asdfasdfsa
Bóng đêm sâu thẳm trở lại vẻ tĩnh mịch vốn dĩ của nó.
Trận đại chiến ngoài thôn chỉ kinh động đến hơn chục hộ gia đình kế cận, song tiếng chó sủa inh ỏi lại khiến cả thôn náo loạn. Có mấy kẻ hóng chuyện mặc quần áo vào chạy ra quan sát thì bị phiên tử được bố trí canh phòng trong thôn ngăn cản, giải thích rằng có giặc cướp đột nhập vào thôn cướp bóc, Nội xưởng đang tróc nã, rồi hết sức khách sáo mời bọn họ trở về.
Những thôn dân này thấy động tĩnh không lớn, quan binh lấp ló đầy thôn xóm, nghĩ bụng dưới chân thiên tử cho dù có giặc cỏ cũng bất quá chỉ là vài con sâu mọt hại dân, bèn lẩu bẩu lầu bầu trở về nhà, chèn thêm cây chày cán bột lên cửa rồi yên tâm đi ngủ.
Trong Phủ Uy Vũ Bá, Dương Lăng hớp ngụm trà đặc, Thành Khởi Vận đang ngồi bên cạnh, y vô tình nhìn thấy nàng đang lấy bàn tay nhỏ nhắn che miệng ngáp khẽ, không khỏi hiểu ý bèn cười bảo:
- Mọi thứ đã rõ ràng, đại cuộc đã định, lần này hẳn là đã yên tâm rồi chứ? Những thứ hiện cần làm chẳng qua là giải quyết hậu quả, nữ Gia Cát hãy về phòng nghỉ ngơi một chút đi.
Thành Khởi Vận nguýt yêu y, khẽ trách:
- Còn dám nói giải quyết hậu quả ư? Vẫn chưa bắt được hai tên đầu mục Dương Hổ và Hồng Nương Tử đó. Bọn chúng ấy... giang hồ truyền rằng chúng đang chuẩn bị tụ tập tạo phản, đại nhân há có thể lơ là?
Ngoại trừ Ninh Vương, Dương Lăng không nhớ vào thời Chính Đức có sự kiện quy mô lớn nào khác. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo của Đường Tái Nhi(1), Từ Hồng Nho(2), thậm chí là cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành(3) và Trương Hiến Trung(4) đều không thuộc niên đại này, thiết nghĩ cho dù có chuyện giang hồ đồn đãi thì cùng lắm cũng chỉ lũ nhãi nhép không có tiền đồ tự chiếm núi xưng làm vua cỏ mà thôi.
Dương Lăng nghĩ đi nghĩ lại, nhớ rõ là không có đôi đạo tặc nào như vậy thành công, bèn tự tin cười nói:
- Đại Minh vận nước đang thịnh, bên ngoài không có họa lớn có thể thương tổn đến gốc rễ, bên trong cũng không lo bị dân biến. Chỉ vài tên đạo tặc lục lâm thì có thể làm nên chuyện gì chứ? Huống hồ, trừ phi Dương Hổ thấy tình thế không ổn, lập tức bỏ đường cái mà chạy, bằng không chỉ cần hắn đến Lộ Ao lí, trước năm trăm tay súng hỏa mai, cho dù võ công có lợi hại thế nào cũng đừng hòng thoát chết. Nếu nói lo lắng thì ta lại lo cho tình hình trong thành. Giết quan chính là tạo phản, vạn lần không ngờ Dương Hổ tập kích mà Hồng Nương Tử lại vẫn ở trong thành. Nơi đó chỉ an bài hơn hai mươi người, cái đám phiên tử cậy quyền đó tuy là những kẻ lành nghề trong việc khoét cửa đào hang và dò la tin tức, song lại không thạo việc bắt giặc tróc hung. Ta đã từng chứng kiến võ nghệ của Hồng Nương Tử, nếu ả nhận được tin tức mà trốn tránh trước khi Ngũ thành binh mã ty xuất binh, Nhất Thanh tuyệt sẽ không ngăn được ả.
Thành Khởi Vận đảo tròng mắt, che môi khẽ cười nói:
- Hoá ra đại nhân cực khổ chờ đợi ở đây không phải vì muốn biết tung tích của Dương Hổ mà vì lo vuột mất vị Hồng Nương Tử này.
Dương Lăng vờ nạt:
- Giỏi cho Khởi Vận nhà ngươi, đem bản quan ra đùa cợt có phải không?
Thành Khởi Vận liền duyên dáng đáp lại:
- Khởi Vận nào dám ạ?
Dương Lăng trừng mắt với nàng, rồi thở dài bảo:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, để xem cô ta có mạng sống đến bình minh không. Đám người này tụ tập làm loạn, ít nhiều cũng vì bị tham quan ô lại và sự quản lý tồi của triều đình bức bách, vô kế mưu sinh mới phải lên Lương Sơn. Tội không thể tha, song về tình thì có thể thứ. Ép bản quan phải vùi hoa dập liễu, quả thực trong lòng có phần không nỡ.
Từ xưa đến nay những kẻ tạo phản đối kháng triều đình đều có hình tượng rất tốt trong đánh giá của dân gian, nếu Dương Lăng không bởi thân ở triều đình, mình nằm trong cuộc, nghe kể về những chuyện anh hùng lục lâm này, khó dám đảm bảo rằng sẽ không xem bọn họ như những người anh hùng thay trời hành đạo. Y nhớ lúc trước từng xem một bộ phim truyền hình tựa là “Đường Tái Nhi”, trong đó tướng lĩnh nhà Minh đi dẹp loạn đều bị khắc hoạ là nham hiểm độc ác, tham lam háo sắc, ai nấy đều là đại tham quan. Dương Lăng không khỏi thầm cười khổ: "Nếu trên danh sách nịnh thần lại ghi thêm tên mình, nói không chừng một ngày nào đó trên màn ảnh mình cũng sẽ mang hình tượng mắt tam giác, gò má cao, chua ngoa cay nghiệt, hà hiếp thiện lương đây."
Thành Khởi Vận nghe vậy thì đăm chiêu, lẩm bẩm:
- Tội không thể tha, song về tình lại có thể thứ, tình có thể thứ...
Nàng trầm ngâm hồi lâu, mới thoáng liếc lấy Dương Lăng, cất giọng hờn dỗi:
- Đạo tặc giết quan tạo phản trong miệng đại nhân lại có lý lẽ để tha thứ, vậy mà một tiểu nữ tử một lòng dốc sức cho đại nhân thì lại năm lần bảy lượt suýt nữa bị đại nhân chém đầu.
Mặt Dương Lăng thoáng đỏ lên, hơi lúng túng nói:
- Lại nữa rồi. Ta cũng chỉ hù doạ cô một chút thôi, chứ đâu thực sự muốn động đao động kiếm? Hồng nương tử và bản quan ranh giới phân minh, cho dù bị hại, trong lòng bản quan cũng không có kiêng dè, cô thì lại khác...
Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng mím môi, đôi mắt quyến rũ như tơ trời liếc y, ngữ khí dịu dàng:
- Nô gia... nô gia và ả ta có gì khác biệt?
Dương Lăng bỗng cảm thấy hơi rợn người, y vươn người đứng dậy, làm như không nghe thấy và nói:
- Đi thôi, chúng ta ra trước thôn đi dạo một chút. Nếu cô đã không ngủ, vậy đi dạo một chút sẽ không buồn ngủ nữa.
