao giờ, lần này chúng ta thử nghiệm một lần xem sao. Nếu thắng, quân Giang Bắc sẽ thuận thế đông tiến, chiếm cứ Ký, Lỗ, lập uy tứ quốc, ở Giang Bắc cùng thát tử phân tranh.”
Đôi mắt nhỏ của Từ Tĩnh chớp chớp, hỏi: “Nếu bại thì sao?”
A Mạch cười cười: “Nếu bại, chúng ta rút rui vào khe núi Phi Long cũng chưa muộn.”
Một chiến pháp mới, không biết uy lực lớn đến đâu, nhưng nếu chưa từng được thực nghiệm qua chiến đấu, kết quả cuối cùng vẫn rất khó liệu. Trong lòng Từ Tĩnh có chút nghi ngờ, trầm ngâm một lát sau mới hỏi: “Chiến pháp gì?”
————————-
Chú thích:
1- du thuyết: thời xưa gọi các chính khách đi đến các nước khác thuyết khách là du thuyết, dựa vào tài ăn nói của mình thuyết phục vua các nước áp dụng chủ trương của mình.
chương 115
LỄ VẬT MỪNG NĂM MỚI
A Mạch lúc này vẫn dấu đi nút thắt quan trọng, cười nói: “Tiên sinh, là chiến pháp gì tạm thời ta không nói vội, ta chỉ cần hai ngàn kỵ binh, một vạn bộ binh. Còn lại vẫn dựa theo kế hoạch ban đầu mà làm. Nếu ta thất bại, sẽ trốn vào khe núi Phi Long, không chừng còn có thể dụ được Thường Ngọc Thanh truy kích đến đó.”
Từ Tĩnh: “Cánh quân mới này do ai thống lĩnh?”
Trong đầu A Mạch thoáng hiện lên một người, lập tức đáp: “Hắc Diện!”
Hắc Diện, sau chính biến ở thành Thái Hưng, A Mạch dẫn quân tiến về Thanh Châu, đã lệnh cho anh ta trở về núi Ô Lan hộ tống Từ Tĩnh đến đây. Khi anh ta đến thì quân Giang Bắc đã điều chỉnh xong, vẫn chưa bố trí anh ta thực sự giữ chức vụ gì, bởi vậy, mặc dù Hắc Diện vẫn có tên trong hàng ngũ tướng lĩnh, nhưng trên thực tế lại rất nhàn rỗi.
Cách một ngày sau, A Mạch liền cho gọi Hắc Diện đến, sau khi cùng anh ta mật đàm nửa ngày lại cho gọi thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đến, thương lượng với anh ta lấy hai ngàn kỵ binh giao cho Hắc Diện chỉ huy. Kỵ binh của Trương Sinh vốn chưa đến năm ngàn, trước đó vài ngày lại vừa xuất một ít binh lính già yếu đưa về bộ binh doanh, hiện giờ trong tay tổng cộng cũng chỉ có bốn ngàn, A Mạch vừa hé miệng lại muốn lấy đi hai ngàn, trên mặt Trương Sinh bất giác hiện rõ vẻ ngạc nhiên. Chẳng qua Trương Sinh vốn vô cùng tin phục A Mạch, hơn nữa, kỵ binh vốn do Đường Thiệu Nghĩa kiến lập nên, anh ta có thể tiếp nhận vị trí này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của A Mạch, cho nên cũng chỉ thoáng chần chờ trong giây lát, rồi sảng khoái đáp: “Được!”
Trương Sinh đã đáp ứng rồi, những chuyện còn lại dễ hơn rất nhiều.
Thủ hạ bộ binh doanh của Vương Thất và cung nỏ doanh vừa sáp nhập xong, A Mạch lại lấy từ trong doanh trại của anh ta một vạn binh lính tráng kiện giao cho Hắc Diện. Vương Thất không giống với Trương Sinh, anh ta và A Mạch chung một ngũ đi lên, tình cảm không thể so với những người bình thường khác, nói chuyện cùng A Mạch cũng tùy ý hơn rất nhiều. Thấy A Mạch muốn lấy binh lính tráng kiện từ bộ binh doanh của mình để thành lập một cánh quân mới, không khỏi quấn lấy A Mạch hỏi cánh quân mới này để thực hiện chiến pháp mới nào. Ai ngờ A Mạch cũng không nói lộ điều gì, chỉ bảo sau này thấy rồi sẽ biết. Nghe xong, Vương Thất càng cảm thấy thâm tâm ngứa ngáy khó chịu, tuy nhiên, đối với chuyện thành lập cánh quân mới này so với Hắc Diện còn tích cực hơn, chỉ trong vòng hai ngày đã đem người giao cho Hắc Diện.
Có người, lại có trang bị, cánh quân mới chỉ còn đợi sắp xếp, phối hợp với sàng nỏ(1), trên tường thành Thanh Châu vốn không đủ, phải cho thợ thủ công chỗ quân giới chế tạo thêm, việc này hơi mất thời gian, tổn hao công sức, và cũng khó làm. Thứ cần dùng nữa là vài chiếc xe, A Mạch nhốt mình trong phòng nửa ngày, phỏng theo trí nhớ, cuối cùng vẽ xong một bản vẽ, giao cho Lý Thiếu Hướng, lệnh cho anh ta căn cứ theo bức vẽ chế tạo gấp.
Lý Thiếu Hướng nghe sơ qua liền muốn đến chỗ quân giới đẩy nhanh tốc độ chế tạo xe ngựa ngay lập tức, còn nói là muốn đi Ký Châu vận lương, nên liên mồm đáp ứng, nhưng khi nhìn đến bản vẽ mô phỏng của A Mạch thì kêu lên: “Đại nhân, xe này của ngài không thể dùng được, vừa nhìn là biết ngài không phải xuất thân từ gia đình nông dân. Ta mặc dù không phải là thợ mộc, nhưng xem qua cũng biết bản vẽ này là để chế tạo xe ngựa…”
A Mạch dở khóc dở cười, vội vàng cắt ngang lời Lý Thiếu Hướng, chỉ phân phó nói: “Cái khác ngươi không cần phải xen vào, chỉ cần tìm thợ mộc đến căn cứ theo bản vẽ này làm mẫu một chiếc xe đem trước đến cho ta xem rồi nói sau!”
Lý Thiếu Hướng vẫn tỏ vẻ không tình nguyện, muốn cùng A Mạch bàn luận tiếp. A Mạch sợ anh ta quấy rầy, đành phải lừa anh ta: “Xe này mặc dù không phải dùng để vận lương, nhưng nhờ có nó chúng ta sẽ có được không ít lương thực, ngươi cứ yên tâm!”
Lúc này Lý Thiếu Hướng mới càu nhà càu nhàu bước đi, lại tìm trong quân khoảng một trăm binh lính trước đây từng làm thợ mộc đến hỗ trợ, lúc này mới gấp rút trong vòng một tháng giao ra ba trăm chiếc xe thiên tương(2). Cái gọi là xe thiên tương, kỳ thật chính là một cỗ xe có cả tác dụng tấn công và phòng thủ, chế tạo thành một cỗ chiến xa có những tấm bình phong bảo vệ, song khi kết hợp cùng với ngựa sẽ tạo thành một loại chướng ngại vật, hợp thành một doanh xe để ngừa địch đánh bất ngờ. Từ những tấm bình phong bảo vệ này có những ô cửa sổ ở giữa, sàng nỏ sẽ được bắn ra từ đó, tấn công theo kiểu “Vừa đánh vừa tiến lên”. Loại xe này từ mấy trăm năm trước đã có người dùng rồi, chẳng qua khi chế tạo A Mạch có thay đổi một chút, có tám tấm bình phong có thể gấp lại, chiều dài tổng cộng là mười lăm thước, bình thường chúng được đặt ở trên càng xe, khi tác chiến đánh trận thì mở ra dựng ở một bên bánh xe như một cái hòm lớn, cho nên gọi là “Xe thiên tương”.
Tuy đã có chiến xa, sàng nỏ theo bộ lại không thể chế tạo gấp theo được. A Mạch biết Lý Thiếu Hướng đã cố hết sức cho nên không trách móc anh ta, chỉ đem những chiến xa này giao cho Hắc Diện, lệnh cho anh ta dùng những cỗ xe trống đó cho cánh quân mới thao luyện trước.
Cánh quân mới có giáo trường riêng, bốn ngàn bộ binh bắt đầu thao luyện, trải qua một tháng huấn luyện đặc biệt, hiện giờ diện mão đã bắt đầu lộ rõ. Trận địa của bọn họ rất khác so với trước kia, tất cả tạo thành một đội, đứng đầu là đội trưởng, thứ hai là người một tay cầm trường bài(3), một tay cầm khiên mây, trường bài để che chắn trường thương, loan đao của địch, khiên mây(4) làm bằng chất liệu nhẹ có cài giáo, đao, cầm trường bài và khiên mây chủ yếu để yểm hộ cho đội quân phía sau tiến lên, khiên mây ngoại trừ yểm hộ còn phủ phục trước vó ngựa địch. Hai người tiếp theo cầm lang tiển(5), lợi dụng lưỡi dao sắc bén phía trước của lang tiển mà ám sát địch nhân, dùng khiên tăng cường yểm hộ đồng thời tay kia dùng trường thương tấn công. Tiếp đó là bốn người tay cầm trường thương, trái phải hai người, chủ yếu khiêu khích khiến cho quân địch xuống ngựa, tiếp theo là sử dụng đoản đao và vũ khí ngắn tấn công vào bên sườn và bên hông của địch, tiến sát lên chém giết địch nhân.
Sáu ngàn bộ binh được phân phối giữ ba trăm cỗ chiến xa. Hai mươi bộ binh phụ trách một chiến xa, trong đó mười người trực tiếp lệ thuộc vào chiến xa, nhiệm vụ là bắn sàng nỏ, mười người còn lại thì tạo thành một “Tiểu đội sát thủ”, tay cầm khiên mây, đinh ba cùng đơn đao cán dài(6)nghênh địch. Khoảng cách giữa tiểu đội sát thủ và chiến xa duy trì trong vòng hai mươi lăm thước, nếu bọn họ tiến lên, chiến xa cũng theo đó mà được đẩy lên phía trước.
Vì sàng nỏ không thể chế tạo gấp được, nên mấy trăm cỗ chiến xa đành buộc đá lớn vào để luyện tập, sau đó binh lính đẩy chiến xa chạy khắp giáo trường…
Vẫn cùng một cảnh tượng, nhưng khi rơi vào trong mắt những người khác nhau lại này sinh ra ra những ý nghĩ khác nhau:
Ánh mắt Từ Tĩnh khi nhìn cảnh này dường như tỏa sáng, ban đầu, ông ta vốn tưởng rằng A Mạch chỉ muốn dùng xa trận đối kháng với kỵ binh, đang muốn khuyên nhủ A Mạch đừng cố chấp mà tự làm khó cho mình, cách đó không thể thủ thắng được đâu, hiện giờ nhìn thấy cảnh tượng này, tay không tự chủ được mà đưa lên giữ chặt chòm râu trên cằm.
Vương Thất nhìn những binh lính cường tráng đó mà cũng thấy vô cùng tự hào, không hổ là lấy từ trong doanh trại của ta ra, các ngươi đâu thể vạm vỡ bằng những tiểu tử này được?
Quan quân nhu Lý Thiếu Hướng nhìn thấy một màn này mà càng thêm đau lòng, một đám ăn uống như bị mất cắp, thế mà lại chỉ để làm mấy cái việc đẩy đá, có sức lực như vậy làm cái gì khác mà chả tốt, thật lãng phí quá a.
Mỗi người một tâm tư, cứ thế mà ngày trôi qua rất nhanh, cái tết đầu tiên của quân Giang Bắc ở Thanh Châu đã đến. Nhưng không khí vui mừng của năm mới không chạm được chút nào lên khuôn mặt của Lý Thiếu Hướng, ngược lại, lại khắc sâu lên đó thêm vài phần sầu khổ, cửa ải cuối năm, cửa ải cuối năm a, lễ mừng năm mới chính là cửa ải cuối năm của người nghèo a. Cái khác tạm thời không nói, chỉ nói trước mắt không có bột cũng chẳng có thịt, lấy cái gì cho mọi người đón năm mới đây? Lý Thiếu Hướng giương mắt nhìn lên bầu trời tối tăm, hận không thể khiến những thứ đang trút từ trên trời xuống không phải là tuyết, mà là bột mỳ a.
Có lẽ nỗi lòng ai oán của Lý Thiếu Hướng đã thấu lên tận trời xanh, cho nên vào ngày hai mươi tám tháng chạp, ngoài thành Thanh Châu đột nhiên có người đưa tới cho quân Giang Bắc mấy chục xe toàn đồ ăn ngon của nơi thôn dã. Áp giải đoàn xe là hơn ba mươi hán tử tráng kiện, đầu tiên họ cho xe ngựa dừng lại ở phía xa xa, rồi duy nhất một người đi tới dưới thành, hướng về phía trên tường thành cao giọng hô: “Có vị cố nhân tặng Mạch tướng quân chút quà năm mới, thỉnh quân gia buông cầu treo cho chúng ta đem những lễ vật này vào thành.”
Binh lính thủ thành nào dám tùy ý buông cầu treo, nghe vậy liền vội vàng xin chỉ thị của trưởng quan. Hôm nay, phụ trách bảo vệ thành là Hữu phó tướng quân Mạc Hải, nhận được tin liền lên trên thành để xem, chỉ thấy xa xa dưới thành một đoàn xe ngựa đang đứng chờ, xe nào xe nấy chất đầy hàng hóa, ước chừng phải đến ba, bốn mươi cỗ xe. Hán tử đứng dưới thành nhìn thấy một vị tướng quân mặc mũ giáp đi lên, biết là người chịu trách nhiệm ở đây, liền cao giọng nói: “Ta được một vị cố nhân của Mạch tướng quân ủy thác đến đây giao tín vật, phiền vị tướng quân này giao cho Mạch tướng quân, ngài ấy nhìn thấy sẽ nhận ra.”
Nói xong vung tay lên, một bọc nhỏ liền bay thẳng lên vọng lâu của tòa thành, rơi vào trong lòng Mạc Hải. Con sông đào bảo vệ thành ước chừng rộng vài chục trượng, lại thêm độ cao của tường thành, thế mà người nọ chỉ tiện tay ném một cái, vật nọ liền bay tới trước người Mạc Hải, đủ thấy lực cánh tay của anh ta mạnh đến mức khiến người ta phải phát sợ. Mạc Hải trong lòng thất kinh, nhận được cái bọc nhỏ kia liền mở ra, thấy trong đó là một tấm huy hiệu của quân Nam Hạ bằng đồng, khắc cấp bậc giáo úy. Mạc Hải nhất thời không đoán ra đây là tín vật của người nào, liền vội vàng gọi người cầm bọc nhỏ bằng vải bố đi tìm, đưa cho A Mạch.
A Mạch đang ở trên giáo trường chỉ đạo Hắc Diện huấn luyện cánh quân mới, Lý Thiếu Hướng vẫn như trước, bám theo bên cạnh nàng lải nhải việc quân nhu. A Mạch nghe mà phát phiền, mấy lần muốn phất tay đuổi Lý Thiếu Hướng đi. Thủ binh trên tường đến đưa cái bọc nhỏ bằng vải bố cho nàng, nói là ngoài thành có người tặng nàng lễ vật mừng năm mới, đặc biệt giao tín vật này cho nàng. A Mạch kinh ngạc, đợi khi nhìn rõ tấm huy hiệu giáo úy trong bao vải kia, đầu tiên là ngẩn người, tiếp đó là vui mừng khôn xiết, không kịp dặn dò Hắc Diện một tiếng, liền xoay người đi vội ra khỏi giáo trường.
Lý Thiếu Hướng đứng ở phía sau nhìn cảm thấy rất lạ, lại nhớ đến mấy chữ “Lễ vật năm mới” mà tên lính kia vừa nói, liền vội vàng lặng lẽ đi theo, thấy sải chân của A Mạch thật dài, dường như không nhịn được mà muốn chạy đi.
Mạc Hải vẫn chờ trên vọng lâu của cổng thành, thấy A Mạch nhanh như vậy đã tới, bất giác có chút kinh ngạc, vội vàng chạy lại đón, kêu lên: “Đại nhân.”
A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, rồi hướng bước chân đến lỗ châu mai hỏi Mạc Hải: “Người đó đâu?” Vừa hỏi xong đã đi đến bên cạnh lỗ châu mai rồi, A Mạch cúi xuống nhìn, nhất thời có chút trố mắt, chỉ thấy bên kia con sông đào bảo vệ thành có mấy chục cỗ xe chở hàng im lìm đứng đó, nhưng một bóng người cũng không thấy đâu.
Mạc Hải đáp: “Người đó nói những thứ cần đưa đã đưa đến đây rồi, nên anh ta về trước.”
A Mạch khẽ giật mình, lúc này mới ừ một tiếng.
Mạc Hải lại hỏi: “Đại nhân, những xe ngựa này làm sao bây giờ?”
Đoàn xe ngựa kia có khoảng ba, bốn mươi chiếc, phía trên đều phủ cỏ, tất cả các xe đều được xếp đầy, từ trên thành nhìn xuống thật không biết bên trong là cái gì, nếu có dấu người bên trong cũng không thể nhận ra được. Nghe Mạc Hải hỏi, A Mạch liền mỉm cười, quay đầu lại nói: “Tặng lễ vật năm mới cho chúng ta thì cứ thu lại là được, đúng lúc Lý Thiếu Hướng cả ngày không ngừng nhắc tới nhắc lui là lấy đâu ra đồ mừng năm!”
Nàng nói xong, Mạc Hải còn chưa kịp nói gì, thì Lý Thiếu Hướng vừa mới thò mặt lên tường thành cũng đã vô cùng lanh lẹ lên tiếng, xoay người, chân không ngừng bước mà đi luôn xuống dưới thành. A Mạch vội gọi anh ta lại dặn dò: “Gọi người đi dắt la, ngựa đến, kiểm kê cho rõ ràng rồi kéo hết xe vào thành.”
Lý Thiếu Hướng quay lại nhếch miệng cười nói: “Còn dắt la, ngựa làm gì, dù sao những người của lão Hắc hằng ngày đều luyện đẩy xe ngựa đấy thôi, ta đi gọi bọn họ đến đây là được rồi.”
A Mạch không khỏi bật cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tấm huy hiệu bằng đồng nắm chặt trong tay một hồi lâu đã mang theo nhiệt độ cơ thể của nàng, A Mạch cúi đầu nhìn kỹ một lát, cẩn thận thu vào trong lòng, ngẩng đầu nhìn tầng mây đang bị ép nặng trĩu. Gió Bắc đã nổi lên, cuốn theo nhiều bông tuyết rơi xuống, trong không khí phảng phất có mùi thuốc pháo. Thịnh Nguyên năm thứ năm, cuối cùng thì một trận tuyết lớn đã xuất hiện.
2- Xe thiên tương: thiên nghĩa là lệch 1 bên; tương nghĩa là cái hộp. Đọc phần miều tả hình dáng chiếc xe này trong truyện các bạn sẽ hiểu tên của nó.
chương 116
ĐẠI CHIẾN (THƯỢNG)
Vì năm nay lập xuân(1) rơi vào năm sau, cho nên mùa xuân rất lạnh, đợi đến khi thời tiết chuyển sang ấm áp thì đã đến giữa tháng hai. A Mạch đã trang bị xong sàng nỏ cho cánh quân mới, binh lính luyện tập đã dần tiến đến giai đoạn đạt chuẩn. Phần lớn kỵ binh trong cánh quân mới cũng đều đề nghị A Mạch thay bằng một loại vũ khí mới tương tự như lang nha bổng, loại vũ khi này càng dùng càng cảm thấy đơn giản, thuận tay, lại có thể tự mình gia công thay đổi, ví dụ như có thể tăng thêm đinh sắt ở phía đầu mút và bẻ cong lại, một bổng nện xuống khi thuận thế thu về có thể giật ngã đối phương từ trên ngựa xuống, thật là tuyệt diệu không thể tả xiết!
Việc huấn luyện cánh quân mới tiến triển vô cùng thuận lợi, các doanh trại khác thao luyện cũng rất khắc khổ, tình hình trong thành rất tốt, chỉ ngoại trừ Lý Thiếu Hướng vì chuyện lương thảo mà phát hỏa, còn lại chư tướng quân Giang Bắc đều quản lý công việc của mình gọn gàng trật tự.
Cùng lúc đó, đại quân Bắc Mạc yên ổn trú quân tại thành Võ An, bộ tộc Thường gia cả già lẫn trẻ gồm ba gã đàn ông đã trải qua một năm ở thành Võ An. Lương thảo của Thanh Châu so với ở đây thì chẳng khác gì như lấy trứng chọi đá, bởi lương thảo của đại quân Bắc Mạc ở thành Võ An rất dư dả, đại nguyên soái chinh nam Trần Khởi chẳng những cấp lương thảo đầy đủ mà còn đặc biệt phái Tuyên uy tướng quân Phó Duyệt áp tải lương thảo, vật tư đến đây.
Nói đến Phó Duyệt, các chư tướng quân Giang Bắc đều cảm thấy có chút xa lạ, Vương Thất – quản lý đội thám báo liền giải thích: “Chính là ca ca của Phó Hướng, kẻ bị chúng ta bắn chết trong chiến dịch tại Dã Lang Câu vào năm Thịnh Nguyên thứ hai đó.”
Chư tướng quân Giang Bắc không khỏi đồng thanh “À” lên một tiếng, âm đuôi kéo ra rất dài, tất cả đều cùng một biểu cảm. Tiết Vũ vốn ở lại thành Thanh Châu, đối với trận chiến tại Dã Lang Câu cũng không biết nhiều lắm, liền hỏi: “Chính là kẻ cùng với Thường Ngọc Thanh ở Bắc Mạc xưng là ‘Tướng môn song tú’ Phó Hướng?”
Mạc Hải khinh thường cười nhạo một tiếng: “Song tú ấy à, thích việc lớn hám công to, khinh xuất liều lĩnh, chỉ vừa mới giao chiến cùng quân Giang Bắc chúng ta đã bị bắn chết.”
A Mạch cân nhắc một lát liền hỏi Vương Thất: “Vì sao Trần Khởi lại phái người này đến đây? Chỉ áp giải lương thảo hay là ở lại Võ An? Về phương diện này có tin tức gì không?”
Vương Thất lắc đầu: “Không có tin tức gì, chỉ biết lương thảo do Phó Duyệt áp tải đến.”
Từ Tĩnh vẫn im lặng đột nhiên cười nói: “Nếu là vì tranh chấp của các phe cánh trong quân Bắc Mạc, thì xem ra đây là Trần Khởi muốn mượn sức Phó gia và Thôi gia để chống đỡ thôi.”
A Mạch yên lặng không nói gì, như thể có điều đang phải cân nhắc.
Trương Sinh nhìn Từ Tĩnh, lại nhìn A Mạch, hỏi: “Đại nhân, ngài muốn đi cướp lương thảo sao?”
A Mạch nghe vậy thì khôi phục lại vẻ bình tĩnh, liếc mắt thấy Lý Thiếu Hướng đang dùng đôi mắt chờ mong nhìn nàng, liền lắc đầu nói với Trương Sinh: “Không thể được, kỵ binh của chúng ta lực lượng quá mỏng, thát tử lại sớm có phòng bị, đi chỉ mất công, lại khiến kỵ binh bị tổn thất mà thôi.”
Từ Tĩnh cũng gật đầu nói: “Không sai.”
Trong thành Võ An, mấy người của Thường gia đang thương nghị việc Phó Duyệt vận tải lương thảo đến đây.
Thường Tu An đối việc này vô cùng tức giận nói: “Thường gia ta lãnh binh đông tiến, còn phái Phó gia tới làm gì, rõ ràng là cố ý muốn quấy rối đây mà, nếu không phải vì tên Phó Hướng, chúng ta đâu chịu thất bại ở Dã Lang Câu! Hơn nữa Phó gia thì có bản lĩnh gì, không phải chỉ dựa vào việc là thân thích với Thái Hậu hay sao?”
“Tam thúc!” Thường Ngọc Tông ngắt lời Thường Tu An, quay lại nhìn đường huynh Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Thất ca, hay Trần Khởi ngại tốc độ đông tiến của chúng ta quá chậm? Chúng ta một đường đánh từ Dự Châu đánh tới Thanh Châu, tất cả cũng hạ được hơn mười thành trì, tuy là bị vướng chân ở Thanh Châu, nhưng cũng chẳng hề rảnh rỗ, sao anh ta lại như thế?”
Không giận dữ như Thường Tu An hay nghi hoặc như Thường Ngọc Tông, sắc mặt của Thường Ngọc Thanh vẫn bình thản, khóe miệng còn dẫn theo một nét cười mỉa mai, nghe vậy nói: “Nguyên nhân là vì Thường gia chúng ta lập được quá nhiều quân công, nên anh ta mới kêu Phó Duyệt đến đây để chia bớt phần của chén canh này, vừa đoạt quân công của Thường gia ta, lại cho Phó gia thể diện, một công đôi việc như vậy, cớ gì mà lại không làm!”
Thường Tu An tức giận nói: “Chờ Phó Duyệt đến đây, chúng ta liền cô lập hắn ta, xem hắn làm thế nào phát động được binh mã!”
Thường Ngọc Thanh cũng cười, nói: “Nếu tam thúc làm thế lại càng đúng tâm ý của Trần Khởi, không những chúng ta sẽ đắc tội với Phó gia mà còn khiến cho Hoàng Thượng tức giận, nếu Hoàng Thượng có khúc mắc, chúng ta dù có lập nhiều quân công hơn nữa thì cũng có ích gì?”
Thường Ngọc Tông nhịn không được hỏi: “Vậy phải làm sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười nói: “Một khi Phó Duyệt đến đây thì phải dùng anh ta, hơn nữa, không những dùng mà còn phải trọng dụng!”
Bước vào ba tháng, lượng thóc lúa trong kho lương thảo của Thanh Châu càng ngày càng ít, nhưng thật ngoài ý muốn, Lý Thiếu Hướng lại vô cùng bình tĩnh. A Mạch càng ngày càng trở nên trầm mặc, theo tin tức thám báo từ Võ An đưa về, đại quân Thường Ngọc Thanh đã có hành động, một trận chiến không thể tránh khỏi cuối cùng cũng đã tới.
Thử thách, đây chính là thử thách đối với cánh quân mới, cũng là thử thách đối với sự tồn vong sinh tử của quân Giang Bắc.
Ngày mười hai tháng ba, đại quân Bắc Mạc ra khỏi thành Võ An tiến thẳng đến uy hiếp Thanh Châu.
Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc, nhân cơ hội này mang hai ngàn kỵ binh đánh lén đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, nào ngờ Thường Ngọc Thanh sớm đã có phòng bị, lưu lại cho Thường Tu An ba ngàn kỵ binh và một ngàn bộ binh bảo vệ lương thảo. Quân của Trương Sinh rơi vào tình thế bất lợi nên tổn thất lớn, liền dẫn kỵ binh quân Giang Bắc rút lui về phía nam thành Thanh Châu.
Ngày mười bảy tháng ba, thiết kỵ Bắc Mạc đến phía tây thành Thanh Châu. Trong thành Thanh Châu không còn đủ lương thảo, nên năm vạn đại quân Giang Bắc đã bỏ thành Thanh Châu, rút lui về khe núi Phi Long theo hướng đông. Cùng với đó, dân chúng trong thành sợ quân Bắc Mạc tàn sát mà biến thành loạn dân, mang theo lương thực và đồ quý giá bỏ chạy tứ phía, cửa thành Thanh Châu mở rộng, trong thành là một cảnh hỗn loạn.
Thường Ngọc Tông đề nghị đưa quân Bắc Mạc vào thành bình định loạn dân, nhân cơ hội chiếm cứ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh chỉ cười lạnh, chẳng những không tiến vào thành Thanh Châu, mà ngược lại, vượt qua thành Thanh Châu, sau đó rút ra ba ngàn thiết kỵ giao cho tiên phong Phó Duyệt chỉ huy, xuyên qua khe núi Phi Long cắt đứt đường lui của quân Giang Bắc, còn đại quân chủ lực từng bước áp sát theo quân Giang Bắc, khiến toàn bộ đại quân Giang Bắc không kịp lui vào trong khe núi Phi Long mà bị chặn lại ở vùng đất bằng bẳng ở khe núi Khẩu Bắc
Sau gần nửa năm xa cách, A Mạch và Thường Ngọc Thanh cuối cùng lại không thể tránh khỏi thế đối địch.
Không giống với địa thế trật hẹp trong khe núi Phi Long, khe núi Khẩu Bắc chính là một phần chân núi Thái Hành kéo dài về hướng tây, hình thành nên một vùng đất bằng phẳng, đúng là một địa hình vô cùng thích hợp cho kỵ binh tác chiến. Kỵ binh quân Giang Bắc yểm hộ cho bộ binh lui về hướng đông, thấy đại quân Bắc Mạc đuổi tới nơi vội vàng bày trận nghênh địch. Nhưng số lượng kỵ binh quân Giang Bắc vốn không nhiều lắm, Trương Sinh lại mang một nửa đi tập kích đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, cho nên ở đây cũng chỉ còn lại hai ngàn, so với con số hai vạn thiết kỵ Bắc Mạc thật có chút đáng thương.
Hai ngàn đối đầu với hai vạn, lại ở vùng đất bằng phẳng, thắng bại cơ hồ đã rõ.
Kỵ binh Bắc Mạc đều đã có chút không thể kiềm chế được, song đại tướng quân Thường Ngọc Thanh lại vẫn như trước không hạ lệnh xung phong. Anh ta vốn luôn tìm cơ hội được sớm cùng quân Giang Bắc dã chiến, hiện giờ khi đã thật sự chặn được quân Giang Bắc ở nơi này, anh ta lại bắt đầu cảm thấy có chút do dự. Thường Ngọc Thanh rất hiểu A Mạch, nàng không thể là người dễ dàng khoanh tay chịu chết. Quả nhiên, kỵ binh quân Giang Bắc sau khi bày trận liền rất nhanh rút lui, lộ ra ba trăm cỗ chiến xa ẩn nấp ở phía sau.
Thường Ngọc Thanh rốt cục mỉm cười, thì ra là muốn dùng xa trận chống lại kỵ binh. Dựa vào chiến xa vững chắc để cản trở kỵ binh đánh sâu vào trận địa, duy trì hoàn chỉnh mặt trận phe mình. Đồng thời, vì chiến xa phân bố dày đặc trong trận, không gian trong khe núi rất chật hẹp, khúc khuỷu, kỵ binh rất khó có thể xen kẽ thần tốc, hành động chắc chắn sẽ bị hạn chế rất lớn… Thế nhưng, tuy xa trận có một chút ưu thế đối với kỵ binh, lại khó có thể chống lại sự tấn công linh hoạt của bộ binh, đồng thời lại có một nhược điểm trí mạng, đó là e sợ hỏa công, lại thêm xa trận lấy việc phòng thủ là chính, về cơ bản rất bất lợi cho việc chủ động xuất kích cũng như tấn công tác chiến.
A Mạch, ngươi khiến cho ta có chút thất vọng rồi. Thường Ngọc Thanh khẽ cong khóe môi cười, dặn dò Thường Ngọc Tông: “Chuẩn bị hỏa tiễn và cỏ khô để đốt xe.”
Thường Ngọc Tông cũng là người thông thạo binh thư, tất nhiên biết Thường Ngọc Thanh muốn dùng hỏa công để đối phó xa trận, liền vội vàng sai người bố trí hỏa tiễn cùng cỏ khô. Phía bên kia, mấy trăm cỗ chiến xa của quân Giang Bắc nhanh chóng áp sát vào mô hình trận địa, hơn nữa, dàn trận cũng chẳng theo đội hình thông thường, như mô hình trận địa hình bán nguyệt, hình vuông phân bố theo chiều dọc, mà là trước sau lần lượt thay đổi xếp thành mấy hàng, sau đó tiến rất nhanh về phía quân Bắc Mạc.
Quân Bắc Mạc nhìn mà bất giác có chút hồ đồ, xa trận đều lấy phòng ngự làm chủ, chưa bao giờ thấy chiến xa lại được đẩy như điên lên phía trước như thế này! Quân Giang Bắc muốn làm gì vậy? Mắt thấy khoảng cách giữa hai quân càng lúc càng gần, Thường Ngọc Thanh mặc dù nhất thời không hiểu A Mạch rốt cuộc đang giở trò bịp bợm gì, song cũng không thể để chiến xa của địch quân đánh sâu vào trận địa của quân mình, liền bình tĩnh hạ lệnh cho kỵ binh phía trước tấn công quân Giang Bắc.
Mà chiến xa của quân Giang Bắc khi vọt tới chỉ còn cách kỵ binh quân Bắc Mạc khoảng hai trăm trượng liền đột ngột dừng lại, những tấm chăn thô phủ trên chiến xa rốt cục bị hất ra, để lộ những cỗ sàng nỏ được cố định bên trên… Tầm bắn của cung tên không thể so với sàng nỏ, loại vũ khí này do vài binh lính kéo trục cơ quan mà bắn nỏ, tầm bắn có thể đạt tới ba trăm bước. Thiết kỵ Bắc Mạc vừa mới xung phong, tên nỏ của quân Giang Bắc đã xé gió bay tới.
Dùng gỗ làm thân, đuôi gắn lông vũ, nếu gọi là tên, chi bằng gọi là ngọn thương gắn lông vũ còn chính xác hơn, hầu như mỗi một ngọn thương rơi xuống đều khiến cho một kỵ binh cả người lẫn ngựa đều ngã lăn trên mặt đất, thậm chí có ngọn thương còn đâm xuyên qua cả mấy kỵ binh. Đại quân Bắc Mạc đột nhiên bị tấn công liền trở nên hồ đồ, đội kỵ binh xung phong này lập tức chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, thậm chí ngay cả đại đội kỵ binh chưa xung phong ở phía sau cũng trong phạm vi công kích của tên nỏ. Mỗi loạt tên nỏ hạ xuống, thì lại có một loạt thiết kỵ Bắc Mạc ngã nhào, trận địa kỵ binh trở thành tấm bia ngắm thật tốt cho cánh quân mới của quân Giang Bắc.
Lúc này, ngàn vạn lần không còn cách để lùi về phía sau. Thường Ngọc Thanh lấy lại phản ứng, lạnh giọng hạ lệnh cho cánh trái đánh sâu vào trận địa cánh phải của địch quân, chư quân còn lại thì tiếp tục đánh sâu vào trận địa của quân Giang Bắc.
Thường Ngọc Thanh suy nghĩ rất rõ ràng, sàng nỏ của quân Giang Bắc tuy lợi hại, cùng lắm cũng chỉ có ba trăm cái, chỉ cần có thể chạy vọt vào trong trận địa của quân Giang Bắc, đại quân Bắc Mạc liền xoay chuyển thế cục. Mà kỵ binh khi tấn công vào trận địa của bộ binh, nhằm vào cánh phải của đối phương là có lợi nhất. Bởi vì thế trận trường thương mặc dù có thể khắc chế kỵ binh, nhưng trận địa biến hóa không linh hoạt, nếu kỵ binh đối phương đột nhiên thay đổi phương hướng tấn công, tốc độ đối phương sử dụng thuẫn và binh khí cũng chậm chạp lại. Cho nên, trong rất nhiều hướng trận của kỵ binh, quan trọng nhất chính là đối diện với tấm thuẫn.
Mà mọi người đều biết, cách dùng đao thuẫn thông thường đều là tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm đao. Phòng ngự cánh trái vì vậy rất thuận tiện, chỉ cần nhẹ nhàng di động cánh tay trái là có thể hướng tấm thuẫn về phía kỵ binh, che chắn cho bản thân. Nhưng nếu đối phương đánh sâu vào cánh phải, đao thuẫn thế nào cũng không thể đổi chỗ cho nhau được, một khi đã như vậy, đao thuẫn sẽ không thể bảo vệ mình mà phơi bày phía sau lưng cho đối phương, một khi trong tay đối phương còn dư thừa kỵ binh, hậu quả thật không dám tưởng tượng.
Không thể không nói, là một tướng lãnh kỵ binh, Thường Ngọc Thanh chỉ huy vô cùng xuất sắc, đáng tiếc, mọi chuyện trên đời thường hay thay đổi. Chiến xa quân Giang Bắc sau khi bắn ra một loạt tên nỏ cuối cùng, những binh lính điều khiển xe lập tức đẩy xe rút sang hai cánh. Hắc Diện mọi ngày huấn luyện quân hà khắc rốt cục cũng thấy được hiệu quả, những cỗ xe được đẩy đi rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã dùng xe bày thành trận địa bảo vệ binh lính ở hai cánh, tiếp tục bắn tên nỏ. Đồng thời, kỵ binh quân Giang Bắc vẫn chờ ở phía sau trận liền phóng ngựa vọt ra.
Hai cánh là sàng nỏ bắn tên dày đặc, phủ đầu là lang nha bổng giáng xuống bốn bề, thiết kỵ Bắc Mạc chưa bao giờ gặp phải kiểu tấn công như thế này, đội hình nhanh chóng rối loạn. Nhưng thiết kỵ Bắc Mạc có thể xưng bá thiên hạ, chắc chắn phải có chỗ hơn người, hơn nữa, kỵ binh quân Giang Bắc mặc dù dũng mãnh lại cũng không ham chiến, chỉ đột phá vào trong trận địa của kỵ binh Bắc Mạc một phen rồi ngay lập tức rút đi, cho nên, kỵ binh Bắc Mạc mặc dù tổn thất không ít, lại vẫn vọt được tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc.
Nhưng, bọn họ cũng rất nhanh liền phát hiện ra rằng phe mình tuy đã vọt tới trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, lại bị chiến xa ngăn cản.
Không biết từ khi nào thì chiến xa của quân Giang Bắc lại từ hai cánh đẩy trở lại, những tấm bình phong vốn vẫn đặt ở càng xe đã được mở ra, dựng ở một bên bánh xe thành một chiếc hộp lớn, mấy trăm cỗ chiến xa có thể sóng vai nối liền nhau, xếp thành một trận địa vòng tròn ngăn kỵ binh Bắc Mạc ở bên ngoài.
Hàng trăm mũi tên nỏ trong xa trận đồng loạt bắn ra, kỵ binh Bắc Mạc lại trở thành bia ngắm.
——————————
Chú thích:
1- Tiết lập xuân: Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 (dương lịch) khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu.
Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu Trái Đất.
Hàng năm chỉ có 1 tiết Lập xuân kéo dài khoảng 2 tuần là hết. Tiết Lập xuân thường vào cuối năm cũ đến đầu năm mới (năm âm lịch).
chương 117
ĐẠI CHIẾN (HẠ)
Sắc mặt Bắc Mạc đại tướng quân Thường Ngọc Thanh xanh mét nhưng vẫn trấn định như trước, mặc dù xa trận có thể ngăn cản kỵ binh, nhưng đối với bộ binh lại không thể. Thường Ngọc Thanh quả quyết ra mệnh lệnh cho kỵ binh xuống ngựa, ý đồ lấy bộ binh tấn công, phá vỡ xa trận của quân Giang Bắc. Đồng thời, phái người phi ngựa truyền lệnh cho tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt đang chặn ở khe núi Phi Long từ phía sau tấn công vào trận địa của quân Giang Bắc.
Kỵ binh Bắc Mạc biến thành bộ binh, song rất nhanh có người liền kinh hãi phát hiện ra những tấm bình phong của xa trận lại có thể cử động được hai cánh ra trước sau, giống như cánh cửa, cho phép bộ binh có thể ra vào. Không đợi cho “Bộ binh” Bắc Mạc kịp cao hứng, những “Tiểu ban sát thủ” vẫn ẩn giấu sau xa trận của quân Giang Bắc đột nhiên theo cánh cửa nhảy vọt ra. Thì ra người ta dùng cánh cửa kia để che dấu người cùng một nhà…
Sau khi vô số “Bộ binh” Bắc Mạc hy sinh, quân Bắc Mạc cuối cùng cũng vượt qua kỵ binh, phá tan phòng tuyến “Sát thủ”, đi tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, nhưng chuyện khiến cho người ta phiền muộn đến hộc máu lại xảy ra, trận địa bộ binh hàng ngũ vốn rất chỉnh tề lại bắt đầu phân tán, lúc hợp thành thì chẳng có bao nhiêu tiểu đội, nhưng giờ lại bung ra đón đánh sự tấn công của kỵ binh Bắc Mạc.
Kỵ binh Bắc Mạc trong lòng rất buồn bực, sao bỗng nhiên lại thay đổi thế này? Sao lại xòe ra thành thế trận hình sao?
Thế trận hình sao, phân hợp bất thường, nghe thấy tiếng trống thì tụ, nghe thấy tiếng chuông thì tan. Khi kỵ binh tới thì tiếng chuông vang lên, một quân chia làm hơn mười cụm; tùy theo kỵ binh mà tách ra, nghe theo tiếng trống mà tụ lại. Nói trắng ra chính là khi kỵ binh vọt tới thì không trực tiếp đối đầu, chỉ cố hết sức tránh đi, khi kỵ binh chuyển hướng hoặc giảm tốc độ, thì bộ binh lại quây lại, tạo thành một thể hỗn độn giữa địch và ta.
Thật ra đấu pháp này rất vô lại, mang dáng dấp của bọn lưu manh đường phố, không cùng ngươi khác chạm trán chính diện mà là lũ lượt ùa lên, điểm chú trọng chính là trong địch có ta, trong ta có địch. Thì ngươi cứ đánh đi, dù sao mọi người đều lẫn lộn cùng một chỗ, nói không chừng khi đao, tên xuất ra thì kẻ phải nhận lấy có khi lại chính là người cùng một nhà với ngươi, nhưng nếu ngươi không đánh, lại càng tốt, đao, tên của địch quân nhất định sẽ chiếu cố thật tốt đến ngươi.
Bởi vì sợ sẽ ngộ thương người cùng một nhà, nên kỵ binh không dám tự do rong ruổi, vì thế mà lực tấn công cũng giảm mạnh, hơn nữa, nếu cứ như vậy, đừng nói là kỵ binh bị đánh bại mà ngay cả chạy cũng không thể chạy thoát. Tuy là vậy, nhưng để vận dụng được trận thế này lại rất khó.
Đầu tiên, làm lưu manh cũng là cần phải có dũng khí rất lớn! Vậy đây chính là lưu manh sao, à, không phải, đây chính là những bộ binh không sợ chết, bằng không trái phải bốn bề đều có kỵ binh của địch, dám chắc sẽ sợ tới mức chạy trốn khắp nơi, chỉ cần bộ binh chạy trốn, kỵ binh liền đuổi theo chém giết, dễ dàng chẳng khác gì cắt lúa mạch.
Thư hai, sức chiến đấu của từng binh sĩ bộ binh và tiểu đội nhất định phải mạnh mẽ, ưu việt hơn đối phương, bởi vì bộ binh nếu không phối hợp chặt chẽ, nếu sức chiến đấu của bản thân mình còn không mạnh, thì chính là từ tìm cái chết, ví dụ như từng dùng qua thế trận này là Bắc phủ và Nhạc gia, đây đều là những thế hệ tinh binh hiếm thấy.
Nhưng ngay cả như vậy, cái gọi là “Trận địa như hình sao, huyết chiến không trở về”, một khi được sử dụng, có nghĩa là một trận huyết chiến vô cùng khốc liệt sắp bắt đầu.
Nhưng kỵ binh Bắc Mạc vẫn chưa thấy sợ hãi, chảy trong cơ thể họ là một bầu máu nóng thiện chiến nên bọn họ không sợ huyết chiến, bọn họ chỉ sợ đám mọi rợ Nam Hạ yếu đuối không dám ứng chiến. Vì thế, kỵ binh Bắc Mạc chỉ nở nụ cười, tay vung loan đao tiếp tục tiến về phía trước. Đáng tiếc, bọn họ rất nhanh liền phát hiện mình lại sai lầm rồi.
Những tiểu đội khoảng hơn mười người được phân tán ra của quân Giang Bắc rất kỳ quái, vũ khí lại có đủ loại dài ngắn khác nhau. Phía trước là những tấm thuẫn yểm hộ cho đội ngũ phía trước, tay cầm khiên mây phủ phục xuống đất, chuyên dùng để cản trở vó ngựa của địch nhân, phía sau có hai binh sĩ tay cầm lang tiển dài hơn một trượng, tay cầm thuẫn yểm hộ cùng trường thương tiến lên tấn công. Tiếp theo là bốn binh sĩ tay cầm trường thương, mỗi bên hai người, chia nhau cầm thuẫn cùng lang tiển phối hợp chặt chẽ hai bên trái phải phía trước, tiếp sau đó còn sử dụng đoản đao và binh khí ngắn để ngừa địch nhân vòng lại tấn công.
Loại trận pháp này, dùng việc phân công tác chiến của các binh lính trong tiểu đội để bù lại nhược điểm của từng binh sĩ khi giao chiến.
Điều khủng khiếp nhất còn ở phía sau, theo tiết tấu trống trận mà quân Giang Bắc biến hóa, vốn dĩ mỗi tiểu đội có mười một người nhưng giờ lại bắt đầu chia nhỏ ra, trở thành hai người, ba người một hàng ngũ nhỏ hơn…
Trận tuy nhỏ, nhưng lực sát thương lại vẫn khủng khiếp như trước!
Trải qua trăm đắng nghìn cay, tốc độ của kỵ binh cùng ưu thế xung lượng đã sớm biến mất hầu như không còn, loan đao chém xuống lập tức bị thuẫn chặn lại, người ngồi trên ngựa còn chưa kịp phản ứng, thì sau tấm thuẫn lại đột nhiên xuất hiện trường thương đâm tới, lập tức đẩy kỵ sĩ rơi xuống, ngay sau đó, không biết cương đao lại từ đâu xuất hiện… Mất mạng, thì ra lại là một chuyện đơn giản như vậy.
Thường Ngọc Tông chém giết khiến trong mắt biến thành một mảnh màu đỏ tươi, lại vẫn không ngăn được tình thế thảm bại. Cánh quân của Phó Duyệt tấn công quân Giang Bắc giờ này vẫn chưa thấy động tĩnh. Trương Sinh cùng hai ngàn kỵ binh, thần không biết quỷ không hay, đột nhiên lại xuất hiện phía sau đại quân Bắc Mạc, ba vạn thiết kỵ Bắc Mạc cuối cùng cũng bắt đầu tan rã.
Một trận kéo dài đến tận khi trời chạng vạng, trên chiến trường đã là một quang cảnh bừa bãi, hỗn độn. Có chiến xa của quân Giang Bắc trúng hỏa tiễn Bắc Mạc bốc cháy, khói đen đạc quánh bay lên đến tận trời. Nhưng càng nhiều hơn nữa là thi thể của kỵ binh Bắc Mạc, máu của người và của ngựa hòa lẫn vào nhau, khiến mặt đất vừa mới xanh tươi trở lại sau mùa đông lại bị nhuộm thành một màu hồng nhợt nhạt.
Thường Ngọc Thanh đem theo tàn quân Bắc Mạc rút lui đến miếu Trình gia cách phía nam thành Thanh Châu mấy chục dặm mới dừng lại, khi truyền lệnh chỉnh đốn lại các bộ phận mới phát hiện tiên phong Thường Ngọc Tông vẫn chưa theo kịp. Những tướng lãnh bên cạnh Thường Ngọc Thanh không ít người xuất thân từ Thường phủ, đều thân thuộc với Thường Ngọc Tông, thấy vậy, trong mắt không khỏi đều có chút đỏ lên, bọn họ hướng về phía Thường Ngọc Thanh năn nỉ: “Đại tướng quân, chúng ta quay lại cứu Thập Nhất Lang đi!”
Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh lùng, khóe môi khắc nghiệt không chút huyết sắc, im lặng nhìn mọi người một lát, lạnh giọng hạ lệnh cho phó tướng Phùng Nghĩa: “Chỉnh đốn lại tàn quân, tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, đợi sáng sớm ngày mai đánh lén đại doanh quân Giang Bắc.”
Mọi người nghe vậy đều sửng sốt, ngay lập tức có tướng sĩ truy vấn: “Vậy còn Thập Nhất Lang thì làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh lạnh lùng đưa mắt nhìn người nọ, không để ý đến, tiếp tục căn dặn Phùng Nghĩa: “Quân Giang Bắc nhất định sẽ muốn thu dọn chiến trường, tối nay chắc chắn sẽ không thể quay về thành Thanh Châu, nên sẽ hạ trại ở ngoài khe núi Phi Long. Bọn họ vừa mới thắng trận khó tránh khỏi nảy sinh kiêu ngạo, bảo vệ doanh trại sẽ không quá nghiêm ngặt. Lát nữa ngươi dẫn quân ra vẻ chạy về phía tây, vượt qua núi Thúy Bình thì lấy ra một ngàn quân tinh nhuệ ẩn dấu tại đó, còn lại vẫn tiếp tục chạy về phía tây. Một ngàn quân tinh nhuệ này đợi đến giờ sửu thì xuất binh, vòng trở lại phía đông nam doanh trại của đại quân Giang Bắc thừa dịp đêm tối tập kích doanh trại…”
Phó tướng Phùng Nghĩa thấy Thường Ngọc Thanh giao nhiệm vụ rõ ràng như thế, trong lòng vừa sợ vừa nghi, không khỏi lên tiếng hỏi: “Đại tướng quân! Ngài đây là?”
Thường Ngọc Thanh như trước nghiêm mặt, trầm giọng hỏi: “Ngươi nghe không hiểu được sao?”
Phùng Nghĩa đành phải gật đầu: “Mạt tướng hiểu, chỉ có điều…”
“Không chỉ có điều gì hết!” Thường Ngọc Thanh lạnh giọng cắt ngang lời Phùng Nghĩa, cầm trường thương sải bước đến bên Dạ Chiếu Bạch, lại xoay người dặn anh ta: “Ta quay lại cứu Ngọc Tông, nếu thành công thì sẽ đi về phía tây bắc, thay ngươi thu hút sự chú ý của quân Giang Bắc. Phó Duyệt vẫn không có hồi âm, sợ là đã dữ nhiều lành ít. Nếu ngươi tập kích doanh trại thất bại, không cần tiếp tục suy tính nhiều, lập tức dẫn đại quân lui về Võ An, phòng thủ vững chắc đợi viện quân! Nhớ kỹ, nhất thiết không được tấn công thành Thanh Châu!”
Thường Ngọc Thanh nói xong liền giục ngựa muốn đi, Phùng Nghĩa bước lên phía trước đưa hai tay ra ngăn trước ngựa của Thường Ngọc Thanh, gấp giọng khuyên nhủ: “Đại tướng quân! Ngài không thể đi, ta sẽ đi cứu Thập Nhất Lang, ngài là chỉ huy cao nhất của đại quân, không có ngài lòng quân sẽ bất ổn, ngài tuyệt đối không thể đưa mình vào chỗ hiểm!”
Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nói: “Nếu ta không đi, Mạch Tuệ sao có thể tin đại quân Bắc Mạc của ta đã tan tác trốn về hướng tây?” Nói xong lạnh giọng quát một tiếng: “Tránh ra!”
Phùng Nghĩa không nhúc nhích chút nào, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng, giục ngựa lui về phía sau vài bước, đột nhiên phi về phía trước, Dạ Chiếu Bạch vươn người nhảy lên, bay vọt qua đầu Phùng Nghĩa, nhanh như chớp phi về hướng bắc. Thân vệ của Thường Ngọc Thanh sợ lạc mất anh ta, đều vội vàng lên ngựa đuổi sát theo phía sau, một hàng mấy chục kỵ mã nhằm thẳng về phía khe núi Phi Long.
Trước khe núi Phi Long, quan quân nhu quân Giang Bắc Lý Thiếu Hướng vốn mai danh ẩn tích trong suốt thời gian diễn ra trận chiến rốt cuộc lại bắt đầu trở nên sinh động, còn may mắn còn tồn tại chiến mã, loan đao sắc bén của quân Bắc Mạc… Sắc trời bắt đầu tối, ánh mắt Lý Thiếu Hướng lại như thể tỏa ra ánh kim quang, vung hai cánh tay chỉ huy binh lính doanh trại quân nhu thu nhặt chiến lợi phẩm trên chiến trường, la hét đến khàn cả giọng, nước miếng văng khắp nơi.
Trong quân Giang Bắc có quy định, sau khi kết thúc trận đánh, kỵ binh cùng bộ binh chủ lực phải nhanh chóng chỉnh đốn lại hàng ngũ để ngừa địch quân tấn công trở lại, việc thu dọn chiến trường sẽ do binh lính của doanh trại quân nhu phụ trách. Vì trận đánh hôm nay thắng rất oanh liệt, thiết kỵ Bắc Mạc lại được trang bị tốt nhất trong đại quân Bắc Mạc, cho nên Lý Thiếu Hướng nhất thời cảm thấy nhân số trong doanh mình không đủ dùng.
Lý Thiếu Hướng suy nghĩ, rồi nhấc chân chạy tới doanh trại bộ binh ở sườn tây chiến trường, tìm thống lĩnh bộ binh Vương Thất, nói thẳng vào vấn đề: “Ngươi cho ta mượn một doanh để dùng, ta muốn thu gom chiến mã bị chết của thát tử đem về, dùng da ngựa làm ủng cho các ngươi.”
Vương Thất không chịu cho mượn người, từ chối nói: “Giày ủng chỉ dùng cho kỵ binh, bộ binh doanh của ta không cần cái này, ngươi đi tìm Trương Sinh mà mượn người.”
Lý Thiếu Hướng không chịu từ bỏ hy vọng, híp mắt nháy nháy vài cái rồi lại du thuyết: “Ngươi chẳng phải còn có đội thám báo nữa sao? Cũng phải dùng mà!”
Vương Thất nghe xong bất giác có chút động tâm, nghĩ nghĩ một lát liền đồng ý, kêu một viên tướng thủ hạ đem theo một doanh thắp đuốc theo Lý Thiếu Hướng đi thu dọn chiến trường. Khi A Mạch mang theo Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường phi ngựa từ xa tới, bộ binh doanh vừa mới bị Lý Thiếu Hướng một lần nữa mang về đến chiến trường. A Mạch thấy vẫn có binh lính chủ lực của bộ binh doanh ở lại trên chiến trường thì bất giác có chút kinh ngạc, quay đầu phân phó thân binh bên cạnh đến hỏi xem xảy ra chuyện gì, một lát sau, Lý Thiếu Hướng cùng thân binh kia đã trở lại, đến trước ngựa A Mạch cười hì hì nói: “Là ta mượn binh từ chỗ Vương Thất, hôm nay thát tử bỏ lại không ít đồ tốt, nếu không lấy thì thật sự rất đáng tiếc!”
A Mạch nghe xong tức giận đến nỗi mày kiếm dựng ngược, cố gắng nén nỗi tức giận lại trong lòng, lại lệnh cho thân binh đi truyền Vương Thất đến. Sau một lúc lâu, Vương Thất cưỡi ngựa đi đến, từ xa đã kêu lên rất lớn: “Đại nhân, có chuyện gì vậy?”
A Mạch mặt âm trầm, giục ngựa tiến lên vung tay quất cho Vương Thất một roi. Không nói đến Vương Thất nhất thời bị A Mạch đánh mà hóa ngây ngốc, ngay cả mọi người bên cạnh A Mạch cũng có chút sửng sốt. A Mạch mặc dù đã là chủ tướng quân Giang Bắc, nhưng đối nhân xử thế vẫn rất hiền hoà lễ độ, chưa bao giờ thấy nàng tức giận đến như thế, chứ đừng nói là vung roi với một tướng lĩnh cao cấp trong quân.
A Mạch cả giận nói: “Hiện giờ là lúc nào! Ngươi không tăng cường bảo vệ doanh trại, lại gọi người đến thu dọn chiến trường, ngươi chán sống rồi chắc?”
chương 118
SINH MỆNH
Vương Thất cúi đầu im lặng, trên mặt Lý Thiếu Hướng có chút ngượng ngùng, anh ta biết A Mạch vì nể mình đã từng làm đội trưởng của nàng, bận tâm đến thể diện của anh ta nên mới trút cơn giận lên đầu Vương Thất. Lý Thiếu Hướng do dự một chút rồi nói: “Đại nhân, là lỗi của mạt tướng.”
A Mạch lạnh lùng liếc xéo anh ta một cái rồi nói tiếp: “Ta chưa nói đến ngươi, ngươi chỉ biết nghĩ đến những thứ vật dụng linh tinh! Nhưng nếu đến tính mạng cũng không còn thì những thứ vớ vẩn ấy còn dùng làm cái rắm gì!”
Lý Thiếu Hướng liên tục gật đầu vâng dạ, Vương Thất vẫn buồn bực không nói gì, hiển nhiên trong lòng có chút không phục. Lí Thiếu Hướng vội vàng kéo Vương Thất rồi nói với A Mạch: “Chúng ta về tăng cường phòng thủ doanh trại.”
A Mạch liếc Vương Thất một cái, lạnh giọng nói: “Nói với Hắc Diện dùng xe bảo vệ doanh, tăng cường ngoại tham(1) và ngoại phụ(2), đề phòng thát tử tập kích doanh trại!”
Vương Thất rầu rĩ đáp lại rồi xoay người định đi, bỗng cách đó không xa, đột nhiên truyền đến tiếng kinh hô của một binh sĩ trong doanh. Đám người A Mạch nghe vậy đều quay lại nhìn, chỉ thấy trong ánh lửa bập bùng, mấy binh sĩ quân Giang Bắc tay cầm thương đều nhất tề nhằm thẳng vào một thứ gì đó, có một tên lính quay đầu về phía Vương Thất hô: “Vương tướng quân! Bên này có một con cá lớn!”
Vương Thất nhìn A Mạch, rồi xoay người bước nhanh về hướng đó, khi đi đến gần mới nhìn rõ bọn lính đang dùng thương chĩa vào một thát tử bị thương ngã xuống đất. Chỉ thấy trên người tên thát tử này có rất nhiều vết thương, áo giáp đầy máu, một chân vặn vẹo theo một góc rất quái dị, dường như đã bị gãy. Vương Thất cầm đuốc từ tay một tên lính bên cạnh thận trọng soi, thấy người này cùng lắm chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt có chút sạm lại, mặt mày vốn trong sáng nhưng lúc này vì căm giận mà có chút khó coi, đang cau mày quắc mắt nhìn mình trừng trừng… Trông có chút quen mắt, dường như rất giống với dáng vẻ của Thường Ngọc Thanh ngày ấy ở dưới thành Thanh Châu cưỡi ngựa, cầm thương ngang người.
Trong lòng Vương Thất đột nhiên bừng tỉnh, nhất thời vừa mừng vừa sợ, nhịn không được lớn tiếng kêu lên: “Đại nhân! Chúng ta đúng thật là đã tóm được một con cá lớn!” Vương Thất quay về phía A Mạch hưng phấn kêu lên: “Đại nhân, ngài mau tới đây xem! Là Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh! Chúng ta đã bắt được Thường Ngọc Thanh!”
Bên kia, A Mạch nghe thấy vậy thì sửng sốt, bên này, tên thát tử kia đã nhổ mạnh một búng máu về hướng Vương Thất, khàn giọng mắng: “Hừ! Đồ tiểu nhân ngạo mạn mơ tưởng hão huyền, đại tướng quân của chúng ta sao có thể rơi vào tay lũ trộm cắp các ngươi! Sớm muộn gì ngài ấy cũng tiêu diệt sạch sẽ các ngươi, đem lũ người bọn ngươi treo hết lên công thành Thanh Châu!”
Binh sĩ quân Giang Bắc thấy vậy liền nâng trường thương lên định đâm xuống, lại bị Vương Thất đưa tay ngăn lại. Vương Thất không chút hoang mang lau vết bẩn thấm trên góc áo, lúc này mới giương mắt nhìn về phía thát tử kia, nhấc chân đá vào vết thương trên chân anh ta, dữ tợn mắng: “Xem ai treo ai lên cửa thành trước, lát nữa lão tử liền đem ngươi đưa treo lên đó!”
“Vương Thất! Dừng lại!” A Mạch giục ngựa đến ngăn Vương Thất, cúi đầu nhìn về phía người nọ, thấy mặt mũi anh ta quả nhiên có vài phần tương tự với Thường Ngọc Thanh. A Mạch lại đưa mắt nhìn áo giáp được chế tạo bằng thép rất tinh xảo trên người anh ta, sau đó nói: “Anh ta không phải là Thường Ngọc Thanh, chắc là Thường Ngọc Tông.”
“Thường Ngọc Tông?” Vương Thất sửng sốt, quét mắt nhìn người nọ, quay đầu lại hỏi A Mạch: “Chính là Thường Ngọc Tông bị chúng ta tiêu diệt ba vạn tinh kỵ binh ở Bạch Cốt Hạp?”
A Mạch gật đầu.
Vương Thất không khỏi vừa cười vừa nói: “Khó trách nhìn lại thấy quen mắt đến vậy, hóa ra là người quen cũ thật.” Nói xong, liền ngồi xổm xuống bên cạnh, cười hỏi Thường Ngọc Tông: “Này? Ngươi đã từng thất bại trong tay chúng ta một lần rồi, sao lại nhanh quên nhau thế?”
Mọi người trong quân Giang Bắc nghe xong đều cười ầm lên, Thường Ngọc Tông tức giận đến đỏ bừng sắc mặt, lớn tiếng kêu lên: “Muốn giết thì giết đi, đừng làm mấy cái trò như đàn bà ấy nữa!”
Anh ta gào thét như vậy lại càng khiến cho quân Giang Bắc cười lớn hơn, ngay cả khóe miệng A Mạch cũng không khỏi lộ ra ý cười, dặn dò Vương Thất: “Tìm thầy lang khám cho anh ta, cẩn thận một chút, đừng giết chết.”
“Ta biết.” Vương Thất sảng khoái đáp, cười hì hì quay đầu nhìn A Mạch, nhanh chóng quên mất chuyện bị quất một roi vừa rồi.
Có tên lính liên lạc chạy lại bẩm báo A Mạch tình hình chiến đấu chỗ Mạc Hải. Trước trận đánh, tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt dẫn theo ba ngàn kỵ binh đi đón đánh, chặn đường rút lui của quân Giang Bắc ở hướng đông, không ngờ A Mạch sớm đã có chuẩn bị, lệnh cho Hữu phó tướng quân Mạc Hải phục kích ở đó, vừa đúng lúc đối đầu với Phó Duyệt. Phó Duyệt bị mất tiên cơ liền rơi vào tình thế bất lợi đành phải mang binh chạy về hướng bắc. Mạc Hải đem quân đuổi theo đến bờ sông Tử Nha, Phó Duyệt sau khi vượt sông liền chạy dọc theo bờ sông theo hướng tây, Mạc Hải một mặt đuổi theo đến bờ bên kia, một mặt phái người quay về báo cáo với A Mạch.
A Mạch cân nhắc một lát, lệnh cho tên lính liên lạc kia đi trước nói với Mạc Hải theo dõi chặt chẽ động tĩnh của Phó Duyệt, còn tự mình xoay người đi tìm Từ Tĩnh. A Mạch vừa giục ngựa đi chưa xa, chợt nghe thấy tiếng trống cảnh báo từ xa xa truyền đến, tiếng trống dồn dập vừa mới vang lên liền im bặt, hiển nhiên là người đánh trống đã bị giết người diệt khẩu.
Lúc này, là ai quay lại?
Trong bóng đêm, chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa dòn dập từ xa truyền đến, cho đến khi tiếng kinh hô dừng lại. A Mạch vẫn chưa phản ứng gì, Lâm Mẫn Thận đã giục ngựa lên phía trước vài bước chắn trước ngựa của A Mạch. Cùng với tiếng vang của binh khí va chạm vào nhau, một chiến mã màu trắng từ trong bóng đêm phi hết tốc lực đến, phía trên là một kỵ sĩ mặc áo giáp đen, tay cầm trường thương, đúng là đại tướng quân Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh!
Thì ra Thường Ngọc Thanh vẫn không tìm thấy Thường Ngọc Tông, liền hướng về phía ánh lửa chạy vội tới, một đường xông tới không biết đã dùng thương đâm biết bao nhiêu binh sĩ quân Giang Bắc tiến lên ngăn, lớn tiếng gọi: “Thập Nhất Lang! Thập Nhất Lang!”
Bên này, Vương Thất đang nâng Thường Ngọc Tông bị thương nặng định đi, nhìn thấy tình cảnh này nhất thời ngây ngẩn cả người. Thường Ngọc Tông nghe thấy có người gọi mình, liền vật lộn ngồi dậy, hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô: “Thất ca! Ta ở đây!”
Thường Ngọc Thanh nghe tiếng gọi vọng lại, khi thấy rõ đó là Thường Ngọc Tông, trong lòng không khỏi mừng rỡ, liền thúc ngựa chạy vọt về hướng Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông thấy vậy bỗng nhiên chống lại, một phen đẩy tên lính bên cạnh đang kiềm chế anh ta ra, kéo cái chân bị thương chân lê về phía Thường Ngọc Thanh., Vương Thất đang trố mắt ra nhìn lập tức bừng tỉnh, không chút nghĩ ngợi, liền vung đao chém về phía Thường Ngọc Tông, đại đao vừa lúc chém trúng lưng Thường Ngọc Tông, một tiếng “Thất ca” trong miệng Thường Ngọc Tông còn chưa kịp kêu lên, thân thể đã đổ nhào xuống. Lúc này, Thường Ngọc Thanh đã phóng ngựa đến gần Thường Ngọc Tông, mắt thấy cảnh ấy, hai con ngươi thu lại, sát khí bùng lên, quát một tiếng chói tai, trường thương trong tay như du long xuất đầu, đâm thẳng vào ngựa Vương Thất.
A Mạch nhìn thấy từ xa, trong lòng cứng lại, thất thanh kêu lên: “Vương Thất! Chạy mau!”
Vương Thất theo bản năng vung đao lên đỡ, nhưng trường đao trong tay còn chưa thu được về đến trước ngực, thì đã cảm thấy mũi thương lạnh buốt xuyên qua lớp áo giáp, đâm thấu qua ngực. Vương Thất nhất thời sửng sốt, có chút không tin, cúi đầu nhìn trường thương trước ngực, dường như anh ta không cảm thấy đau, chẳng lẽ đây là thân thể của mình sao?
Thường Ngọc Thanh rút mạnh trường thương, thân thể Vương Thất không khỏi cũng theo lực đó mà bước về trước một bước, máu vọt ra.
“Vương Thất!” A Mạch lớn tiếng hô, không màng đến bất cứ cái gì, phóng ngựa vọt đi.
Thân vệ sợ nàng xảy ra sơ xuất, vội vàng quất ngựa đuổi theo. Ngựa của Lâm Mẫn Thận còn chưa tới, người đã từ trên yên ngựa đã bay lên, lướt lên trước A Mạch, trường kiếm trong tay biến hóa liên tục thành mấy chiêu thức nhằm thẳng vào những chỗ yếu hại trên người Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh lập tức xoay lưng lại, múa trường thương nhất nhất hóa giải từng chiêu kiếm, rồi dùng trường thương đẩy Lâm Mẫn Thận lui từng bước, nhân đó cúi người nhắc Thường Ngọc Tông lên, lại vung thương ra bốn phía ngăn chặn sự tấn công quân Giang Bắc rồi phóng ngựa phá vòng vây chạy về hướng tây bắc.
Chư tướng quân Giang Bắc phân ra một ít người đuổi theo Thường Ngọc Thanh, còn lại vội vàng xuống ngựa chạy đến bên cạnh Vương Thất. A Mạch sớm đã ngã nhào xuống, đỡ Vương Thất lên, lấy tay giữ chặt miệng vết thương trên ngực anh ta, quay đầu khàn giọng quát: “Đi gọi thầy lang, nhanh đi gọi thầy lang!”
Bên cạnh có người lên tiếng đáp lời, Lâm Mẫn Thận chạy lại, đề khí vận chỉ, điểm vội mấy đại huyệt trên người Vương Thất. A Mạch đưa mắt mong mỏi nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận khẽ lắc đầu. Một thương của Thường Ngọc Thanh đâm xuyên qua ngực, vết thương lại là chỗ yếu hại, sao có thể cầm máu được?
Vương Thất lúc này mới cảm thấy sự đau đớn từ vết thương, run rẩy hỏi A Mạch: “Đại nhân, ta sẽ chết đúng không?”
“Nói bậy!” A Mạch phẫn nộ quát,“Chết cái rắm! Đâu có ai chưa từng bị trúng qua vài đao.”
Vương Thất nhìn chung quanh một vòng, thấy trên mặt mọi người đều khó nén khỏi nét bi phẫn, trong lòng anh ta liền hiểu, đưa mắt nhìn A Mạch, run giọng nói: “A Mạch, ta có vài điều muốn nói với ngươi.”
A Mạch cố gắng kiềm chế cảm giác tắc nghẹn trong cổ họng, mắng: “Sao lại nói nhiều lời vô nghĩa như vậy, ngươi cố gắng nghỉ một lát đi, thầy lang đến bây giờ, cầm máu cho ngươi thì sẽ ổn thôi.”
Lâm Mẫn Thận đứng dậy, cùng mọi người yên lặng tránh sang một bên.
Vương Thất cố gắng chịu đựng cơn đau trên ngực nói: “A Mạch, huynh đệ trong ngũ chúng ta có thể có được ngày hôm nay, không khỏi nhờ vào hào quang của ngươi.”
A Mạch mắng: “Bậy bạ!”
Vương Thất không không để ý tới lời lẽ thô lỗ của A Mạch, chỉ tiếp tục nói: “Nhưng các huynh đệ cũng chưa từng bỏ mặc ngươi, các huynh đệ sợ bị người khác mắng là một người làm quan cả họ được nhờ, cho nên mỗi lần đánh giặc đều liều mạng… Các huynh đệ… chưa từng bỏ mặc ngươi.”
A Mạch cố gắng nhẫn nhịn nỗi bi thống trong lòng, cứng cỏi đáp: “Những điều này ta đều biết.”
Sắc mặt Vương Thất đã trắng bệch, dần dần chuyển sang tái nhợt. Hơi thở của anh ta yếu dần, lại bắt đầu ho khan, miệng ói ra một ngụm máu lớn, lúc này mới khàn khàn giọng trong cổ họng, gắng gượng nói: “A Mạch, khi ngươi còn ở trong ngũ đã từng nói, nếu ai chết trước, cha mẹ của người đó chính là cha mẹ của tất cả mọi người.”
A Mạch cố sức gật đầu: “Ta vẫn nhớ!”
Vương Thất cố mỉm cười, hơi thỏ yếu ớt, cố gắng nói: “Ngũ trưởng là người Võ An, trong nhà có mẹ già, mỗi tháng chỉ cần một vài lượng bạc là đủ… Lão Hoàng là cẩm quan nhân, cha mẹ đã có huynh đệ chăm sóc, nương tử còn phải nuôi một khuê nữ, anh ta từng nói nếu nương tử muốn đi thêm bước nữa thì tùy nàng… Nếu nguyện ý ở vậy… thì sẽ nuôi nấng mẹ con nàng đến khi trăm tuổi.”
Cổ họng A Mạch đã nghẹn lại không thể nói nên lời, chỉ có thể gắng sức gật đầu.
“Ta là người trong gia trang của Thuận Bình Vương, trong nhà chỉ có ta là người con duy nhất, cha ta sợ ta ra bên ngoài bị người khác bắt nạt, cho nên đặt tên ta là Vương Thất, nói kẻ khác không biết, còn tưởng rằng phía trên ta có rất nhiều huynh đệ, sẽ không dám bắt nạt ta…” Thanh âm ngừng lại, Vương Thất thở hổn hển một hồi, miễn cưỡng lấy từ trong ngực tấm huy hiệu tướng quân bằng đồng, run rẩy đặt vào tay A Mạch, nói thêm: “Ta vẫn không chịu đổi tên, sợ cha mẹ ta không biết ta đã làm tướng quân, bọn họ chỉ biết gọi nhi tử là Vương Thất…”
Thanh âm của Vương Thất càng lúc càng nhỏ, khoảng cách giữa các từ càng lúc càng dài hơn. “A Mạch,” Vương Thất chuyển hướng nhìn A Mạch, ánh mắt đã bắt đầu mất đi thần khí, thanh âm tiếng được tiếng mất, không thể nghe rõ, A Mạch ghé tai sát vào miệng anh ta, mơ hồ nghe thấy: “Ngươi… nói dùm với bọn họ cho ta… Vương Thất đã được làm tướng quân, Vương Thất…”
Môi Vương Thất mấp máy mấy lần, cuối cùng thở dài một hơi, hoàn toàn không một tiếng động, đầu chậm rãi nghiêng sang một bên rồi đổ xuống, nặng trĩu trên cánh tay A Mạch, rất nặng, rất nặng…
Người này, khi nàng mới vào quân doanh đã từng đánh nhau với nàng một trận, sau đó cùng nàng bị phạt nhịn đói, vụng trộm chia nhau cùng ăn một chiếc bánh bao. Người này, đã cùng nàng chinh chiến trên ngàn dặm của dãy Ô Lan, rõ ràng đã đói đến lỏng cả thắt lưng, mà vẫn cười hì hì đem con thỏ vừa mới săn được ném cho nàng trước. Người này, ở trong quân luôn gọi thẳng nàng là A Mạch, chọc nàng phát cáu, nhưng trên chiến trường lại vung đao bảo vệ nàng. Người này, vừa mới điềm nhiên như không khi bị trúng của nàng một roi…
Trong lồng ngực của A Mạch trào lên một làn hơi nóng sôi trào, xông thẳng đến hốc mắt, hình như có gì đó từ trong mắt tràn ra, lăn xuống hai má.
Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh không ngừng lấy mu bàn tay lau nước mắt, khàn khàn cổ họng gọi A Mạch: “Ngũ trưởng, Vương Thất…… Anh ta đã chết rồi……”
A Mạch hung tợn quay đầu trừng mắt nhìn anh ta, lớn tiếng quát: “Khóc! Khóc cái gì! Không phải là đã chết hay sao? Ai mà không phải chết?”
——————
Chú thích:
1- Ngoại tham: Bố trí người canh gác bốn phía quanh doanh trong phạm vi 10 dặm, đề phòng cảnh giác, phòng ngừa có biến thì phải lập tức báo tin (chú thích của tác giả);
2- Ngoại phụ: Bố trí 3 đến 5 người 1 tổ, ban đêm “cho quân đi trước hoặc ẩn nấp hai bên sườn, cứ 3 đến 5 dặm lại bố trí một tổ ở những nơi hiểm yếu” mang theo trống trận, không chỉ phụ trách việc quan sát tình hình địch quân, mà còn nhận biết khi có địch “xâm phạm đại doanh”, thì có nhiệm vụ “khua trống thật lớn”, dùng để kích động tâm lý chiến đấu. (chú thích của tác giả)
chương 119
TẬP KÍCH BAN ĐÊM
Trương Sĩ Cường kinh ngạc nhìn A Mạch, nói không nên lời. Thầy lang vội vã theo thân binh chạy tới, nhìn thấy biểu hiện của mọi người, trong lòng cả kinh, vội ngồi xổm xuống, đưa tay sờ vào cổ Vương Thất, nhưng mạch đã không còn đập nữa, nơi đó sớm đã có hơi lạnh, không một tiếng động.
A Mạch nhẹ nhàng đặt Vương Thất nằm xuống mặt đất rồi đứng lên, gạt nước mắt trên mặt, lạnh giọng phân phó Trương Sĩ Cường: “Đưa Vương Thất về Thanh Châu, truyền lệnh cho Hạ Ngôn Chiêu tạm thời tiếp nhận bộ binh doanh.”
Hạ Ngôn Chiêu vốn xuất thân từ quân Dự Châu, sau khi theo Thương Dịch Chi tiến vào núi Ô Lan từng làm giáo úy doanh thứ ba của quân Giang Bắc, là một tướng quân của bộ binh quân Giang Bắc, giờ đến Thanh Châu là người kế nhiệm chức vụ phó thống lĩnh bộ binh doanh.
Từ Tĩnh đang ở trong trướng, nghe tin Vương Thất gặp chuyện không may thì vô cùng thảng thốt, ngồi lặng đi. Từ Tĩnh thấy A Mạch từ bên ngoài tiến vào, mặt mày lạnh lùng, trừ đôi mắt ửng đỏ, còn vẻ ngoài vẫn không có gì thay đổi, trong lòng càng thêm lo lắng, vội đứng lên, buột miệng gọi: “A Mạch…”
“Tiên sinh,” A Mạch ngắt lời Từ Tĩnh, nói luôn: “Phó Duyệt chạy về hướng tây bắc, Mạc Hải đưa quân đuổi theo. Tàn quân của Thường Ngọc Thanh tuy từ phía nam chuyển sang phía tây, nhưng vừa rồi Thường Ngọc Thanh lại mang theo mười mấy thân vệ đi về phía tây bắc, không biết trước đó đã ước định với Phó Duyệt hay không, hay chỉ là trùng hợp.”