Trêu ghẹo Dương Lăng đã trở thành chuyện vui nhất cuộc đời của nàng, ngày tháng còn dài, Thành Khởi Vận cũng không muốn bức chàng trai trẻ - mà trong ý thức nàng coi là chỗ dựa, là tình nhân, rồi dần dà lại coi là người đệ đệ yêu mến cưng chiều này - thẹn quá mà hoá giận. Lúc này nghe ẩn ý y tiết lộ trong lúc vô tình, trong lòng Thành Khởi Vận chợt có cảm giác hoan hỉ và thoả mãn lạ kỳ. Nàng cũng không truy vấn tiếp, chỉ tươi cười đứng dậy theo.
Dương Lăng đi đến trước cửa, lão quản gia vội mang áo khoác dài đến, mười mấy tay thị vệ đứng ngoài đình trông thấy Dương Lăng liền vội khom người thi lễ. Dương Lăng cầm lấy áo khoác, thấy Thành Khởi Vận ăn mặc hơi sơ sài, ngồi trong trung đường lâu như vậy, đôi môi đã có chút nhợt nhạt, liền đưa cho nàng và nói:
- Khoác vào đi, ban đêm trời rét, cô chịu không nổi lạnh đâu.
Hai hàng thị vệ theo sát Dương Lăng bước vào trong sân, chợt một giọng nói sang sảng cất lên dưới hành lang bên trái:
- Đại nhân, trong thôn có phải đã xảy ra chuyện gì? Có cần kẻ hèn cống hiến sức lực không?
Trung đường đèn đóm sáng trưng, cả đám thị vệ phiên tử đeo đao giắt kiếm đứng trang nghiêm trong sân, đừng nói thoát không khỏi tai mắt của Ngũ Hán Siêu mà ngay cả chú cháu Dương Tuyền cũng sớm đã bị kinh động. Có điều khắp sân thị đều là vệ sát khí đằng đằng, Dương Tuyền biết Dương Lăng không ưa mình nên cũng không dám ra ngoài hỏi han.Ngũ Hán Siêu chưa được phép nên cũng không tiện đường đột yết kiến, lúc này thấy Dương Lăng dẫn người định rời phủ, mới nhịn không được lách ra khỏi phòng cất to tiếng hỏi han.
Dương Lăng dừng chân lại, cười gọi:
- Là Hán Siêu à? Nhân mã huyên náo, thực đã làm quấy nhiễu giấc ngủ của huynh rồi. Ha ha, huynh hãy qua đây!
Đám phiên tử tay lăm lăm đao canh phòng cẩn thậnnhường ra một con đường, Ngũ Hán Siêu đi đến bên cạnh Dương Lăng ôm quyền vái một vái; đầu y đội khăn tiêu dao(5), thân vận thường phục đơn bào, để tránh hiểu lầm nên hai tay để không, thực trông cũng rất tuấn tú.
Dương Lăng vỗ vai y cười nói:
- Bản quan đã coi thường bản lĩnh của đám cường đạo giỏi võ đó quá. Nếu sớm mời huynh xuất thủ, tên Dương Hổ đó vị tất đã có thể trốn chạy.
Ngũ Hán Siêu theo cạnh Dương Lăng, vừa ra ngoài thôn vừa nghe y kể lại lai lịch vợ chồng Dương Hổ, lúc này mới biết Dương Phúc, thủ lĩnh đoàn ngựa thồ dọc đường cứu mình rồi hộ tống vào kinh, lại là đạo tặc lục lâm. Ngũ Hán Siêu ngoài giật mình thất kinh còn không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tuy y là con cháu quan lại nhưng đồng thời cũng là người trong võ lâm, nghĩa khí giang hồ tri ân tất báo ấy đối với y có ảnh hưởng rất lớn. Bất kể Dương Hổ xuất phát từ mục đích gì, dẫu sao mình cũng đã được hắn cứu giúp và chăm sóc đưa vào kinh, nếu thực gặp lại trong cảnh binh đao, là bắt hay tha đều sẽ muôn phần khó xử.
Ngoài đầu thôn. mấy trăm tên phiên tử đang thắp đèn soi đuốc lùng sục khắp rừng táo bao la bát ngát; để ngừa có giặc cướp giả chết náu thân, sĩ tốt bị thương và chết của Nội xưởng đều đã được đưa về núi. Liễu Bưu đang bố trí lại canh gác, trông thấy Dương Lăng đến liền vội bước đến đón.
Dương Lăng nhìn thấy từng cỗ thi thể bị kéo vào trong rừng táo thì nói với Liễu Bưu:
- Sai người canh gác, sau khi trời sáng đừng để thôn dân đến gần, tránh làm cho bọn họ kinh sợ. Một khi cổng thành mở ra liền sai người thông báo cho bộ Hình và Ngũ thành binh mã ty, phái người đến xử lý.
Một thớt khoái mã phi tới, bị phiên tử chặn lại ở đằng xa, người trên ngựa thì thầm cùng phiên tử một chốc thì được dẫn đến trước mặt. Người này cũng vận trang phục Nội xưởng, nhìn thấy xưởng đốc đại nhân cũng có mặt liền vội quỳ sụp xuống thi lễ:
- Ra mắt xưởng đốc đại nhân, Liễu đại nhân.
Liễu Bưu vội hỏi:
- Mau đứng lên, Lộ Ao lí có tin tức à? Thế nào rồi?
Phiên tử nọ đứng dậy, dáng vẻ vui mừng đáp:
- Đại nhân, giặc cướp tháo chạy về Lộ Ao lí, Cổ đáng đầu quát ra lệnh bọn chúng tước nộp vũ khí, một đợt hỏa lực đồng loạt đã bắn cho chúng thành cái nia, không tên nào thoát thân.
Dương Lăng lộ vẻ xúc động hỏi:
- Dương Hổ... cũng nằm trong số đó chứ?
Phiên tử do dự một chút rồi đáp:
- Việc đó... Lộ Ao lí không giữ lại người sống, chúng thuộc hạ không biết tướng mạo tên đạo tặc đó, Cổ đáng đầu đang dẫn người dọn dẹp thi thể, độ nửa canh giờ nữa sẽ có thể đưa toàn bộ xác người về tới.
Liễu Bưu khẽ nói:
- Đại nhân từng thấy diện mạo của tên thủ lĩnh đạo tặc đó, cũng có thể tra hỏi mấy tên còn sống bị bắt , đại nhân chớ nên sốt ruột. Có điều... theo ti chức thấy, Dương Hổ ắt sẽ lành ít dữ nhiều.
Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, phiên tử nọ lại hớn hở khoe:
- Xưởng đốc đại nhân, hai trăm thớt mã đó đều là ngựa tốt ở biên tái, Bành đại nhân mê thích không thôi, Nội xưởng chúng ta quả thực chưa từng có ngựa tốt như vậy.
Dương Lăng chỉ cười cười mà không nói gì, thời này ngựa tốt khó tìm, cũng khó trách Bành Kế Tổ vui sướng như vậy, nếu còn một canh giờ nữa Bành Kế Tổ mới trở về, Dương Lăng liền muốn trở lên núi thăm hỏi thương binh một lượt. Trong lúc vô ý, y hướng mắt vọng nhìn về phương xa, mắt chợt nheo lại, trong bóng đêm lờ mờ thoáng ẩn hiện một chấm đen; người đó cưỡi ngựa, không men theo đường nhỏ, mà băng thẳng qua đồng ruộng phi tới, phương hướng chính là kinh thành.
Thành Khởi Vận và Ngũ Hán Siêu cũng đến gần, khi còn cách khoảng mười bước người đó liền nhảy xuống ngựa, vừa chạy đến phía trước vừa gọi lớn:
- Có Liễu đại nhân ở đây không? Trong thành đã truyền tin tức đến rồi.