Từ Tĩnh thoáng trầm ngâm, nói: “Tuy Thường Ngọc Thanh vừa thất bại, nhưng không thể khinh thường, nhất là bọn Phó Duyệt, tiếng là mấy ngàn kỵ binh chạy trốn, nhưng gân cốt vẫn chưa hề bị tổn thương, nếu chúng thừa dịp đêm xuống mà quay lại đánh úp thì rất nguy hiểm.”
A Mạch gật đầu: “Ta cũng nghĩ vậy nên đã kêu Mạc Hải không truy sát Phó Duyệt nữa.”
Đang nói chuyện thì Trương Sinh đem binh truy kích Thường Ngọc Thanh quay về, nói: “Thường Ngọc Thanh đã mang theo Thường Ngọc Tông cùng mấy thân vệ vượt qua sông Tử Nha, hợp quân cùng kỵ binh của Phó Duyệt, nhưng mấy người đuổi theo đám thân vệ của Thường Ngọc Thanh lại không ai còn giữ được mạng sống.”
Trương Sinh biết trong chuyện này Từ Tĩnh chắc chắn đã có dự liệu rồi nên không cảm thấy lo lắng, chỉ sợ A Mạch vì cái chết của Vương Thất mà nhất thời mất bình tĩnh, vẫn cố chấp truy kích Thường Ngọc Thanh đến cùng, như thế ngược lại có thể sẽ trúng kế của anh ta. Ai ngờ sắc mặt A Mạch vẫn bình tĩnh, suy nghĩ một lát rồi nói: “Kêu Mạc Hải phải cẩn thận, phái thám báo thăm dò bờ sông phía trước, chớ để trúng phục binh của Thường Ngọc Thanh.” A Mạch quay đầu lại nhìn Từ Tĩnh, lên tiếng dò hỏi: “Ngài nói đi? Tiên sinh.”
Từ Tĩnh cân nhắc một lát rồi nói: “Kêu Mạc Hải dùng binh sĩ của một doanh, cầm thật nhiều đuốc, giả như đại quân tiếp tục truy kích theo hướng tây, còn lại tìm một nơi ổn thỏa lặng lẽ dừng lại, đề phòng Thường Ngọc Thanh thừa dịp đêm đến tập kích doanh trại.”
A Mạch cũng hiểu được này kế rất tốt, liền cho lính liên lạc nhanh chóng đi truyền tin cho Mạc Hải. Trương Sinh thấy A Mạch và Từ Tĩnh còn có chuyện muốn nói, nên vội vàng tìm cớ lánh đi.
A Mạch quay lại nhìn Từ Tĩnh, nói: “Tiên sinh, một trận đối địch với Thường Ngọc Thanh chúng ta đã thoát hiểm, hiện giờ còn Tiêu Dực ở Ký Châu, không bằng ta thuận thế lấy luôn.”
Từ Tĩnh khẽ vuốt chòm râu, nói: “Ngươi có tính toán gì không?”
A Mạch thấy động tác quen thuộc này của Từ Tĩnh, liền biết ông ta đã có dự kiến trước, nên chỉ thản nhiên cười: “Thật ra ta vẫn chưa có dự tính gì, nhưng e là tiên sinh đã có diệu kế.”
Từ Tĩnh nghe A Mạch nói như thế cũng không tiếp tục làm ra vẻ huyễn hoặc nữa, cười cười nói: “Ngươi cho ta một vạn binh, ta thay ngươi đi Ký Châu một chuyến.”
A Mạch có chút nghi hoặc, hỏi: “Tiên sinh đây là…?”
Từ Tĩnh cười nói: “Nếu luận về dùng binh đánh giặc, lão phu không bằng ngươi, nhưng nếu luận về uốn ba tấc lưỡi, lão phu tự tin là hơn ngươi một bậc.”
Đối với mồm mép của Từ Tĩnh, A Mạch vốn vẫn bội phục. Lúc mới đến Thanh Châu gặp Thương Dịch Chi, nàng cùng lắm mới chỉ đi thay đổi xiêm y, vậy mà khi quay lại thì Thương Dịch Chi đã tôn Từ Tĩnh lên làm thượng khách. Còn khi ở Dự Châu, chỉ nhờ vào một phong thư, Từ Tĩnh có thể khiến cho Thạch Đạt Xuân vứt bỏ cả danh dự bản thân mà đi theo địch làm nội ứng… A Mạch không khỏi mỉm cười, hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh muốn lễ trước binh sau với Tiêu Dực? Một vạn binh hơi ít, ta sẽ cấp cho tiên sinh hai vạn nhé.”
Từ Tĩnh vuốt râu, lắc đầu nói: “Không cần, không cần, Ký Châu không thể cường đoạt, chỉ có thể dùng trí.”
A Mạch nghe xong càng cảm thấy hứng thú, liền hỏi: “Tiên sinh dùng trí như thế nào?”
Từ Tĩnh trả lời: “Ta muốn tặng lễ vật cho Tiêu Dực!”
“Tặng lễ vật?” A Mạch ngạc nhiên nói.
Từ Tĩnh cười ha ha, đáp: “Không sai, đúng là tặng lễ, hơn nữa không chỉ tặng, mà còn phải là lễ vật hậu hĩ, chỉ cần phần hậu lễ này treo trên người của Tiêu Dực thì ta sẽ khiến ông ta không còn hơi sức đâu mà tiếp tục cứng đầu nữa!”
Từ lâu, triều đình Nam Hạ đối với vùng Giang Bắc đã là có lòng mà không có sức. Tuy Tiêu Dực là thuộc hạ của Thương Duy lão tướng quân, nhưng không ai đo được lòng người. hiện giờ Thương Dịch Chi lại đang âm thầm tiếm quyền vào thời điểm nguy cấp, vào lúc mấu chốt này cần phải khiến cho Ký Châu bày tỏ rõ quan điểm của mình. Một khi Tiếu Dực quay lưng bán đứng việc này cho hoàng đế, Thương Dịch Chi dù có lòng cũng đành phó mặc, anh ta không phải là người vì con rận mà đốt cả tấm áo da.
Kể từ đó, Tiêu Dực giữ chặt Ký Châu, chỉ ung dung chờ xem hoàng quyền ở Giang Nam sẽ rơi vào tay ai. Nếu rơi vào tay Thương Dịch Chi, Tiếu Dực đương nhiên sẽ ngoan ngoãn nghe theo sự sếp đặt của Thương Dịch Chi, nhưng nếu quyền lực vẫn do hoàng đế nắm chặt trong tay, thì Tiếu Dực sẽ trở thành mối họa lớn sau lưng quân Giang Bắc.
Nay trong thành, Tiếu Dực đang ngồi vững chắc, thảnh thơi, cũng thực bình tĩnh.
Hiện giờ, điều mà Từ Tĩnh muốn làm chính là túm lấy ông ta, không để cho ông ta ngồi yên ổn trong thành, mà phải lựa chọn một bên để theo. Có Thương Dịch Chi ngấm ngầm kéo xuống, Tiếu Dực sẽ không thể nhảy được sang phía bên kia!
A Mạch cân nhắc một chút liền hiểu được ý tứ của Từ Tĩnh, lập tức nói: “Được, ta sẽ cho Mạc Hải cùng tiên sinh đi tặng lễ vật.”
Từ Tĩnh gật đầu tán thưởng, do dự một lát, sau lại khuyên A Mạch: “Là chiến tướng, chết trên sa trường là chuyện bình thường, chớ nên vì thế mà bị kích động, rối loạn tinh thần. Thường Ngọc Thanh sớm thành danh từ khi còn trẻ, quả thật là một tướng tài. Đối đãi với người này, không được vội, không được nóng, không thể hoảng, không thể loạn. Không vội sẽ tránh được liều lĩnh, không nóng nảy sẽ tránh bị khích tướng, không hoảng hốt sẽ ổn định được đại quân, không loạn sẽ củng cố được trận địa. Chỉ có như thế, ngươi mới có thể khắc được anh ta, ngăn được anh ta, thắng được anh ta.”
Lần này, A Mạch không dám ngắt lời Từ Tĩnh, chăm chú lắng nghe, đợi Từ Tĩnh nói xong mới ngước mắt nhìn ông ta, mỉm cười nói: “A Mạch hiểu rồi, đa tạ tiên sinh chỉ bảo.”
Nụ cười của A Mạch rất điềm đạm, ôn hòa, Từ Tĩnh thấy vậy cũng nhẹ nhàng thở dài, vui buồn giận hờn không hiện lên mặt bất quá cũng không hơn được thế này! Từ Tĩnh suy nghĩ một lát rồi không tiếp tục khuyên can nữa.
A Mạch từ chỗ Từ Tĩnh đi ra, Lâm Mẫn Thận cùng Trương Sĩ Cường vẫn chờ bên ngoài. A Mạch biết Lâm Mẫn Thận võ công cao cường, tai thính mắt tinh, vừa rồi, những lời mình và Từ Tĩnh nói tất nhiên không thể dấu được anh ta, cũng chẳng e ngại mà hỏi thẳng: “Ngươi nghĩ tối nay Thường Ngọc Thanh có đánh úp doanh trại không?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, đáp: “Ta không biết.”
A Mạch cũng cười nói: “Thường Ngọc Thanh người này tất chướng mắt với quân của Mạc Hải, nên nếu muốn đánh úp doanh trại chắc chắn sẽ đánh thẳng vào đại doanh của chúng ta.” Nàng nói xong, xoay người phân phó Trương Sĩ Cường: “Ngươi đi thông báo với Hắc Diện, Trương Sinh và Hạ Ngôn Chiêu, gọi mấy người đến trướng của ta ngay.”
Đám người Trương Sinh và Hắc Diện rất nhanh liền đến trướng của A Mạch. A Mạch nhìn sa bàn trước mặt đến xuất thần, nghe thấy có tiếng người tiến vào cũng không ngẩng đầu lên, chỉ vẫy bọn họ đến bên cạnh sa bàn, chỉ vào cột mốc trên sa bàn nói: “Đại quân chủ lực của Thường Ngọc Thanh đại bại, hiện đã chạy tán loạn qua núi Thúy Bình, không đủ gây họa. Nhưng mấy ngàn kỵ binh trong tay Phó Duyệt chỉ gặp tổn thất nhỏ, hiện đang từ từ tiến theo bờ tây sông Tử Nha, sẽ thành tai hoạ ngầm. Hiện giờ Thường Ngọc Thanh lại hợp cùng Phó Duyệt, người này vốn giỏi tập kích ban đêm, hiện lại có mấy ngàn tinh kỵ binh trong tay, sợ là sẽ không chịu ngồi yên.”
Hắc Diện đáp: “Vậy đem chiến xa tăng cường phòng thủ phía tây bắc được không?”
A Mạch ngẩng đầu nhìn anh ta, khẽ lắc đầu: “Không đủ, mấy trăm cỗ chiến xa kia không đủ để áp chế anh ta.” Nàng lại cúi đầu quan sát kỹ sa bàn, một lát sau liền chỉ vào hai con đường nhỏ nói: “Nếu Thường Ngọc Thanh đến, tất sẽ đi theo hai lối này, Hạ Ngôn Chiêu, ngươi chia binh làm hai hướng phục ở hai địa điểm này, nhanh lên.”
Hạ Ngôn Chiêu ôm quyền lĩnh mệnh, xoay người rời khỏi đại trướng đi sếp đặt binh mã. A Mạch lại hỏi Trương Sinh: “Chỗ ngươi còn bao nhiêu kỵ binh?”
“Hơn một ngàn bảy trăm người.” Trương Sinh đáp.
A Mạch suy nghĩ, nói: “Trước đem kỵ binh của cánh quân mới giao cho ngươi chỉ huy, hạ trại ở phía nam đợi lệnh, người không được cởi giáp, ngựa phải luôn sẵn sàng!”
Màn đêm buông xuống, đại doanh quân Giang Bắc đã thay đổi tuyến phòng ngự. Đầu tiên, Hắc Diện đem chiến xa tăng cường phòng ngự phía tây bắc, tiếp đó, hai cánh quân bộ binh chủ lực vô thanh vô tức rời khỏi đại doanh đi về hướng tây bắc. Còn Trương Sinh lĩnh kỵ binh đi về phía tây nam, cách đại doanh mười dặm, sẵn sàng đón địch.
Quân Giang Bắc chuẩn bị rất tốt việc đề phòng Thường Ngọc Thanh tập kích về đêm, chỉ có điều việc phán đoán phương hướng Thường Ngọc Thanh đánh lén lại có sai lệch…
Đầu giờ dần, bên ngoài đại doanh quân Giang Bắc đột nhiên truyền đến tiếng trống cảnh báo.
A Mạch một thân giáp trụ chỉnh tề, chỉ tựa vào bên giường chợp mắt, nghe tiếng trống lập tức bừng tỉnh, nghiêng tai lắng nghe, phát hiện tiếng trống truyền đến từ phía đông nam. A Mạch rùng mình, vội ngồi dậy, lấy bội đao chạy ra ngoài.
Bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, binh lính các doanh đã có phản ứng. Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường cũng từ trong trướng của mình chạy tới, nhìn thấy A Mạch đi ra, Lâm Mẫn Thận không khỏi hỏi: “Thanh âm là từ phía đông nam, xảy ra chuyện gì rồi?”
A Mạch không để ý tới câu hỏi của Lâm Mẫn Thận, mà quay lại trầm giọng phân phó Trương Sĩ Cường: “Lệnh cho Hắc Diện vẫn phòng thủ chặt ở phía tây bắc như trước, tránh trúng kế dương đông kích tây của Thường Ngọc Thanh. Đồng thời truyền lệnh cho Trương Sinh, đưa quân chạy tới phía đông nam quan sát kỹ, bảo đảm an toàn cho đại doanh .”
Trương Sĩ Cường lĩnh mệnh mà đi. Một lát sau, Từ Tĩnh cũng chạy đến, lại có khoái mã thám báo chạy về bẩm báo với A Mạch: “Phía đông nam đại doanh phát hiện có đại đội kỵ binh của thát tử đang giao chiến với một đội binh mã trông rất tạp nham, các phía còn lại không thấy sự xuất hiện của quân địch.”
Mọi người nghe xong đều sửng sốt, ngay cả A Mạch cũng không khỏi cảm thất kỳ quái, vội hỏi thám báo: “Binh mã nào?”
Thám báo đáp: “Cũng không rõ lắm, hình như là người của chúng ta, nhưng cách ăn mặc lại không thống nhất, binh khí cũng không phải loại được chế tạo theo hình thức trong quân.”
A Mạch chần chờ hỏi Từ Tĩnh: “Không phải là binh mã Ký Châu của Tiếu Dực giả trang đấy chứ?”
Từ Tĩnh chậm rãi lắc đầu: “Không thể.”
A Mạch hơi hơi mím môi, suy nghĩ xoay chuyển rất nhanh trong đầu. Kỵ binh Bắc Mạc từ phía đông nam đến, hiển nhiên là muốn tập kích doanh trại, đột nhiên lại xuất hiện một đội binh mã ngăn cản bọn họ… Rốt cuộc đội binh mã này là địch hay là bạn? Liệu đây có phải thủ thuật che mắt của Thường Ngọc Thanh, cố ý khiến cho quân Giang Bắc phải xuất quân nghênh chiến không?
A Mạch quay đầu lại dặn dò thám báo: “Nói với Trương Sinh, trước mắt không cần tham chiến, chỉ cần chiếm cứ địa hình có lợi theo dõi từ xa, chớ trúng kế dụ binh của thát tử!”
Thám báo vâng lệnh liền giục ngựa rời đi.
A Mạch trong lúc vô tình quét nhìn mọi người, thấy ngoại trừ Từ Tĩnh vẫn mặc thường phục, còn lại, tất cả mọi người đều giáp trụ chỉnh tề, đều một dáng vẻ như lâm đại địch. A Mạch không khỏi mỉm cười, nói với Từ Tĩnh: “Tiên sinh, chi bằng chúng ta về trướng đợi tin, ngài thấy thế nào?”
Từ Tĩnh cười cười đi theo A Mạch vào đại trướng. Mọi người cùng ở trong trướng đợi tin tức, thỉnh thoảng lại có thám báo quay về báo diễn biến ở chiến trường đông nam, không ngoài những tin như: “Trương tướng quân đã chiếm được địa hình có lợi, đưa đại quân Giang Bắc ẩn dấu ở đó”,“Kỵ binh thát tử đã rơi vào thế bại trận” ,vv…
Mọi người lại chờ một lát, bên ngoài, sắc trời đã bắt đầu tờ mờ sáng, lại có thám báo vào trướng hồi báo tình hình chiến trận: “Trương tướng quân đã đem binh sát nhập hỗn chiến, truy kích kỵ binh thát tử.”
A Mạch nhíu mày, thầm nghĩ lần này Trương Sinh đã có chút xúc động, nếu chiến cục kia là bố trí của Thường Ngọc Thanh, sợ là Trương Sinh sẽ bị thiệt thòi. A Mạch suy nghĩ một lát bèn thương lượng với Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngài ở đây trấn giữ đại dianh, ta dẫn người đi xem thế nào.”
Từ Tĩnh vuốt râu, gật đầu, A Mạch liền điểm chút binh mã ra khỏi doanh trại. Vừa mới ra khỏi doanh trại không xa, phía trước đã thấy khoái mã của thám báo hồi báo là Trương Sinh đại thắng, đích thân mang binh quay về. Chờ một lát, quả nhiên thấy Trương Sinh mang theo đại đội doanh kỵ trở về, cùng đi còn có một người nào đấy.
Trương Sinh và một người mặc áo xanh đen, trước hàng quân sóng vai mà đi. Từ xa trông thấy A Mạch đi đón vội lớn tiếng cười nói: “Đại nhân, người xem là ai đến đây!”
A Mạch nghe vậy liền nhìn phía sau Trương Sinh, nhất thời bất giác giật mình.
Chỉ thấy người nọ dáng người chính trực, khuôn mặt cương nghị, ánh mắt sáng ngời, thấy A Mạch nhìn mình cũng không hề kích động, khi đến gần mới nhìn A Mạch cười cười, khẽ gọi: “A Mạch!”
A Mạch phục hồi lại tinh thần, không biết vì sao trong mắt đột nhiên lại cảm thấy có chút nóng lên, gắng gượng nở nụ cười, kêu lên: “Đại ca.”
Chương 120
CỐ NHÂN
Trương Sinh đứng bên cạnh cười giải thích: “Đến lúc trời sắp sáng mới nhận ra là Đường tướng quân, lúc này mới vội đến hỗ trợ, ai ngờ vẫn chậm một bước, kỵ binh thát tử đều đã bị Đường tướng quân dẫn người chia nhỏ ra rồi vây đánh, ta chỉ phải đứng bên cạnh xem náo nhiệt mà thôi.”
Đường Thiệu Nghĩa cũng cười nói: “May mà có Trương Sinh, bằng không ta nhất định sẽ để không ít thát tử trốn thoát, dùng bộ binh chống lại kỵ binh mặc dù thắng cũng phải chịu tổn thất ít nhiều.”
Đang nói chuyện, thì phía sau xuất hiện một con ngựa chạy như bay tới, lập tức một hán tử cường tráng chừng ngoài ba mươi tuổi, coi như không thấy đám người A Mạch và Trương Sinh, mà hướng thẳng về phía Đường Thiệu Nghĩa bẩm báo: “Đường nhị gia, đã kiểm kê xong nhân số của thát tử, cả sống và chết tất cả vừa tròn chín trăm tám mươi hai người.”
“Một tiểu đoàn kỵ binh thát tử có một nghìn người, đây hẳn là một tiểu đoàn.”Đường Thiệu Nghĩa gật đầu nói, lại phân phó hán tử kia: “Ngươi giao hết tù binh thát tử cho quân Giang Bắc, sau đó đưa mọi người ra khỏi đại doanh quân Giang Bắc hạ trại chỉnh đốn, rồi phái người trở lại báo tin bình an cho Đại đương gia.”
Hán tử kia lên tiếng tuân mệnh rồi giục ngựa mà đi.
Trương Sinh muốn cố tình tránh đi để A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa có không gian nói chuyện, vô thức liếc mắt một cái nhìn Đường Thiệu Nghĩa, lại nhìn về phía A Mạch hỏi: “Đại nhân, ta đi xem xét một chút.”
A Mạch suy nghĩ rồi nói: “Cũng được, mọi người đều vất vả cả đêm rồi, ngươi đi xem xét, xử lý hoàn tất công việc sau trận đánh, rồi cho kỵ binh về đại doanh nghỉ ngơi, hồi phục.”
Trương Sinh lĩnh mệnh, chắp tay cáo từ Đường Thiệu Nghĩa, quay ngựa đi về phía đại đội kỵ binh.
A Mạch ghìm nhẹ dây cương, cho ngựa chạy chầm chậm cùng Đường Thiệu Nghĩa, khi đi ngang qua Lâm Mẫn Thận, Đường Thiệu Nghĩa thấy có chút quen mặt, không khỏi đưa mắt nhìn mấy lần, trong đáy mắt lóe lên một tia nghi hoặc.
A Mạch thấy vậy, liền dặn dò Lâm Mẫn Thận: “Mục Bạch, người về doanh trước báo tin cho Từ tiên sinh, nói…”
“Đại nhân.”Lâm Mẫn Thận cắt lời A Mạch, tựa cười tựa không liếc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, sau đó chậm rãi kéo hai góc áo bào, vê thành hai cục nhét vào tai, lúc này mới nói thêm: “Ngài vừa nói cái gì? Hôm nay gió lớn quá, ta không nghe rõ.”
A Mạch nhướn mày, khẽ biến sắc, lại bị Đường Thiệu Nghĩa bên cạnh ngăn lại, cười khuyên nhủ: “Đã không nghe được thì thôi vậy.”
Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Đúng vậy, đúng vậy, nói gì cũng không nghe được.”
Đường Thiệu Nghĩa có chút dở khóc dở cười, lại nghe thấy Lâm Mẫn Thận nghiêm túc nhìn A Mạch nói: “Ta là thân vệ của đại nhân, đương nhiên là muốn để đại nhân ở vị trí an toàn, bảo vệ đại nhân cũng chính là bảo vệ tiền đồ của ta, mong đại nhân lượng thứ.”
A Mạch mấp máy miệng, cuối cùng lại không nói gì. Bên cạnh, Đường Thiệu Nghĩa cười cười, không thèm để ý, giục ngựa đi lên phía trước. A Mạch hung hăng trừng mắt liếc Lâm Mẫn Thận một cái, hai chân khẽ kẹp bụng ngựa đuổi theo. Hai người yên lặng một lát, lúc này A Mạch mới làm ra vẻ tùy ý hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, huynh từ nơi nào… lạc bước đến đây?”
Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn A Mạch một cái, khóe miệng hơi cong lên, cười hỏi: “Ý ngươi muốn hỏi là ta từ đâu đến phải không?”
A Mạch nghe vậy thì có chút ngượng ngùng, nhếch miệng cuời cười.
Đường Thiệu Nghĩa nói: “Lần đó nghe ngươi nói trên núi Vân Vụ phía tây Thanh Châu có một nhóm thổ phỉ, ta đã hỏi rất nhiều người nhưng cũng không tìm được núi Vân Vụ, nhưng thật ra lại có núi Đôi Vân, ta lên đó rồi, nhưng cũng không tìm được bọn thổ phỉ như ngươi nói.”Đường Thiệu Nghĩa dừng lại, liếc mắt nhìn A Mạch, lại cười, nói tiếp: “Về sau hỏi dân bản xứ mới biết được hang ổ bọn cường đạo đều ở Nam Thái Hành, nên cứ nhằm thẳng hướng Nam Thái Hành mà đi…”
Lúc đó, anh ta cứ tưởng A Mạch trí nhớ kém, đâu biết cái gọi là núi Vân Vụ chẳng qua là do A Mạch thuận miệng bịa ra mà thôi.
Nam Thái Hành vốn nổi tiếng là hang ổ cường đạo, sau khi thát tử tấn công chiếm đóng Tĩnh Dương, Giang Bắc lại rơi vào chiến loạn, dân chúng lầm than, vì thế Nam Thái Hành lại càng nhiều thổ phỉ. Ở đây nổi danh với mười tám đầu lĩnh thổ phỉ, trong đó lớn nhất là một đầu lĩnh mà trong tay có hơn một ngàn quân, tự xưng là “Chiêm sơn vương”, hắn vốn có dự tính thu phục tất cả thổ phỉ ở Nam Thái Hành, sau đó thừa dịp loạn thế giành giật vùng Trung Nguyên, cũng có chút thành tích.
Đường Thiệu Nghĩa tiến vào Nam Thái Hành, đúng lúc “Chiêm Sơn Vương”đang hừng hực khí thế tiến hành sự nghiệp chinh phạt, mười tám sơn trại thì đã có mười ba trại bị hắn đánh hạ, chỉ còn lại Tức gia ở Thanh Phong Trại cùng với mấy sơn trại nhỏ đang khốn khổ chống đỡ. Đường Thiệu Nghĩa suy nghĩ, thấy không nên loại bỏ “Chiêm Sơn Vương”vội, mà một mình đến Thanh Phong Trại. Ban đầu chỉ lặng lẽ không ai biết đến, về sau, khi “Chiêm Sơn Vương”lại tấn công Thanh Phong Trại, Đường Thiệu Nghĩa chiến thắng như dự tính, chỉ dùng hơn chục người liền đánh lui mấy trăm thổ phỉ của “Chiêm Sơn Vương”, chém đầu Chiêm Sơn Vương, mang đến trước mặt Tức Phong, Đại đương gia của Thanh Phong Trại…
Ngữ điệu Đường Thiệu Nghĩa trầm ổn, chậm rãi đem chuyện cũ của mình từ một năm trước kể lại mà như thể đang kể chuyện của người khác. A Mạch nghe những lời nói bình thản của anh ta mà nhất thời cảm thấy trong lòng chấn động. Thời gian chưa đến một năm, từ một người mới đến thành một Nhị đương gia của Thanh Phong Trại, một trại thổ phỉ lớn nhất Nam Thái Hành, trong quá trình đó có thể tưởng tượng được có biết bao nhiêu gian khổ và hiểm nguy.
Đường Thiệu Nghĩa nói tiếp: “Về sau đem hơn mười sơn trại tại Nam Thái Hành tập hợp lại, nhưng trước đó Tức Phong đã bị nội thương, cố chịu đựng đến lúc sức tàn lực kiệt, trước khi lâm chung liền đem sơn trại giao phó cho ta. Ta cũng nói rõ với ông ta rằng ta vào rừng làm cướp là vì muốn chiêu binh mãi mã chống lại thát tử. Tức Phong tuy lỗ mãng nhưng cũng xứng với hai chữ hảo hán, chẳng những tán thành cho ta mang theo sơn trại chống lại thát tử, còn đem ngân lượng tích cóp được trong nhiều năm của Thanh Phong Trại giao cả lại cho ta nuôi quân, còn phong ta làm Nhị đương gia của Thanh Phong Trại. Vài ngày trước, ta nghe nói đại quân thát tử tấn công Thanh Châu, liền muốn đến giúp ngươi một tay, gấp rút đuổi theo nhưng cũng không thể tới kịp trận đại chiến hôm qua, song cũng không ngờ lại gặp được đội kỵ binh của thát tử đến tập kích doanh trại.”
A Mạch vẫn trầm mặc, trong lòng đang suy nghĩ nếu Tức Phong đã đem trại Thanh Phong Trại giao phó cho Đường Thiệu Nghĩa, sao Đường Thiệu Nghĩa vẫn chỉ là Nhị đương gia? Thế thì Đại vương gia là ai? A Mạch hơi mím môi, nhưng vẫn không hỏi ẩn tình trong đó.
Đường Thiệu Nghĩa nói chuyện không nhiều, kể xong những chuyện này cũng không biết phải nói gì, hai người nhất thời không khỏi đều có chút trầm mặc. Đội thân vệ đều rớt lại phía sau một đoạn, phía trước chỉ có hai người, đột nhiên trở nên yên lặng như vậy khiến bầu không khí liền có chút xấu hổ. Cổng doanh trại đã hiện ra trước mặt, A Mạch vẫn cúi đầu im lặng, cuối cùng ngẩng lên nhìn Đường Thiệu Nghĩa hỏi: “Đại ca còn giận ta không? Ta…”
A Mạch mở miệng nhưng lại không nói được.
Đường Thiệu Nghĩa im lặng trong chốc lát, thần thái bình tĩnh đáp: “A Mạch, ngươi làm tốt hơn ta rất nhiều.”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức liền nở nụ cười nhẹ nhõm, nàng thúc ngựa vượt lên trước vài bước, sau đó giơ roi chỉ vào đại doanh quân Giang Bắc nhấp nhô nối liền nhau phía trước, cười nói: “Đại ca xem, đây chính là quân Giang Bắc trong tay ta, Thường Ngọc Thanh tuy rằng có mấy vạn kỵ binh tinh nhuệ, há có thể làm khó dễ được ta sao?”
Đường Thiệu Nghĩa khẽ mỉm cười, đón tia nắng ban mai nhìn về phía A Mạch, cánh tay nàng nâng lên vững vàng, thắt lưng ngồi thẳng tắp, ánh mắt lộ ra thần sắc kiêu hãnh, ngay cả giọng nói cũng toát lên sự hào hứng và tiêu sái: “Ta, trước có Thanh Châu cản mũi thát tử, sau có Ký Châu làm hậu thuẫn, còn phải e ngại thát tử sao? Chỉ cần vài năm nữa, ta có thể đuổi thát tử ra khỏi Tĩnh Dương, thu hồi lại Giang Bắc.”
Mọi người ở trong doanh trại nhận được tin, sớm đã chờ ở ngoài cổng doanh trại, thấy Phiêu Kị tướng quân, Tả phó tướng quân Giang Bắc ngày nào cuối cùng lại vào rừng làm cướp, không khỏi đều có chút ca thán, cùng Đường Thiệu Nghĩa hàn huyên vài câu, sau đó cùng anh ta và A Mạch đi vào lều chủ soái.
Trong lều, Đường Thiệu Nghĩa cung kính hướng Từ Tĩnh hành lễ mà chào: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh mỉm quan sát Đường Thiệu Nghĩa một lát, lúc này mới nói: “Đường tướng quân, đã lâu không gặp.”
Về phía các tướng lĩnh, A Mạch đơn giản nói chuyện Đường Thiệu Nghĩa mang binh đến viện trợ, đúng lúc gặp kỵ binh thát tử tập kích, mọi người nghe xong ai cũng đều than lên một tiếng ‘nguy hiểm’, không ai nghĩ Thường Ngọc Thanh lại không hề động tĩnh gì ở hướng Tây Bắc, mà kỵ binh thát tử lại đến từ phía Đông Nam. Một lúc sau, Trương Sinh hoàn tất việc bàn giao đội ngũ cho Thanh Phong Trại liền trở về phục mệnh. Lý Thiếu Hướng nghe nói toàn bộ một doanh kỵ binh thát tử bị tiêu diệt, liền có chút không đợi được, ánh mắt hăng hái hướng về phía màn trướng đang lay động trong gió. A Mạch sao lại không nhìn thấy tâm tư của anh ta, liền cho tất cả mọi người ra ngoài, chỉ lưu lại anh ta ở trong trướng.
Trong lòng Lý Thiếu Hướng vô cùng sốt ruột, nhưng Đường Thiệu Nghĩa đang ở trong trướng nên cũng không dám nói rõ, không thể làm gì khác hơn đành đưa mắt làm ám thị cho A Mạch rằng: ‘Nếu muộn một bước, trang bị kỵ binh thát tử đều rơi tay thổ phỉ Thanh Phong Trại a.’
A Mạch làm như không thấy ám thị của Lý Thiếu Hướng. Về sau, Lý Thiếu Hướng rõ ràng cũng hết hy vọng, cúi đầu nghe A Mạch cùng Từ Tĩnh thương lượng làm cách nào để “tặng lễ”cho Tiếu Dực ở Ký Châu. Đúng lúc đó, Phó tướng quân Giang Bắc Mạc Hải cho người đưa tin tới, nói đêm qua kỵ binh của Phó Duyệt quả nhiên chia binh lực âm thầm vượt sông Tử Nha đánh lén quân ta, may mà phần lớn quân ta đã hạ trại đóng quân từ trước, chỉ có bộ binh doanh truy kích phía trước bị thát tử lầm tưởng là quân chủ lực Giang Bắc, lọt vào ổ phục kích nên bị tổn thất nghiêm trọng. Kỵ binh thát tử đồng loạt rời khỏi, sáng nay đã đi rất nhanh về hướng Tây, giờ xin chỉ thị của A Mạch có tiếp tục truy đuổi nữa hay không.
A Mạch dặn dò tên lính liên lạc: “Nói với Mạc Hải không cần để ý tới thát tử, chỉnh đốn binh mã xong thì quay về.”Nói xong quay đầu hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ta cho Mạc Hải đưa ngài đến Ký Châu, được chứ?”
Từ Tĩnh vuốt vuốt râu, gật đầu nói: “Được.”
A Mạch lại quay lại phân phó Lý Thiếu Hướng: “Ngươi đem tất cả chiến mã của thát tử bắt được hôm qua giao cho Mạc Hải làm lễ vật tặng cho Tiếu Dực.”
Lý Thiếu Hướng nghe vậy liền giãy nảy lên: “Như vậy sao được, chúng ta rất thiếu chiến mã! Sao có thể tặng cho Tiếu Dực? Hơn nữa…”
“Ngươi nuôi được sao?”A Mạch đột nhiên hỏi, cắt lời Lý Thiếu Hướng.
“Hả?”Lý Thiếu Hướng sửng sốt, giương miệng đang muốn trả lời, A Mạch lại lặp lại một lần nữa: “Ta hỏi ngươi hiện giờ lấy gì để nuôi chiến mã?”
Lý Thiếu Hướng lập tức ủ rũ nhìn xuống, nheo mắt chớp chớp mấy cái, tuy nhìn A Mạch nói không nên lời, nhưng rõ ràng là không cam lòng.
A Mạch cùng Từ Tĩnh nhìn nhau, cùng nở nụ cười, nói với Lý Thiếu Hướng: “Ngươi yên tâm, ngươi đem tặng bao nhiêu chiến mã, thì Tiếu Dực cũng sẽ phải hoàn lại không thiếu cho ngươi, ngoài ra cũng không thiếu phần lương thực của ngươi.”
Lý Thiếu Hướng hồ đồ, nghi hoặc nhìn A Mạch, lại nhìn Từ Tĩnh. Từ Tĩnh liếc mắt xem thường, tức giận nói: “Được rồi! Nhất định sẽ khiến ngươi ăn không hết!”
Từ Tĩnh mang Lý Thiếu Hướng đi ra ngoài chuẩn bị đi Ký Châu, trong trướng chỉ còn lại A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa. A Mạch trầm mặc trong chốc lát, rồi hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại ca….” Nàng còn chưa dứt lời Đường Thiệu Nghĩa đã cắt ngang: “Ta về Thanh Phong Trại.” A Mạch có chút im lặng, sau đó lập tức lại cười sảng khoái nói: “Được! Ta đưa đại ca ra khỏi doanh trại.”
Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch, môi mấp máy mấy lần, muốn nói lại thôi, cuối cùng cũng là không nói gì.
Một mình A Mạch đưa Đường Thiệu Nghĩa ra khỏi doanh trại, trên đường, hai người đều trầm mặc không nói gì, mãi đến lúc sắp chia tay mới nghe Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lên tiếng gọi nàng: “A Mạch.”
A Mạch nghe vậy ngẩng đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa nhàn nhạt cười, hỏi: “Đại ca, chuyện gì?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng không nhìn A Mạch, đưa tầm mắt chuyển hướng nhìn dãy lều trại dựng tạm của đội ngũ Thanh Phong Trại phía xa xa, chậm rãi nói: “Bọn họ đều quen tự do, sống phân tán, từ xưa đối với quan binh vốn có nhiều khúc mắc, hiện giờ chưa thích hợp để nhập vào trong quân.”
Trong lòng A Mạch vừa thấy áy náy lại vừa cảm động, trong khoảng thời gian ngắn cũng không biết nói gì cho phải, cúi đầu trầm mặc một lúc mới nói: “Đại ca, có một số việc ta đã làm, nói thêm nữa cũng là vô dụng, chỉ có một câu có thể nói với đại ca, A Mạch chắc chắc sẽ đuổi thát tử ra khỏi Tĩnh Dương.”
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa lộ ra nụ cười ôn hòa, hiền hậu, quay lại nhìn A Mạch, đưa cánh tay phải về phía nàng, A Mạch hơi mím môi, có chút ngập ngừng đưa tay ra nắm lấy bàn tay của anh ta. Đầu ngón tay của Đường Thiệu Nghĩa hơi run rẩy, nắm chặt lấy bàn tay của A Mạch, thấp giọng hỏi: “A Mạch, ngươi còn nhớ rõ câu nói ở ngoài thành Thái Hưng chứ?”
A Mạch giật mình, gật đầu: “Nhớ rõ, ta nói, chúng ta nhất định phải còn sống.”
Đường Thiệu Nghĩa nở nụ cười: “Tốt lắm, chúng ta nhất định phải còn sống!”
Anh ta dùng sức nắm chặt bàn tay A Mạch, tầm mắt nhìn thẳng trên mặt A Mạch mấy lần mới chậm rãi buông lỏng tay ra, hướng về phía A Mạch cười sáng lạn, sau đó quay người, giục ngựa tiến lên phía trước, phi thẳng ra hơn mười trượng mới nhẹ nhàng ghìm dây cương, cũng không xoay người lại nhìn A Mạch, chỉ đơn giản là dừng lại, rồi sau đó liền giục ngựa phóng về phía trước.
Đội quân Mạc Hải đã về, A Mạch lệnh cho anh ta trực tiếp lĩnh một vạn binh cùng Từ Tĩnh đến Ký Châu, số còn lại sẽ do nàng đưa về Thanh Châu.
Trong thành Thanh Châu sớm đã nghe được tin chiến thắng của quân Giang Bắc, Tả phó tướng quân Giang Bắc Tiết Vũ ẩn náu trong thành, trước thì mang binh khống chế bốn cửa thành Thanh Châu, ổn định tình hình trong thành, sau mở cửa thành nghênh đón A Mạch.
Một trận này mặc dù binh lực quân Giang Bắc có chút tổn hại, song lại đánh tan được mấy vạn kỵ binh trang bị đầy đủ của Thường Ngọc Thanh, có thể nói là đại thắng, sĩ khí toàn quân trên dưới đều lên cao. Đồng thời, do trong thành Tiết Vũ đã phái người tán thưởng quân Giang Bắc khắp nơi, đó là quân Giang Bắc vì sợ dân chúng trong thành phải chịu thương vong mà cố ý đem chiến trường dời ra ngoài thành, vì thế nên những hoang mang, áp lực nhiều ngày qua của dân chúng thành Thanh Châu đối với quân Giang Bắc nhất thời đều chuyển thành nhiệt tình. Mấy vạn bách tính reo hò khắp các nẻo đường chào đón đại quân Giang Bắc vào thành, khiến cho chư tướng quân Giang Bắc quả thực được một phen thỏa chí làm anh hùng đến phát nghiện, không khỏi trên mặt mỗi người đều tăng thêm vài phần hưng phấn cùng kích động.
Chỉ có khuôn mặt A Mạch vẫn như thường ngày, bình thản, trong trẻo nhưng lạnh lùng, thậm chí ngay cả khi khóe miệng hơi cong lên nhưng trong đáy mắt vẫn không thấy một tia vui sướng. Cùng lắm mới chỉ qua hai, ba ngày chiến tranh, trong thành Thanh Châu đã đổ nát không ít, cửa hàng hai bên ngã tư đường đều đã bị người dân phá hỏng trong lúc hỗn loạn, có mấy cửa hàng bên trong đã bị loạn dân đánh cướp hết sạch. Mặc dù vậy, dân chúng trong thành đối với quân Giang Bắc vẫn là cảm động đến rơi nước mắt, bởi vì quân Giang Bắc đã bảo vệ thành Thanh Châu, giúp bọn họ tránh được sự tàn phá của chiến tranh, tránh được cảnh thát tử cướp bóc, tránh được nỗi khổ lang bạt đầu đường, xó chợ… Cái bọn họ cần chẳng qua chỉ là cầu cho có cơm ăn, có áo mặc, có nhà ở!
Trong đám người quỳ sát bên đường ấy, có một đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi, lén ngẩng đầu tò mò quan sát đội quân uy vũ, oai phong, trong mắt tràn đầy sự sùng bái cùng kính sợ… Tầm mắt A Mạch chậm rãi đảo qua ngã tư hai bên đường, cảm giác trong lòng vô cùng phức tạp, những bách tính quỳ sát mặt đất đang cảm động đến rơi nước mắt này có biết rằng khi nàng đưa binh ra khỏi thành Thanh Châu, kỳ thật là muốn bỏ lại thành Thanh Châu, muốn…bỏ rơi bọn họ?
chương 121
XƯNG SOÁI
Chỉ một trận chiến ở Thanh Châu, A Mạch liền nổi danh.
Quân Giang Bắc tổng cộng tiêu diệt được hơn hai vạn quân Bắc Mạc, khiến cho “Sát tướng” Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh phải lui về trấn giữ Võ An, nhất thời không thể tiếp tục tấn công Thanh Châu. Cùng lúc đó, chủ tướng quân Giang Bắc Mạch Tuệ, người vốn bắt đầu binh nghiệp chỉ là một tên lính quèn, cuối cùng dựa vào mỗi trận chiến đều giành được thắng lợi, thành tích vang dội hiếm có mà được liệt vào hàng danh tướng tứ quốc.
Trong thành phủ Thanh Châu, theo sự căn dặn từ trước của A Mạch, linh đường đã được chuẩn bị để làm lễ tế cho năm ngàn bảy trăm hai mươi chín tướng sĩ đã hy sinh trong trận đánh, bài vị vẫn còn chưa khô nét mực bầy đầy cả ba gian phòng. A Mạch phá lệ mặc quần áo trắng, thủ giữ linh đường trong ba đêm.
Đợi cho đến sáng sớm ngày thứ tư, A Mạch một mình rời khỏi linh đường, vừa mới đi đến một ngõ nhỏ liền thấy Lâm Mẫn Thận đang chờ ở phía trước cách đó không xa. “Ngươi quả thực không nên thủ giữ ở đó ba đêm,” Lâm Mẫn Thận khẽ cười nói, “Ngươi nhìn những người cùng gác đêm trong đó xem, có ai râu ria không mọc lởm chởm trên mặt như gốc rạ không? Chỉ có ngươi là da mặt vẫn bóng loáng như lúc ban đầu, ngươi chẳng lẽ không sợ bị người có tâm nhận ra sao!”
A Mạch sao lại không biết tính nết Lâm Mẫn Thận, nói năng khó nghe chẳng qua vì trong lòng chất chứa nỗi ấm ức mà thôi! Anh ta thân là con cháu quan lại, tòng quân chẳng qua vì muốn lấy được chút quân công, ai ngờ Thương Dịch Chi lại an bài anh ta làm thân vệ, quân Giang Bắc đã đánh thắng nhiều trận như vậy, nhưng bản thân anh ta đến một chút quân công cũng không có, khó tránh khỏi ăn nói chua ngoa.
A Mạch vẫn không dừng bước, nhìn phía trước không chớp mắt mà đi qua trước mặt Lâm Mẫn Thận. Thái độ coi thường này của nàng khiến cho Lâm Mẫn Thận tức giận, không chút suy nghĩ liền nhanh chóng đưa tay nắm lấy bả vai A Mạch. A Mạch không tránh né, mặc kệ cho anh ta khống chế vai mình, chỉ quay đầu lại nhìn anh ta, hờ hững nói: “Nếu thực sự là người có tâm, sẽ chỉ nhìn thấy năm ngàn bảy trăm hai mươi chín bài vị trong linh đường, sẽ không đưa ánh mắt đặt lên da mặt của ta!”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, ngay sau đó mỉa mai nói: “Ngươi chăng qua là muốn lôi kéo lòng người! Ngươi thắng trận như vậy, trong lòng không biết còn có bao nhiêu cao hứng, cũng không nên làm bộ làm tịch như thế, chẳng lẽ trước đây đánh giặc không có ai chết hay sao? Cũng không thấy ngươi…”
“Ta chính là muốn lôi kéo lòng người đấy!” A Mạch nói tiếp, rồi hỏi vặn lại Lâm Mẫn Thận: “Thế thì sao?”
Đến thế thì Lâm Mẫn Thận cũng phải nghẹn giọng, đúng lúc ngươi đang tích cóp những lời ngoan độc, đang chuẩn bị để chỉ trích kẻ khác là vô liêm sỉ, nhưng trước khi ngươi kịp chỉ trích thì kẻ đó đã “Dũng cảm” thừa nhận mình là kẻ vô liêm sỉ, ngươi ngoài việc tức đến nghẹn thở thì còn làm được gì nào?
A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận như thế, lại cố ý chọc giận anh ta: “Ngươi cũng chỉ có thể đỏ mặt tía tai mà thôi, ai bảo ngươi hiện giờ lại chỉ là một thân vệ của ta! Nếu Thương Dịch Chi cho ngươi mai danh ẩn tích đến làm một tên thân vệ nhỏ bé, cũng sẽ không tính toàn để cho Lâm Mẫn Thận ngươi lập được quân công, ngươi sẽ cam tâm sao? Không cam tâm thì làm được gì? Nếu Lâm gia của ngươi đã lựa chọn làm ngoại thích(1), thì anh ta sao có thể để ngươi nắm binh quyền trong tay?” Nói tới đây, A Mạch dừng lại, khóe môi khẽ nhếch lên, mỉa mai nói: “Ta thấy ngươi vẫn nên ít buồn phiền thôi, cứ thành thật mà chờ làm anh vợ của hoàng đế đi!”
Lâm Mẫn Thận buông lỏng tay ra, yên lặng không nói gì nhìn A Mạch, trong mắt âm ỷ lửa giận. A Mạch cười nhạo một tiếng, xoay người bước đi, được vài bước lại dừng lại, hướng về phía Lâm Mẫn Thận lạnh giọng nói: “Chỉ có điều, ngươi cũng phải cảm tạ anh ta phái ngươi đến đây làm thân vệ, nếu không, e là ngươi đã chết ở trong tay ta rồi.”
A Mạch nói xong liền đi, chỉ vừa mới ra khỏi ngõ đã nghe thấy phía sau truyền đến một tiếng“Ầm”, hình như có thứ gì va rất mạnh vào tường. Đúng lúc đó, Trương Sĩ Cường từ phía đối diện A Mạch đang đi đến, nghe thấy tiếng động vội vàng hốt hoảng chạy tới, căng thẳng hỏi: “Đại nhân, xảy ra chuyện gì?” khóe miệng A Mạch khẽ cong lên, ngữ khí nhẹ nhàng nói: “Không có chuyện gì, có thể là Mục Bạch đi đường không nhìn, nên đập đầu vào đâu đó, ngươi qua đó xem thế nào.”
Trương Sĩ Cường kinh ngạc đưa mắt nhìn A Mạch, liền nghiêng người nhìn vào trong ngõ, quả nhiên thấy Lâm Mẫn Thận vẫn còn ở đó. Trương Sĩ Cường vội vàng chạy đến, thấy Lâm Mẫn Thận chỉ khoanh tay đứng đó, bức tường bên cạnh quả nhiên bị lõm một chỗ, xung quanh đều bị rạn nứt. Trương Sĩ Cường không khỏi hoảng sợ, lẩm bẩm nói: “Mục Bạch, đầu của ngươi… cứng thật!”
Ngày hai mươi mốt tháng tư, Từ Tĩnh từ Ký Châu trở về, ngoại trừ Mạc Hải và một vạn quân Giang Bắc đi cùng, còn có Tiếu Dực, thủ thành Ký Châu. Tiếu Dực ước chừng năm mươi tuổi, thân hình cao lớn, mặt rộng miệng vuông, vừa nhìn đã thấy là một người phóng khoáng, chính trực, lần đầu gặp A Mạch mặt liền nói thẳng: “Mạch tướng quân chớ vì chuyện trước đây mà giận tại hạ, vì tình hình Thịnh Đô bây giờ đang rất phức tạp, tại hạ chỉ sợ khiến cho Thương soái gặp phải phiền toái, thật không dám đi nhầm bước nào, tất cả rơi vào đường cùng mới để cho Tiết Vũ quay về tay không, song trong lòng vốn vẫn nghĩ sẽ âm thầm đưa lương thảo đến cho tướng quân.”
A Mạch thân thiết cầm tay Tiếu Dực đón vào thành thủ, vừa đi vừa cười, nói: “Tiếu tướng quân nghĩ quá nhiều rồi, ngươi và ta cùng thờ một chủ, sao Mạch mỗ lại không biết nỗi khổ tâm của Tiếu tướng quân?”
Tiếu Dực thở phào nhẹ nhõm, than thở: “May mà được tướng quân thông cảm, có thể gặp được tướng quân quả thật là chuyện may mắn của tại hạ!”
A Mạch ha ha cười gượng hai tiếng, nói: “Tiếu tướng quân quá khen, là Mạch mỗ trước đây làm việc thiếu suy nghĩ, trong lòng Mạch mỗ vốn vẫn cảm thấy bất an, lần này đại thắng kỵ binh thát tử thu được rất nhiều ngựa tốt, liền muốn đem tặng cho Tiếu tướng quân để bày tỏ thành ý xin lỗi, chứ không có ý nào khác, ai ngờ Tiếu tướng quân không những không nhận, chẳng những trả lại cho Mạch mỗ, lại còn tặng thêm rất nhiều lương thảo, khiến cho Mạch mỗ thật sự lấy làm xấu hổ!”
Tiếu Dực trợn mắt, ngay thẳng nói: “Tướng quân nói vậy là sao! Ta ở Ký Châu, trong quân đội lại không xây dựng cơ cấu kỵ binh, sao có thể dùng nhiều chiến mã như vậy, chỉ tổ lãng phí. Lại nói đến lương thảo. Lần trước khi Tiết Võ trở về, tại hạ vẫn luôn âm thầm chuẩn bị, đang nghĩ tới chuyện đưa đến cho tướng quân, ai ngờ Từ tiên sinh và Mạc Hải tướng quân lại đến,” Nói tới đây, Tiếu Dực ha ha cười, lại nói tiếp: “Tại hạ liền trộm quay lại, để Mạc Hải tướng quân tiện thể đem về, xin tướng quân chớ trách, chớ trách!”
Hai người cứ câu qua, câu lại như vậy mà tiến vào phòng quân nghị, phân chủ khách mà ngồi, lại đàm luận một hồi về chiến thắng thiết kỵ thát tử của quân Giang Bắc, Tiếu Dực khen ngợi A Mạch một hồi, sau lại đột nhiên nghiêm sắc mặt nói: “Lão Tiếu ta tính tình ngay thắng, có mấy lời này muốn nói cùng tướng quân, chỉ có điều là không biết có nên nói hay không.”
A Mạch cầm chén trà trong tay, chậm rãi đặt lên bàn trà, nói: “Tiếu tướng quân không phải người ngoài, mời ngài cứ nói!”
Tiếu Dực chần chờ một chút, lúc này mới nói tiếp: “Tướng quân, ngài từ lúc đưa binh ra khỏi Thái Hưng, cái gì làm cũng rất tốt, chỉ duy nhất có một việc là làm không tốt!”
A Mạch khẽ nhướn mày nhìn Tiếu Dực: “Ồ?”
Tiếu Dực khẩn thiết nói: “Ngài không nên xưng là tướng quân Giang Bắc, mà đáng lẽ, ngài sớm nên xưng là nguyên soái!”
A Mạch sửng sốt, trong đầu đột nhiên nhớ lại rất lâu trước kia, khi sống cùng cha mẹ, mỗi khi mẫu thân muốn nhờ vả phụ thân điều gì, mẫu thân sẽ luôn bày ra vẻ mặt nghiêm túc nhìn phụ thân, sau đó phê bình: “Ông chủ Mạch, huynh cái gì cũng tốt, chỉ duy nhất một thứ là không tốt!” Sau đó thở dài, dừng lại một chút, rồi nghiêm trang nói: “Huynh khi trưởng thành quá soái đi!”
Lúc đó, phụ thân sẽ luôn vui vẻ cười, sau đó mặc kệ mẫu thân đòi cái gì, người cũng đều đáp ứng. Sau này, đến khi nàng đã hiểu chuyện, nàng sẽ ở bên cạnh chê cười mẫu thân, mẫu thân lại sẽ vô cùng nghiêm trang mà giáo huấn nàng: “Cười cái gì mà cười! Phải nhớ rằng, nếu muốn vỗ mông ngựa người ta thì nhất định phải không sợ mất liêm sỉ!”
……
A Mạch rời tầm mắt khỏi Tiếu Dực, khẽ cúi đầu, cố gắng lắm mới nén nổi một tràng cười. Lại nghe Tiếu Dực thành khẩn nói: “Ngài mấy lần dẫn quân đánh bại thát tử, lúc này lại khiến kỵ binh của Thường Ngọc Thanh thất bại nặng nề, làm giảm mạnh uy phong của thát tử, uy danh của ngài đã vang dội khắp tứ quốc. Luận quân công hay luận tư cách, ngài đều sớm nên xưng soái, hơn nữa, nếu ngài xưng soái, sẽ khiến cho hoàng đế cảm thấy nỗi nghi ngờ của mình với Thương soái là vô căn cứ, trái lại, nếu ngài vẫn để trống soái vị, hoàng đế sẽ cho rằng ngài giữ lại ngôi vị đó là để giành cho Thương soái!”
Trước mặt Tiếu Dực, lần đầu tiên A Mạch cảm thấy da mặt mình vẫn còn chưa đủ dày, nên đành phải miễn cưỡng nói: “Chuyện này cần phải bàn bạc kỹ hơn.”
Tiếu Dực lại khuyên vài câu, thấy A Mạch vẫn không chịu, liền chuyển sang đề tài khác. Hai người lại nói chuyện phiếm một lát, Tiếu Dực mượn cớ đi đường mệt nhọc liền xin phép được đi xuống nghỉ ngơi, A Mạch tiễn ông ta ra khỏi phòng quân nghị, rồi cho Mạc Hải đưa ông ta đến khách phòng nghỉ ngơi, còn mình lại xoay người lại trở về phòng quân nghị, yên lặng ngồi một lát rồi bật cười xì một tiếng.
Lâm Mẫn Thận nghe thấy tiếng nàng cười liền từ ngoài cửa tiến vào, tùy ý ngồi xuống, nói: “Ông ta chẳng qua là muốn tự cấp cho mình chức vụ phó nguyên soái, nhưng cũng nên mặt dày như thế!”
A Mạch vui tươi hớn hở nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Đúng vậy, ông ta cổ vũ ta làm nguyên soái, chính là muốn bản thân lên làm phó nguyên soái.”
Lâm Mẫn Thận lạnh lùng nhìn A Mạch: “Ngươi thật muốn làm nguyên soái?”
A Mạch cũng là không đáp, chỉ cười nói: “Ngươi thật đúng là nên bái ông ta làm thầy mà học, người ta đây mới chân chính là văn võ toàn tài, mỗi câu đều toàn lời hay ý đẹp! Không giống như ngươi, chỉ biết bôi bôi vẽ vẽ lên mặt!”
Lâm Mẫn Thận vốn luôn bị A Mạch chế ngạo, sớm đã tập mãi thành thói quen, nghe xong cũng không giận, chỉ lạnh lùng nhìn A Mạch. A Mạch thấy anh ta như thế, liền thu lại vẻ trêu tức trên mặt, thản nhiên nói: “Ta sớm đã có tâm xưng soái, chỉ có điều trước đây chưa lập được quân công, e rằng không thể khiến mọi người tâm phục khẩu phục, hiện giờ ta đánh bại tinh kỵ binh của Thường Ngọc Thanh, nhẹ nhàng hạ được Ký Châu, chớ nói ở Giang Bắc, mà ngay cả ở tứ quốc cũng đã nổi danh, lúc này không xưng soái còn đợi đến khi nào?”
Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì trợn mắt há mồm, mãi một lúc lâu sau mới thở dài nói: “May mà ngươi vẫn là một nữ tử, da mặt sao lại có thể dày đến như vậy!”
A Mạch khẽ cười một tiếng, nói không khoan nhượng: “Ta da mặt dày hay không dày không quan trọng, cái chính là cảm thấy làm măng tre mọc trên sườn núi ngược lại càng khiến cho mọi người nhạo báng.”
Lâm Mẫn Thận thấy khó hiểu, theo bản năng hỏi: “Măng tre mọc trên sườn núi thì sao?”
A Mạch cười nói: “Măng tre trên đỉnh núi này, lớp vỏ bên ngoài thì dày mà bên trong lại rỗng! Lâm tể tướng chỉ có ngươi là con trai độc nhất, nhất định sớm đã thất vọng vạn phần, lại như ngươi lúc này, ta thấy vẫn ít có giao thiệp tốt với triều đình, tránh làm hỏng chiêu bài của Lâm tể tướng.”
Lâm Mẫn Thận đầu tiên là sửng sốt, sợ run người, một lát sau lại cúi đầu im lặng không nói gì. A Mạch đang cảm thấy kỳ quái, lại nghe Lâm Mẫn Thận có chút thiểu não nói: “Kỳ thật, ta cũng không thích tham dự vào việc triều chính.”
Lần này, đổi lại lại là A Mạch trố mắt, Lâm Mẫn Thận ngẩng đầu nhìn nàng, cười tự giễu, thản nhiên nói: “Ta không sợ ngươi chê cười, nếu không phải gia phụ chỉ có ta là con trai duy nhất, ta sẽ không tham gia vào chuyện của triều đình, triều đình sao có thể so được với giang hồ, bất chấp ân oán, tiêu sái khoái hoạt!”
A Mạch sớm đối với một thân võ công của Lâm Mẫn Thận mà cảm thấy kỳ quái, theo lý thì anh ta là một thế gia đệ tử, nếu có học thì cũng nên học chút thơ văn quyền mưu linh tinh, sao lại tập võ công cao thâm như thế?
Lâm Mẫn Thận thấy ánh mắt A Mạch lộ ra vẻ tò mò, lập tức cũng không kiêng dè, cười giải thích: “Ta khi còn bé thể chất rất yếu ớt, gia phụ sợ ta nuôi không lớn, nên mới gọi người mang đi tập võ, khi trưởng thành lại học những hiệp khách hành tẩu giang hồ, hai năm trước mới trở lại nhà ở Thịnh Đô.”
A Mạch hiếm khi thấy Lâm Mẫn Thận thẳng thắn, thành khẩn như thế, không khỏi có chút kinh ngạc, trầm mặc một lát liền giải thích việc xưng soái: “Chuyện xưng soái mà Tiếu Dực nói không phải là không có đạo lý, nếu ta không xưng soái, cuối cùng sẽ khiến hoàng đế nghi kỵ Thương soái.”
Khẩu khí của Lâm Mẫn Thận cũng dịu đi, cười nói: “May mà ta biết ngươi là một nữ tử, nếu không ngay cả ta cũng sẽ cho rằng ngươi sau lưng chủ cố ý làm càn.”
A Mạch cười, nói: “Ta sẽ phái người đi xin chỉ thị của Thương soái một tiếng, để xem anh ta quyết định như thế nào.”
Lâm Mẫn Thận suy nghĩ rồi hỏi: “Ngươi định phái ai về Thịnh Đô?”
A Mạch đúng là đã nghĩ đến việc phái người lén trở về Thịnh Đô, nhưng lại chưa quyết định chọn ai, nghe Lâm Mẫn Thận hỏi như thế, liền hỏi ngược lại: “Sao? Ngươi chọn được ai sao?”
Lâm Mẫn Thận hơi chần chờ, rồi cười nói: “Nếu ngươi muốn phái người về Thịnh Đô, ta thật ra có thể thay ngươi đi một chuyến.”
A Mạch cũng là trầm mặc không nói, Lâm Mẫn Thận ở Thịnh Đô đã là một kẻ “Tử trận”, để cho anh ta về Thịnh Đô, ngay cả khi anh ta võ công cao cường, cũng khó tránh khỏi vài phần nguy hiểm, một khi bị kẻ khác phát hiện…
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch lộ vẻ chần chờ, liền thản nhiên đáp: “Ta về Thịnh Đô vì muốn gặp một người.”
——————-
Chú thích:
1- Ngoại thích: bên ngoại, họ ngoại.
chương 122
HÔN SỰ
Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch lộ vẻ chần chờ, bình thản đáp: “Ta cũng cần gặp một người ở Thịnh Đô”
A Mạch hơi trầm ngâm, cười nói: “Vậy cũng tốt, làm phiền ngươi đi một chuyến đến Thịnh Đô, nhân tiện giúp ta hai việc. Thứ nhất, đến bộ phận quân giới tìm cách bắt cóc vài thợ thủ công biết phương pháp chế hoả súng, thứ hai, tìm một số thợ rèn lành nghề, lén đưa đến Giang Bắc”.
Lâm Mẫn Thận cũng từng nghe nói về hoả súng. Tiền triều từng xuất hiện một loại hoả khí, nhìn thì đẹp nhưng lại không hữu dụng, tầm bắn ngắn lại chậm, không chuẩn, hơn nữa, chỉ sử dụng được vài lần là hư hỏng nặng. Nói trắng ra hoả khí này chỉ mang tính hù doạ là chính chứ ít sử dụng trong thực chiến. Cho nên hiện tại bộ phận quân giới trong triều vẫn còn thợ chuyên môn nhưng trong quân lại không trang bị hoả khí này. Lâm Mẫn Thận trong lòng cảm thấy nghi hoặc, song thấy A Mạch cũng không có ý giải thích nên gật đầu nói: “Chuyện này dễ thôi, ta có thể thuận tiện mang về”.
A Mạch khoé miệng khẽ động: “Tốt lắm, ngươi mau về chuẩn bị lên đường, ta chờ tin của ngươi”.
Lâm Mẫn Thận cũng cười nói: “Có gì cần chuẩn bị đâu, ta lập tức lên đường”.
Nói xong lập tức xoay người rời đi, để lại A Mạch sửng sốt đứng nhìn, đến khi Lâm Mẫn Thận ra khỏi phòng, A Mạch mới hồi phục tinh thần gọi lớn: “Quần áo, mau thay đổi quần áo!”
Lâm Mẫn Thận cười vang: “Yên tâm, không làm hư chuyện của ngươi đâu”. Lời còn chưa dứt, đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Tháng năm, năm Thịnh Nguyên thứ năm.
Trong thành Thanh Châu thật náo nhiệt, tướng thủ thành Ký Châu đến ở lại Thanh Châu từ tháng tư đến nay vẫn chưa rời đi, ông ta đã nhiều lần khuyên A Mạch xưng soái, nhưng nàng vẫn luôn mỉm cười không trả lời nên tạm thời bỏ qua, mỗi ngày đều mời khách uống rượu, bồi dưỡng tình cảm với chư tướng quân Giang Bắc. Một lần trong tiệc rượu, nghe nói thống lĩnh lâm thời của bộ binh doanh Hạ Ngôn Chiêu còn độc thân, liền đứng ra làm mai mối, muốn đem em của Tiết Võ gả cho.
Trái ngược với thành Thanh Châu đang trong cảnh náo nhiệt, thành Võ An lại mang chút tiêu điều. Trong trận chiến Thanh Châu, ngoại trừ Phó Hướng lĩnh ba ngàn quân tiên phong, đại quân còn lại tổn thất trầm trọng, tướng quân Thường Ngọc Tông trọng thương bỏ mạng. Thường Ngọc Tông vốn là con thứ mười một của Thường gia, từ nhỏ tính tình nhu thuận nên được các bậc trưởng bối yêu chiều, lần này theo Thường Tu An xuất chinh Nam Hạ là muốn giúp Thường Ngọc Thanh một tay, bồi dưỡng thêm phần lịch duyệt trên chiến trường, không ngờ lại chết bởi hạng người vô danh trong quân Giang Bắc. Thường Tu An nước mắt ròng ròng, tự tay đặt Ngọc Tông vào áo quan đưa về Bắc Mạc.
Mãi đến giữa tháng năm, Trần Khởi đối với việc bại trận của Thường Ngọc Thanh tại Thanh Châu lúc này mới đến Võ An: lệnh cho Thường Ngọc Thanh giao binh quyền cho Phó Hướng, ngay hôm đó lập tức trở về Dự Châu đợi lệnh.
Cục diện Dự Châu sớm đã ổn định, tổng hành dinh của đại quân Bắc Mạc được đặt ở đó, Thường Ngọc Thanh lần này trở về chỉ hưởng nhàn mà thôi. Thường Tu An mới từ kinh trở về, nghe vậy giận dữ, lớn tiếng mắng: “Thằng nhãi Trần Khởi này thật khinh người quá đáng, ai có thể bảo đảm bách chiến bách thắng, trên kinh còn chưa nói gì, hắn lại muốn hạ binh quyền trong tay Thường gia ta”.
Ánh mắt Thường Ngọc Thanh so với trước kia có vài phần lãnh đạm, nghe vậy chỉ thản nhiên nói: “Là do ta quá khịnh địch mới bị thất bại tại Thanh Châu, chẳng thể trách người khác”.
Thường Tu An nhất thời oán khí bốc cao, tới nửa ngày mới tiêu bớt, vô lực ngã ngồi trên ghế, thở dài: “Trong nhà vốn định dựa vào thời cơ ở Ký Châu mà nắm lấy một nửa binh quyền, ai ngờ lại gặp đại hạn tại Thanh Châu, thật sự là tổn thương không ít”.
Thường Ngọc Thanh sắc mặt trầm tĩnh, cân nhắc một chút rồi nói: “Việc này vẫn cần tam thúc đi khuyên các thúc bá trong nhà một phen. Thường môn chúng ta trăm năm không đổ là do người của Thường môn lấy lợi ích quốc gia làm trọng, theo quân sự không theo chính sự. Tham gia chính sự quá nhiều, tuy trước mắt làm rạng rỡ gia môn nhưng cũng chuốc lấy sự nghi kị của Hoàng thượng, mất nhiều hơn được. Lại nói Hoàng thượng đang dần trưởng thành, Thái hậu về sau sẽ không tiện tham gia vào chính sự, Thường gia ta nếu quá dựa vào thế của Thái hậu, ngày sau ắt chịu sự kiêng kị của Hoàng thượng, không bằng chỉ thuần tuý làm quân nhân, nghe theo quân lệnh.”
Thường Tu An nghe nói cũng thấy có lý nhưng vẫn có chút không cam lòng, giận dữ nói: “Tuy đúng là đạo lý này, nhưng Thường gia ta đường đường trăm năm tướng môn lại bị thằng nhãi Trần Khởi không biết lai lịch ở đâu áp chế, thực làm người ta tức thở mà! Công phá Tĩnh Dương rõ ràng là công lao của của ngươi, qua trình tấu của hắn lại trở thành tội danh, khiến Hoàng thượng mất hứng! Thật không biết hắn đang suy tính cái gì, không phải là đang nhắm đến công chúa chứ “.
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ động, khinh thường cười nói: “Anh ta cũng có vài phần bản lãnh thực sự, chỉ có điều tuy là con nhà quyền thế nhưng lại là con thứ thiếp, nên dưới mắt người khác chẳng đáng cân lượng”.
Thường Tu An chần chờ một chút lại nói tiếp:”Lão Thất, ta thấy hay là chờ khi về tới Dự Châu, ngươi hãy kiếm cớ trở về thượng kinh trước đi. Lúc ta về đấy trong nhà còn dặn dò ta cùng ngươi thương lượng, nếu chiến sự không ổn, lại không thể bỏ qua cho Trần Khởi, chi bằng trước mắt trở về kinh, lấy cớ là trong nhà muốn định việc hôn nhân, muốn ngươi về xem mắt cháu gái Chu Chí Nhẫn, ngươi trước đây đã gặp qua nàng rồi đó…”
Thường Ngọc Thanh hờ hững không nói, mặc dù vẫn nghe nhưng tầm mắt lại hướng tới ống bút ngọc trên án thư, quả nhiên là chẳng để tâm tới lời Thường Tu An.
Thường Tu An giọng nói ngày càng thấp dần, ông ta mặc dù là trưởng bối, nhưng Thường Ngọc Thanh từ nhỏ đã là người cực kì có chủ kiến, tính tình lại lạnh lùng, về sau lại lập được kì công, thăng tiến rất nhanh, nên trước mặt anh ta, Thường Tu An cũng không dám dùng thân phận thúc bá mà đối xử. Thường Tu An theo thói quen lại bắt đầu thấy chột dạ, nhưng nhớ tới lời đại tẩu tha thiết nhắc nhở, đành phải mạnh miệng, tiếp tục khuyên nhủ: “Ngày trước Tống thị chưa kịp vào cửa đã mang bệnh mà chết là do nàng không có phúc, đâu phải do ngươi? Nhà chúng ta có ai là chưa từng giết người, ai mà chẳng mang chút sát khí. Nếu vì vậy mà khắc vợ, chẳng phải chúng ta đều goá vợ cả sao? Lão Thất, ngươi đừng nghe những kẻ không hiểu chuyện bàn tán lung tung. Ngươi năm nay cũng đã hai mươi sáu tuổi rồi, bằng tuổi ngươi thì người ta đã có con đến tuổi có thể tòng quân luôn rồi. Ngươi quyết không cưới vợ là tại làm sao? Ngươi….”
“Tam thúc”Thường Ngọc Thanh đột nhiên ngắt lời Thường Tu An, ngẩng đầu hỏi: “Lần này người trong nhà muốn giới thiệu là ai?”
“Đều là những khuê nữ xuất sắc ở thượng kinh”Thường Tu An vừa nghe anh ta hỏi câu này, trong lòng nhất thời mừng rỡ, nhẩm đếm đầu ngón tay: “Nào là con gái lão Tam của Chu gia, cháu gái Lương gia Trung Dũng Hầu, con gái Viễn phủ tướng quân….”
Thường Tu An cứ lẩm nhẩm liệt kê một hồi mới ngừng lại, chờ biểu hiện của Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh: “Còn nữa không?”
Thường Tu An khẽ lập lại: “Còn nữa không?”
Thường Ngọc Thanh hỏi lại: “Đây là toàn bộ những khuê nữ xuất sắc nhất ở thượng kinh sao?”
Thường Tu An vẫn chưa đoán ra tâm tư Thường Ngọc Thanh, chỉ khẽ gật đầu: “Tốt nhất, toàn là tiểu thư danh môn vọng tộc”.
Thường Ngọc Thanh phát ra tiếng cười nhạo, nói:”vậy mà ta thấy cũng bình thường, chẳng có gì xuất sắc cả!”Lời vừa nói xong đã quay lưng đi mất.
Thường Tu An suýt chút nữa phát nghẹn mà ngất đi, phải vịn lấy án thư mới có thể đứng vững, đến nửa ngày sau mới lấy lại bình tĩnh, tự nhủ: “Quên đi, cũng không phải con ta. Nếu không ta cũng không để hắn làm loạn. Những người này mà còn bảo không được, chẳng lẽ định lấy thiên tiên về làm vợ chắc. Hôn nhân đại sự không phải do cha mẹ định đoạt sao, đâu tới lượt ngươi phản đối!”
Lời vừa dứt, lại thấy Thường Ngọc Thanh quay lại lấy quân lệnh, thấy Thường Tu An đang vịn án thư lẩm bẩm liền hỏi: “Tam thúc, ngươi đang nói gì đó?”
Thường Tu An nhất thời kinh hãi, chột dạ liếc Thường Ngọc Thanh, luôn miệng nói: “Không có gì, không có gì!”.
Thường Ngọc Thanh cười như không cười hỏi lại: “Vậy mà ta lại nghe có câu như là “Hôn nhân đại sự”gì đó?”
Thường Tu An vẻ mặt nghiêm túc nói: “Hôn nhân đại sự đâu phải trò đùa! Lão Thất nếu thấy không vừa mắt vậy cứ đợi đến lúc nào vừa ý hãy chọn lấy người xuất sắc nhất, luận gia thế tướng mạo nhất định xứng với lão Thất nhà ta”.
Khóe môi Thường Ngọc Thanh vẫn nhếch lên trêu chọc, nghe tới đó sắc mặt bỗng nhiên trở nên buồn bã, khoé môi khẽ mím lại, có chút tự giễu, lắc lắc đầu, không nói gì cả. Thường Tu An cảm thấy kì quái, cuối cùng cũng không nhịn được mà hỏi: “Lão Thất, ngươi đã có ý trung nhân rồi phải không?”.
Đầu tháng sáu, Lâm Mẫn Thận từ Thịnh Đô trở về Thanh Châu.
Trong thành Thanh Châu đang lúc náo nhiệt, hôm nay là ngày thống lĩnh bộ binh Giang Bắc Hạ Ngôn Chiêu lấy Tiết thị là em gái của Tiết Võ. Đây là lễ cưới của một tướng quân cao cấp trong quân Giang Bắc và muội tử của bạn đồng liêu nên trong thành vô cùng náo nhiệt.
Do Hạ Ngôn Chiêu là người Dự Châu, cha mẹ huynh trưởng không thể tới tham dự nên A Mạch đứng ra làm chủ hôn cho nhà trai. Đợi đến khi tiệc mừng chấm dứt cũng khá khuya, A Mạch cùng Trương Sĩ Cường, Trương Sinh trở lại thủ phủ thì Lâm Mẫn Thận đã đợi cả đêm.
A Mạch uống hơi nhiều rượu, hơn nữa thời tiết lại nóng bức, trên mặt đã có chút hồng. Nàng nhìn thấy Lâm Mẫn Thận vẫn còn ngồi chờ trong viện, không chút kinh ngạc chỉ thản nhiên nói: “Ngươi chờ một chút, ta đi rửa mặt”.
Nói xong xoay người đi vào, Trương Sĩ Cường mang ít nước giếng vào rồi lập tức lui ra. Một lát sau, A Mạch rửa mặt và thay đổi quần áo mới từ trong đi ra, thản nhiên ngồi xuống bàn đá, hỏi: “Chuyến đi này thuận lợi chứ? ”
Lâm Mẫn Thận nhìn A Mạch, nói: “Ngươi sau này uống rượu ít thôi, đừng nghĩ nam nhân đều là kẻ mù người ngốc”.
A Mạch nghe vậy liền có chút tức giận, lạnh lùng liếc nhìn Lâm Mẫn Thận một cái.
Lâm Mẫn Thận lờ đi, tiếp tục nói: “Lần này trở về, anh ta trả lời “có thể xưng soái”, đồng thời bảo ta mang cho ngươi vài thứ”. Lâm Mẫn Thận nói xong mở một tay nải bằng vải thô đặt lên bàn, lộ ra một cái tráp sơn đen, đưa đến trước mặt A Mạch “Anh ta nói ngươi tuổi tác ngày càng lớn, không thể giữ mãi một bộ dáng thiếu niên như trước được. Trong này có mấy thứ, rất thích hợp với ngươi”.
Lâm Mẫn Thận không nhanh không chậm nói xong, A Mạch tuỳ ý dùng ngón tay lật lật mấy thứ trong đó, mãi mà không nhận ra chúng là thứ gì. Lâm Mẫn Thận liền giải thích: “Đây là một số thứ dùng để hoá trang, chỉ có điều ngươi phải tăng liều lượng từ từ, đừng để người khác bất ngờ. Ngoài ra, còn một loại phấn bí truyền, có thể giúp hoá trang như thật, nước không thể rửa trôi…”
Khoé môi A Mạch khẽ động, buông nhẹ ánh mắt, đợi đến khi Lâm Mẫn Thận nói xong mới thản nhiên nói: “Những người ta bảo ngươi tìm đã tìm được hết chưa?”
Lâm Mẫn Thận quan sát biểu tình của A Mạch, cười nói: “Tìm được rồi, người cũng đã an bài trong phủ”.
A Mạch chậm rãi gật đầu, cầm lấy cái tráp trên bàn, xoay người rời đi. Lâm Mẫn Thận đột nhiên ở phía sau nói một câu không đầu không đuôi: “Anh ta đối với ngươi quả nhiên không phải chân tình”. Thấy A Mạch khẽ khựng lại, lại nói tiếp: “Nếu là thật tâm yêu mến một nữ tử, thiết tưởng phải trao cho nàng quần áo xinh đẹp, ngọc ngà châu báu, trao cho nàng những thứ tốt đẹp nhất chứ không phải những thứ này”.