Liễu Bưu vội vàng bước lên mấy bước đón, quát:
- Đừng gấp, từ từ mà nói, xưởng đốc đại nhân đang ở đây.
Phiên tử nọ không ngừng thở dốc, trông thấy Dương Lăng dưới hai hàng đuốc, vội vàng bước tới thưa:
- Đại nhân, trong thành Dương thiên hộ truyền ra tin tức, vào canh ba Hồng Nương Tử dẫn theo sáu bảy người đột nhiên rời khỏi viện trạch, Dương thiên hộ chưa kịp điều binh, đành phải âm thầm bám đuôi, Hồng nương tử chưa rời khỏi ngõ hẻm liền phát hiện có người theo dõi, lập tức đã dẫn người trốn vào trong một hộ gia đình rồi trèo tường chạy mất. Dương đại nhân nhận được lệnh căn dặn của đại nhân, đã thông tri cho Ngũ thành binh mã ty lục soát truy bắt khắp khu vực đó, song vẫn chưa có tung tích.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói với Liễu Bưu:
- Ta đoán bọn chúng cũng sẽ không ở yên đó chờ đợi. Nhất Thanh nhân thủ không đủ, đối phó không nổi đám cường đạo bản lĩnh cao cường này là việc nằm trong dự liệu, bất kể bọn chúng ở lại trong thành còn có âm mưu gì, đã kinh động chúng ta, đêm nay sẽ không giở thêm thủ đoạn gì nữa đâu. Bảo Nhất Thanh đừng làm ra thanh thế quá lớn, không có chứng cứ tạo phản, nếu chỉ vì mấy tên cường đạo xâm phạm phủ ta mà lục soát toàn thành, đám ngôn quan sẽ lại sinh sự đấy.
Liễu Bưu dạ một tiếng, căn dặn tên phiên tử đó mấy câu, kẻ đó liền chắp tay cáo từ, phóng lên ngựa rồi lại vội vàng phi lướt vào trong màn đêm. Dương Lăng dõi về phía kinh thành đương chìm trong bóng đêm, khẽ lắc đầu nói:
- Kinh sư rộng lớn như vậy, nếu bọn chúng đã chạy thoát, biển người mênh mông, muốn bắt lại sẽ khó đây.
Thành Khởi Vận máy động trong lòng, vội nói:
- Đại nhân, quả như Dương Hổ đã chết, vậy phải đề phòng Hồng Nương Tử báo thù cho chồng. Người phụ nữ này có công phu cao cường, nếu tập kích ám sát, sẽ khó lòng phòng bị.
Từ khi đến thời đại này, Dương Lăng cũng biết võ nghệ cá nhân còn lâu mới lợi hại như trên phim ảnh, có thể ngang nhiên xông vào đối địch với thiên quân vạn mã. Bất quá trong thời đại chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh này, chung quy võ nghệ vẫn còn có thể phát huy tác dụng trọng đại. Nếu như có một quả phụ xinh đẹp có thể băng tường vượt nóc như đi trên đất bằng suốt ngày tìm cách lấy mạng mình, hại khiến mình đi đâu cũng chẳng dám đi, thì thực sẽ khiến người ta rất nhức đầu.
Y dời ánh mắt, chợt thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng cạnh mình, thế là không khỏi bật cười thoải mái:
- Ta có Ngũ Hán Siêu, há còn sợ Hồng Nương Tử? Hán Siêu à, bản quan vốn định ngày mai tiến cử huynh vào triều làm quan, tìm một công việc trong Lục Bộ, nay xem ra huynh phải tạm thời ở cạnh bản quan chờ đợi rồi.
Võ nghệ của Ngũ Hán Siêu hơn hẳn tài văn chương, cũng không có thành kiến gì với xưởng vệ, ở lại trong Nội xưởng quyền khuynh thiên hạ đương nhiên oai phong hơn hẳn đi đến Lục Bộ làm một chức quan bé rồi. Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì mỉm cười, vái một vái dài đáp:
- Vốn là mong ước không dám thỉnh cầu. Hán Siêu nguyện noi theo ý đại nhân, bám gót từ đây.
*****
Hồng Nương Tử đang dẫn người chạy ra khỏi ngõ tắt, liền phát hiện có người âm thầm theo dõi. Nơi ở của nàng đã nằm trong sự giám thị, vậy hành động tập kích thôn trang của Dương Hổ còn có thể thành công sao? Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ vậy, lòng liền như lửa đốt, hận không thể lập tức xông ra khỏi thành, cứu trượng phu thoát khỏi lao ngục.
Công phu quyền cước của Lưu đạo sĩ tuy kém, song tâm kế lại cao sâu hơn nàng, vừa nghe có người ngầm theo dõi, lập tức khuyên Hồng Nương Tử theo lão lẩn trốn trước. Lúc này hành động của Dương hổ sớm đã phát động, nếu như trúng kế thì cũng đã trúng rồi.
Lúc này mà rời thành thì chỉ tổ tự chui đầu vào lưới, chi bằng thừa lúc đối phương vẫn chưa điều động nhân thủ đối phó với nàng mà mau chạy trốn và náu thân. Quả như Dương Hổ bình yên vô sự, sẽ lại phái người đến liên lạc cùng hắn, ví bằng Dương Hổ thất bại, có thể cứu được thì cứu, cùng lắm cũng có thể giữ lại người báo thù cho hắn.
Hồng Nương Tử tuy bận lòng đến sự an nguy của trượng phu như từ nhỏ lớn lên trong giới lục lâm, nghe quen tai nhìn quen mắt, đương nhiên biết được lợi hại trong đó. Tuy nói rằng kẻ nào tài cao gan đều lớn, song nàng cũng không dám vọng tưởng lấy sức một mình mình đối kháng với quan binh đã sớm có chuẩn bị, sau thoáng cân nhắc, đành chọn theo Lưu đạo sĩ trốn đi.
Từ thời Tống, Nguyên đến nay, Bạch Liên giáo nhiều lần khởi sự, nhiều lần thất bại, nhưng hương hoả vẫn chưa tận. Sau khi Chu Nguyên Chương lợi dụng Bạch Liên giáo khởi sự và thâu tóm được thiên hạ, sự đả kích đối với bọn họ càng thêm kinh khủng. Trong quan phủ có một lượng lớn xuất thân là người của Bạch Liên giáo, cho nên hiểu rõ phương thức liên lạc như lòng bàn tay, qua nhiều bài học kinh nghiệm bằng xương máu, hành tung của Bạch Liên giáo và phân đàn của nó càng trở nên bí hiểm, kinh nghiệm trốn chạy cũng vì vậy mà phong phú hơn.
Từ sau khi giáo phái Di Lặc của Lý Phúc Đạt khởi sự ở Sơn Tây thất bại, bị quan phủ vây quét, đã chuyển hướng vươn vòi sang các thế lực thân hào đại tộc các nơi, nơi an toàn để ẩn náu càng nhiều không đếm xuể.
Có dân chúng cuồng tín bị bọn họ dùng phép thuật che mắt khiến cho thần hồn điên đảo, có phú hào đại tộc bước lên thuyền giặc, đến khi tỉnh ngộ muốn rút chân thì vận mệnh của cả gia tộc đều đã ràng chung với giáo phái Di Lặc, không thể không tiếp tay cho giặc.
Ở kinh sư Hồng Nương Tử lạ nước lạ cái, song Lưu đạo sĩ lại biết rõ đường đi lối tắt hơn nhiều. Ban đêm binh sĩ tuần thành ở kinh sư cực đông, bọn họ xuyên nhà trèo tường mà đi, vừa thoát khỏi Dương Nhất Thanh và đám thủ hạ, lại tránh được tai mắt quan binh.