A Mạch quay người nhìn Lâm Mẫn Thận, khẽ cười: “Vì sao nữ tử chỉ có thể chờ nam nhân trao cho nàng những thứ tốt đẹp đó? Chẳng lẽ không thể tự mình tìm lấy hay sao?”
chương 123
DO DỰ
A Mạch quay người lại nhìn Lâm Mẫn Thận, khẽ cười hỏi: “Vì sao nữ tử chỉ có thể chờ nam nhân trao cho nàng những thứ tốt đẹp đó? Chẳng lẽ không thể tự mình tìm lấy hay sao?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, bên kia A Mạch đã cười rồi quay người rời đi, cơn gió đêm thổi đến càng làm cho tiếng cười sang sảng, mang theo một tia mát lạnh khôn xiết cho buổi tối nóng bức này. Lâm Mẫn Thận ngồi yên trên ghế đá, có phần ngạc nhiên, nghĩ thế nào cũng cảm thấy những lời này khác biệt quá lớn so với dự đoán ban đầu của anh ta. Mãi đến khi thấy đèn trong phòng A Mạch vẫn chưa tắt, trong lòng Lâm Mẫn Thận lúc này mới thoải mái một chút. Tuy nhiên, Trương Sĩ Cường ngủ bên cạnh anh ta lại không nằm yên, vài lần đứng dậy đi đến trước cửa sổ nhìn.
Lâm Mẫn Thân nhìn thấy buồn cười, cố ý trêu Trương Sĩ Cường: “Này? Trương Sĩ Cường, không phải là ngươi đã sớm biết hắn là con…”
Trương Sĩ Cường quay đầu lại lạnh lùng liếc mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, chặn ngang nửa câu sau của anh ta, nói: “Ta chỉ biết ngài ấy trước kia là ngũ trưởng của ta, hiện tại là đại tướng quân Giang Bắc. Mục Bạch, ngươi tốt nhất cũng đừng quên.”
Phản ứng của Trương Sĩ Cường khiến cho Lâm Mẫn Thận có chút kinh ngạc, anh ta không ngờ người thanh niên trầm lặng, ít nói vẫn đứng phía sau A Mạch, vậy mà hiện giờ lời nói lại sắc bén như vậy. Lâm Mẫn Thận yên lặng nhìn Trương Sĩ Cường một lát, sự coi thường trong lòng dần dần biến mất, cuối cùng chọn cách nở nụ cười, nói: “Là ta nói sai.”
Trương Sĩ Cường không cười, quay người lại đưa mắt nhìn ngọn đèn hiện ra trước cửa sổ phòng A Mạch, trở lại giường cầm quần áo yên lặng mặc, cũng không để ý tới ánh mắt quái dị của Lâm Mẫn Thận đang nằm đối diện trên giường mà đi thẳng ra cửa. Ở góc hành lang chỗ để bếp lò vẫn còn đang nấu nước nóng, Trương Sĩ Cường nhấc ấm nước đi tới cửa phòng A Mạch, gõ cửa hỏi: “Đại nhân, ta đem nước nóng đến cho ngài.”
Sau một lát yên lặng, trong phòng mới truyền ra thanh âm khàn khàn của A Mạch, đơn giản chỉ mấy tiếng: “Đem vào đi.”
Trương Sĩ Cường hít một hơi thật sâu, đẩy cửa, mang nước nóng vào.
A Mạch ngồi cạnh án thư, trước mặt bày ra quyển “Vũ kinh tổng yếu”, thấy Trương Sĩ Cường tiến vào, cười hỏi: “Đã hơn nửa đêm rồi sao lại mang nước nóng tới vậy?”
Trương Sĩ Cường cầm ấm trà trên bàn châm nước mới, lại rót một chén trà bưng tới cho A Mạch, lúc này mới thấp giọng hỏi: “Đại nhân, ngài có chuyện khó xử sao?”
Trong lòng A Mạch đúng là đang có chuyện khó xử, nhưng nhất thời lại không biết phải làm sao để nói rõ với anh ta, nàng nhếch khoé môi do dự một lát, rồi nói: “Ta có chút chuyện còn chưa rõ, ta nói ngươi nghe, thử xem nếu đổi lại là ngươi, ngươi sẽ xử lý như thế nào.”
Trương Sĩ Cường gật đầu: “Được.”
Trước tiên, A Mạch bảo Trương Sĩ Cường tìm một chỗ ngồi xuống, cân nhắc cẩn thận một lát rồi mới tiếp tục nói: “Ta tạm thời không thể giải thích cho ngươi từ đầu, chỉ có thể nói ngắn gọn với ngươi mà thôi. Nếu như thôn của ngươi cùng thôn bên cạnh là kẻ thù lâu đời, hai bên luôn luôn xảy ra chiến tranh. Tuy rằng thôn của ngươi thỉnh thoảng có thể dựa vào mưu kế cùng vận may thắng bọn họ một, hai trận, nhưng đối phương người đông thế mạnh, phần lớn đều là thôn của ngươi phải chịu ức hiếp. Hiện tại, ngươi đột nhiên tìm được một loại vũ khí mới, ngươi có sử dụng hay không?”
Trương Sĩ Cường dù chưa hiểu hết hàm ý sâu xa trong câu chuyện của A Mạch, nhưng cũng nắm được ý tứ bên trong, lúc này liền gật đầu nói: “Đương nhiên là có.”
A Mạch thản nhiên cười cười, nói tiếp: “Nhưng loại binh khí này vô cùng đáng sợ, hai thôn các ngươi trước nay giao chiến, cho đến giờ cũng chỉ là đánh cho đối phương mặt mũi bầm dập, quá lắm cũng chỉ là hai bên cùng bị thương, cho nên trước mỗi trận chiến, mọi người đều tự suy tính, xem xem là nên thực sự đánh nhau hay chỉ cần gào to một chút cho xong việc. Nhưng nếu dùng đến loại vũ khí mới này, những kiểu ẩu đả trước đó sẽ chỉ như một trò đùa tầm thường, tất cả đều khác xa với thực tế trước đây.”
Trương Sĩ Cường nghe vậy có phần kích động, hỏi: “Vậy tại sao lại không dùng, đã có loại vũ khí tốt như vậy, chúng ta chẳng những có thể đánh bại thát tử, còn có thể uy hiếp tứ quốc, đến lúc đó còn ai dám khi dễ chúng ta?”
A Mạch cười gượng lắc đầu: “Trên đời này không có bí mật mãi mãi, cũng không có bá chủ vĩnh viễn, nếu ngươi có thể có được loại binh khí này, nước khác sớm muộn gì cũng sẽ có, đến lúc đó, thế sự này sẽ biến thành cái gì, ngươi và ta đều không thể biết được, cũng giống như việc chúng ta nuôi một con thú nhỏ, tuy rằng có thể đoán trước không lâu sau nó sẽ trở thành một mãnh thú, giúp chúng ta đánh đuổi kẻ địch, bảo vệ gia đình. Thế nhưng khi nó tiếp tục lớn lên, cũng có thể sẽ trở thành một quái thú, quay lại nuốt chửng chính chúng ta.”
Trong ánh mắt Trương Sĩ Cường có chút mờ mịt, sững sờ nhìn A Mạch hỏi: “Đại nhân, thật sự có loại binh khí lợi hại như vậy sao?”
Kỳ thật, bản thân A Mạch cũng không chắc chắn lắm, sỡ dĩ nàng biết đến điều này, chẳng qua là đọc từ những ghi chép của phụ thân, với loại vũ khí này thì cho dù tường thành có kiên cố bao nhiêu cũng sẽ sụp đổ, dù là áo giáp chắc chắn thế nào cũng sẽ giống như tờ giấy mà thôi…
A Mạch chậm rãi lắc đầu, nhắm hai mắt lại, thấp giọng nói: “Ta cũng không biết.” Nàng dừng lại, miệng thở ra một hơi dài, còn nói thêm: “Ngươi ra ngoài đi, ta ở lại đây một lát nữa.”
Trương Sĩ Cường không dám quấy nhiễu A Mạch, nhẹ nhàng lui ra ngoài, cẩn thận khép cửa lại.
A Mạch lấy ra bản ghi chép của phụ thân từ một ngăn bí mật trên án thư, mở đến một trang vừa xem, nơi đó có mấy bản vẽ gấp lại, bên cạnh bản vẽ là một đoạn ghi chú tỉ mỉ, nét chữ thanh thoát cùng với nét chữ trong bản ghi chép của phụ thân hoàn toàn khác nhau: Không trải qua một quá trình thai nghén bình thường, cũng như không có sự thích ứng đồng bộ với sự phát triển kinh tế xã hội và điều kiện khoa học kỹ thuật, nếu cứ xúc tiến đẩy con quái vật này sinh ra quá sớm, phải chăng cũng chính là thúc đẩy quá trình phá hủy nền văn minh của loài người? Xã hội phát triển một bước nhảy cóc như vậy, rốt cuộc là lợi nhiều hơn, hay hại lớn hơn?
A Mạch nhận ra đây là nét chữ của mẫu thân, một đoạn thoại ngắn ngủi, đằng sau là một chuỗi dấu chấm hỏi dài, đủ thấy khi ấy, trong lòng mẫu thân cũng đầy nghi hoặc cùng mông lung. A Mạch nhìn có chút xuất thần, trong lòng cũng là một mảnh mờ mịt, rõ ràng cha mẹ đều biết cách chế tạo và sử dụng loại vũ khí này nhưng cuối cùng chỉ ghi lại bằng bản vẽ, dường như trong lòng mẫu thân vẫn còn nghi vấn nào đó, vậy thì rốt cuộc nàng có nên sử dụng loại vũ khí này hay không?
Cả một đêm, đèn trong phòng A Mạch vẫn sáng cho đến lúc gà gáy. Trương Sĩ Cường đã ngủ dậy, đứng ngoài cửa phòng phân vân không biết có nên gọi A Mạch dậy hay không thì đã thấy A Mạch y phục chỉnh tề từ trong phòng bước ra, như mọi khi, mang theo Trương Sĩ Cường chạy về phía thao trường. Thống lĩnh bộ binh Hạ Ngôn Chiêu vừa mới thành thân hôm qua giờ đang tự mình mang theo tiểu đoàn bộ binh ra tập thể dục buổi sáng, A Mạch bất giác có chút kinh ngạc, cười hỏi: “Chẳng phải đã cho ngươi nghỉ ba ngày ở nhà cùng nương tử sao? Sao đã bỏ lại tân nương một mình rồi?”
Trên mặt Hạ Ngôn lộ ra một nụ cười ngại ngùng, có vẻ rất xấu hổ, nhưng lại mạnh miệng nói: “Chỉ là lấy một người vợ, cũng không thể quá nuông chiều nàng ấy được!”
A Mạch nghe vậy khẽ cong khóe môi cười cười, không nói gì, nhìn binh lính tập thể dục trên thao trường, lại một mình luyện cưỡi ngựa bắn cung hơn nửa canh giờ, lúc này mới mang theo Trương Sĩ Cường chạy bộ trở về thành phủ. Vừa mới vào cửa chính thành phủ, liền đụng phải quan quân nhu Lý Thiếu Hướng. Lý Thiếu Hướng đang có chuyện muốn hỏi A Mạch, vội ngăn lại, hỏi: “Đại nhân, thợ thủ công mà Mục Bạch mang về nên an bài như thế nào?”
A Mạch suy nghĩ một chút rồi đáp: “Để lại tại doanh của ngươi đi, ngươi xem thế nào rồi cứ thế mà sắp xếp cho bọn họ.”
Lý Thiếu Hướng không khỏi vô cùng kinh ngạc, A Mạch kêu Mục Bạch đặc biệt đi Giang Nam tìm những thợ thủ công này, giờ lại tùy tiện giao cho hắn, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì? Ánh mắt Lý Thiếu Hướng theo bản năng nhíu lại, cười hỏi A Mạch: “Ngài chắc không dùng đến họ chứ?”
A Mạch lắc đầu nói: “Không dùng, nếu ngươi cảm thấy không dùng được vào việc gì, thì đuổi đi cũng được.”
Trong lòng Lý Thiếu Hướng cảm thấy hồ đồ, tuy nhiên ngoài miệng lại không chút hàm hồ nói rằng: “Sao lại không dùng được? Trong doanh ta đang cần thợ thủ công giỏi đây.”
Nói xong lại sợ A Mạch thay đổi chủ ý, vội vã nhấc chân chạy đi thu xếp cho đám thợ thủ công này.
A Mạch thấy vậy chỉ thản nhiên cười cười, quay về phòng rửa mặt chải đầu lại, rồi thay y phục sạch sẽ đi tìm Từ Tĩnh. Từ Tĩnh vừa mới ngủ dậy, đang đứng ở trong sân dùng nước muối súc miệng, nhìn thấy A Mạch đến, phun hết nước muối trong miệng ra, hỏi A Mạch: “Mục Bạch về rồi à?”
A Mạch gật đầu, thuận tay lấy khăn mặt trên tay thân binh đứng bên cạnh đi đến đưa cho Từ Tĩnh, đáp: “Đã về đêm qua.”
Từ Tĩnh cầm lấy khăn mặt lau qua một chút, đưa ánh mắt chờ mong nhìn về phía A Mạch hỏi: “Bên kia nói như thế nào?”
A Mạch ngữ khí bình thản đáp: “Nói là có thể xưng soái.”
Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe sáng, hắc hắc cười nói: “Vừa hay có tin từ Dự Châu truyền đến, Trần Khởi đã lệnh cho Thường Ngọc Thanh và Thường Tu An quay về Dự Châu đợi mệnh, chỉ chừa lại Phó Duyệt tạm coi giữ Võ An. Lúc này xưng soái, đúng là thiên thời địa lợi nhân hòa! Cũng nên sớm trấn định quân tâm.”
A Mạch mỉm cười, nàng biết Từ Tĩnh nói như vậy là đã có tính toán. Quả nhiên, ngày mười lăm tháng sáu, sau khi quân nghị kết thúc, Tiết Vũ dẫn đầu đoàn người quỳ gối thỉnh cầu A Mạch xưng soái, lại thêm tướng thủ thành Ký Châu là Tiếu Dực một bên ra sức khuyên giải, A Mạch vài lần từ chối không được, cuối cùng đồng ý xưng soái.
Từ đó, quân Ký Châu chính thức sát nhập vào quân Giang Bắc, quân số quân Giang Bắc tăng lên đến hơn bảy vạn người, theo đó, biên chế bộ, kỵ, tân quân, ba quân đoàn, hai mươi tiểu đoàn trước đây mở rộng biên chế thành ba mươi tiểu đoàn, bình quân quân số mỗi tiểu đoàn hơn hai nghìn người. Hạ Ngôn Chiêu, Trương Sinh cùng Hắc Diện phân chia đảm đương thống lĩnh ba quân, ba mươi tiểu đoàn do chín mươi quan viên danh tướng chia nhau dẫn đầu, trong ba mươi doanh có chủ tướng, phó tướng và giáo úy. Tiếu Dực, Tiết Võ, Mạc Hải đảm nhiệm làm phó nguyên soái quân Giang Bắc, đồng thời ba người cũng là trợ thủ của A Mạch, có thể thay thế A Mạch chủ trì công việc toàn quân Giang Bắc khi A Mạch vắng mặt.
Đầu tháng chín, A Mạch để Hạ Ngôn Chiêu thống lĩnh binh lính phòng thủ Thanh Châu, còn mình thân chinh dẫn bộ binh quân Giang Bắc di dời đến Ký Châu. Trong vòng một trăm dặm, cảnh sắc của khe núi Phi Long đúng vào thời điểm diễm lệ vô cùng, sắc xanh thăm thẳm, sắc đỏ rực rỡ, sắc vàng sáng lạn, đẹp đến hút hồn… Đường sá vô cùng chật hẹp, chỗ hẹp nhất chỉ có thể đi lọt được hai kỵ binh đi song song, hai bên sườn đều là vách đá cao sừng sững, dựng thẳng đứng. Ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy hiện ra bầu trời xanh thẳm, trong như lọc, sạch sẽ không vướng một chút bụi bặm. Vừa bước vào một con đường như thế, khiến cho người ta không khỏi bắt đầu cảnh giác, nơi này rất thích hợp để mai phục, nếu ở đây gặp phải quân địch, sợ là chỉ có thể bị động chịu đòn mà không thể phản công.
Mãi đến khi rời khỏi khe núi này, tầm mắt mới được rộng mở, mọi người đều không hẹn mà cùng thở dài nhẹ nhõm. Tiết Vũ chỉ vào một cửa khẩu cách đó không xa giới thiệu: “Đây là khe núi Phi Long, từ đây đi về hướng nam đó là Nam Thái Hành, cách phía nam hơn mười dặm là đồng cỏ chăn nuôi, phạm vi chừng trên dưới một trăm dặm, đúng là nơi rất tốt để huấn luyện kỵ binh, hiện giờ đang bị Đường tướng quân cùng Thanh Phong trại chiếm giữ.”
Trước kia, theo lời của Tiết Võ, A Mạch đã nghe đến đồng cỏ chăn nuôi này rồi, thật ra đây chính là một loại địa hình vùng núi, bốn phía cao và dốc, nhưng đỉnh núi lại bằng phẳng như một vùng đất trũng mọc đầy cỏ, diện tích vô cùng rộng lớn, cây cỏ tươi tốt, giống như thảo nguyên Tây Hồ, dân bản xứ quen gọi những địa hình vùng núi như vậy là đồng cỏ chăn nuôi.
A Mạch nhìn theo hướng ngón tay Tiết Võ, lúc này, phải chăng Đường Thiệu Nghĩa đang ở ngay phía trên thảo nguyên này? Anh ta vẫn nói muốn huấn luyện ra một đội kỵ binh khiến cho thát tử nghe tên đã sợ vỡ mật, nhưng Nam Hạ vốn ít ngựa, bồi dưỡng kỵ binh lại rất hao tốn công sức, tiền bạc, nếu muốn xây dựng một đội kỵ binh đủ để chống chọi kỵ binh Bắc Mạc, thì nói dễ hơn làm!
chương 124
VINH NƯƠNG
A Mạch khẽ thở dài, nếu đơn giản như vậy, nàng cũng sẽ không nghĩ đến việc động đến hỏa súng và hỏa pháo trong bút ký của phụ thân rồi.
Khi đại quân đến Ký Châu thì đã qua tết Trùng Dương(1), A Mạch cùng mấy tướng lĩnh chủ chốt tiến vào Ký Châu, còn đại quân thì lưu lại ngoài thành. A Mạch vốn đã sớm quyết định biến Ký Châu trở thành căn cứ của quân Giang Bắc, cho nên từ tháng sáu đã tuyển chọn được hai nơi để lập đại doanh, các loại vật liệu gỗ đá xây dựng đại doanh đã bắt đầu được tập trung, lúc này đã lục tục chuyển đến, thợ thủ công và công nhân xây dựng cũng đều được tập hợp đầy đủ. Lý Thiếu Hướng nhận mệnh giám sát việc xây dựng doanh trại mới, chỉ lo không hoàn thành đúng hạn, nên chọn ra trong quân một vài nhóm đến hỗ trợ, cam đoan các binh sĩ đều có thể nhập doanh trước khi trời chuyển giá rét.
Đều là nơi xung yếu quân sự, nhưng so với thành Thanh Châu, Ký Châu lại sầm uất hơn rất nhiều, mặc dù chưa bằng Thái Hưng, Thịnh Đô, nhưng cũng là một thành lớn của vùng Giang Bắc, mấy năm gần đây lại chưa từng chịu cảnh chiến tranh tàn phá, bách tính trong thành vẫn lạc quan, cuộc sống rất giàu có và đông đúc. A Mạch cùng quân Giang Bắc tiến vào thành khiến cho rất nhiều người dân chen lấn tiếp cận hai bên đường, tranh giành nhau để xem.
Bách tính nghe nói vị tướng quân mặc áo giáp đen lạnh lùng này chính là chủ soái quân Giang Bắc, người đánh bại thát tử, không khỏi vừa sợ hãi lại vừa thán phục, cũng có không ít nữ tử trẻ tuổi thấy dáng vẻ A Mạch đặc biệt tuấn tú, nhất thời rối loạn tâm tư…
Mạc Hải đi bên cạnh A Mạch trông có rất vui vẻ, tiến vài bước lại gần A Mạch, thấp giọng vui đùa nói: “Nguyên soái, ngài xem, chúng ta vốn rất đông người, nhưng bọn họ chỉ lo nhìn chằm chằm một mình ngài, khiến cho đoàn người chúng ta chỉ hận tại sao cha mẹ sinh ra mình không anh tuấn một chút!”
A Mạch nghe vậy chỉ thản nhiên cười, dáng vẻ tươi cười nhàn nhạt ấy khiến cho các thiếu nữ hai bên đường đều ôm ngực một trận kinh hãi, có người to gan, đem khăn tay thắt thành nút, nhắm người A Mạch ném tới. A Mạch theo bản năng lắc mình né qua, ai ngờ ngay sau đó lai có mấy cái khăn tay ném đến.
Lâm Mẫn Thận vốn phải bảo vệ sự an toàn cho A Mạch, cho nên vẫn giục ngựa đi bên cạnh nàng, thấy thế nhịn không được cười nhạo thành tiếng, thấp giọng nói: “Nếu là ám khí, ta còn có thể giúp ngươi ngăn cản, nhưng đây đều là ân huệ của mỹ nhân, ta trăm ngàn lần cũng không dám chắn.”
A Mạch nhìn không chớp mắt, lạnh mặt không nói, thấy khăn tay nhiều người ném đến cũng dứt khoát không né tránh, chỉ ưỡn lưng ngồi ngay ngắn trên ngựa, mặc cho mùi son phấn từ khăn tay đảo quanh người mình.
Trong đám người chen chúc, một hồng y nữ tử dáng người thon thả có phần gây chú ý, nàng ngũ quan cân đối, ánh mắt sáng ngời, dung mạo xinh đẹp nhưng lại mang theo vài phần khí chất oai hùng, cũng không giống như những nữ tử cuồng nhiệt chung quanh, chỉ có ánh mắt vẫn chăm chú đặt trên người A Mạch, tự lẩm bẩm nói: “Người này chính là A Mạch sao?”
Hán tử cường tráng vẫn đi theo phía sau hộ vệ hồng y nữ tử nghe xong, tưởng nói với mình, lại vì nhiều người ầm ĩ không thể nghe rõ, lớn tiếng hỏi: “Đại đương…”
Chữ “Đại” kia vừa mới ra khỏi miệng, hồng y nữ tử liền rất nhanh quay đầu lại liếc mắt một cái cắt ngang lời hán tử kia, hán tử sợ tới mức vội vã sửa lời nói: “Tiểu thư, người có gì phân phó?”
Hồng y nữ tử trong mắt hãy còn có vẻ không vui, cũng không trả lời hán tử kia, chỉ quay đầu lại tiếp tục nhìn đám người A Mạch. Hán tử kia vừa buồn rầu lại bất đắc dĩ gãi gãi đầu, thấy bóng dáng chư tướng quân Giang Bắc đã đi xa, nhịn không được lại hỏi hồng y nữ tử: “Đại, đại tiểu thư chúng ta làm sao bây giờ?”
Hồng y nữ tử tức giận hừ một tiếng, nói: “Đi theo xem thế nào.”
Nói xong tách đám người đi về phía trước, hán tử kia sợ nàng gặp chuyện không may, vội vàng đi lên theo sát phía sau.
Thủ phủ thành Ký Châu trước đây là phủ của Tiếu Dực, nay tấm biển trên cửa chính đã đổi thành “Phủ nguyên soái Giang Bắc”, trong ngoài cũng đều sửa lại, thay mới hoàn toàn, ngay cả đồ dùng bày biện trong phòng cũng đều thay mới. Tiếu Dực mời A Mạch vào gian nhà chính, thấy A Mạch quan sát bài trí trong phòng, cười nói: “Không biết sở thích của nguyên soái thế nào nên bọn họ đều dùng vật liệu là gỗ hoa lê, nếu nguyên soái không thích, dặn dò bọn họ đổi lại một lần nữa là được.”
A Mạch nghe vậy liền quay đầu liếc Tiếu Dực một cái, mặc dù nàng không hiểu lắm về vật liệu gỗ, nhưng cũng biết những đồ dùng trong nhà bằng gỗ hoa lê đều rất quý, vật dụng trong thư phòng Hầu phủ Thương Dịch Chi ở Thịnh Đô đều là loại gỗ này.
A Mạch nhàn nhạt cười, gật đầu nói: “Thế này là được rồi.”
Tiếu Dực dù sao cũng là người nhạy bén, chỉ có điều ánh mắt khó hiểu ban nãy của A Mạch khiến cho tâm tư ông ta xoay chuyển mấy lần, nghe vậy, nét mặt lộ ra vẻ tươi cười thật thà, giải thích: “Ta là một người thô thiển, không hiểu lắm những thứ này, nhớ lại trước đây khi còn ở dưới trướng Thương lão tướng quân, từng nghe nói lão nhân gia rất thích vật dụng bằng gỗ hoa lê, cho nên cũng kêu người chuẩn bị cho nguyên soái như vậy.”
A Mạch cười nói: “Làm phiền Tiếu phó soái.”
Tiếu Dực nghe xong thần sắc lại có chút buồn bực, nói thẳng: “Ngài nói như vậy thực quá khách khí, chẳng qua chỉ là mấy thứ bày biện bằng gỗ, cũng không phải là vật gì tinh xảo. Chỉ có điều vừa phạt đám thợ mộc kia, nhưng thật ra những đồ vật này có vài chỗ đặc biệt lắp đặt ngăn bí mật, để nguyên soái chứa vật dụng, hôm khác nguyên soái kêu đám thợ mộc đó đến hỏi tường tận là được.”
A Mạch nở nụ cười, cũng không đáp.
Quân Giang Bắc mới di chuyển đến đây, trong quân có rất nhiều công việc phải xử lý, A Mạch vừa mới ngồi xuống lật mấy trang binh thư, chợt nghe thân binh đến bẩm báo nói bên ngoài có một cô nương chỉ đích danh Mạch nguyên soái muốn tìm gặp. A Mạch nghe xong không khỏi ngạc nhiên, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đã cười ha ha nói: “Nghe nói hai ngày nay trong thành Ký Châu truyền một câu nói, nào là “Nhất kiến Mạch soái ngộ chung thân”(2), có lẽ là có người ái mộ ngươi, chạy đến tìm ngươi để tự tiến cử.”
A Mạch nhíu mày, lạnh lùng liếc một cái cắt ngang lời Lâm Mẫn Thận, lại quay đầu nói với Trương Sĩ Cường: “Ngươi ra ngoài xem thế nào, hỏi nàng ấy muốn gặp ta có chuyện gì, nếu không có chuyện quan trọng thì đuổi đi.”
Trương Sĩ Cường lĩnh mệnh đi, một lát sau trở về, bẩm báo A Mạch: “Nàng ta nói họ Tức, là Đường tướng quân bảo nàng đến tìm đại nhân.”
Trong lòng A Mạch vô cùng kinh ngạc, Đường Thiệu Nghĩa sao lại kêu một cô nương đến tìm mình, nữ tử này họ Tức, phải chăng có quan hệ gì với lão đương gia Tức Phong ở Thanh Phong trại? A Mạch thầm cân nhắc, trong miệng phân phó: “Vậy đưa nàng đến đây.”
Trương Sĩ Cường đáp ứng xoay người đi ra ngoài, chỉ chốc lát liền mang theo một nữ tử trẻ tuổi, tướng mạo vô cùng xinh đẹp từ bên ngoài tiến vào, nhìn thấy A Mạch cũng không chút nao núng, tự nhiên mà nhã nhặn thi lễ: “Tức Vinh Nương của Thanh Phong trại bái kiến Mạch nguyên soái.”
Tuy mặc trang phục nữ tử, cũng chắp tay thi lễ, nhưng đôi mắt hạnh sáng ngời lại nhìn thẳng vào A Mạch, khuôn mặt cử chỉ vô cùng phóng khoáng. A Mạch nhìn thấy trong lòng thầm tán thưởng, nhưng nét mặt vẫn bất động thanh sắc, an tọa ngồi trên ghế, mời Tức Vinh Nương ngồi xuống ghế khách, thản nhiên hỏi: “Không biết Tức cô nương tìm Mạch mỗ có chuyện gì?”
Tức Vinh Nương không trả lời, ánh mắt đảo một vòng trên người Lâm Mẫn Thận cùng Trương Sĩ Cường đang ở trong phòng. A Mạch hiển nhiên hiểu rõ hàm ý cử chỉ này, song không nghĩ vì vậy mà kêu người bên cạnh lui xuống, cho nên cố tình không bắt chuyện, chỉ yên lặng nhìn Tức Vinh Nương.
Tức Vinh Nương thấy vậy cả cười, nói rằng: “Vì nhất thời tới vội vàng, không thể mang theo tín vật, bất quá ta nói ra một việc, Mạch soái chắc chắn sẽ tin ta là do Đường đại ca phái tới.”
A Mạch thản nhiên cong khóe miệng, không tỏ rõ ý kiến. Lời nói của nàng ta rõ ràng có sơ hở, nếu Đường Thiệu Nghĩa phái nàng ta đến đây, sao lại không giao tín vật cho nàng. Trong lòng A Mạch nghĩ vậy, lại nghe Tức Vinh Nương cao giọng nói rằng: “Năm trước Đường đại ca cho người đến Thanh Châu tặng Mạch nguyên soái vài thứ, tín vật dùng lúc đó là tấm huy hiệu giáo úy bằng đồng, tấm huy hiệu đó bây giờ hẳn vẫn còn ở chỗ nguyên soái?”
Thần sắc trong mắt A Mạch khẽ biến, gật đầu nói: “Không sai, đó quả thật là tín vật của Đường tướng quân.”
Trên mặt Tức Vinh Nương hiện lên một nét cười, nói: “Nếu đã vậy, Mạch nguyên soái tin ta rồi chứ?”
A Mạch cười cười, quay đầu phân phó Lâm Mẫn Thận cùng Trương Sĩ Cường, nói: “Hai người các ngươi lui xuống trước đi.”
Trương Sĩ Cường còn có chút do dự, Lâm Mẫn Thận lần này lại rất nghe lời, ngầm đưa mắt ra hiệu cho Trương Sĩ Cường, bảo hắn yên tâm đi ra ngoài. Đợi hai người bọn họ đều rời đi, Tức Vinh Nương lại lặng yên không nói gì, chỉ chớp đôi mắt hạnh tinh tế quan sát A Mạch, tầm mắt từ trên khuôn mặt A Mạch rơi xuống cổ họng nàng, dừng lại ở yết hầu A Mạch, lúc này mới chuyển qua khuôn mặt A Mạch.
A Mạch bị nàng ta nhìn có chút không được tự nhiên, khẽ ho một tiếng, gọi: “Tức cô nương?”
Tức Vinh Nương hơi kinh hãi, tâm tư lúc này mới từ trên khuôn mặt A Mạch thu về, lại nghe thanh âm A Mạch ôn nhu hỏi: “Chẳng hay lão đương gia Thanh Phong trại Tức Phong là thế nào với cô nương?”
Tức Vinh Nương nghe vậy sắc mặt buồn bã, đáp: “Đó là tiên phụ.”
A Mạch hơi mím môi, trong lòng nhất thời sáng tỏ, thảo nào Tức Phong đem Thanh Phong trại đều giao cả lại cho Đường Thiệu Nghĩa, mà Đường Thiệu Nghĩa lại chỉ làm Nhị đương gia, như vậy xem ra Tức Phong đã đem cô nương này gửi gắm cho Đường Thiệu Nghĩa rồi.
“Tức đại đương gia, không biết lần này vì sao lại tới tìm Mạch mỗ?” A Mạch trực tiếp hỏi.
Tức Vinh Nương hơi cúi đầu xuống, dường như trong lòng có chút mâu thuẫn, trầm mặc một lát đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch nguyên soái đã có thê thất chưa?”
A Mạch bị nàng hỏi câu này cảm thấy sửng sốt, bỗng nhớ tới lời đùa ban nãy của Lâm Mẫn Thận, huyệt thái dương liền nảy lên thình thịch, không phải cô nương này đến vì chuyện hôn sự đấy chứ? A Mạch bị ý nghĩ này làm cho hoảng sợ, nhất thời ngay cả nói cũng không lưu loát, chỉ hỏi: “Sao, làm sao vậy?”
Tức Vinh Nương lúc này cũng đã áp chế được nỗi ngượng ngùng trong lòng, nhìn chằm chằm về phía A Mạch, ánh mắt càng lộ vẻ trong suốt sáng bừng, hỏi: “Không biết Mạch soái đã có thê thất hay có người trong lòng chưa?”
A Mạch dần dần bình tĩnh lại, noi theo cách đối đáp của Tiếu Dực trước đây mà lấy lý do thoái thác nói rằng: “Mạch mỗ trong nhà sớm đã có thê thất, chỉ có điều cuộc sống quân binh không ổn định, không dám mang theo gia quyến.”
Ai ngờ Tức Vinh Nương nghe xong, chẳng những không thấy thất vọng, trái lại, trên mặt nàng ta mang theo sắc vui mừng, hỏi: “Có thật không?”
A Mạch không nói gì, nhưng vẫn là trịnh trọng gật đầu: “Đúng vậy!”
Trong mắt Tức Vinh Nương hiện ra vẻ vui sướng tựa như sóng nước dập dờn tràn ra, khuôn mặt nhất thời ánh lên vẻ sống động, cười hì hì liếc A Mạch một cái, rồi như đột nhiên nhớ tới lại thẹn thùng hạ mi mắt xuống, lấy tay khẽ vân vê góc áo trầm mặc không nói.
Bộ dáng ngượng ngùng tiểu nữ nhi như vậy của nàng ta khiến cho A Mạch không khỏi cảm thấy nhức đầu, trong lòng càng mơ hồ không rõ tâm tư cô nương này, đành phải hỏi lại: “Không biết Đường tướng quân vì sao lại kêu Tức Đại đương gia tới tìm tại hạ?”
Tức Vinh Nương dù sao cũng là nữ tử lớn lên giữa đám thổ phỉ, tất nhiên là phóng khoáng hơn so với những nữ tử bình thường khác rất nhiều, khi ngượng ngùng qua đi liền ngẩng đầu lên, cố lấy dũng khí đối mặt với A Mạch nói: “Mạch nguyên soái, ta thích Đường đại ca.”
A Mạch sửng sốt, trước thì kinh ngạc vì nàng ta vừa to gan lại vừa thẳng thắn như thế, sau lại khó hiểu vì sao nàng ta lại nói ra những chuyện này với mình, còn đặc biệt tìm tới Ký Châu hỏi mình đã có thê thất hay chưa, muốn hỏi cũng phải hỏi là Đường Thiệu Nghĩa đã có thê thất hay chưa mới đúng chứ?
Tức Vinh Nương nhận ra nghi vấn của A Mạch, cắn cắn môi dưới, nói rằng: “Mạch nguyên soái, ngài là đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, ta nói điều này ngài đừng buồn bực, ta nói ra, ngài nghe xong, trên đời này cũng không có người thứ ba biết.”
—————————-
Chú thích:
1- Tết Trùng Dương: ngày 9/9 âm lịch. Theo quan niệm của người xưa, số 9 là dương, nên ngày 9/9 được gọi là trùng dương.
2- Nhất kiến Mạch soái ngộ chung thân: ý nói lần đầu gặp Mạch soái đã muốn ước định, trao gửi cả cuộc đời.
chương 125
TÂM TƯ
A Mạch gật đầu.
Tức Vinh Nương nói tiếp: “Ta biết ngài bất mãn với lão hoàng đế vì đã chắp tay dâng tặng vùng Giang Bắc của chúng ta cho lũ thát tử, cho nên mang binh làm phản ở Thái Hưng, nghìn dặm đông tiến đến Thanh Châu, sau lại đánh tan mấy vạn kỵ binh tinh nhuệ của Thường Ngọc Thanh, che chở cho bách tính Thái Hành, Thanh Phong trại chúng ta tuy là cường đạo, nhưng đối với ngài cũng là thập phần kính nể.”
A Mạch nhạt nhẽo cười không nói gì, nhưng trong lòng lại nghĩ thì ra cô nương này miệng lưỡi cũng thật lanh lợi, bất kể tiếp theo muốn nói gì, trước hết phải đem mông ngựa mà vỗ một phen.
Tức Vinh Nương hơi ngưng thần, chuyển lời nói tiếp: “Ta đoán ngài hẳn biết rõ ẩn tình đằng sau việc Đường đại ca rời khỏi quân Giang Bắc.”
Đáy mắt A Mạch chợt lóe lên, trầm tĩnh nhìn Tức Vinh Nương, chờ nàng ta nói tiếp.
“Lúc Đường đại ca gia nhập Thanh Phong trại, Chiêm Sơn Vương đang bao vây tiêu diệt sơn trại chúng ta, cha ta bị trọng thương, các thúc bá trong trại mặc dù không nói gì, nhưng trong lòng bọn họ đều nghĩ lần này nhất định là bị Chiêm Sơn Vương đánh bại. Cha ta thậm chí đã âm thầm an bài thân tín, muốn lén đưa ta ra khỏi trại. Đúng lúc này thì Đường đại ca gia nhập Thanh Phong trại, ban đầu mọi người cũng không tin huynh ấy, huynh ấy chịu không ít khổ cực, rốt cuộc về sau mang theo một số huynh đệ đánh bại Chiêm Sơn Vương, trước trận đánh còn chém chết huynh đệ Chiêm Sơn Vương.”
A Mạch nói: “Ta đã nghe Đường tướng quân nói qua việc này.”
Tức Vinh Nương khẽ nhướn chân mày, hỏi ngược lại: “Vậy Đường đại ca có nói qua với ngài chuyện huynh ấy đã từng bị thương rất nặng chưa?”
A Mạch rùng mình, mi mắt buông xuống che khuất thần sắc trong mắt, chậm rãi lắc đầu nói: “Chưa từng.”