Bọn họ lặng lẽ trèo vào một khu trạch viện rộng lớn, rồi lại men theo bóng đêm trèo từ phía vách tường vào; cũng không biết là nhà của ai. Lưu đạo sĩ bịa chuyện nói rằng đây là nơi ở của một tín đồ của lão, bảo đám người Hồng Nương Tử đợi tại hoa viên, còn lão thì lách vào bên trong sân như một bóng ma, lặng lẽ đi vào tìm kiếm chủ nhân.
Sau thời gian hai chén trà, một viên ngoại dáng phốp pháp mồ hôi đầy đầu mặc áo dài gấm màu đồng, đích thân cầm đèn lồng theo Lưu đạo sĩ chạy ra, cuống quít dẫn bọn họ vào sâu trong nhà rồi thu xếp chỗ ở.
Cho dù kết cấu phòng ốc, trạch viện của mỗi gia đình giàu có những thay đổi nhất định nhưng phần lớn vẫn theo kết cấu tạo thành bởi tiền viện, trung đường, hậu viên của nội quyến, sương phòng. Cùng lắm là thêm vài nhà ngang ở phía đông và phía tây để thết đãi bạn bè thân thích, tuy nhiên những chỗ chi tiết thì rất hiếm khi rập khuôn. Trong bóng tối mà Lưu đạo sĩ có thể tìm thẳng đến chủ nhà mà không kinh động những người khác, hiển nhiên là hết sức quen thuộc nơi này.
Với sự cơ cảnh thường ngày của Hồng Nương Tử trông thấy chuyện này khó tránh sẽ có điều nghi ngờ về thân phận thật của Lưu đạo sĩ, có điều lúc này lòng nàng đang rối như tơ vò, nên cũng không bận tâm đến những chi tiết nhỏ này. Tuy rằng nàng vô cùng bất mãn với hành vi của trượng phu mình, song nói cho cùng thì vẫn là phu quân nàng, sao có thể không để ý đến sống chết của hắn.
Trạch viện này là chỗ ở gia đình này dùng để chiêu đãi thân bằng quyến thuộc, do đã cuối năm, cho nên phòng ốc được dọn sạch sẽ tươm tất. Căn phòng của Thôi Oanh Nhi là nơi ở dành cho nữ quyến, trên bàn trang điểm thắp một ngọn đèn dầu, phát ra ánh sáng lờ mờ u ám.
Chủ nhà được gọi là Cừu viên ngoại kêu mấy gia nhân tâm phúc dậy đốt hai lò than đồng hình đầu thú trong phòng, trong chốc lát căn phòng ấm áp như xuân. Thu xếp ổn thoả hết thảy, Lưu đạo sĩ đưa Cừu viên ngoại đi. Hai người ra đến dưới hành lang bên ngoài, thấy không ai ra theo, Cừu viên ngoại mới quệt mồ hôi túa ra vì căng thẳng, hết sức lo lắng nói:
- Lưu hương chủ, ngài dẫn đến đều là những kẻ gì vậy. Kẻ nào kẻ nấy cầm kiếm cầm đao, ngay cả vị nương tử áo đỏ đó trông cũng thật đáng sợ. Gần trăm nhân khẩu cả nhà Cừu mỗ, ngài đừng hại ta đó.
Lưu đạo sĩ cười nham hiểm trấn an:
- Cừu viên ngoại, ông cứ việc yên tâm, chỉ cần ông không rêu rao ra ngoài, trừ khi là hoàng đế bị giết, ai dám xông vào hết mọi nhà trong kinh thành để bắt người chứ? An toàn lắm.
Lão thấy trời đang rét run mà Cừu viên ngoại lại đổ mồ hôi ròng ròng khắp mặt thì nhịn không được bèn bật cười ha hả, rồi vỗ vỗ vai hắn nói:
- Ông là thí chủ hộ pháp của bản giáo, nếu như bản giáo đoạt được thiên hạ, vinh hoa phú quý há sẽ thiếu phần ông? Yên tâm đi, chúng ta ở lại đây nửa bước không ra, sáng sớm ngày mai ông phái người ra ngoài dò la tin tức một chút, xem thử Nội xưởng có động tĩnh gì không?
Cừu viên ngoại cuống quít giậm chân nài khẩn:
- Ối trời ơi! Hương chủ của tôi ơi, không ngờ các người lại trêu chọc đến Nội xưởng nữa? Bên phía xưởng vệ đáng sợ nhất chính là Nội xưởng đó. Các người... các người...
Lưu đạo sĩ lạnh lùng nói:
- Ông tỉnh lại đi, chúng ta làm là giao dịch tạo phản đoạt thiên hạ! Nội xưởng ư? Cho dù là hoàng đế, chúng ta cũng không sợ trêu phải. Ngươi là hộ pháp hương đàn của bản giáo trong kinh sư, làm nhiều việc cho bản giáo như vậy, đứa con bảo bối độc nhất của ngươi thì được giữ lại bên người giáo chủ, sớm đã là người cùng hội cùng thuyền với chúng ta rồi.
Lão hừ một tiếng rồi tiếp:
- Còn nữa, phải tránh nhắc đến thân phận của ngươi và ta trước mặt người khác, kể cả những người mà ta dẫn đến, bọn họ không phải là người của bản giáo. Trở về ôm lục phu nhân của ngươi mà ngủ ngon giấc đi, ngày mai thức dậy đừng quên đi dò la tin tức cho ta đó.
Đoạn lão cười ám muội nói:
- Lục phu nhân là đệ tử thánh đường của bản giáo, cô ả lẳng lơ đó quyến rũ động lòng người, công phu trên giường cao thâm lắm. Cái đồ già nhà ngươi có phước hưởng thụ còn không phải vì bản giáo coi trọng thân phận của ngươi ư. Nên tự thu xếp cho ổn thoả đi.
Nói rồi Lưu đạo sĩ xoay người đi vào phòng. Cừu viên ngoại cầm đèn lồng, đứng ngây người trong gió thật lâu. Một cơn gió thổi tới, lão bất giác rùng mình, lúc này mới thở dài ra một hơi, thẫn thờ bước đi.
Lưu đạo sĩ lách mình vào trong căn phòng của Hồng Nương Tử. Đây là khuê phòng nữ nhân, màn lụa cuộn lên, trên chiếc giường khảm ngà voi đặt một chồng chăn gấm, bề mặt lờ mờ để lộ hình uyên ương hí thủy bằng tơ lụa. Thôi Oanh Nhi vận bộ đồ bó sát người màu xanh thẫm, đang ngồi trước bàn nhíu mày trầm tư.
Eo thon mảnh khảnh, bờ mông tròn lẳn đẫy đà, phơi bày mọi đường cong, vẻ phong tình mê hoặc lòng người. Lưu đạo sĩ bước vào, vừa trông thấy dưới ánh đèn Thôi Oanh Nhi tựa như một đoá mẫu đơn màu đen; dáng người như ngọc, nét mặt như hoa, trong mắt không khỏi loé lên vẻ dị thường.
Thúy Nhi đang đứng hầu cạnh bên trông thấy vậy thì không khỏi bĩu môi. Hồng Nương Tử là hào kiệt lục lâm, không hề để ý đến những quy củ thối tha của các gia đình giàu có, thấy lão ta không gõ cửa đã xông vào khuê phòng thì không hề lấy làm tức giận, mà lại lo lắng hỏi:
- Lưu tiên sinh, Hổ ca sống chết không rõ, ta thật sự một khắc cũng không yên, theo tiên sinh thấy, huynh ấy có thể gặp chuyện không?