Tức Vinh Nương cười nhạt, tiếp tục nói: “Tuy Đường đại ca võ nghệ cao cường, nhưng huynh ấy không phải là người trong giang hồ chúng ta, bản lĩnh chém giết trên chiến trường khác với thủ đoạn trên giang hồ, trong trận chiến đó, Đường đại ca tuy đánh bại Chiêm Sơn Vương, thế nhưng cũng bị thủ hạ của Chiêm Sơn Vương là một cao thủ dùng ám khí gây thương tích, ngay cả xương sườn cũng bị chặt đứt làm hai đoạn.”
Việc này, Đường Thiệu Nghĩa đúng là không chịu nói với nàng, huống chi nàng lại dựa vào thân tình giữa hai người để dùng kế lừa anh ta đến Thái Hành… Trong lòng A Mạch nổi lên một tia chua xót cùng áy náy, khó trách lúc chia tay, Đường Thiệu Nghĩa lại chủ động nhắc lại câu nói kia “Chúng ta nhất định phải còn sống”.
“Đường đại ca hôn mê suốt bốn, năm ngày liền, đều là ta một tay chăm sóc, lúc đó tất cả mọi người đều cho rằng huynh ấy sẽ không thể chịu đựng nổi nữa, huynh ấy luôn sốt cao không hạ, nhưng trong cơn mê sảng huynh ấy luôn nhắc đi nhắc lại một câu.”
Tức Vinh Nương nói đến đây thì ngừng lại, giương mắt nhìn A Mạch một chút, lưỡng lự không biết có nên tiếp tục nói nữa hay không. Một lời đã nói ra thì sẽ không thể thu hồi lại, không biết sẽ mang lại hậu họa gì, mà nếu không nói, vậy chỉ có thể chôn ở trong lòng nỗi băn khoăn về Đường Thiệu Nghĩa, không bằng thẳng thắn hỏi anh ta cho ra nhẽ, cũng là để biết rõ ngọn ngành.
Tức Vinh Nương hạ quyết tâm, nhìn thẳng A Mạch nói: “Huynh ấy luôn mơ hồ gọi hai chữ, ban đầu, mọi người đều không nghe rõ huynh ấy gọi gì, sau đó có một đêm ta một mình trông coi huynh ấy, ta gọi huynh ấy một tiếng ‘Đường đại ca’, huynh ấy rốt cuộc rõ ràng trả lời ta một câu ‘A Mạch’!”
Tức Vinh Nương bắt chước ngữ điệu Đường Thiệu Nghĩa lúc đó, giọng nàng ta trong trẻo, hoàn toàn không giống như thanh âm trầm thấp của Đường Thiệu Nghĩa, nhưng chỉ một tiếng như vậy lại khiến A Mạch hết hồn, kín đáo xiết chặt quân phục mới có thể tiếp tục làm như không có chuyện gì ngồi yên ở đó, giương mặt nhìn Tức Vinh Nương.
A Mạch lạnh nhạt cười, nói: “A Mạch là nhũ danh của tại hạ, tại hạ cùng Đường tướng quân từ lúc rời khỏi thành Hán Bảo đều cùng sống trong quân ngũ, đồng sinh cộng tử, tình như huynh đệ.”
Thấy A Mạch sơ sài nói qua như vậy, trong lòng Tức Vinh Nương liền thở phào nhẹ nhõm, nhưng không biết vì sao lại có chút thất vọng, cảm thấy không đáng thay cho Đường Thiệu Nghĩa. Tức Vinh Nương thờ ơ nói rằng: “Về sau ta hỏi Đường đại ca, huynh ấy cũng trả lời giống như nguyên soái vậy.”
A Mạch bình thản nhìn Tức Vinh Nương.
Tức Vinh Nương lại nói: “Sau đó cha ta qua đời, đem Thanh Phong trại giao cho Đường đại ca, đồng thời cũng đem ta phó thác cho Đường đại ca, ta biết ý cha muốn Đường đại ca cưới ta, Đường đại ca anh hùng cái thế, ta đã sớm ái mộ huynh ấy, trong lòng đương nhiên cũng rất vui mừng.”
A Mạch trầm mặc một lát, sau lại nhẹ giọng nói: “Tức đại đương gia tài mạo song toàn, cùng với Đường tướng quân rất xứng đôi.”
Tức Vinh Nương nghe xong lại trào phúng cười, nhướn mày hỏi A Mạch: “Ngài quả thật không biết tâm ý của Đường đại ca sao?”
A Mạch né tránh ánh mắt Tức Vinh Nương, nhàn nhạt đáp: “Đường tướng quân một lòng vì nước, chỉ mong sớm ngày loại trừ thát tử, khôi phục Giang Bắc.”
Tức Vinh Nương cười nhạo một tiếng, nói: “Nguyên soái, lúc này ta mới nhận ra rằng ngài rõ ràng là giả bộ hồ đồ. Nếu quả thật ngài không hiểu ý tứ của ta, ắt hẳn sẽ không trả lời như vậy.”
A Mạch đưa mắt nhìn Tức Vinh Nương im lặng không nói.
Tức Vinh Nương còn nói thêm: “Ta là nữ tử sống trong núi, da mặt quả thật rất dày, hôm nay ta cũng không sợ ngài chê cười, muốn cùng ngài nói rõ, tuy rằng Đường đại ca tiếp quản Thanh Phong trại nhưng cũng không đồng ý lấy ta, ta đã nói chỉ cần ta vẫn còn làm cái chức Đại đương gia này, ta sẽ không buông tha cho huynh ấy, huynh ấy lại nói nếu một ngày ta không muốn chứa chấp huynh ấy, huynh ấy sẽ rời đi, tuyệt không mang theo bất kỳ thứ gì ra khỏi trại, dù chỉ là một người, một ngựa. Lúc đó, ta bắt đầu nghĩ vì Đường đại ca trong nhà hẳn đã có thê thất hoặc là có người trong lòng, nhưng hỏi huynh ấy lại nói không có. Ta lại nghĩ đến mấy tiếng huynh ấy gọi trong lúc mê sảng liền hỏi ‘A Mạch là ai’, huynh ấy rất kinh ngạc, không biết ta từ đâu mà biết được cái tên này, lúc đầu không chịu nói ra, cuối cùng không chịu được ta quấn lấy không thôi nên nói cho ta biết đó là một người huynh đệ kết nghĩa của huynh ấy.”
A Mạch thản nhiên hỏi: “Tức đại đương gia định nói gì?”
Tức Vinh Nương cắn cắn môi, đón nhận ánh mắt của A Mạch, thẳng thắn đáp: “Điều ta muốn nói chính là Đường đại ca thích ngài.”
A Mạch ngẩn người, lập tức đứng lên cất tiếng cười lớn, phải một lúc lâu mới dừng lại được, nhìn Tức Vinh Nương cười hỏi: “Tức đại tiểu thư, ngươi cũng biết ngươi đang nói gì chứ?”
Tức Vinh Nương bị A Mạch vừa rồi cười lớn nên có chút xấu hổ, khẽ vênh cằm, đáp: “Ta nói trong lòng Đường đại ca thích ngài, ngài đừng cảm thấy buồn cười, cũng đừng coi thường Đường đại ca, trên đời này cũng có nam tử chỉ thích nam tử, trong sơn trại chúng ta cũng có. Hơn nữa đừng nói, đừng nói ngài…”
“Đừng nói ta cái gì?” Ánh mắt A Mạch đột nhiên sắc bén, tựa như lưỡi gươm nhìn thẳng vào mắt Tức Vinh Nương.
Tức Vinh Nương bị ánh mắt của A Mạch làm cho giật mình, nhưng trước mặt A Mạch lại không chịu tỏ ra yếu thế, vẫn vênh cằm mạnh miệng nói: “Càng đừng nói ngài khi trưởng thành lại có dáng vẻ này, so với tướng mạo của nữ tử còn đẹp hơn vài phần, nếu không phải trên mặt ngài có râu, cổ họng rõ ràng có yết hầu, thì ngay cả ta cũng sẽ nghĩ ngài là một nữ tử!”
A Mạch lạnh lùng nhìn Tức Vinh Nương, lạnh giọng nói: “Tức đại tiểu thư, ngươi cũng biết ngươi đang nói gì chứ? Nếu không phải nể mặt Đường tướng quân, hôm nay Mạch mỗ nhất định sẽ không cho ngươi ra khỏi phủ nguyên soái này!”
Trong giọng nói của A Mạch lộ ra sát khí lạnh lẽo, khiến cho Tức Vinh Nương nhất thời nói không nên lời, lúc này nàng mới nhớ ra nam tử tao nhã trước mặt mình chính là nguyên soái quân Giang Bắc danh chấn tứ quốc, một trận tiêu diệt mấy vạn kỵ binh thát tử.
Tức Vinh Nương sững sờ im lặng, A Mạch hừ lạnh một tiếng, nói: “Xem ra việc ngươi tới Ký Châu, Đường Thiệu Nghĩa không hề hay biết, nếu không anh ta tuyệt đối sẽ không để cho ngươi nói những chuyện xằng bậy như vậy! Nể mặt anh ta, hôm nay ta không muốn so đo với ngươi, tốt nhất là ngươi mau trở lại Thanh Phong trại đi!”
Nói xong liền đứng dậy, phất tay áo muốn gọi người tiễn khách. Tức Vinh Nương nghe vậy đột nhiên bừng tỉnh, tiến lên kéo lấy ống tay áo A Mạch, vội la lên: “Nguyên soái! Nếu ngài coi Đường đại ca là huynh đệ, chẳng lẽ ngài nhẫn tâm nhìn huynh ấy vì ngài mà cô độc suốt đời sao?”
Tay nàng ta sử dụng thủ pháp cầm nã thủ(1), A Mạch vài lần dùng sức cũng không giãy ra được, lại không dám để nàng ta lại gần, cuối cùng chỉ có thể bất đắc dĩ xoay người lại nhìn nàng, hỏi: “Ngươi rốt cục muốn thế nào?”
Trên mặt Tức Vinh Nương lộ ra vẻ đắc ý của tiểu nữ nhi, trong miệng lại năn nỉ nói: “Nguyên soái, ngay từ đầu ngài đã đáp ứng với ta, ngài là đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, sẽ không tức giận với lời nói của ta.”
A Mạch tánh khỏi cái nắm tay của Tức Vinh Nương, trở lại ghế của mình, một lần nữa ngồi xuống, nhắm mắt một lát rồi mở ra, hỏi: “Ngươi nói đi, ngươi muốn thế nào?”
Tức Vinh Nương đáp: “Ngài đã có thê thất, lại không thích Đường đại ca, không bằng trực tiếp nói rõ cho Đường đại ca biết, cũng khiến cho huynh ấy chết tâm tư.”
A Mạch cảm thấy vô lực, lấy tay day day huyệt Thái Dương, nói: “Anh ta chưa hề nói gì với ta, ngươi đã bảo ta tự nhiên đi tới trước mặt anh ta, nói rằng ta đã có thê thất, cũng không thích anh ta, để anh ta mất đi phần tâm tư này, cần đón dâu thì đón dâu, nên sinh con thì sinh con à? Ngươi nghĩ cách này có thể làm được sao?”
Thực ra Tức Vinh Nương nghe xong cũng tự mình hiểu được biện pháp này có phần không thể, liền hỏi lại A Mạch: “Vậy ngài nói nên làm thế nào bây giờ?”
A Mạch yên lặng nhìn Tức Vinh Nương, cũng không biết nên nói gì. Hai người chỉ yên lặng nhìn nhau, chợt nghe bên ngoài truyền đến một tiếng nổ chấn động đến nỗi song cửa sổ cũng rào rào rơi xuống đất, ngay cả căn phòng cũng theo đó mà rung lên. Hai người cả kinh, đều đứng bật dậy chạy ra cửa, mới ra đến cửa phòng, Lâm Mẫn Thận và Trương Sĩ Cường một trước, một sau cũng từ trong viện chạy tới.
A Mạch hỏi: “Chuyện gì vậy? Tiếng nổ ở đâu vậy?”
Trương Sĩ Cường đáp: “Hình như là phía tây phủ truyền tới.”
Quả nhiên, chỉ chốc lát sau liền có thân binh trở về bẩm báo, tiếng nổ là từ một gian phòng phía tây phủ nguyên soái vọng lại, bên đó vốn là nhà kho quân nhu, tích trữ khí giới các loại, không biết tại sao lại phát nổ, nhưng không có người nào bị thương vong.
A Mạch nghe vậy thì nhíu mày, bây giờ là mùa thu, trời hanh khô, cũng may mà không xảy ra hỏa hoạn, nếu không thì chẳng biết sẽ hỗn loạn đến thế nào. A Mạch nghiêm mặt lạnh lùng phân phó thân binh đi tìm Lý Thiếu Hướng đến hỏi.
Một lúc sau, Lý Thiếu Hướng mang theo khuôn mặt u ám đi tới, phía sau còn dẫn theo một người, chỉ thấy người nọ trên người chẳng những quần áo cháy xém rách tả tơi, bám đầy bụi bặm, mà ngay cả khuôn mặt cũng một mảnh đen thui như mực, tóc và lông mày đều bị cháy sém. Người nọ đi đến trước mặt A Mạch quỳ xuống hành lễ, phía sau, Lý Thiếu Hướng một cước đạp hắn ngã nhào trên mặt đất, mắng: “Nguyên soái, chính là tiểu tử này gây họa, thiếu chút nữa đã khiến cho gian phòng kia của ta nổ tung rồi!”
——————————-
Chú thích:
1- Cầm nã thủ: Bạn nào là fan của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung hẳn sẽ không cảm thấy xa lạ với thuật ngữ này.
Trong tiếng Hoa, Cầm có nghĩa là bắt, chộp theo kiểu một con đại bàng bắt mồi hay một viên cảnh sát bắt một tội phạm. Nã có nghĩa giữ gìn kiểm soát. Thủ có nghĩa là tay. Như vậy, Cầm Nã Thủ là nghệ thuật bắt giữ, chộp và kiểm soát. Bên cạnh những kỹ thuật khóa đúng theo tên gọi còn có những kỹ thuật ấn, áp, điểm …
chương 126
BỎ QUA
Người nọ yên lặng bò dậy, một lần nữa quỳ xuống, hướng về phía A Mạch vái một vái rồi nói: “Tiểu nhân là Trịnh Lam, bái kiến nguyên soái!”
A Mạch thấy người này bề ngoài mặc dù chật vật nhưng thần sắc vẫn bình tĩnh tự nhiên, trong lòng thầm lấy làm lạ bèn hỏi: “Rốt cuộc là xảy ra chuyện gì?”
Trịnh Lam trầm giọng đáp: “Tiểu nhân là thợ thủ công ở doanh quân nhu. Hôm nay trong lúc làm thí nghiệm hỏa súng không cẩn thận làm thuốc súng bất ngờ bắt lửa nổ tung.”
A Mạch nghe xong còn chưa nói gì, Lý Thiếu Hương ở bên cạnh đã nóng nảy mắng: “Tiểu tử ngươi đúng là cái đồ không an phận. Chẳng phải đã nói không cho phép ngươi làm mấy cái đồ hỏa súng bỏ đi đó hay sao?”
A Mạch giơ tay ngăn Lý Thiếu Hướng lại, tùy ý đưa mắt liếc qua Trịnh Lam một cái. Sau đó xoay người về phía Tức Vinh Nương vẫn đang đứng cách đó không xa, thản nhiên nói: “Tức đại đương gia. Hiện ta có chút việc quân quan trọng cần phải xử lý. Ngươi từ xa đến đã mệt rồi, hay là lui xuống trước nghỉ tạm một chút, được không?”
Tức Vinh Nương không phải kẻ ngốc, nghe A Mạch nói vậy liền biết người ta không muốn mình nghe được việc quân sự, lập tức gật đầu nói: “Được, vậy nghe theo an bài của nguyên soái.”
A Mạch gật gật đầu, sai Trương Sĩ Cường đưa Tức Vinh Nương xuống dưới nghỉ ngơi. Sau đó liền dẫn theo Lý Thiếu Hướng cùng Trịnh Lam đi vào thư phòng. Chỉ tay vào ghế bảo hai người bọn họ ngồi xuống, xong xuôi mới quay đầu hỏi Lâm Mẫn Thận đang đứng phía sau: “Hắn là thợ thủ công ngươi mang từ Thịnh Đô về phải không?”
Lâm Mẫn Thận cẩn thận nhìn Trịnh Lam, gương mặt đã bị khói hun đen như mực, bất giác nở nụ cười, nói đùa vui: “Có lẽ là như vậy thật, chỉ có điều tên này mặt mày đen thủi đen thui, ta cũng nhận không ra.”
Trịnh Lam nghe vậy liền dùng tay áo lau bụi bặm trên mặt rồi nói với Lâm Mẫn Thận: “Đại nhân, là ta, ngài không nhớ rõ sao? Ta là người đã chủ động yêu cầu được cùng đi với ngài đến Giang Bắc đó!”
Lâm Mẫn Thận cố nén cười, quay qua A Mạch gật gật đầu: “Đúng là có một kẻ khác thường như vậy thật.”
A Mạch thản nhiên cười cười, hỏi Trịnh Lam: “Vì sao ngươi lại chủ động theo hắn đến Giang Bắc? Theo ta được biết, phần lớn nhóm thợ thủ công các ngươi đều bị hắn bắt đến đây.”
Trịnh Lam vẫn không cười, nghiêm trang nhìn A Mạch, trịnh trọng đáp: “Bởi vì chỉ ở Giang Bắc mới có thát tử. Nguyên soái, hỏa súng có thể khắc chế kỵ binh của thát tử!”
A Mạch nghe xong trong lòng vừa động, ngưng thần nhìn Trịnh Lam.
Lý Thiếu Hướng nghe Trịnh Lam nói thì lại thấy buồn cười, cười ha ha hai tiếng, trêu chọc: “Súng của ngươi đó hả? Cũng chỉ là kêu to một chút, hù dọa người ta thôi. Bắn mười phát có đến tám phát không nổ. Khó khăn lắm mới bắn được hai phát lại không biết có thể bay đến trước mặt thát tử hay không. Cho dù có bay đến thì ngay cả áo giáp của người ta cũng không thể xuyên qua nổi! Chưa nói đến ống trúc trong tay mình còn bị nổ bung ra, dùng chưa được vài lần đã phải vứt bỏ đi rồi.”
Trịnh Lam không để ý đến lời Lý Thiếu Hướng, ánh mắt sáng quắc nhìn về A Mạch, trong giọng nói mơ hồ mang theo chút kích động, run rẩy nói: “Nguyên soái! Nòng súng có thể không cần dùng ống trúc!”
Lý Thiếu Hương ngạc nhiên nói: “Không dùng ống trúc thì dùng cái gì?”
Trịnh Lam đáp, nói từng chữ: “Có thể thay bằng ống sắt!”
Giọng hắn nói không lớn nhưng lại tựa như sét đánh bên tai A Mạch. Ngoài mặt, A Mạch vẫn ngồi yên trên ghế không chút phản ứng. Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì khác thường, lại vừa nghe Trịnh Lam nói muốn dùng sắt thì nóng nảy kêu lên: “Ngươi mau tỉnh lại đi! Muốn phá sản sao? Ngươi phá hỏng ống trúc còn chưa đủ à mà lại còn muốn hại tiếp sắt của ta!”
Trịnh Lam khó khăn lắm mới có cơ hội nói chuyện với A Mạch, sao có thể dễ dàng buông tha được, mặc dù nghe Lý Thiếu Hướng khiển trách nhưng cũng không tỏ ra sợ hãi, vẫn nhìn A Mạch chằm chằm, nói: “Nguyên soái, trên đường ta đến Giang Bắc đã tán gẫu cùng mấy người thợ rèn. Bọn họ nói hoàn toàn có thể chế tạo cho ta hỏa súng từ sắt. Như vậy nòng súng sẽ không bị nứt toác ra, cũng có thể tiết kiệm thuốc nổ, viên đạn cũng có thể bắn đi xa hơn!”
Trong lòng A Mạch đã gợn chút kinh hãi. Nàng tất nhiên biết dùng sắt làm nòng súng sẽ không dễ bị nổ bung như ống trúc. Nàng cũng biết đúng là đem ống trúc đổi thành nòng sắt chính là một bước phát triển nhảy vọt trong chế tạo vũ khí, cũng biết làm như thế thì cấu tạo thiết kế súng sẽ càng thêm hợp lý, đồng thời lại càng khống chế chặt chẽ lượng thuốc súng cần dùng, bảo đảm lượng thuốc nổ sắp xếp đạt đến tiêu chuẩn tương ứng, càng có thể bảo đảm lực phóng ra mạnh mẽ, lại có thể nâng cao tính an toàn khi bắn súng. Trên bản vẽ cấu tạo súng trong bút ký của phụ thân cũng có giới thiệu qua, thậm chí còn có loại vũ khí uy lực lớn hơn cả thứ này nữa…
Trong lúc nhất thời, mấy bức hình phức tạp lung tung trên bản vẽ liền hiện lên trong đầu A Mạch. A Mạch bỗng cảm thấy đầu óc đau nhức, nặng trịch. Mấy thứ này phụ thân chưa từng dùng qua, nàng cũng không dám dùng, giờ lại tự mình lại đẩy con quái vật này sinh ra trên thế gian này hay sao? Đây gọi là thiên đạo cho phép hay sao?
Lại nghe Trịnh Lam nói: “Đến lúc đó, vạn súng của chúng ta đồng thời bắn phá, nhất định có thể đánh cho thát tử hoa rơi nước chảy.”
Rất lâu sau A Mạch cũng không có phản ứng gì, chỉ lẳng lặng nhìn Trịnh Lam. Nhìn đến nỗi tay chân Trịnh Lam luống cuống cả lên mới chịu thu hồi ánh mắt, cụp mi mắt yên lặng không nói.
Lâm Mẫn Thận đứng một bên nhịn không được, lên tiếng hỏi: “Ngươi đã thí nghiệm sử dụng nòng súng bằng sắt, vậy tầm bắn có xa lắm không?”
Trịnh Lam nghe xong đỏ mặt, ngượng ngùng đáp: “Vẫn chưa chính thức thử qua. Thợ rèn kia không dám để ta lén đúc ống sắt, ta chỉ có thể bắt tay vào cải tiến thuốc súng. Hôm nay đang thí nghiệm lượng thuốc súng cần dùng, kết quả không ngờ lại là phát nổ.”
Thì ra nói nửa ngày chẳng qua vẫn chỉ là cho mọi người biết về trận đại hỏa! Điều này làm cho Lâm Mẫn Thận và Lý Thiếu Hướng nghe xong đều cười to không ngừng, chỉ có A Mạch vẫn cúi đầu, không biết đang nghĩ cái gì. Lâm Mẫn Thận nhận thấy A Mạch như vậy liền ngưng cười, có chút đăm chiêu nhìn A Mạch.
A Mạch cuối cùng cũng hạ quyết tâm, dứt khoát ngẩng đầu lên, hỏi Trịnh Lam: “Ngươi có kiến thức về cơ quan, máy móc không?”
Trịnh Lam mặc dù không rõ A Mạch vì sao lại đột nhiên hỏi điều này, nhưng vẫn thành thật gật đầu nói: “Không nhiều nhưng cũng coi như có học qua một ít.”
A Mạch quay sang phân phó Lý Thiếu Hướng: “Ngươi tìm một chỗ bí mật, đem toàn bộ thợ thủ công chế tạo súng trong quân, tất cả giao cho hắn quản lý. Lại chọn ra vài thợ rèn tay nghề cao cho hắn. Tóm lại một câu, mặc kệ hắn muốn cái gì, ngươi đều phải chuẩn bị tốt cho hắn cái đó!”
Mọi người trong phòng đều run sợ. Trịnh Lam kia có phản ứng đầu tiên, vội vàng quỳ xuống trước mặt A Mạch, nói: “Đa tạ nguyên soái đã tín nhiệm tiểu nhân! Tiểu nhân chắc chắn sẽ chế thành súng tốt nhất giao cho đại nhân! Nếu không làm được, tiểu nhân cam nguyện…”
“Ngươi đi trước đi.” A Mạch ngắt lời Trịnh Lam, trong mắt dường như có ánh lửa nhảy nhót nhưng giọng nói vẫn thản nhiên như không: “Ta sẽ chờ xem tiến triển của ngươi. Đừng làm ta thất vọng là tốt rồi.”
Trịnh Lam tất nhiên là phủ phục sát đất mà tạ ơn A Mạch. Lý Thiếu Hướng tuy có chút không tình nguyện, nhưng từ khi A Mạch dùng chiến xa sàng nỏ khiến kỵ binh thát tử đại bại, hắn đã vô cùng tin phục, A Mạch nói gì đều nghe nấy. Giờ nghe A Mạch phân phó như vậy, liền nghĩ A Mạch nhất định là có tính toán riêng, cho nên cũng cực kỳ nghe lời mà dẫn dắt Trịnh Lam đi xuống chuẩn bị.
Trong thư phòng chỉ còn lại hai người là A Mạch và Lâm Mẫn Thận. A Mạch trầm tư không nói. Lẫm Mẫn Thận yên lặng đánh giá A Mạch một hồi, lời nói gần dâng lên đến miệng lại nhịn xuống, ngược lại hỏi: “Vị Tức gia đại tiểu thư kia phải xử lý như thế nào?”
A Mạch lúc này mới nhớ đến vị cô nương phiền toái kia, nhất thời cảm thấy đau đầu, vội vàng xua tay nói: “Tiễn về đi, tiễn về đi.”
Lâm Mẫn Thận không khỏi nở nụ cười.
Ai ngờ Tức Vinh Nương vẫn không chịu đi, hơn nữa vừa nghe nói A Mạch muốn đưa nàng đi liền xông thẳng đến chỗ A Mạch. Nàng là cô gái đang ở độ tuổi tươi trẻ lại biết chút võ công, chính là người cương không chịu, nhu cũng không thích. Dù Lâm Mẫn Thận biết nàng có quan hệ với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng lại không biết liệu nàng và nguyên soái có tư tình gì không. Bởi vì trong lòng mọi người ai cũng đều có tính toán riêng, nhất thời thật đúng là không biết nên đối với nàng như thế nào.
A Mạch thấy vậy, liền mau mắn trốn đến chỗ Từ Tĩnh. Lúc đó Từ Tĩnh vẫn chưa biết Tức Vinh Nương và Đường Thiệu Nghĩ có khúc mắc, chỉ biết nàng thật sự là một cô gái mạnh mẽ tìm đến đây dây dưa với A Mạch. Lại thấy A Mạch vô dụng như thế, không khỏi tức giận đến mức râu tóc đều dựng đứng, khiển trách: “Không phải chỉ là một nữ tử thôi sao. Ngươi cứ nói với nàng trong nhà đã có thê thất, không thể ở bên ngoài nạp thiếp nữa, không phải được rồi sao!”
A Mạch thầm nghĩ: nhưng nàng ấy tới tìm ta để cùng nàng đi chữa bệnh tâm lý “Đoạn tụ” cho Đường Thiệu Nghĩa. Cho dù trong nhà ta có hổ dữ sợ cũng không thể dọa nàng lùi bước được. Bên kia, Từ Tĩnh đã nổi giận nói: “Ngươi không dám nói, vậy để lão phu đi nói với nàng!”
A Mạch cuống quýt kéo Từ Tĩnh lại, cẩn thận nhìn lướt qua bốn phía, sau đó mới nhỏ giọng nói: “Nàng trên danh nghĩa là Đại đương gia của Thanh Phong trại. Tức Phong trước khi chết đã đem nàng ủy thác cho Đường Thiệu Nghĩa. Lần này nàng tới tìm ta là vì Đường Thiệu Nghĩa.”
Từ Tĩnh ngẩn ra, tức thì hiểu được, kinh ngạc nhìn qua A Mạch hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đã biết … thân phận của ngươi?”
A Mạch có chút xấu hổ, lại càng thêm bất đắc dĩ, lắc đầu nói: “Chính vì không biết cho nên Tức Vinh Nương mới phải tìm đến đây. Bảo ta…Ôi chao!” A Mạch thật không biết nên giải thích cho Từ Tĩnh thế nào về ý đồ của Tức Vinh Nương. Cân nhắc chọn từ một hồi rồi mới nói tiếp: “Nàng kêu ta đi chữa tâm bệnh ‘Đoạn tụ’ của Đường Thiệu Nghĩa!”
Từ Tĩnh đầu tiên là trố mắt, sau đó lập tức liền bật cười thành tiếng, vỗ tay nói: “Xem ra nữ tử này cũng biết ba phần binh pháp, biết điều quan trọng nhất chính là rút củi dưới đáy nồi!”
A Mạch bị Từ Tĩnh cười càng thêm rầu, giận dỗi ngồi xuống ghế, cả giận: “Tiên sinh còn cười ư! Ngươi bảo ta làm sao đứng trước mặt hắn nói mấy chuyện đó bây giờ?”
Từ Tĩnh tuy đã cố sức nhịn cười nhưng khóe miệng vẫn không khỏi cong lên, nói: “Chuyện này đúng là không có cách nào chủ động đi nói được. Nếu hắn có ý muốn cầu hoan với ngươi, thật ra có thể đường đường chính chính cự tuyệt.”
“Tiên sinh!” A Mạch quát ngắt lời Từ Tĩnh. Dù da mặt nàng có dày đến mức nào, giờ phút này cũng có chút ửng hồng, “Bây giờ là lúc nào rồi, Tiên sinh còn đùa được sao!”
Từ Tĩnh cười cười, một lúc lâu sau mới hỏi: “A Mạch, ngươi đối với Đường Thiệu Nghĩa thật đúng là không có tình cảm sao?”
A Mạch khôi phục sắc mặt, nghiêm nghị đáp: “A Mạch bây giờ chỉ một lòng muốn đuổi trừ thát tử khôi phục Giang Bắc. Với Đường Thiệu Nghĩa cũng chỉ có tình huynh đệ, nghĩa thâm giao. Ngoài ra tuyệt không có tư tình nam nữ.”
Từ Tĩnh chậm rãi gật đầu, nói: “Tức Vinh Nương kia nếu có thể nhìn ra Đường Thiệu Nghĩa có ý với ngươi, đủ thấy tình ý của Đường Thiệu Nghĩa đối với ngươi đã khó kìm nén nổi nữa rồi. Hắn hiện tại không biết thân phận nữ nhi của ngươi mà đã vậy, ngày sau nếu biết được sự thật, chỉ sợ sẽ… khó mà kiềmm chế!”
A Mạch nghe xong trong lòng đột nhiên nhảy dựng, yên lặng ngồi một lát rồi ngẩng đầu hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngươi nói xem, vì sao làm thân nhi nữ lại sinh ra lắm chuyện như vậy? Nếu ta thật sự là nam nhi, có phải sẽ không nảy sinh nhiều chuyện như vậy hay không?”
Từ Tĩnh im lặng lắng nghe, một lúc lâu sau mới nhẹ giọng nói: “A Mạch, mặc dù ngươi vẫn ra vẻ nam tử, nhưng ta cũng không hy vọng ngươi thật sự xem bản thân mình là nam tử. Nam dương nữ âm, nam thiên nữ địa, nam càn nữ khôn(1). Âm dương, thiên địa, càn khôn, ti nào chức nấy mới hợp với thiên đạo.”
A Mạch nghe vậy, thản nhiên cười cười.
Bên phía Tức Vinh Nương vẫn dây dưa không ngớt. Công việc chế súng của Trịnh Lam cũng tiến triển thần tốc. Mới được hai, ba ngày, A Mạch lại đến xem xét, đã thấy đúc thành nòng súng bằng sắt, hình dáng bên ngoài đã có thể phân chia rõ ràng ra ba bộ phận là nòng súng, ngăn chứa đạn và báng súng… Chính xác ra cái này không nên gọi là hỏa thương(2), mà phải gọi là hỏa súng(3) mới đúng.
A Mạch nghe Trịnh Lam giảng giải một phen uy lực của khẩu súng kiểu mới, trầm mặc nhìn một lát rồi dẫn riêng Trịnh Lam vào trong thư phòng. Lâm Mẫn Thận và Trương Sĩ Cường là thân binh cũng bị A Mạch phái ra ngoài sân đứng chờ. Bên trong thư phòng nói chuyện gì đều không có người thứ ba biết được.
Cuộc nói chuyện trong thư phòng kéo dài rất lâu, đến khi Trịnh Lam từ thư phòng đi ra, trên mặt khó nén được vẻ kích động, mắt phóng tinh quang, một mạch bước nhanh ra ngoài. Lúc bước đến cửa viện lại bị vấp suýt nữa thì té. Khi đi ngang qua đám người Lâm Mẫn Thận và Trương Sĩ Cường cũng không chịu dừng lại chút nào. Đám người Lâm Mẫn Thận kinh ngạc mà nhìn. Lâm Mẫn Thận ngơ ngác nhìn Trịnh Lam càng chạy càng nhanh, đến cuối cùng tựa hồ như muốn đạp cả lên bóng của chính mình mà chạy, thì thào hỏi Trương Sĩ Cường: “Thật ra nguyên soái và hắn đã nói những gì vậy?”
Trương Sĩ Cường không trả lời.
Tối hôm đó, trong phòng A Mạch đèn đuốc thắp sáng cả đêm. Sắc trời còn chưa nhìn rõ, A Mạch đã gọi Trương Sĩ Cường lấy chậu than đem vào. Sau đó liền đem mấy tờ bản vẽ trong tập bút ký châm trên ngọn nến trên bàn rồi ném vào trong chậu than. Nàng vẫn thất thần ngồi ở đó, yên lặng nhìn chăm chú vào ngọn lửa đang cháy.
“Ta sợ quản không được chính mình.” A Mạch đột nhiên không đầu không đuôi nói, “Con người luôn luôn không cưỡng nổi sự mê hoặc, dần dần trở nên lòng tham không đáy. Cuối cùng sẽ thả con quái thú này ra. Chúng vốn không phải thuộc về thế giới này, đốt đi là tốt nhất.”
Trương Sĩ Cường không hiểu gì nên chỉ biết nhìn A Mạch, môi vài lần mấp máy muốn nói rồi lại thôi.
A Mạch tinh tế đưa tay vuốt ve trang bìa của quyển bút ký. Năm ấy ở núi Ô Lan, nàng từ trong di vật của phụ thân lấy ra quyển bút ký này và cây chủy thủ. Bây giờ, chủy thủ đã đánh mất ở Nhạn Sơn, bên người nàng chỉ còn lại quyển bút ký này. Nội dung trong đó nàng đã thuộc nằm lòng từ lâu, lẽ ra phải sớm hủy đi nhưng nàng vẫn cứ luyến tiếc.
Tiếu Dực cố ý ám chỉ cho nàng biết cơ quan bí mật ẩn dấu trên giá sách… Rồi ánh mắt dò xét của Lâm Mẫn Thận… Sau khi đại thắng Thường Ngọc Thanh tại khe núi Phi Long, mọi người đều cho rằng trong tay nàng nhất định có binh pháp kỳ thư gì đó. A Mạch cười nhạo một tiếng, cuối cùng đem quyển bút ký thả vào chậu than. Trang giấy rất nhanh liền bị ngọn lửa đỏ táp lấy, cuồn cuộn bùng lên. Chữ viết trên mặt giấy rõ ràng, mạnh mẽ. Trong ánh lửa chiếu rọi, nó hiện ra sáng loáng kiêu ngạo, thỉnh thoảng trong đó lại chen lẫn những nét chữ thanh tú, bên cạnh phần kiên cường càng làm tăng thêm phần mềm mại. Có thể nói là trong cương có nhu…
Ánh lửa trong chậu than dần dần tàn lụi, cuối cùng chỉ còn lại một đám tro tàn màu đen.
Ánh mắt A Mạch có chút cay xè, đành phải ngửa đầu khép mắt, sau một lúc lâu mới ổn định lại được, thản nhiên phân phó Trương Sĩ Cường: “Đem ra ngoài, tìm một gốc cây chôn xuống.”
Trương Sĩ Cường nhẹ tay nhẹ chân bưng chậu than đi ra, đem tất cả tàn tro trong chậu trút hết vào một cái túi lụa trắng mỏng sạch sẽ, chôn dưới gốc cây táo sau thư phòng của A Mạch, xong rồi mới trở lại. Lâm Mẫn Thận đã ở đó, đang hỏi A Mạch nên xử lý Tức Vinh Nương như thế nào.
A Mạch thoáng cân nhắc rồi nói: “Trước tiên cứ để nàng ở lại trong phủ, âm thầm phái người đi Thanh Phong Trại báo cho Đường Thiệu Nghĩa đến đón người.”
———————–
Chú thích:
1- Nam càn nữ khôn: càn là quẻ càn, tiêu biểu cho trời trong bát quái, đại diện cho nam tính. Khôn là quẻ khôn, tượng trưng cho đất trong bát quái, đại diện cho nữ tính.
2, 3- Hỏa thương, hỏa súng: Mẹ Cún cũng không hiểu lắm về sự thay đổi trong cách gọi tên này. Có lẽ vì loại súng đó khi mới chế tạo do có nòng dài giống như cây thương, nhưng lại có thể dùng thuốc nổ (hỏa dược) để bắn nên ban đầu nó được gọi là hỏa thương chăng?
chương 127
TÍN NHIỆM
Ai ngờ A Mạch vừa phái người đi chưa được hai ngày thì Đường Thiệu Nghĩa đã đích thân đến. Thì ra, đi theo Tức Vinh Nương đến Ký Châu còn có một huynh ta nữa trong trại, chính là hán tử ngày trước đi bên cạnh bảo vệ Tức Vinh Nương. Hắn họ Triệu, ở nhà là con thứ tư nên mọi người trong trại gọi hắn là Triệu Tứ. Trong sơn trại, Triệu Tứ nổi tiếng là người thành thật, võ công cũng không tồi, cho nên từ nhỏ đã trở thành người bảo vệ cho Tức Vinh Nương.
Ngày ấy, Tức Vinh Nương đi theo A Mạch đến tận phủ Nguyên soái. Nàng thân là cô gái trên giang hồ, tất nhiên tầm mắt so với tiểu thư khuê các thoáng rộng hơn rất nhiều, so với nam nhân lại trội hơn về phần trực giác. Lúc ở trên đường, từ xa nhìn thấy khuôn mặt của A Mạch nhu mì xinh đẹp như con gái, trong lòng liền có chút nghi ngờ giới tính của A Mạch, dự tính đợi đến đêm sẽ đến thăm dò phủ nguyên soái điều tra sự thật đến cùng. Lại bị hộ vệ Triệu Tứ ngăn cản, khuyên nàng rằng trong phủ nguyên soái bảo vệ rất chặt chẽ, thâm nghiêm, hẳn không dễ dàng vào được, đến lúc đó lại khiến cho người ta tưởng là thích khách hay mật thám, chẳng phải sẽ khiến Đường Thiệu Nghĩa càng thêm phiền toái hay sao. Tức Vinh Nương nghe vậy mới chịu từ bỏ ý nghĩ muốn xâm nhập phủ nguyên soái. Triệu Tứ vừa thở phào nhẹ nhõm, không ngờ chớp mắt một cái lại không thấy nàng ta đâu nữa. Thì ra Tức Vinh Nương đã công khai chạy đến trước cửa lớn của phủ nguyên soái cầu kiến Mạch nguyên soái rồi!