Lưu đạo sĩ bày ra bộ mặt thần bí khó lường, nghiêm mặt nói:
- Dương phu nhân, bần đạo đã bấm đốt tính toán, đương kim hoàng đế Đế tinh sắp sụp, lại có Tướng tinh phò tá, tạm thời chuyển nguy thành an. Khi ấy không biết Tướng tinh đó là người nào, nay xem ra, chính là ứng trên người Dương Lăng. Chậc, là bần đạo không thể xem trộm thiên cơ, đã không ngăn cản lão đại.
Lão ngồi đối diện với Thôi Oanh Nhi, dưới ánh đèn hai cánh tay thon thả trắng nõn như hoa lan, da dẻ sáng ngời, trong lòng lão không khỏi gợn sóng, lập tức cụp ánh mắt, kiềm chế ý niệm muốn vuốt ve một phen. Nữ nhân này thoạt trông thì yêu kiều mềm mại, lúc động thủ lại hung mãnh hơn cọp dữ, quyền nào cước nào đều đủ lấy mạng, lão thực không dám vọng động.
Lưu đạo sĩ bấm ngón tay, làm bộ làm tịch nói:
- Trong số mạng của mỗi con người đều có ba ngôi sao chính, Thất Sát coi giữ thành bại, Phá Quân coi giữ chinh phạt, Tham Lang coi giữ hoạ phúc, hiện Tổng Biều Bả Tử bị sao Phá Quân coi giữ chinh phạt nhập vào cung chủ mệnh, mới gặp phải kiếp nạn này.
Thôi Oanh Nhi run rẩy hỏi:
- Vậy... có thể bị thương hoặc sống chết sao?
Lưu đạo sĩ nào dám nói hắn đã chết, người phụ nữ này tính nóng như lửa, trở mặt còn nhanh hơn lật sách, nếu ngày mai nhận được tin báo tử của Dương Hổ, e rằng cho dù mình có nói ông trời sắp sập thì cô nàng cũng sẽ không chịu để yên đâu.
Thế là Lưu đạo sĩ cười khùng khục, ậm ờ trả lời:
- Dương Lăng là Tướng tinh hộ vệ cho Đế tinh cũ, mà lão đại là Đế tinh mới, cũ mới thay nhau, nhật nguyệt luân chuyển, trong số mệnh của lão đại nên có kiếp này. Bất quá Phá Quân nhập chủ cũng là chuyện tốt, đại nạn không chết mai sau ắt sẽ gặp phúc. Chờ hai ngôi sao còn lại cũng nhập vào cung chủ mệnh, Sát-Phá-Lang tam tinh tụ hợp, thì thiên hạ tất sẽ đổi chủ, không thể nghịch chuyển!
Thôi Oanh Nhi đứng bật dậy vung tay áo nói:
- Nói cả buổi vẫn chưa biết rõ là sống hay chết, cửa ải này có thể vượt qua hay không còn không biết đây,
Nói rồi nàng mới cảm thấy mình quá nặng lời, bèn lúng túng phẩy mái tóc mai, giọng dịu lại:
- Nô gia lo cho trượng phu, nóng lòng nên đã thất lễ, xin tiên sinh chớ trách.
Nói đoạn nàng đanh mặt lại, sát khí đằng đằng:
- Nô gia sẽ đợi tại nơi này, ngày mai dò thám được tin tức rồi hẵng nói tiếp. Nếu Dương Hổ bình yên vô sự thì thôi, nhược bằng huynh ấy xảy ra chuyện gì không may, Thôi Oanh Nhi là phận nữ nhi, cũng sẽ mặc kệ hắn là Tướng tinh hay Đế tinh gì, ta nhất định sẽ đánh vào Dương phủ. Cho dù có liều mạng đồng quy vu tận cũng phải giết chết cái tên khốn đó!
Hôm qua một toán cướp lớn bị tiêu diệt, gần hai trăm cỗ thi hài được giao cho Ngũ thành binh mã ty. Dưới chân thiên tử lại xảy ra vụ án lớn như vậy, Ngũ thành binh mã ty và Kinh doanh khẩn trương vạn phần, lập tức tăng cường kiểm soát kinh sư, nghiêm ngặt thẩm tra từng bá tánh muốn ra khỏi thành; thám mã của bộ Hình lẫn ba xưởng một vệ liên tục xuất hiện, dò la tin tức khắp nơi.
Triều đình không muốn bá tánh biết tin vào ngày cận Tết lại có một đám cướp lớn tập kích trọng thần triều đình vào ban đêm, tránh cho lòng người phấp phỏng; nhưng như thế lại càng phản tác dụng, đủ loại tin đồn vẫn được lan truyền.
Đến khi có người đến Cao Lão trang thăm viếng bạn bè trở về, câu chuyện dần dần được thống nhất: kể rằng có một đám đại đạo đến từ phương Bắc, đều là hảo hán lục lâm võ nghệ cao cường, một có thể chọi trăm, ban đêm tìm đến Nội xưởng làm loạn. Sau khi giáp chiến với mấy ngàn phiên tử Nội xưởng, toàn quân đã bị diệt. Lại kể rằng thủ lĩnh đám giặc cướp nọ tên là Dương Hổ, thân cao hai trượng, lưng hùm vai gấu, một mình đã giết chết hơn trăm viên phiên tử Nội xưởng, cuối cùng bị súng thần hỏa bắn thủng như cái nia. Tin tức đó đã trở thành đề tài hấp dẫn nhất của mọi người khi thăm thân nhân viếng bằng hữu trong dịp tết ông Táo.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đều mong muốn biến cả Cao Lão trang thành quân doanh để đề phòng vợ chồng Dương Hổ quay lại, nhưng Dương Lăng nhất quyết không chịu. Đừng nói hôm nay là ngày tết ông Táo, là ngày mà bá tánh đi thăm viếng thân nhân bằng hữu, mà cho dù là ngày thường, cũng không có lẽ gì lại hạn chế mọi người ra vào. Đây là Cao Lão trang, chứ không phải là Nội tập sự xưởng; là Uy Vũ bá cư trú ở thôn trang, chứ không phải người của thôn trang cư trú trong Nội xưởng.
Không còn cách nào khác, hai người Liễu Bưu đành “ngoài buông lơi trong siết chặt”. Tuy không cấm tiệt bá tánh lui tới trong thôn thăm hỏi thân nhân, cũng không hề có người đến gặng hỏi, song chung quanh phủ Uy Vũ Bá lại bí mật bố trí thêm nhân thủ, tăng cường canh gác.
Thi thể của đám đạo tặc bị loạn súng bắn chết tại Lộ Ao lý hôm qua đều đã được đưa về, trong đó không hề thấy hình dáng của Dương Hổ. Vào giờ Tỵ ba khắc, Bắc trấn phủ ty Thiệu Tiết Vũ của Cẩm Y vệ phái người đến đưa tin rằng bọn họ bắt được một tên đạo tặc bị thương đang chạy trốn. Kẻ đó hung hãn không sợ chết, khi phải hứng chịu đủ loại cực hình của Cẩm Y vệ đã định cắn lưỡi tự vận nhưng không thành. Sau khi trải qua thêm mấy loại cực hình tàn khốc khác hắn đành phải thều thào tiết lộ sự thật.
Đêm qua Dương Hổ thoát khỏi kiếp nạn quả thực là do ý trời. Vốn dĩ Dương Hổ trúng tên trên bắp đùi, trong lúc chiến đấu ác liệt miệng vết thương bị toét lớn, máu chảy không ngừng. Thoát ra khỏi vòng vây được ba dặm thì thân thể cường tráng của hắn cũng không chịu nổi nữa, bốn tên bộ hạ thân tín đành phải dìu hắn ẩn náu trong một phần mộ ven đường để băng bó vết thương, chờ đợi các huynh đệ đi kiếm ngựa về.
Không ngờ đợi một hồi rồi lại thêm một lúc, cả bọn láng máng nghe đâu đó như có tiếng súng giòn giã như đậu rang. Một tên đạo tặc bèn lặng lẽ bí mật lẻn đi quan sát thì thấy Bành Kế Tổ đang hào hứng dẫn binh sĩ thu thập thi thể và thu gom ngựa chiến. Tên đạo tặc này thấy tình thế không ổn, lập tức trở về bẩm báo với Dương Hổ, mấy người bọn chúng bèn trốn vào đồng hoang.
Đến tảng sáng, bọn chúng chạy vào một thôn trang nhỏ không rõ tên, cướp được ba thớt la và ngựa, hai tên thân tín kèm Dương Hổ chạy trốn mất dạng, hai tên còn lại chia nhau lẩn tránh. Tên này luống cuống không biết đường, bị Cẩm Y Vệ thấy khả nghi chặn lại. Vừa mới bị gặng hỏi mấy câu thì tên đạo tặc này liền đột ngột ra tay đả thương người, giết chết sáu bảy tay Cẩm Y Vệ. Cuối cùng một người không chống nổi đám đông nên gã đã bị bắt.
Nghe được tin tức này, Dương Lăng liền đoán rằng rất có nhiều khả năng Dương Hổ đã trốn về sào huyệt, bèn căn dặn thủ hạ thông tri cho bộ Hình, bảo bọn họ gởi công văn đến Bá châu, lệnh cho quan phủ địa phương tra kỹ vụ án này. Thu xếp xong xuôi, Dương Lăng mới trở về phủ chuẩn bị đón tiếp khoản đãi khách mời sẽ đến dự tiệc hôm nay.
Tuy rằng trong ngoài kinh sư căng như dây đàn nhưng bên trong Dương phủ lại ngập tràn bầu không khí vui vẻ. Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh, Bành Kế Tổ, Liên Đắc Lộc, Phùng Đường và thậm chí cả Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh sau khi đã an bài thủ vệ thỏa đáng đều tụ tập dưới một mái nhà. Những người này đều là trụ cột của Nội xưởng, hết lòng theo phò Dương Lăng, tận sức tận lực, Nội xưởng mới có thể phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Hơn nửa năm mưa máu gió tanh, chung vai tác chiến, những người này cùng tiến cùng lui, nay nghiễm nhiên đã trở thành một nhóm có chung lợi ích gắn kết vững bền. Dương Lăng tin tưởng bọn họ vô cùng.
Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đều dẫn theo gia quyến đến phủ. Ngô Kiệt dưới gối không con, chỉ dẫn phu nhân cùng đến; Hoàng phu nhân dẫn theo cháu trai; trưởng nữ của Vu Vĩnh đã xuất giá, lão ta dẫn theo cả phu nhân lẫn nhị nữ, tam nữ. Gia quyến của ba vị Đô ty thuộc Thần Cơ doanh trước đây đều đang sinh sống ở nơi khác; bình thường bọn họ vẫn sống trên núi, chỉ thi thoảng vào thành tìm đến xóm làng chơi hưởng thụ mùi vị âu yếm, cho nên bọn họ đi dự tiệc hết sức thuận tiện.
Ngày thường Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi ăn mặc hết sức tùy ý, trang điểm qua loa, vì ở không trong nhà nên các nàng cùng lắm cũng chỉ đeo bông tai và cài trâm nạm trân châu. Hôm nay khách đến rộn nhà, bọn họ bèn khoác lên người những bộ cánh sang trọng theo bên cạnh Dương Lăng, xinh đẹp như hoa, sáng ngời như ngọc.
Hoàng phu nhân, Ngô phu nhân và Vu phu nhân tuổi đã hơn năm mươi nên rành rẽ lễ nghi. Vừa gặp các vị Cáo Mệnh phu nhân của triều đình, cả ba bà liền vội bước tới làm đại lễ yết kiến khiến ba cô nàng tuổi còn nhỏ xíu ngượng chín cả mặt, lật đật bước tới đỡ dậy.
Phu nhân Vu Vĩnh cũng là người Sắc Mục, mũi cao mắt sâu, mái tóc vàng óng. Người Sắc Mục ở kinh sư không hiếm nên ngoại trừ Hàn Ấu Nương, các cô này ai nấy đều có kiến thức sâu rộng nên không hề lấy làm lạ, nhưng hai người con gái thướt tha chưa xuất giá của Vu phu nhân đang đứng sau lưng bà ấy thì lại hấp dẫn ánh mắt mọi người.
Vóc dáng thon cao, so với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận bọn họ còn cao hơn non nửa đầu, mái tóc mềm mại óng vàng, mặt che bởi một lớp voan mỏng chỉ để lộ hai con mắt xinh xắn màu xanh thẫm, chiếc mũi ngọc ngà cùng cánh môi anh đào như ẩn như hiện dưới lớp voan càng làm tăng thêm vẻ mỹ miều.
Đôi tỷ muội này vận váy lụa cân vạt ống tay hẹp, bên ngoài khoác áo chẽn bông nhiều màu. Bên dưới là một chiếc quần dài ống chật màu xanh nhạt làm tôn thêm vẻ mềm mại dịu dàng của thân hình gợi cảm; đường cong trên đôi chân thon thả chắc nịch ẩn dưới lớp quần trông hết sức mê người. Lúc di chuyển eo thon khẽ đong đưa càng khiến người ta thêm mê mệt, gây một ấn tượng thật mạnh.
Phụ nữ thời Minh ra ngoài rất thích mặc áo chẽn váy khít, rất hiếm người mặc quần dài ống chật hoặc miệng ống loe, có thể gặp mỹ nữ phong tình dị quốc ăn mặc như vậy lại càng thêm hiếm. Tô Tam và Tuyết Lý Mai thầm nổi lòng hiếu thắng, thế nhưng bên dưới bộ ngực cao vút và bên trên cặp mông tròn lẳn như trăng rằm mà dường như còn to gấp đôi của bọn họ, chiếc eo thon thả mảnh dẻ khiến người ta phải đỏ mắt vì ghen tị ấy không khỏi khiến bọn họ âm thầm cảm thấy hổ thẹn.
Các cô thực không biết hai chị em đó đã dùng thứ gì mà có thể thít chặt eo đến tắt thở như vậy, bằng không cho dù eo họ có thon cỡ nào đi chăng nữa thì làm sao có thể thon thả bằng chiếc eo của hai cô chứ?
Dương Lăng tươi cười đón khách vào trong nhà. Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm cũng tươi cười nghênh đón, rồi cùng với Hàn Ấu Nương vừa vui vẻ chuyện trò vừa đưa nữ khách theo hành lang bên hông vào trong hậu viện.
Dương Lăng đưa đám khách đàn ông vào trung đường. Trong chậu than lửa kêu tí tách, than củi thượng đẳng trộn lẫn hương liệu cháy thơm ngát cả căn phòng. Quản gia sớm đã bày biện đủ bàn ghế.