Triệu Tứ không có cách nào khác, đành phải âm thầm phái người trở về sơn trại báo tin cho Đường Thiệu Nghĩa, còn bản thân thì ngày đêm canh giữ ở bên ngoài phủ nguyên soái, sợ Tức Vinh Nương không may gặp rủi ro gì.
Khi Tức Vinh Nương đến Ký Châu có báo qua với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng lúc ấy chỉ nói là đến Ký Châu mua chút đồ chứ không hề nhắc đến sẽ đi tìm A Mạch. Đường Thiệu Nghĩa chỉ nghĩ nàng là cô gái trẻ tuổi, nhất định là thích chưng diện nên chắc hẳn muốn đến Ký Châu mua chút quần áo, trang sức linh tinh. Anh ta là nam nhân, không tiện hỏi nhiều. Lại nghĩ hiện giờ Ký Châu đã ở trong vòng khống chế của quân Giang Bắc nên cũng không để ý lắm. Chỉ kêu Tức Vinh Nương mang thêm vài người cùng đi.
Tức Vinh Nương lại chỉ chọn đưa mỗi Triệu Tứ thật thà đi theo, sau đó liền chạy vội đến Ký Châu. Không quá vài ngày, Triệu Tứ kia đã cho người chạy về báo tin với Đường Thiệu Nghĩa, nói Tức đại đương gia đã một mình xông vào phủ nguyên soái rồi.
Khi Đường Thiệu Nghĩa dẫn người tìm đến nơi, Triệu Tứ vẫn còn ngồi chờ ở một góc đường bên ngoài phủ, chờ đến nỗi mắt đỏ quạch. Nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa đến thì kích động suýt nữa rơi cả nước mắt, chạy thẳng qua đón, kêu lên: “Đường nhị đương gia! Cuối cùng thì ngài cũng đến rồi!”
Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu, hỏi Triệu Tứ: “Có biết đại đương gia đến tìm Mạch nguyên soái vì chuyện gì không?”
Triệu Tứ lắc đầu: “Không biết.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe xong, đôi lông mày rậm hơi nhíu, lại hỏi: “Đại đương gia cũng không nói qua điều gì sao?”
Triệu Tứ mím chặt khóe miệng, ra sức nhớ lại, đáp: “Tức đại đương gia chỉ nói trông tướng mạo của Mạch nguyên soái thật tuấn tú!”
Lời này vừa nói ra, sắc mặt mấy người đi theo Đường Thiệu Nghĩa đều có chút kỳ quái, không hẹn mà cùng liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa lại thấy dở khóc dở cười. Tức Vinh Nương này trước đó vài ngày còn la hét ẩm ĩ ép mình phải cưới nàng, khiến toàn sơn trại đều biết nàng chung tình với mình. Bây giờ lại đảo ngược, chuyển tình cảm về phía A Mạch, lại đi dây dưa với A Mạch!
Đường Thiệu Nghĩa trước tiên sai người đưa Triệu Tứ về nhà trọ nghỉ ngơi, còn mình đích thân đến phủ nguyên soái cầu kiến nguyên soái quân Giang bắc Mạch Tuệ. Tiểu giáo canh cửa vừa nhận ra Đường Thiệu Nghĩa, lập tức liền cho người chạy đi truyền tin cho A Mạch, một mặt tự mình dẫn Đường Thiệu Nghĩa vào phủ.
A Mạch đang cùng đám người Tiêu Dực thương thảo việc chiêu mộ tân binh, nghe nói Đường Thiệu Nghĩa đến cũng không lấy làm kinh ngạc. Chỉ nói vài câu đơn giản với Tiêu Dực rồi bảo mọi người giải tán, còn mình đứng dậy ra cửa viện nghênh đón Đường Thiệu Nghĩa.
Không lâu sau, bóng dáng Đường Thiệu Nghĩa cùng tiểu giáo đã xuất hiện, càng lúc càng gần. Tiểu giáo dẫn đường từ xa đã nhìn thấy A Mạch, liền đi nhanh đến hành quân lễ. Thấy A Mạch cũng không sai bảo gì thêm liền lui xuống, chỉ còn lại A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa đứng lại đó.
A Mạch mỉm cười, nhìn Đường Thiệu Nghĩa gọi: “Đại ca.”
Đường Thiệu Nghĩa lẳng lặng đánh giá A Mạch. Một thân thanh sam giống như thân trúc thẳng tắp mảnh mai, khuôn mặt tuấn tú, đường nét trong sáng… Tầm mắt của Đường Thiệu Nghĩa lướt qua cằm A Mạch thì hơi dừng lại, sau đó mới giả như không có việc gì dời mắt đi, kêu lên: “Mạch nguyên soái.”
A Mạch không trả lời, chỉ đứng đó cười, thản nhiên nhìn Đường Thiệu Nghĩa, vẫn gọi: “Đại ca.”
Đường Thiệu Nghĩa cuối cùng không thể khác được, khóe môi cười cười, sửa lời gọi: “A Mạch.”
A Mạch dẫn Đường Thiệu Nghĩa đi vào trong viện, vừa đi vừa cười nói: “Hai ngày trước ta vừa phái người đi mời đại ca, không ngờ đại ca lại đến nhanh như vậy.”
Đường Thiệu Nghĩa chỉ nghĩ A Mạch muốn nói về việc Tức Vinh Nương, hơi trầm mặc nói: “Tức đại đương gia từ nhỏ sống trong núi, lại bị Tức Phong nuôi dạy như con trai, tính tình khó tránh khỏi tùy hứng một chút, đã gây cho ngươi không ít phiền toái rồi.”
A Mạch liếc xéo Đường Thiệu Nghĩa một cái, vén rèm cửa lên đưa anh ta vào thư phòng, vừa cười vừa nói: “Đại ca hiểu lầm rồi, ta mời đại ca đến không phải vì chuyện của Tức đại đương gia.”
Đường Thiệu Nghĩa hơi bất ngờ, tùy ý ngồi xuống ghế, hỏi: “Trong quân có chuyện sao?”
A Mạch ngồi xuống bên cạnh, đáp: “Dự Châu đưa tin đến, hiện Trần Khởi đang dốc sức tiêu diệt nghĩa quân Giang Bắc ở khắp nơi. Không chỉ phái đám người tâm phúc là Khương Thành Dực, Phó Duyệt đến Túc, Ung để bình định, mà ngay cả Thường Ngọc Thanh trở về từ thành Võ An chờ người của Thường gia cũng bị hắn điều đến trấn áp dân đoàn(1) ở Kinh Châu.”
Thường Ngọc Thanh sau khi bại trận ở Thanh Châu liền phụng mệnh trở về Dự Châu, chuyện này Đường Thiệu Nghĩa đã biết. Từ lâu, Thường gia và Trần Khởi không hợp nhau đã không còn là bí mật. Anh ta vốn tưởng rằng đám người Thường gia sau khi trở lại Dự Châu sẽ bị Trần Khởi bỏ phế không dùng, lại không ngờ Trần Khởi vẫn còn dùng đến người của Thường gia.
Đường Thiệu Nghĩa không khỏi thắc mắc: “Trần Khởi vẫn còn muốn dùng Thường Ngọc Thanh sao?”
A Mạch nghe vậy, thản nhiên mỉm cười, nói: “Cứ nghĩ là Trần Khởi không muốn dùng, Thường gia trăm năm như vậy đã dễ dàng bị hạ gục rồi. Nhưng lần này hình như là ý chỉ của tiểu hoàng đế ở kinh thành Bắc Mạc, Trần Khởi cũng không còn cách nào. Hắn khó khăn lắm mới nắm được cơ hội Thường Ngọc Thanh bại trận, vốn định triệu hồi hắn trở về Dự Châu. Nhưng quân lệnh vừa phát ra thì lại nhận được quân lệnh từ thượng kinh truyền đến, đành phải chia ba vạn binh cho Thường Ngọc Thanh, phái Thường Ngọc Thanh dọc đường công chiếm các thành trấn chưa quy phục. Kết quả, Thường Ngọc Thanh trên đường từ Võ An trở về Dự Châu, đánh hạ hơn mười thành trì lớn nhỏ, ngược lại, chiến công còn tăng thêm không ít.”
Đường Thiệu Nghĩa không khỏi kinh ngạc, sửng sốt một lúc sau mới nói: “Không ngờ ngay cả Trần Khởi cũng tính sai. Sớm biết như thế không bằng phái Thường Ngọc Thanh ở lại Võ An trấn thủ Thanh Châu, cho Phó Duyệt đi còn hơn. Như vậy hóa ra cả Phó gia và Trần Khởi đều mất công toi, Trần Khởi cũng chẳng tranh giành được cái gì.”
A Mạch gật đầu: “Không sai, Trần Khởi e là cũng đang vô cùng hối tiếc. Chỉ có điều hắn là người luôn coi trọng thể diện, cho dù có nghiến gãy cả răng thì cũng gắng nuốt máu vào bụng, trên mặt sẽ vẫn mỉm cười mà không để lộ mảy may.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe A Mạch nói đùa cũng bật cười, nhưng nghĩ lại liền hiểu được mấu chốt trong đó, trầm mặc một lát rồi nói: “Hai châu Thanh, Ký sau này e rằng sẽ càng thêm gian nan.”
Trần Khởi không để ý đến hai châu Thanh, Ký mà tập trung phát động tấn công vào nghĩa quân ở các nơi, củng cố thế lực của mình. Đợi sau này một khi không còn thế lực nào phía sau phiền nhiễu, lúc đó mới dốc toàn lực tấn công hai châu Thanh, Ký. Đường Thiệu Nghĩa có thể nói ra lời này, có lẽ cũng đã nhận ra ý đồ của Trần Khởi rồi.
A Mạch thấy trực giác của Đường Thiệu Nghĩa nhạy bén như thế, thầm khen trong lòng, nói: “Nhiều lắm là đến mùa thu sang năm, Trần Khởi sẽ dốc toàn lực tấn công Thanh Châu.”
Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa càng trở nên ngưng trọng. Từ giờ cho đến mùa thu sang năm cùng lắm chỉ còn một năm, cho dù có xúc tiến triệu tập được mấy vạn tân binh thì có thể thay đổi điều gì? Chỉ riêng luyện được một đội cung thủ thuần thục cũng phải mất từ hai đến ba năm, đó là còn chưa tính đến điều kiện phải chọn được những người trời sinh có cánh tay khỏe mạnh nữa. Không có cung thủ sẽ không thể khắc chế kỵ binh Bắc Mạc. Chỉ dựa vào trận địa trường thương thì khó có thể đối phó được với kỵ binh phi ngựa đột phá tấn công từ nhiều hướng.
A Mạch tất nhiên có thể đoán được suy nghĩ trong lòng Đường Thiệu Nghĩa, thấy Đường Thiệu Nghĩa ngưng thần không nói bèn hỏi: “Đại ca, nghe nói huynh ở Điện Tử Lương huấn luyện kỵ binh?”
Đường Thiệu Nghĩa gật đầu nói: “Trên Điện Tử Lương đúng là rất thích hợp để luyện kỵ binh. Ta chọn người trong sơn trại huấn luyện ra một đội kỵ binh tinh nhuệ. Không cần số lượng, chỉ cần chất lượng.”
Không phải không muốn số lượng, mà là không có nhiều chiến mã, cũng không có đủ tài lực, vật lực, cho nên mới đành phải chú trọng vào chất lượng mà thôi. A Mạch thầm nghĩ, chần chừ một lát rồi hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, hiện tại trong tay huynh có bao nhiêu kỵ binh?”
Nếu là người khác hỏi đến vấn đề này, Đường Thiệu Nghĩa tất nhiên sẽ không trả lời. Nhưng người hỏi lại là A Mạch, Đường Thiệu Nghĩa không cần nghĩ ngợi liền đáp: “Thật ra chọn từ trong sơn trại, cộng thêm thu thập những thứ tốt nhất từ Thường Ngọc Thanh, được năm, sáu trăm quân.”
“Một người một ngựa?” A Mạch lại hỏi.
Đường Thiệu Nghĩa ngượng ngùng gật đầu. Nam Hạ vốn thiếu chiến mã. Hiện tại đường giao thông trọng yếu tại Giang Bắc đã bị Bắc Mạc chiếm lĩnh, lại không thể nhập ngựa từ thảo nguyên Tây Hồ về. Cho nên căn bản không thể so sánh với kỵ binh Bắc Mạc, thường là một người phối hợp với hai ngựa, thậm chí là ba ngựa.
A Mạch mím môi trầm ngâm giây lát rồi đưa mắt lên nhìn Đường Thiệu Nghĩa, trầm giọng nói: “Đại ca, dưới trướng Trương Sinh hiện tại có gần bốn ngàn. Lúc chiến đấu tại Thanh Châu đoạt được của thát tử không ít chiến mã. Tất cả ta đều giao hết cho đại ca. Mùa thu sang năm, huynh có thể thay ta luyện ra một đội kỵ binh tinh nhuệ được không?”
Đồng tử của Đường Thiệu Nghĩa co lại, kinh ngạc nhìn A Mạch, lại thấy ánh mắt kiên định của nàng đang nhìn thẳng vào mình không chút trốn tránh, nói: “Huynh cứ đưa kỵ binh về Điện Tử Lương, lương thảo và trang bị sẽ được đưa từ Ký Châu đến. Sang năm, ta chỉ cần một vạn tinh kỵ, còn lại đều thuộc về đại ca!”
Còn lại cũng khoảng mấy ngàn tinh kỵ. Mà vào thời điểm hưng thịnh nhất của quân Giang Bắc ở trên núi Ô Lan, Đường Thiệu Nghĩa ban đầu cũng chỉ dựa vào gần một vạn kỵ binh đã có thể tiến vào Tây Hồ như vào chỗ không người. Đường Thiệu Nghĩa cảm thấy khô miệng, theo bản năng nuốt xuống một ngụm nước bọt rồi mới nói: “A Mạch, ngươi có biết nếu giao kỵ binh vào tay ta có nghĩa là gì không?”
Thanh Phong trại không giống Võ An, Đường Thiệu Nghĩa cũng không phải là Thường Ngọc Thanh. Nếu Đường Thiệu Nghĩa đem số kỵ binh này thu nạp thành quân của mình, như vậy khác nào anh ta lấy được một món hời từ quân Giang Bắc. Đến lúc đó, dùng danh nghĩa triệu tập nghĩa quân chống lại thát tử, với sức ảnh hưởng của bản thân anh ta, việc tập hợp được lực lượng lớn mạnh hơn lực lượng trong tay A Mạch không phải là không có khả năng.
A Mạch vẫn thong dong nói: “Ta tin đại ca.”
Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch chăm chú một hồi, gật đầu nói: “Được.”
A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa, gương mặt thanh tú từ từ thư giãn, trong mắt dâng đầy ý cười, nói thêm: “Còn có một chuyện cần đại ca giúp đỡ.”
Ánh mắt Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch lưu luyến không dời, hỏi: “Chuyện gì?”
A Mạch nói: “Ta muốn nhờ đại ca tìm giúp một chỗ bí mật trong núi Thái Hành để làm nơi chế tạo quân giới.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe xong cũng không tán thành lắm, nói: “Một nửa con đường trên Thái Hành Sơn rất khó đi, giao thông không thuận tiện. Nếu muốn vận chuyển quân giới tự tạo từ đó thì hại nhiều hơn lợi.”
A Mạch hiểu ý của Đường Thiệu Nghĩa bèn giải thích: “Quân ta có chế tạo một số binh khí kiểu mới, không muốn để người ngoài biết được. Nhưng Ký Châu nhiều tai mắt phức tạp, khó tránh khỏi có mật thám của thát tử trà trộn vào, cho nên muốn tìm một nơi bí mật.”
Đường Thiệu Nghĩa cân nhắc một chút rồi nói: “Thật ra có thể tìm được, còn thợ và nguyên liệu ngươi đã chuẩn bị xong chưa?”
A Mạch gật đầu: “Công tượng(2) đã có sẵn, ta sẽ sớm chuẩn bị xong nguyên liệu sắt, chế tạo xong cũng không vận chuyển đến Ký Châu mà đưa thẳng đến Điện Tử Lương. Đầu xuân sang năm ta sẽ đưa cánh quân mới đến Điện Tử Lương.”
“Cánh quân mới?” Đường Thiệu Nghĩa thoáng kinh ngạc.
A Mạch kiên định nói: “Đúng vậy, là cánh quân mới. Ta muốn ở Ký Châu huấn luyện ra một đội quân thiện chiến. Đến lúc đó sẽ dẫn đến Điện Tử Lương hội quân với kỵ binh của đại ca!”
Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch đã có quyết định rồi nên cũng không khuyên nữa, gật đầu nói: “Được.”
A Mạch lại cùng Đường Thiệu Nghĩa nói đến chuyện chiêu mộ tân binh ở Ký Châu mấy ngày gần đây. Hai người đang nói thì Lâm Mẫn Thận chưa chờ bẩm báo đã vội tiến vào. Nhìn thấy có Đường Thiệu Nghĩa trong thư phòng thì bất giác sửng sốt, lời đã dâng đến bên miệng cũng lập tức nuốt xuống.
Đường Thiệu Nghĩa thấy thế liền đứng dậy, nói với A Mạch: “Ta đi trước, qua thăm đại đương gia một chút.”
A Mạch không biết Lâm Mẫn Thận có chuyện gì gấp, thấy hắn kiêng dè Đường Thiệu Nghĩa như vậy liền nghĩ là có việc cơ mật gì, nghe vậy cũng liền đứng dậy nói: “Cũng tốt, ta cho người đưa đại ca đi.”
A Mạch tiễn Đường Thiệu Nghĩa ra đến cửa viện, gọi Trương Sĩ Cường đến dẫn Đường Thiệu Nghĩa đi gặp Tức Vinh Nương, còn mình trở lại trong thư phòng, trầm giọng hỏi Lâm Mẫn Thận: “Có chuyện gì mà nôn nóng như thế?”
Thần sắc Lâm Mẫn Thận có hồi phục rất nhiều, chỉ nhìn chằm chằm vào A mạch: “Hắn hành động rồi!”
A Mạch nghe vậy thì rùng mình, lập tức hỏi: “Từ khi nào?”
Lâm Mẫn Thận đáp: “Đầu tháng chín, hắn cùng Trưởng công chúa mượn cớ đi săn liền trốn khỏi Thịnh Đô. Mười lăm ngày trước đã đến Vân Tây. Sau đó đổi tên thành Tề Hoán, lấy danh nghĩa tổ tông mà tiêu diệt hôn quân, lấy tên nước là Tĩnh Nan, tuyên thệ trước khi xuất quân chinh phạt!”
———————–
Chú thích:
1- Dân đoàn: Tổ chức vũ trang ở địa phương của cường hào địa chủ Trung Quốc thời xưa
2- Công tượng: chế độ trưng tập thợ thuyền vào làm việc trong các quan xưởng của nhà nước phong kiến. Cũng để chỉ bản thân những người thợ đó. Các Công Tượng được trưng tập từ các địa phương, bị cưỡng bức lao động, phiên chế thành đội ngũ như quân lính.
chương 128
NỔI GIÓ
“Phản quân Vân Tây thì sao?” A Mạch không thể không hỏi.
Lâm Mẫn Thận đáp: “Phản quân Vân Tây kỳ thật đã sớm âm thầm quy thuận, chẳng qua là phối hợp diễn kịch mà thôi.”
A Mạch thản nhiên cười, trầm ngâm một lát rồi nói:“Ngươi đi mời Từ tiên sinh lại đây.”
Lâm Mẫn Thận vâng lệnh mà đi, một lúc sau từ có tiếng bước chân từ trong sân truyền tới, Lâm Mẫn Thận vén rèm mời Từ Tĩnh vào. Trong lòng A Mạch đã sắp xếp lại các sự kiện, ngẩng đầu thấy Từ Tĩnh tiến vào, liền cười khẽ nói:“Rốt cuộc thời tiết phía nam cũng thay đổi.”
Từ Tĩnh vừa nghe chấn động trong lòng, mắt sáng lên hỏi:“Khi nào thì…?”
A Mạch đáp:“Mười lăm tháng chín.”
Hiện tại là hai mươi ba tháng chín, Thương Dịch Chi khởi sự cùng lắm mới được tám ngày thì tin tức liền đến Ký Châu, xác nhận từ Vân Tây truyền đến. Từ Tĩnh suy nghĩ một lát rồi hỏi:“Thương soái khởi sự ở Vân Tây?”
A Mạch liếc mắt nhìn Lâm Mẫn Thận một cái, gật gật đầu, đem tin tức anh ta mang đến nói lại với Từ Tĩnh, còn nói thêm: “Về sau cũng là không nên gọi là Thương soái, mà phải gọi là Chúa công mới đúng.”
Từ Tĩnh mặc dù đã sớm biết Thương Dịch Chi nuôi dã tâm đứng đầu thiên hạ, nhưng lại không biết Thương Dịch Chi là con trai của Võ đế Tề Hiển, mồ côi từ trong bụng mẹ, nay chợt nghe thấy không khỏi có chút ngạc nhiên, đáy mắt nhất thời lộ ra thần sắc phức tạp khó hiểu, thấy ánh mắt A Mạch cùng Lâm Mẫn Thận dồn trên người mình, liền vuốt vuốt râu, che dấu thần sắc, nói: “Đúng vậy.”
Nhưng tất cả thần sắc của Từ Tĩnh đã bị A Mạch thu vào đáy mắt, liền thản nhiên cười cười hỏi :“Tiên sinh, chúng ta có nên tuyên bố ủng hộ chúa công không?”
Từ Tĩnh đã bình ổn lại, nghe vậy liền trầm ngâm một lát, rồi quay đầu hỏi Lâm Mẫn Thận:“Chúa công khởi sự ở Vân Tây, Giang Hùng thì thế nào?”
Giang Hùng chính là cháu ngoại của Lâm tể tướng, hoàng đế Nam Hạ vì muốn quản chế hành động của Thương Duy mà bố trí Giang Hùng làm Bình Tây phó đại nguyên soái. Lần này Thương Dịch Chi khởi sự dùng đến quân đội của Thương Duy, nếu Giang Hùng không cản trở, Lâm tể tướng ở Thịnh Đô ắt sẽ rơi vào hiểm cảnh. Quả nhiên liền nghe Lâm Mẫn Thận đáp: “Giang Hùng giả mang binh từ Vân Tây chạy ra, chặn phía đông liên quân Vân Tây của Thương Duy rồi rút lui theo hướng Thịnh Đô.”
A Mạch nghe vậy không khỏi nở nụ cười: “Như vậy xem ra việc chúa công đánh vào Thịnh Đô chỉ là sớm hay muộn mà thôi.”
Lâm tể tướng và Giang Hùng rõ ràng đã cùng Thương Dịch Chi sớm đứng trên một thuyền, nay lại làm ra vẻ trung thần dũng tướng. Giờ bên trong đã có Lâm tể tướng làm nội ứng, ngoài thành lại có Giang Hùng tiếp ứng, chắc chắn Thịnh Đô sẽ sớm thất thủ
Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nhìn A Mạch nói :“ Quân Giang Bắc chúng ta tạm thời bất động, cứ lặng yên quan sát biến động.”
Lời này vừa nói ra, Lâm Mẫn Thận kinh ngạc vô cùng, ngạc nhiên nhìn Từ Tĩnh. Đáy mắt A Mạch hiện lên ý cười, nhưng trên mặt cũng làm ra vẻ nghi hoặc, hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh nói vậy là có ý gì? Chúa công vừa mới khởi sự, quân Giang Bắc chúng ta tuyên bố quy thuận làm tăng uy danh của chúa công, như thế mới là tốt nhất chứ?”
Từ Tĩnh sao lại không biết A Mạch làm vẻ ta đây, nghe vậy chỉ cười phong đạm vân khinh, lấy tay khẽ vuốt râu, liếc Lâm Mẫn Thận một cái, nói với A Mạch: “Quân xa Giang Bắc của ta đang ở Ký Châu, nếu tuyên bố quy thuận, chúa công có thể dùng được vào việc gì? Ngươi có thể mang binh theo hướng nam đi giúp chúa công một tay không?”
A Mạch phối hợp lắc đầu nói: “Không thể, quân chủ lực vừa đi, thì cùng lúc thát tử sẽ thừa dịp mà vào, Ký Châu sẽ vô cùng nguy hiểm.”
Từ Tĩnh khẽ cười nói:“Đúng là không thể đi, cho nên nếu chúng ta không thể đem than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi, thì cứ dứt khoát dệt hoa trên gấm đi. Trong tay chúa công có đại quân của Thương Duy, lại có quân Vân Tây trợ lực, chính là có thể khởi sự cần vương mà các nơi cũng không thể cản trở được. Chi bằng chúng ta đợi chúa công bình định Giang Nam, nắm được đại cục, lúc ấy mới tuyên thệ quy thuận, tuyên bố chúa công chính là thiên mệnh.”
A Mạch cùng Lâm Mẫn Thận nghe xong đều chậm rãi gật đầu,“Đúng thế.” A Mạch quay đầu phân phó Lâm Mẫn Thận: “Ngươi tìm cách đưa thư cho chúa công, nói rõ thái độ của quân Giang Bắc, đợi ngày chúa công đại thắng, ngươi và ta sẽ hai tay dâng cả hai châu Thanh, Kí, đồng thời còn muốn làm gương cho binh sĩ, sẽ thay chúa công đánh chiếm nốt nửa giang sơn Giang Bắc!”
Lâm Mẫn Thận không biết là kế, bị A Mạch nói hai câu cổ động, nhiệt huyết lập tức sôi trào, liền đáp: “Được, ta sẽ đưa tin ngay cho chúa công.”
Nói xong liền chắp tay cáo từ A Mạch cùng Từ Tĩnh, đi ra ngoài
A Mạch nhìn thân ảnh Lâm Mẫn Thận vội vã biến mất ở ngoài cửa, khóe miệng không nhịn được khẽ cong lên. Từ Tĩnh thấy thế không khỏi lắc đầu, vừa định mở miệng, A Mạch đem ngón trỏ dựng thẳng ở bên môi ra hiệu ngừng lại, đợi khi bên ngoài tiếng bước chân của Lâm Mẫn Thận đã đi xa, A Mạch mới cười hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh muốn nói gì?”
Từ Tĩnh lạnh mặt, hừ nhẹ một tiếng nói: “Muốn nói ngươi quá mức giảo hoạt, bảo ta đến làm ác nhân, nói gì cũng đều là ta nói, sau này Thương Dịch Chi hỏi tội thế nào cũng không hỏi đến ngươi.”
A Mạch ngược lại rất vô lại cười nói: “Ai bào tiên sinh là mưu sĩ! Hơn nữa hiện tại cũng không phải lúc bày tỏ ý nguyện trung thành, chỉ khiến kẻ khác để ý mà thôi.”
Từ Tĩnh cảm thán nói: “Không thể ngờ được Thương Dịch Chi lại biến thành hoàng thất chính thống Tề Hoán,” ông ta ngừng lại, ánh mắt thâm trầm nhìn về phía A Mạch, hỏi: “A Mạch, còn ngươi thì sao? Ngươi có thân phận gì?”
A Mạch cười cười, há mồm định đáp, Từ Tĩnh chặn lời của nàng, giọng mỉa mai nói: “Nếu đã mở miệng mà không phải lời nói thật thì cũng không cần nói, lão phu xem cách ngươi hành quân bày trận rất có phong cách của Tĩnh quốc công, hễ mở miệng lại nói là làm thỏa chí nguyện của tiên phụ, rốt cuộc ngươi là thế nào với Tĩnh quốc công?”
A Mạch đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, thản nhiên thừa nhận: “Tĩnh quốc công Hàn Hoài Thành là cha ta.”
Từ Tĩnh nhìn A Mạch, thở dài: “Quả nhiên là thế, nhà khác làm sao nuôi dưỡng được một nữ nhi như vậy.”
A Mạch chỉ cười cười mà chẳng tỏ rõ ý kiến, chuyển đề tài, đem chuyện mình đem hết kỵ binh giao cho Đường Thiệu Nghĩa nói cho Từ Tĩnh biết. Từ Tĩnh yên lặng nghe, vuốt râu trầm ngâm một lát mới nói: “A Mạch, ta biết ngươi cùng Đường Thiệu Nghĩa là sinh tử chi giao, chỉ có điều làm như thế không khỏi có chút mạo hiểm.”
A Mạch khẽ cau mày, nhẹ giọng nói: “Ta tin vào nhân cách của anh ta.”
Từ Tĩnh cũng cười, nói: “Nhân cách mặc dù đã định, nhưng tâm tư cũng có khi biến đổi, nếu có bất đồng ý tưởng khó tránh khỏi sẽ có điều thay đổi.”
A Mạch im lặng không nói, Từ Tĩnh thấy nàng như thế liền biết chủ ý của nàng đã định rồi, liền không khuyên nữa, chỉ cùng nàng đàm luận về cục diện thiên hạ thay đổi như thế nào sau khi Thương Dịch Chi khởi sự ở Vân Tây. Mãi tới giữa trưa, A Mạch mới đột nhiên nhớ ra Đường Thiệu Nghĩa và Tức Vinh nương vẫn còn trong phủ, liền gọi người chuẩn bị cơm trưa rồi đi mời hai người bọn họ đến cùng dùng bữa.
Lại nói Tức Vinh nương thấy Đường Thiệu Nghĩa tự mình đi tìm nàng ở Ký Châu, trong lòng vừa mừng lại vừa sợ. Mừng vì Đường Thiệu Nghĩa đích thân đến tìm nàng, có thể thấy được trong lòng anh ta cũng coi trọng nàng, sợ là cũng trách nàng không biết nặng nhẹ, đồng thời lại càng lo lắng hơn, sợ Đường Thiệu Nghĩa nếu biết mục đích thực sự của nàng khi đến tìm A Mạch sẽ giận nàng. Cho nên không đợi Đường Thiệu Nghĩa hỏi, Tức Vinh Nương liền chạy nhanh đến, chủ động giải thích: “Hôm đó vừa lúc ta gặp Mạch nguyên soái dẫn quân vào thành, nhất thời nhớ tới Đường đại ca nói hắn là huynh đệ kết nghĩa của huynh, liền nghĩ đến đây coi trộm vị anh hùng hảo hán này một chút.”
Đường Thiệu Nghĩa không để ý tới sự dè chừng ấy của Tức Vinh Nương, chỉ nói: “Tức đại đương gia về sau làm việc cẩn thận một chút, Ký Châu không giống trong sơn trại của chúng ta.”
Nghe Đường Thiệu Nghĩa nói “sơn trại của chúng ta”, trong lòng Tức Vinh Nương chợt cảm thấy ngọt ngào, không khỏi mang theo thái độ tiểu nữ nhi, cúi đầu vân vê góc áo nói: “Về sau ta sẽ không bao giờ làm thế nữa, chỉ nghe theo lời của Đường đại ca thôi.”
Tâm tư của Đường Thiệu Nghĩa còn đặt tất cả ở A Mạch, nghe vậy chỉ tùy ý gật đầu, gọi người đến nhà trọ báo tin bình an với người của Thanh Phong Trại ở đó, sau đó liền ngồi xuống suy nghĩ xem nên chọn nơi nào ở Thái Hành Sơn cho A Mạch làm nơi chế tạo quân giới.
Tức Vinh Nương thấy Đường Thiệu Nghĩa trầm tư không nói, cũng không dám quấy rầy, đành phải yên lặng ngồi bên cạnh, lén lút quan sát Đường Thiệu Nghĩa, thấy anh ta mày kiếm, mắt sáng, thân thể cường tráng, càng nhìn, càng thấy thích, không khỏi nhìn đến ngây người.
A Mạch phái người đến mời Đường Thiệu Nghĩa cùng Tức Vinh Nương đi ăn cơm. Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới lấy lại tinh thần, quay đầu gọi Tức Vinh Nương. Ai ngờ anh ta vừa gọi một tiếng “Đại đương gia”, đã thấy Tức Vinh Nương giống bị hoảng sợ mà nhảy dựng lên, vẻ mặt ửng hồng, chân tay luống cuống nhìn chính mình.
Đường Thiệu Nghĩa không khỏi kỳ quái, hỏi:“Làm sao vậy?”
“Không có gì, không có gì.” Tức Vinh Nương cuống quít đáp, sau đó liền hướng ra phía ngoài chạy vội đi.
Đường Thiệu Nghĩa không biết nàng làm sao, chỉ cảm thấy nữ nhân này hành động quả nhiên rất thất thường, không khỏi khẽ lắc lắc đầu, đi sau Tức Vinh Nương theo thân binh đến chỗ A Mạch.
Trong phòng A Mạch đã bày biện một bàn rượu và thức ăn, ngoại trừ Từ Tĩnh ra, chỉ có quan quân nhu Lí Thiếu Hướng cùng thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đang ở đó, phục vụ bữa ăn này cũng chỉ có duy nhất một mình đội trưởng thân binh Trương Sĩ Cường. Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tĩnh vái chào đáp lễ nhau, A Mạch mỉm cười mời Đường Thiệu Nghĩa cùng Tức Vinh nương lên ghế trên, nói với Đường Thiệu Nghĩa :“Đại ca, không có người ngoài, chỉ vài người chúng ta cùng đại ca uống rượu.”
Đường Thiệu Nghĩa cười gật gật đầu, nói:“Như vậy là tốt rồi.”
Ăn được một lát, A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa đã mỗi người một chén bắt đầu đấu rượu. Lí Thiếu Hướng cùng Trương Sinh đều thấy kinh ngạc, Tức Vinh Nương thì trợn mắt há mồm nhìn, nàng biết Đường Thiệu Nghĩa có thể uống rượu, không thể ngờ A Mạch trông mặt mũi như con gái thế kia mà tửu lượng lại cao như vậy, đúng là một người sảng khoái!
Lí Thiếu Hướng thấy Tức Vinh Nương là một nữ tử, cùng đi với Đường Thiệu Nghĩa nhưng hình như cũng không được chiếu cố, khó tránh khỏi trong lòng nổi lên chút thương hương tiếc ngọc, gắp cho nàng một cái móng giò để vào bát, mời mọc: “Tức đại đương gia nếm thử đi, đây là thịt heo từ Thanh Châu mang đến, không giống với nơi khác đâu.”
Tức Vinh Nương nghe vậy không khỏi nở nụ cười, hỏi: “Đã là thịt heo thì có thể khác nhau cái gì?”
“Tất nhiên là khác chứ,” Lí Thiếu Hướng nói,“Tức đại đương gia không biết đó thôi, móng heo ở Thanh Châu chúng ta không giống với nơi khác, có cái tên rất đặc biệt là ‘Tam khoái trư’(1) .”
A Mạch cùng Từ Tĩnh và mọi người đều biết điển cố trong đó nên nghe vậy đều khẽ cười, Tức Vinh Nương không biết bèn hỏi Lí Thiếu Hướng nói: “Có gì đặc biệt?”
Lí Thiếu Hướng muốn khoe khoang trước mặt Tức Vinh Nương, cố ý đằng hắng, nghiêm trang đáp: “Cái gọi là tam khoái, đó là trốn nhanh, bò nhanh, cõng nhanh!”
Tức Vinh Nương khó hiểu nhìn Lí Thiếu Hướng, vẻ mặt ngơ ngác.
A Mạch thấy vậy không khỏi nở nụ cười, nói:“Tức đại đương gia đừng nghe hắn bịa chuyện, kỳ thật là khi chúng ta ở Thanh châu không đủ lương thảo, người ăn còn không đủ no, lấy đâu ra mà cho heo ăn, nên hắn toàn nuôi heo toàn bằng rau cỏ nên con nào con nấy rất gầy, cũng vì vậy mà so với những con heo béo tốt ở nơi khác cử động nhanh nhẹn hơn rất nhiều, muốn bắt cũng khó lòng mà bắt được.”
Mọi người nghe xong đều cười ầm lên, chỉ có Đường Thiệu Nghĩa là đăm chiêu nhìn về phía A Mạch. A Mạch cảm giác có người nhìn mình, nhưng lúc đảo mắt qua, Đường Thiệu Nghĩa lại giống như tùy ý chuyển mắt ra chỗ khác.
Tức Vinh Nương vốn là vẫn âm thầm chú ý Đường Thiệu Nghĩa, thấy vậy trong lòng không khỏi chua xót, trên mặt vừa mới lộ ra vẻ tươi cười lập tức trở nên ảm đạm. Nàng cúi đầu mím môi trầm mặc một lát, đột nhiên bưng bát đứng dậy nhìn A Mạch, cao giọng nói: “Vinh Nương làm việc lỗ mãng, ta dùng này bát rượu tạ lỗi với nguyên soái, mong rằng nguyên soái nể tình huynh đệ với Đường đại ca mà bỏ qua cho ta.”
Nói xong không đợi A Mạch nhận lời, ngửa cổ uống một hơi hết bát rượu, sau đó úp ngược bát xuống cho A Mạch xem, ý muốn nói rằng mình đã uống cạn.
A Mạch nghe vậy cũng bưng bát rượu đứng dậy, cười nói: “Tức đại đương gia nói quá lời rồi.”
Tức Vinh Nương lắc đầu, nhấc vò rượu trên bàn rót cho mình một chén, lại bưng lên hướng về phía A Mạch nói: “Vinh Nương mặc dù ăn nói có chút thô, nhưng tình ý lại thực, hy vọng nguyên soái thành toàn.”
Tiếp theo lại uống một hơi cạn sạch, sau đó đưa ánh mắt sáng quắc nhìn A Mạch, nhất định muốn ép A Mạch ngay lập tức tỏ rõ thái độ.
A Mạch cùng nàng đối diện một lát, rồi thu tầm mắt xuống bát rượu trên tay, thản nhiên cười, nói: “Sự tình có cái nên làm, có cái không nên làm, Mạch mỗ chỉ có thể nói với Tức đại đương gia một câu, lòng thành phải kiên định!”