Mọi người ngồi vào chỗ trò chuyện cười đùa. Uống trà đàm đạo được một chốc, Dương Lăng mỉm cười đứng dậy nói:
- Ngô lão, Hoàng lão, các vị huynh đệ đồng nghiệp! Dương mỗ nhờ có các vị dốc lòng tương trợ, Nội xưởng mới có được ngày oanh oanh liệt liệt như hôm nay. Hôm nay là ngày tết ông Táo, Dương mỗ mời các vị hảo huynh đệ vào phủ sum họp một nhà là để biểu đạt sự tôn kính và lòng cảm tạ với các vị. Chỉ mong huynh đệ chúng ta nắm tay đồng hành, về sau kiến công lập nghiệp, Nội xưởng của chúng ta...
Đoạn y chỉ vào ngọn lửa đang cháy bùng trong chậu than nói tiếp:
- Nội xưởng của chúng ta dưới sự nỗ lực chung của các vị và ta sẽ huy hoàng rực rỡ, phát triển không ngừng như ngọn lửa này.
Liên Đắc Lộc cười lớn:
- Xưởng đốc quá khách sáo rồi, nếu như Nội xưởng không có đại nhân chủ trì thì sao có được oai phong của ngày hôm nay? Thỉnh thoảng ti chức trở về Thần Cơ doanh chơi, những người bạn đồng liêu nơi đó gặp ti chức đều kính sợ và hâm mộ không thôi. Theo đại nhân ngài kiếm sống, tuyệt đối là không sai.
Một trận cười lớn nổ vang khắp căn phòng. Bành Đắc Lộc ưỡn cái bụng phệ ra vẻ trịnh trọng gật gù phụ hoạ:
- Nói rất đúng. Thực ra lần đầu ti chức gặp đại nhân, thấy đại nhân bước lên điểm tướng đài, khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, liền đã cảm thấy đại nhân tuyệt không phải là vật trong ao rồi. Nhãn quang của lão Bành quả nhiên không tệ!
Lời ba hoa tâng bốc của lão khiến ngay cả Phùng Đường xưa nay luôn hiền lành ít nói cũng nhịn không được phải bật cười phì. Dương Lăng mỉm cười nhìn lão, chế diễu:
- Thật như thế à? Khi đó bản quan bị Bào tham tướng gây khó dễ, dẫn mấy người các ông dùng đại lễ yết kiến Liễu thiên hộ; lúc bản quan đăng đài điểm tướng, bản quan thấy lão Bành ông hình như vẫn chưa tình nguyện quỳ xuống mà. Chẳng lẽ vì bụng quá to cho nên khó quỳ?
Bành Kế Tổ bị y trêu khiến khuôn mặt già đỏ au, nghe được câu cuối liền vội vỗ bụng tán thành:
- Chính phải, chính phải! Xưởng đốc thật anh minh. Ti chức đều bị cái bụng này cản trở, hắc hắc, là do cái bụng to này cản trở.
"Ha ha", mọi người càng cười to hơn. Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh nghe xong cũng không khỏi cảm khái vạn phần. Đúng là “nam sợ đi lầm đường, nữ sợ gả lầm chỗ”. Mới nửa năm trước đây mình chỉ là một viên hiệu úy cỏn con của Cẩm Y vệ, từ ngày đi theo Dương Lăng lại thăng tiến như diều gặp gió, nay cho dù là Cẩm Y đề đốc gặp mình cũng phải đối đãi nồng hậu mấy phần. Chức thiên hộ này kẻ khác dù lăn lộn ba mươi năm cũng chưa chắc đã với tới được.
Đợi mọi người ngưng cười, Dương Lăng nói tiếp:
- Thành nhị đáng đầu là nữ nhân, không tiện cùng mọi người uống rượu, hiện cô ta đã ra hậu viện bầu bạn cùng phu nhân, chúng ta không cần phải...
Bành Kế Tổ ngoác miệng cười to:
- Cô ta không có mặt ở đây càng tốt. Lần trước cô ta đến Nội xưởng dạo một vòng, cặp mắt hoa đào đó liếc Bành mỗ một cái, hại khiến lão Bành ta tim đập thình thịch, cả ngày cũng không yên...
Liên Đắc Lộc ngồi cạnh chợt huých khuỷu tay vào hông Bành Kế Tổ khiến lão loạng choạng suýt ngã. Lão quay đầu lại bực bội la lên:
- Cái tên Liên mặt rỗ này, chưa uống mà đã bị ma men nhập rồi à?! Ngươi huých ta làm gì?
Liên Đắc Lộc nháy mắt với lão:
- Lỡ tay, chỉ là lỡ tay thôi mà! Ha ha, chốc nữa huynh đệ tự phạt ba chén là xong.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh không nhịn được cúi mặt cười thầm. Ngô Kiệt vừa vuốt râu mỉm cười vừa liếc nhìn Dương Lăng không nói gì. Dương Lăng thấy Vu Vĩnh nghiêng người kề tai nói nhỏ mấy câu với Bành Kế Tổ, khuôn mặt lão Bành lập tức xám ngoét như quả gan lợn, thấp thỏm liếc về phía mình, thì bất giác cũng cảm thấy lúng túng.
Đừng nói là ở thời đó, cho dù ở xã hội hiện đại thì việc trọng dụng một người con gái cũng đã là đề tài câu chuyện được mọi người say sưa bàn tán, huống hồ đó lại là một người con gái duyên dáng yêu kiều, phong tình tha thướt; làm sao không có những lời đồn đãi phong tình chứ?
Dương Lăng ho khan vài tiếng, vờ như không trông thấy, tiếp tục:
- Ngoài ra, bản quan còn muốn giới thiệu với các vị một vị bằng hữu: Hán Siêu!
Ngũ Hán Siêu từ nội thư phòng lách người bước ra, ôm quyền vái mọi người:
- Ngũ Hán Siêu ra mắt các vị đại nhân.
Mọi người thấy là người do Dương Lăng tự thân giới thiệu nên nào dám qua quýt, liền vội đứng dậy chào hỏi. Dương Lăng ra hiệu bảo Ngũ Hán Siêu ngồi vào chỗ rồi cười nói:
- Hán Siêu là công tử của Ngũ Văn Định đại nhân, Thành Đô đồng tri, là đệ tử thân truyền của chưởng môn chân nhân núi Võ Đang, giỏi văn hay võ, một thân tài nghệ hết sức cao cường.
Nội xưởng vừa mới thành lập, nhân tài thiếu hụt, bản đốc cầu hiền như khát nước, may kết giao được Hán Siêu, huynh ấy đã đáp ứng tương trợ bản đốc, gia nhập vào Nội xưởng cùng làm việc. Sau này Hán Siêu sẽ là đồng liêu của các vị, hôm nay các vị hãy cùng nhau gặp mặt, sau này chúng ta sẽ cùng hội cùng thuyền, cùng vượt qua hoạn nạn.
Nói xong Dương Lăng vỗ tay, gia bộc nối đuôi nhau đưa món ăn lên, nhất thời sơn hào hải vị, thức ăn hoa quả có đủ, thịnh soạn vô cùng. Từng chiếc đĩa sứ Thanh Hoa tinh xảo sáng bóng được bày lên bàn, tiểu tì nhẹ nhàng dâng rượu rót đầy từng chén rồi lui sang chầu chực một bên.
Dương Lăng nâng chén đứng dậy:
- Trên bàn rượu bất luận chức vị tôn ti. Ở đây Hoàng lão và Ngô lão tuổi tác cao nhất, trước ta xin kính hai vị trưởng giả, tiếp kính các vị huynh trưởng Bành, Liên, Phùng. Hôm nay chúng ta nhất định phải vui cho thoả thích, không say không về.
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt vội đứng dậy chắp tay cảm tạ, mọi người đều theo Dương Lăng đứng dậy kính rượu hai lão. Hai ông già được Dương Lăng trọng đãi như vậy không khỏi cảm kích vạn phần, hai người ngưỡng cổ uống cạn rượu ngon trong chén, dốc cho mọi người xem chén rượu cạn trơn rồi mới mỉm cười ngồi xuống.
Dương Lăng cũng uống một hơi cạn rượu trong chén rồi từ từ ngồi xuống. Rượu hôm nay dịu mà tinh khiết ngọt lịm, uống vào hai má ngát hương, là rượu Phượng Tường(1) chính gốc, mới uống vào thì cảm thấy không nặng, dần dà ngấm vào lại không nhẹ. Tửu lượng Dương Lăng không cao cho nên y chỉ kính rượu hai chén, sau đó mặc kệ đám người phàm ăn tục uống Bành Kế Tổ hét hò thi rượu.
Sau ba tuần rượu, thưởng thức đồ ăn đủ các loại mùi vị(*), Ngô Kiệt mới nghiêng người thấp giọng hỏi:
- Đại nhân, nghe nói lúc sáng Cẩm Y Vệ bắt được một tên đạo tặc lọt lưới, đã đặc biệt chạy đến báo tin cho đại nhân?
(*)
nguyên văn “ngũ vị”, chỉ các món mặn, ngọt, chua, cay, đắng.
Dương Lăng kinh ngạc cười nói:
- Tai mắt của Ngô lão càng lúc càng lợi hại, người Trấn phủ ti nha môn chạy đến ông liền biết rõ nội tình ngay. Đúng vậy, Thiệu Tiết Vũ quả thực đã phái người đến. Nhắc đến việc này, ta chợt nhớ đến một chuyện. Mục tiêu dò xét và truy lùng bên phía Ngô lão dường như chỉ chú trọng vào các quan viên văn võ; tin tức dân gian tuy phần nhiều là hoang đường không đáng tin, song tăng cường thêm bên phía ấy cũng rất có ích. Nội tình chuyện Dương Hổ đến nay chúng ta vẫn chưa nắm rõ. Sau này cũng nên chú ý thêm về phương diện này.
Ngô Kiệp đáp:
- Dạ! Bởi Nội xưởng vừa mới thành lập mạng lưới tình báo, nên vẫn chưa đủ sức xâm nhập đến mọi ngõ ngách. Ti chức lo ngại trong triều vẫn còn quan viên gây bất lợi cho đại nhân, cho nên cố ý yêu cầu bọn thám tử tập trung tinh thần vào triều đình nhiều hơn, việc trong thiên hạ chúng ta cũng sẽ dần dà để ý tới.
Dương Lăng ừ một tiếng, lại nghe Ngô Kiệt nói tiếp:
- Cẩm Y vệ nghe nói đại nhân bị tập kích, đã phóng ngựa khắp nơi, dốc lòng bán sức, vì bắt một tên cường đạo mà đã bị tử thương sáu bảy người. Đại nhân có biết vì sao Cẩm Y vệ lại dốc sức giúp ngài như vậy không?
Ánh mắt Dương Lăng lập tức trở nên tập trung, y thấp giọng hỏi:
- Bên trong còn có nội tình gì khác à?
Ngô Kiệt cười ra vẻ bí hiểm:
- Biếu lễ cho người tất có mưu cầu. Ban đầu Trương Tú của Cẩm Y vệ dựa vào Đông xưởng, phái Mâu Bân cực kỳ bất mãn với hành vi khom lưng uốn gối của lão ta, cho nên sau khi lên nắm quyền hắn vẫn duy trì khoảng cách với Đông xưởng, Tây xưởng và Nội xưởng, giữ cho Cẩm Y vệ không chịu sự tiết chế của ba xưởng. Nay hắn hao tâm tổn trí tặng cho đại nhân món nhân tình này, đương nhiên là có dụng tâm khác.
Dương Lăng rót rượu vào chén Ngô Kiệt, trầm ngâm:
- Ừm! Dạo này khoảng cách giữa Cẩm Y vệ và chúng ta đích thực không xa cũng không gần, song bọn họ lại đem hết sức mình giúp đỡ chúng ta điều tra chuyện buôn lậu của đám quan lại, sĩ tộc và thân hào cự phú vùng duyên hải. Mâu Bân và Thiệu Tiết Vũ lại hết lòng trợ giúp chúng ta bắt cướp như vậy là có dụng ý gì?
Ngô Kiệt mỉm cười đáp:
- Đây cũng chỉ là suy đoán của ti chức. Liên hệ hai việc bề ngoài không hề có liên quan gì với nhau mà suy đoán ra, tuy nhiên dựa theo những hoạt động nổi bật của Cẩm Y Vệ trong thời gian gần đây, dường như cũng chỉ có chuyện này là có thể giải thích được.
Đoạn lão liếm môi, mỉm cười nói:
- Hẳn đại nhân vẫn còn nhớ chuyện hai mươi mốt người Đới Nghĩa dâng tấu xin Hoàng thượng giữ lại Lưu Kiện và Tạ Thiên chứ?
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Không phải là mấy lão ngự lại ngôn quan đó bị nhốt vào ngục một hồi rồi lại đuổi về rồi sao? Xui xẻo nhất là hai người Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân cũng đã được ta bảo vệ đưa đến Đại Đồng làm tướng. Chẳng lẽ lại có người đến gây chuyện hay sao?
Ngô Kiệt cười cười đáp:
- Vậy cũng không phải, chỉ là dư âm chưa nguôi mà thôi. Khi đám người Đới Tiễn bị bắt vào Cẩm Y vệ, lúc ở trong ngục đã viết tờ khai, luôn miệng mắng Lưu Cẩn là tên thiến cậy quyền. Tờ khai đưa vào cung, Lưu Cẩn xem xong thì rất lấy làm bất mãn, chưa dám dâng thẳng lên cho Hoàng thượng, mà trả lại Cẩm Y vệ kêu bọn họ sửa đổi lời khai rồi mới trình lên. Mâu Bân cả giận, hắn bảo xưa nay Cẩm Y vệ xét xử chưa từng có tiền lệ tự ý thay đổi lời khai của khâm phạm để dối gạt thiên tử, cho nên khăng khăng không chịu, hai bên đã căng thẳng nhiều ngày rồi.
Cốc Đại Dụng từng ra mặt hoà giải, nhưng Mâu Bân như cưỡi trên lưng cọp, lúc này mà hắn cúi đầu trước mặt thuộc hạ thì sẽ mất sạch oai phong, thế là đành phải mượn cớ chạy đến phương nam để tránh gió.
Mấy ngày trước còn có việc Doãn Chu Tỉ của phủ Thuận Thiên và Hầu Dương Nguyên của Ngũ Quan giám bị Lưu Cẩn phạt đình trượng đến chết. Lý do công khai là tham ô và chểnh mảng công vụ, song thực tế bên trong là bởi bọn họ qua lại quá thân thiết với Cẩm Y vệ, cho nên Lưu Cẩn mới giết gà để doạ khỉ.
Dương Lăng tựa lưng vào ghế ngẫm nghĩ một chốc, rồi lắc đầu cười khổ:
- Nói vậy không bao lâu nữa thì Thiệu trấn phủ sẽ lại đến nhà nhờ ta ra mặt hoà giải ư? Đã xét phạt cựu thần khiến cho đại học sĩ phải dẫn đầu bá quan đến quỳ dưới cổng cung, món nợ này còn chưa tính xong mà giờ lại quay sang gây sự với Cẩm Y Vệ rồi. Chậc! Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, vị Lưu công công này tinh thần thật là khoẻ đây, lão ta nghĩ rằng có Hoàng thượng chống lưng thì không còn phải sợ gì nữa hay