Nói xong uống cạn ngay hai chén rượu, rồi mới yên lặng ngồi xuống.
Hai người nói đi nói lại đều là ý ở ngoài lời, khiến tất cả mọi người nghe đều cảm thấy hồ đồ, Đường Thiệu Nghĩa lại nhíu mày, mặt cau lại liếc nhìn Tức Vinh Nương một cái. Chỉ có Từ Tĩnh chớp chớp đôi mắt nhỏ, hết đưa mắt nhìn A Mạch, lại nhìn về phía Tức Vinh Nương, trong lòng không biết đang suy nghĩ điều gì.
————————
Chú thích:
1- Tam khoái trư: tam là ba, khoái là nhanh, trư là heo. Tam khoái trư nghĩa là con heo có 3 cái nhanh.
chương 129
TÂM Ý
Không khí trên bàn rượu đột nhiên tẻ ngắt, Đường Thiệu Nghĩa cười cười, hỏi A Mạch:“Khi nào thì chiêu mộ tân binh?”
A Mạch liền nương theo đó mà chuyển chủ đề câu chuyện sang tuyển quân: “Ngày mai sẽ gửi bảng cáo thị đến các quận huyện và các thành trấn thôn xóm để dán.”
Mọi người liền bắt đầu đàm luận việc quân, Tức Vinh Nương vốn không hiểu chuyện này, vừa rồi lại nóng nảy uống hai chén rượu, lúc này chỉ cảm thấy đầu óc váng vất, mắt mũi lơ mơ, nàng vội túm tay áo Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đường đại ca, đầu ta khó chịu quá.”
Đường Thiệu Nghĩa đang cao hứng chuyện trò bàn luận cùng A Mạch và mọi người, nghe vậy liền cúi đầu nhẹ giọng nói với Tức Vinh Nương: “Để ta gọi người đưa ngươi trở về phòng nghỉ ngơi trước.”
Tức Vinh Nương nghe Đường Thiệu Nghĩa không có ý muốn đi, trong lòng không khỏi có chút tức giận, mượn rượu nói: “Ta không muốn ở đây, ta muốn huynh đưa ta về khách sạn tìm bọn Triệu Tứ.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe xong, trong lòng tuy không vui, nhưng Tức Vinh Nương là người do Tức Phong uỷ thác, mình không thể không quản, đành phải đáp: “Được, ta đưa ngươi về.” Nói xong liền lại ngẩng đầu nhìn A Mạch, trong mắt đầy vẻ áy náy :“Tức đại đương gia không quen uống rượu, ta đưa nàng về trước, hôm khác sẽ uống rượu cùng mọi người.”
A Mạch mặc dù uống rượu, nhưng ánh mắt vẫn lộ vẻ tinh anh, cười nói :“Được, để ta cho người đưa hai người về, đại ca về trước cũng không sao, hôm khác chúng ta lại uống.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe A Mạch nói như thế, thấy nhẹ lòng, chào mọi người rồi mang Tức Vinh Nương đi.
A Mạch cùng mọi người tiễn bọn họ đến ngoài cửa lớn mới quay lại, Trương Sinh cùng Lí Thiếu Hướng thấy Đường Thiệu Nghĩa đã đi, cũng không uống tiếp, ăn qua quýt một chút rồi cáo từ. A Mạch kêu Trương Sĩ Cường ở lại dọn dẹp, còn mình mời Từ Tĩnh qua thư phòng.
Án thư bằng gỗ hoa lê trong thư phòng tỏa ra mùi hương thơm ngát, A Mạch đến trước án mở rộng tờ giấy, đề bút ghi lại những điểm quan trọng về huấn luyện tân binh cùng những đề nghị khác, bày ra cho Từ Tĩnh xem: “Tiên sinh, ngài xem bản điều trần này thế nào?”
Từ Tĩnh nhìn kỹ xem, ngẩng đầu nhìn A Mạch nói:“Phần lớn có thể làm, có điều có một vài điểm đã được Tĩnh quốc công dùng qua, sau bị triều đình ra lệnh huỷ bỏ, lần này thi hành theo sợ là không thích hợp.”
A Mạch gật đầu, quả thật trong này có một số điều được ghi trong Bút ký của phụ thân, ví dụ như đề cao những đãi ngộ cho tướng sĩ cấp bậc thấp trong quân đội, dạy họ biết chữ để đọc binh pháp. A Mạch giải thích: “Thể chế trong quân vốn lạc hậu, những người tinh thông nhất trong quân đội hầu hết là các chủ tướng và thân quân, một khi chủ tướng hoặc thân quân bỏ mình thì sẽ nguy mất, khi đó quân lính sẽ không biết làm phải hành động thế nào. Thật ra có một số tướng chỉ huy cấp thấp tuy chưa từng được đọc binh thư, nhưng kinh nghiệm chiến đấu thực tế rất phong phú, nếu được học thêm về một số lý luận của binh pháp, giúp họ dung hợp được giữa lý luận và thực tiễn, không chỉ hữu dụng trong chiến đấu mà sau này cũng bồi dưỡng được không ít tướng, soái tài giỏi.”
Từ Tĩnh chậm rãi vuốt râu :“Ngươi có biết vì sao Tĩnh quốc công quy ẩn không?”
A Mạch ngẩn ra, vấn đề này nàng chưa bao giờ hỏi qua phụ thân, đầu tiên là không hiểu biết, đến khi có hiểu biết lại không còn cơ hội để hỏi. A Mạch lắc đầu nói:“Trước khi rời nhà ta không biết thân phận của phụ thân, nên cũng không biết vì sao.”
Từ Tĩnh suy nghĩ, chần chờ nói:“Ta cũng chỉ là nghe nói mà thôi, năm đó Tĩnh quốc công giả chết lánh đời, ngoài lý do vì chán ghét tranh quyền đoạt thế, còn do sự nghi kỵ của hoàng đế, quyền thần xa lánh. Lúc ấy ông từng đưa ra chủ thuyết: ‘Người người bình đẳng, văn võ sánh vai’, khiến cho trong triều phản đối quyết liệt. Tĩnh quốc công còn muốn thành lập trường học miễn phí trong cả nước, con người bất luận sang hèn, phàm là dân chúng đều có thể nhập học, chi phí đều do quốc khố chi, không cần dân đóng góp.”
Lần đầu tiên A Mạch nghe nói đến chuyện này, bất giác tròn mắt nghe Từ Tĩnh nói tiếp:“Từ xưa đến nay, đế vương cai trị, dân thừa hành, đó chính là ‘Dân có thể sai khiến, không thể hiểu biết’. Trong quân cũng như thế, binh lính vốn khó điều khiển, chỉ cẩn thận là có thể sinh biến.”
A Mạch trầm mặc một lát, nói:“Tiên sinh, ý tứ của ngài ta đã hiểu.”
Từ Tĩnh nói:“Binh quyền hiện tại, chính là hưng thịnh, binh quyền trong quá khứ, chính là diệt vong, vì thế nên bậc quân chủ đối với võ tướng nắm binh quyền trong tay từ xưa đến nay đều rất kiêng kị, ngươi làm việc như thế, mặc dù trước mắt thì có lợi, nhưng sau này ắt khiến người khác nghi kỵ! Tĩnh quốc công đã không làm được, ngươi có thể làm được không?”
Trong lòng A Mạch vô cùng mâu thuẫn, thật lâu sau mới đáp: “Tiên sinh, những điều này ta sẽ suy nghĩ thêm.”
Từ Tĩnh liền đưa ra mấy kiến nghị khác của mình. A Mạch dùng bút cẩn thận ghi vào giấy. Đêm đến, A Mạch triệu tập Tiếu Dực, Tiết Vũ, Mặc Hải, đề xuất chuyện Trương Sinh đem kỵ binh đến Điện Tử Lương. Bọn Tiếu Dực chợt xong đều cảm thấy sợ hãi, cho rằng A Mạch thật lớn gan, đến khi A Mạch tỉ mỉ đem những điều lợi hại giảng giải, bọn họ mới tán thành. Tiếu Dực lại nói:“Đường tướng quân là người trung dũng nhân nghĩa, đem kỵ binh giao vào tay anh ta tất nhiên sẽ ổn thỏa.”
Ngày thứ hai, Đường Thiệu Nghĩa chỉ mang theo một hán tử áo xanh đến phủ nguyên soái Giang Bắc. Đường Thiệu Nghĩa giới thiệu với A Mạch hán tử này là một giáo đầu trong sơn trại. Hán tử kia hướng về phía A Mạch chắp tay, tự giới thiệu :“Tiểu nhân là Ngụy Quân, năm trước đã từng thay Đường nhị đương gia đến Thanh Châu đưa lễ vật mừng năm mới cho nguyên soái, có điều là chưa được gặp nguyên soái.”
“Ngụy giáo đầu,” A Mạch chắp tay thi lễ, quay đầu cười hỏi Đường Thiệu Nghĩa :“Tức đại đương gia thế nào rồi?”
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa không được tự nhiên, đáp:“Nàng tính tình như con nít, hôm nay lại gọi người cùng đi mua sắm rồi, hôm qua có chỗ thất lễ, ngươi đừng để ý.”
A Mạch lắc đầu:“Không sao, con người Tức đại đương gia cũng rất được.”
Đường Thiệu Nghĩa chỉ nghĩ A Mạch khen tặng khách sáo nên không để ý. Ngụy Quân cười đáp:“Đại đương gia là con gái duy nhất của Tức lão trại chủ, từ nhỏ đã ở chung cùng đám người ăn to nói lớn, cho nên tính tình khó mà nhỏ nhẹ, tinh tế được. Cũng may là Tức lão đương gia tìm được người trung hậu như Đường nhị đương gia nên mới có thể bao dung cho tính tình của đại đương gia được. Anh em trong trại chúng ta đúng là phải tụng kinh niệm Phật mà cảm kích!”
Đường Thiệu Nghĩa nghe Ngụy Quân nói chuyện không lọt tai, không khỏi khẽ nhíu mày.
A Mạch chỉ nhàn nhạt cười, không trả lời. Vẫn đứng im lặng sau lưng A Mạch, lúc này Trương Sĩ Cường đột nhiên nói xen vào :“Đường tướng quân ở chỗ chúng ta nổi danh người khoan dung nhân hậu, hơn nữa Tức đại đương gia chỉ là một nữ tử, Đường tướng quân sao có thể so đo với nàng ấy được.”
“Chớ có nói bậy!” A Mạch quát Trương Sĩ Cường ngưng lại, nét mặt như cười liếc nhìn Ngụy Quân một cái, rồi nói với Đường Thiệu Nghĩa :“Tức đại đương gia chất phác lương thiện, thành thật, chân chất, ta rất là ái mộ, nếu không phải ở nhà đã có vợ hiền không thể mang theo, Tức đại đương gia lại không cam tâm làm thứ thiếp, thì ta nhất định phải cầu đại ca làm mai mối cho ta cầu hôn Tức đại đương gia rồi.”
Đường Thiệu Nghĩa cùng Ngụy Quân nghe vậy trên mặt đều là biến sắc, Đường Thiệu Nghĩa biết chuyện thê thất ở nhà A Mạch là giả, lại nghe A Mạch nói thế, chỉ nghĩ A Mạch có lòng ái mộ nhan sắc của Tức Vinh Nương, trong lòng nhất thời hỗn loạn không rõ là chua hay xót, ngoài miệng cười nói :“Không được nói giỡn.”
Còn Ngụy Quân sợ A Mạch thật sự có ý dùng uy danh nguyên soái quân Giang Bắc cố tình bức hôn Tức Vinh Nương, lại thấy Đường Thiệu Nghĩa xem trọng A Mạch, đến lúc đó chỉ sợ không những không ngăn cản mà còn gắng sức thúc đẩy. Trong lòng Ngụy Quân rất hối hận, hận mình không nên nghe những lời Vinh nương trong lúc say rượu nói rằng Mạch nguyên soái với Đường nhị đương gia có tình cảm “đoạn tụ”(1). Giờ phút này xem ra Mạch nguyên soái ngoài bộ dạng quá mức tuấn mỹ, ngôn ngữ cử chỉ cũng có chỗ không ổn.
Mấy người đều có tâm tư, nhất thời im lặng. Từ Tĩnh, Tiếu Dực, Trương Sinh, Lí Thiếu Hướng, mấy tướng lãnh cao cấp Giang Bắc từ bên ngoài tiến vào, thấy không khí trong phòng có vẻ bất thường, bất giác có chút kinh ngạc, Từ Tĩnh đưa mắt nhìn vẻ mặt A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa cất tiếng cười :“Để cho nguyên soái cùng Đường tướng quân đợi lâu.”
Đường Thiệu Nghĩa và Ngụy Quân đứng dậy chào. Mấy người phân theo chủ khách mà ngồi xuống. A Mạch liền chính thức nói về việc việc cho Trương Sinh mang kỵ binh theo Đường Thiệu Nghĩa đến Điện Tử Lương, đem những thuận lợi và khó khăn ra thảo luận, ngay cả cơm trưa cũng không ngừng lại, chỉ tùy ý ăn vài cái bánh bao xong việc. Cứ như vậy tới khi trong phòng phải thắp đèn, cuối cùng mọi sự cũng kết thúc yên ổn.
A Mạch ngẩng đầu nhìn sắc trời bên ngoài, cười lưu Đường Thiệu Nghĩa và Ngụy Quân lại ăn cơm. Lần này khác với hôm trước, yến hội có thêm bọn Tiếu Dực, Mặc Hải nên náo nhiệt thêm không ít. Mặc Hải từ khi ở Giang Bắc đã quen biết Đường Thiệu Nghĩa, giờ phút này lại càng cảm thấy thân thiết hơn, bưng bát rượu làm ồn, nhất định phải cùng Đường Thiệu Nghĩa uống hết ba trăm bát. Bên kia, Trương Sĩ Cường không biết lén lút nói gì với Trương Sinh và Lí Thiếu Hướng, bọn họ liền bắt đầu mỗi người một bát mời rượu Ngụy Quân. Tửu lượng của Ngụy Quân mặc dù không kém, nhưng đấu không lại với ba, bốn hán tử, uống một hồi đã đỏ tím cả mặt.
Trên bàn, trái lại, A Mạch có vẻ nhàn nhã nhất, ngoại trừ thỉnh thoảng gắp chút đồ ăn để vào bát Đường Thiệu Nghĩa, còn lại đều cười xem đoàn người đấu rượu. Cứ uống như vậy đến giờ hợi tiệc rượu mới tàn, bọn Mặc Hải đã uống nhiều, Ngụy Quân bị đám Trương Sinh chuốc say như chết, sớm đã nằm gục trên bàn mê man, ngay cả trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng đã dẫn theo chút men say.
A Mạch thấy vậy liền lưu Đường Thiệu Nghĩa cùng Ngụy Quân nghỉ ở lại trong phủ nguyên soái, ai ngờ Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn A Mạch, kiên trì muốn dẫn Ngụy Quân quay về nhà trọ. A Mạch bất đắc dĩ đành gọi hai thân binh dìu Ngụy Quân, còn tự mình tiễn bọn Đường Thiệu Nghĩa ra đến ngoài phủ. Đến ngoài cửa phủ nguyên soái, A Mạch đang định từ biệt Đường Thiệu Nghĩa, đột nhiên nghe Đường Thiệu Nghĩa nhẹ giọng nói:“A Mạch, ngươi đi theo ta.”
A Mạch nghe vậy ngẩn ra, ngước mắt lên thấy Đường Thiệu Nghĩa đang lẳng lặng nhìn mình, ánh mắt như nước, trầm tĩnh sâu sắc. A Mạch cả cười gật đầu nói:“Được.”
Từ khi quân Giang Bắc tiến vào thành Ký Châu, trong thành liền thi hành lệnh cấm đi lại ban đêm, lúc này trên đường hoàn toàn vắng lặng, yên tĩnh. Hai thân binh dìu Ngụy Quân đi phía trước, A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa chậm rãi đi sau.
“Mọi người ở Thanh Phong Trại hy vọng ta có thể lấy Tức Vinh Nương.” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên nói.
A Mạch cười nói:“Thật là mối nhân duyên tốt, đại ca phải lấy làm quý trọng.”
Đường Thiệu Nghĩa phút chốc trầm mặc, dừng chân nhìn A Mạch hỏi:“A Mạch, ngươi khi nào thì lấy vợ?”
“Ta?” A Mạch hỏi lại, thấy Đường Thiệu Nghĩa trịnh trọng gật đầu, liền bịa chuyện :“Chờ ta đánh đuổi thát tử đến Tĩnh Dương, sau đó đi khắp Giang Nam, Giang Bắc tìm nữ tử đẹp nhất trên đời cưới về làm vợ.”
Đường Thiệu Nghĩa dứt khoát nói: “Tốt lắm, ta chờ ngươi.”
A Mạch ngạc nhiên nói:“Đại ca sao lại chờ ta?”
Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, lấy dũng khí đáp:“Chờ ngươi tìm được người đẹp nhất cưới về làm vợ, sau đó ta sẽ cưới vợ sau. A Mạch, nếu ngươi không tìm được người vừa ý, đại ca sẽ vẫn đợi cùng ngươi, được không? Dù cho phải đợi cả đời, đại ca cũng sẽ đợi cùng ngươi!”
Đường Thiệu Nghĩa đã nói đến thế này, trong lòng A Mạch tất nhiên là hiểu được ý tứ của anh ta, nhưng cũng chỉ có thể tiếp tục giả ngu, cười nói :“Đại ca đừng chờ ta! Ta nằm mơ cũng muốn cưới tiên nữ, cũng không thể đi theo đại ca cả đời! Xưa nay chỉ thấy nói cùng huynh đệ vào sinh ra tử, cùng huynh đệ uống rượu hưởng lạc, chưa thấy nói cùng huynh đệ chờ đợi cả đời!”
Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy, ánh mắt ảm đạm, để A Mạch đi trước một đoạn rồi mới đuổi theo, không nói gì nữa. A Mạch tiễn Đường Thiệu Nghĩa về đến nhà trọ. Tức Vinh Nương tay cầm đèn vẫn còn chờ ở đại sảnh, vẻ mặt vui sướng khi thấy Đường Thiệu Nghĩa trở về, lại nhìn thấy A Mạch phía sau, mặt chợt lạnh đi.
A Mạch không muốn cùng nàng so đo, chỉ gật đầu chào, rồi cáo từ Đường Thiệu Nghĩa đi ra. Trở lại phủ nguyên soái, Từ Tĩnh vẫn ngồi chờ, thấy A Mạch trở về, chỉ vào A Mạch cười nói:“Con người ngươi không nhân hậu chút nào.”
A Mạch bị Từ Tĩnh nói vậy thì sửng sốt, ngạc nhiên nói:“Sao tiên sinh lại nói vậy?”
———————–
Chú thích:
1- Đoạn tụ: nghĩa đen là Tay áo. Đổng Hiền 董賢 được vua yêu, nằm gối vào tay áo vua Hán Ai đế 漢哀帝 mà ngủ, khi vua dậy trước, sợ rút tay áo làm Đổng Hiền tỉnh giấc, liền dùng gươm chém dứt tay áo mà dậy, vì thế bọn đàn ông được vua yêu gọi là đoạn tụ 斷袖.Sau này, từ đoạn tụ để chỉ mối quan hệ đồng tính giữa nam với nam.
chương 130
GIÓ MƯA
A Mạch sửng sốt bởi lời nói của Từ Tĩnh, ngạc nhiên hỏi: “Sao tiên sinh lại nói vậy?”
Từ Tĩnh cười nói: “Ngươi rõ ràng biết Đường Thiệu Nghĩa có tình cảm với ngươi, mỗi lần gặp mặt lại chìm sâu vào đó thêm vài phần, ngươi lại không tránh né, hết lần này đến lần khác vẫn cứ cố tình tiếp cận anh ta, khiến anh ta càng lúc càng lún sâu, chẳng lẽ đây là lòng nhân hậu của ngươi sao?”
A Mạch nghe xong không khỏi cười nhạo, hỏi ngược lại: “Tiên sinh cảm thấy ta nên làm thế nào? Chỉ vì Đường Thiệu Nghĩa có ý với ta, ta liền tuyệt giao với anh ta chăng? Anh ta rõ ràng là một tướng tài, ta chỉ vì tránh hiềm nghi mà không cần nữa sao? Chỉ vì tư tình nhi nữ mà đánh mất tình bằng hữu, dường như cũng quá hẹp hòi thì phải.”
Từ Tĩnh giương mắt lắng nghe, lại hỏi: “Vậy còn Tức Vinh Nương thì sao? Nàng cầu ngươi tác hợp cho nàng và Đường Thiệu Nghĩa, nếu ngươi đối với anh ta vô tâm, sao ngươi không giúp nàng? Nếu Đường Thiệu Nghĩa có thể chuyển tình cảm cho nàng ta, đối với ngươi chẳng phải là rất tốt hay sao?”
Mấy câu này khiến A Mạch nghẹn giọng không còn lời nào để nói, lại thấy vẻ mặt đắc ý của Từ Tĩnh, A Mạch thấy không cam lòng, nói ngang: “Tức Vinh Nương là gì của ta chứ? Sao ta phải giúp nàng? Vậy còn ai sẽ tới giúp ta?”
Từ Tĩnh chỉ yên lặng nghe nàng nói, ý cười trên mặt càng thêm đậm, vuốt râu cười không nói.
A Mạch thấy Từ Tĩnh cười thì vô cùng tức giận, ra vẻ bình tĩnh ngồi trước án, im lặng không nói, sau một lúc lâu đột nhiên mỉm cười, tự giễu mình: “Tiên sinh nói không sai, ta quả thật không đủ nhân hậu. Nếu ta gắng sức tác thành anh ta và Tức Vinh Nương, chưa chắc anh ta sẽ không cưới nàng ấy! Nhưng vì sao ta phải giúp nàng ta lấy được người tốt? Hơn nữa, Đường Thiệu Nghĩa thích ai là chuyện của huynh ấy, đâu quan hệ gì đến ta?”
Lời này nói xong, A Mạch thấy trong lòng thực thoải mái, nhớ lại nhiều năm trước mẫu thân từng nói: “Ngươi thích hắn là chuyện của ngươi, còn hắn thích ai là chuyện của hắn. Thay vì đi lung tung quản chuyện của người khác, không bằng tự lo chuyện của mình thì tốt hơn!”
Lúc này Từ Tĩnh lại càng cười tươi hơn, yên lặng một lát rồi nói: “Ta thấy ngươi như vậy mới tốt, như thế trái lại lão phu có thể yên lòng rồi, vì A Mạch dù sao cũng vẫn là một nữ nhi!”
A Mạch khó hiểu nhìn Từ Tĩnh, Từ Tĩnh cũng không trực tiếp giải thích, còn nói thêm: “A Mạch có thể giả trang thành nam tử, nhưng không thể biến thành nam tử. Mai này khói lửa chiến tranh không còn, chiến sự dẹp yên, thiên hạ ổn định, A Mạch lại có thể trở về thân phận nhi nữ”
A Mạch nghe vậy khẽ giật mình. Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh vốn đã sớm nhìn ra thân phận nữ nhi của nàng, nhưng vẫn đối xử với nàng như với một nam tử, Thương Dịch Chi sau đó còn kêu Lâm Mẫn Thận đem dung dịch hóa trang gì đó đưa cho nàng, ngầm biểu lộ rằng nàng tuyệt đối không được tiết lộ thân phận… Hiện giờ, nàng nghe Từ Tĩnh nói những lời này, trong lòng không khỏi có chút cảm động, thật tâm cảm tạ: “Tiên sinh, không biết sau này thế nào, hiện giờ tiên sinh có thể nói một câu như vậy, A Mạch thập phần cảm kích”
Cuối tháng chín, tin Thương Dịch Chi khởi sự ở Vân Tây mới tới Ký Châu, lúc này việc an bài cho Trương Sinh mang kỵ binh cùng Đường Thiệu Nghĩa đến Điện Tử Lương đã được sắp xếp thỏa đáng, Đường Thiệu Nghĩa phái Nguỵ Quân về Thanh Phong Trại chuẩn bị, đội kỵ binh tiên phong liền nhổ trại. Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ A Mạch biết được tin Thương Dịch Chi khởi sự, trầm mặc thật lâu mới ngẩng đầu nhìn A Mạch: “A Mạch, thật ra ngươi đã sớm biết hắn có tâm làm phản rồi phải không?”
A Mạch sảng khoái cười nói: “Phải, mấy ngày trước ta đã nghe tin này từ chỗ Lâm Mẫn Thận rồi”
Đường Thiệu Nghĩa chậm rãi lắc đầu: “Không phải mấy ngày trước, ta hỏi ngươi có phải từ lúc ở Thái Hưng đã biết hắn chắc chắn sẽ mưu phản rồi phải không?”
A Mạch không trả lời, chỉ lẳng lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa.
Khóe môi Đường Thiệu Nghĩa cứng lại, sắc mặt ngưng trọng, trầm giọng hỏi thêm lần nữa: “A Mạch, có phải ngươi đã sớm biết rồi đúng không?”
A Mạch suy nghĩ một chút, thản nhiên thừa nhận: “Không sai, là ta nguyện trung thành với hắn mới đổi được binh quyền của quân Giang Bắc.”
Đáy mắt Đường Thiệu Nghĩa rất nhanh hiện lên một tia thất vọng.
A Mạch hỏi ngược lại: “Nếu không thì sao? Nghe theo triều đình trở về nam, vượt Uyển Giang, đem toàn bộ vùng Giang Bắc giao cho thát tử ư?”
“Cho dù không tuân theo sự an bài của triều đình thì cũng không nên mưu phản” Đường Thiệu Nghĩa lạnh giọng nói “Thương Dịch Chi làm vậy chính là loạn thần tặc tử!”
“Ai là loạn thần? Ai là tặc tử?” A Mạch hỏi: “Tề Cảnh đoạt giang sơn trong tay thái tử Tề Hiển, hiện nay Thương Dịch Chi thay phụ thân hắn đoạt lại, đúng sai cũng chỉ có Tề gia bọn họ tranh đấu với nhau, vậy thì ai là loạn thần, ai là tặc tử?”
Đường Thiệu Nghĩa im lặng không nói, chỉ lạnh lùng nhìn A Mạch, A Mạch cũng không chút nhân nhượng, bình thản nhìn lại. Qua một hồi lâu, Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Thát tử xâm nhập phía nam, chiếm cứ Thái Hưng, Kinh Châu, đối với Giang Nam như hổ rình mồi. A Mạch, ngươi chẳng lẽ không biết sau khi Thương Dịch Chi khơi mào nội loạn sẽ dẫn đến hậu quả gì sao?”
Sẽ dẫn đến hậu quả gì? Nam Hạ lúc này nội loạn, sẽ giúp cho Bắc Mạc ngư ông đắc lợi! A Mạch tự biết điều này, chỉ có điều nếu không nội loạn, sao đến phiên nàng nắm binh quyền? A Mạch bình tĩnh nói tiếp: “Thát tử tất không dám, lúc này có quân Giang Bắc của ta ở đây, nếu chúng dám tràn xuống phía Nam, quân ta sẽ thừa dịp chúng không phòng bị, bất ngờ tập kích Tĩnh Dương, bao vây đại quân thát tử ở quan nội.”
Ánh mắt Đường Thiệu Nghĩa lại tăng thêm phần lạnh lùng, hỏi: “Dùng giang sơn xã tắc cùng lê dân để đặt cược cho việc mưu phản của các ngươi sao?”
A Mạch không nói gì, cúi đầu im lặng một lát, thản nhiên nói: “Cuộc đời này vốn là một canh bạc lớn, ta và huynh cũng chưa từng thoát được.”
Đường Thiệu Nghĩa có chút xa lạ nhìn A Mạch, thật lâu sau vẫn không nói gì.
“Ta mặc kệ ngôi vị hoàng đế ở Thịnh Đô thuộc về Tề Cảnh hay Thương Dịch Chi, việc duy nhất ta muốn làm là đánh thát tử, khôi phục non sông!”A Mạch nói, nàng chậm rãi ngẩng đầu nhìn chằm chằm Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, huynh còn muốn cùng ta chống thát tử nữa hay không?”
Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, nhưng trước sau vẫn không thể thốt ra một tiếng “Không”…
A Mạch biết trong lòng anh ta đang mâu thuẫn, liền thẳng thắn khuyên nhủ: “Đại ca, bất luận là Tề Cảnh hay Thương Dịch Chi, ta chỉ thuận thế mà làm, ta có nguyện trung thành hay không thì Thương Dịch Chi vẫn mưu phản. Bọn họ đều không quan tâm đến quân Giang Bắc, bỏ rơi dân chúng Giang Bắc, huynh vì sao vẫn còn để ý là nguyện trung thành với người nào? Cứ để bọn họ tranh ngôi vị hoàng đế của họ, ta bảo vệ dân chúng Giang Bắc của ta, vậy không tốt sao?”
Đường Thiệu Nghĩa mím môi, hồi lâu vẫn không lên tiếng trả lời. Thấy thế, A Mạch trong lòng đã buông xuôi, cười khổ nói: “Đã khiến cho đại ca khó xử rồi”.
“Ta chỉ cùng ngươi chống lại thát tử mà thôi.” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên nói.
A Mạch ngạc nhiên mừng rỡ nhìn Đường Thiệu Nghĩa.
Nét mặt Đường Thiệu Nghĩa vẫn thản nhiên như trước, lặp lại: “Ta chỉ cùng ngươi chống thát tử, tuyệt không hỗ trợ Thương Dịch Chi đoạt vị”.
A Mạch nghe xong liền giơ ba ngón tay lên thề: “Mạch Tuệ xin thề, quân Giang Bắc chỉ ở Giang Bắc, tuyệt đối không tiến xuống phía Nam! Nếu vi phạm lời thề, sẽ bị thiên lôi giáng xuống.”
Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc nhìn A Mạch thật lâu, cuối cùng bất đắc dĩ thở dài, kéo tay nàng xuống, thấp giọng nói: “Ta tin ngươi”.
Ngày mùng hai tháng mười, Đường Thiệu Nghĩa mang theo kỵ binh của Trương Sinh đi Điện Tử Lương ở phía nam núi Thái Hành, cùng đi còn có Trịnh Lam, dẫn đầu mười mấy thợ thủ công thuộc bộ phận quân giới trong quân Giang Bắc, A Mạch lệnh cho Trương Sĩ Cường đi theo đốc thúc, trước khi đi đã mật lệnh cùng Trương Sĩ Cường: “Một khi Trịnh Lam có hành động gì khác lạ, giết!”
Đồng thời, Ký Châu tiến hành chiêu mộ tân binh, khí thế hừng hực, không đầy mười mấy ngày sau đã chiêu mộ được hơn một vạn sáu ngàn người. A Mạch trước thì cho tập trung khổ luyện một tháng, sau mới chia ra, cho nhập vào các doanh quân Giang Bắc, bắt đầu huấn luyện.
Hoàn toàn tương phản với Ký Châu, tình hình Giang Nam lúc này chính là gió cuộn mây vần, thời cuộc thay đổi.
Giữa tháng mười một, Thương Dịch Chi chính thức lấy tền là Tề Hoán, dẫn đại quân với tốc độ sét đánh, tiến đến ngoại thành Thịnh Đô.
Ngày mười bốn tháng mười một, Tề Cảnh bệnh chết trong cung.
Ngày mười lăm tháng mười một, thái tử Tề Kính vội vàng đăng vị tại điện Minh Đức.
Ngày mười tám tháng mười một, đô đốc bảo vệ kinh thành Diêu Khánh Hàng mở cổng An Định Môn đón đại quân Tề Hoán vào thành. Tân đế Tề Kính tự vận mà chết, Khang vương Tề Mẫn mất tích. Tề Hoán ở tại Thái Cực Điện, đổi hiệu là Sơ Bình
Ngày mùng bảy tháng mười hai, Tề Mẫn từ Lĩnh Nam tuyên chiếu cần vương(1), kêu gọi quân đội các châu phía bắc xả thân vì triều đình.
Gió đông(2) chưa kịp làm dịu đi bầu không khí ở Giang Nam mà ngược lại còn thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh, Giang Nam nhất thời đại loạn.
Cùng lúc đó, tám châu Giang Bắc, ngoại trừ hai châu Thanh, Kí bị quân Giang Bắc chiếm giữ, các châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương đã nằm trong tay Bắc Mạc, quân khởi nghĩa các nơi khác đều bị Trần Khải trấn áp, các khu vực do Bắc Mạc chiếm lĩnh tạm thời xem như ổn định. Tiểu hoàng đế Bắc Mạc bắt đầu lo lắng muốn đông tiến đánh Thanh, Ký Châu, theo đà thẳng tiến xuống phía nam vờ hỗ trợ Nam Hạ, thừa cơ Giang Nam nội loạn, chiếm lấy Thịnh Đô.
Nguyên soái Bắc Mạc Trần Khởi dâng biểu lên tiểu hoàng đế, tấu rằng loạn Giang Nam tạm thời chưa bình ổn, lúc này tiến về nam ngược lại sẽ vướng vào nội chiến, huống chi quân Giang Bắc chiếm cứ Thanh, Kí, tựa như thanh kiếm trước bụng, ắt gây hoạ lớn! Không bằng trước dốc toàn lực đánh hạ hai châu Thanh, Kí, sau đó dựa vào thế Uyển Giang, thừa dịp Giang Nam nội chiến, bất ngờ xuất kích, nhất định thành công.
Tiểu hoàng đế xem tấu chương của Trần Khởi vỗ tay trầm trồ khen ngợi, lập tức chuẩn tấu, lại ban thêm một đạo ý chỉ, tấn chức Trần Khởi làm Thái Tử Thiếu Bảo(3), mùa xuân sang năm sẽ đưa trưởng công chúa Ninh Quốc tới Dự Châu, cùng Trần Khởi thành thân!
Trần Khởi địa vị cao, lại cưới thêm công chúa, danh tiếng có một không hai, không ai sánh bằng.
Khi thánh chỉ đến Dự Châu đã là cuối năm, Dự Châu vừa có tuyết rơi. Khương Thành Dực từ Túc Châu quay về, đến hành dinh Trần Khởi chúc mừng, vừa tiến vào sân, liền thấy cửa sổ thư phòng mở lớn, đại nguyên soái Trần Khởi đứng khoanh tay trước của sổ, lẳng lặng nhìn một gốc mai đến xuất thần.
Khương Thành Dực đi đến hành lang, cởi áo choàng đưa cho thân binh theo hầu, lại chà chà tuyết đọng trên giầy rồi mới tươi cười bước vào phòng. Trong phòng để hai chậu than đang cháy đượm, toả hơi nóng rừng rực. Vì Trần Khởi không thích huân hương, nên trong phòng không đặt lư hương, trên bàn chỉ đặt một bình hoa lớn bằng men sứ xanh, trong bình cắm hai nhánh hồng mai, cùng với gốc mai ngoài cửa số tỏa hương ngập phòng, trong trẻo mà lạnh lùng.
Khương Thành Dực cười nói: “Nguyên soái cũng thật bình tĩnh, không gọi người đến phủ công chúa bái kiến, chẳng lẽ để Ninh Quốc trưởng công chúa phải tự đến hành dinh sao?”
Trần Khởi quay lại nhìn Khương Thành Dực, thản nhiên cười nói: “Về khi nào vậy?”
“Vừa mới vào thành, không phải đã vội vàng đến để chúc mừng nguyên soái rồi hay sao?” Khương Thành Dực cười nói: “Hoàng thượng đưa trưởng công chúa tới Dự Châu thành thân cùng nguyên soái, có thể thấy Hoàng thượng đối với nguyên soái thực vô cùng trọng dụng”.
Trần Khởi vẫn trầm mặc không nói, lát sau đột nhiên hỏi Khương Thành Dực: “Nếu đánh Thanh Châu, ai đi là tốt nhất?”
Khương Thành Dực không hiểu tại sao Trần Khởi đột nhiên nghĩ tới việc đánh Thanh Châu, nghe vậy suy nghĩ một chút liền đáp: “Ta vẫn cảm thấy Chu Chí Nhẫn là thích hợp nhất”
Trần Khởi thản nhiên cười cười: “Ông ta là lão tướng, trầm ổn thì có thừa nhưng dũng mãnh thì chưa đủ, không phải là đối thủ của Đường Thiệu Nghĩa”
“Đường Thiệu Nghĩa?” Khương Thành Dục không khỏi kinh ngạc: “Hắn không phải đã rời khỏi quân Giang Bắc rồi hay sao? Sao còn có thể chạm trán cùng hắn được?”
Trần Khởi đi đến bản đồ treo trên tường, chỉ vào một điểm trên Thái Hành Sơn: “Thám tử hồi báo, Đường Thiệu Nghĩa lúc này đang thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc, nếu đánh Thanh Châu, Đường Thiệu Nghĩa tất sẽ dẫn quân ra khỏi Thái Hành, hoặc đoạt lương thảo, hoặc tập kích quân ta”
Khương Thành Dực tất nhiên đã biết đến sự lợi hại của kỵ binh trong tay Đường Thiệu Nghĩa, nghe vậy không khỏi nói: “Nếu vậy thật sự rất phiền toái, Đường Thiệu Nghĩa giỏi về tập kích bất ngờ, khó lòng phòng bị”
Trần Khởi cười nói: “Cho nên muốn hạ Thanh Châu, trước hết phải loại bỏ kỵ binh Đường Thiệu Nghĩa, chặt đứt cánh tay quân Giang Bắc!”.
Khương Thành Dực nghe xong cau mày, khó xử nói: “Nhưng Đường Thiệu Nghĩa ở tại Thái Hành Sơn, hành tung không rõ, rất khó trừ bỏ”.
Trần Khởi nói: “Đường Thiệu Nghĩa người này vừa có thể tồn tại ở trong quân đội lại vừa có thể tồn tại giữa đám thổ phỉ, có thể thấy tuy dũng mãnh thiện chiến nhưng lại quá mức khí phách, giết không khó”
Khương Thành Dực nhịn không được hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái ắt đã có kế rồi phải không?”
Trần Khởi nhẹ giọng nói: “Loại người này, có thể dụ ra để giết”
(Cuốn thứ 5 hoàn)
————————–
Chú thích:
1- Cần vương: Cứu giúp triều đình trong cơn hoạn nạn
2- Gió đông: gió từ phía đông thổi tới, tức gió mùa xuân
3- Thiếu bảo: Chức quan thuộc hàng tam cô thời xưa bao gồm: thiếu sư, thiếu phó; thiếu bảo.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip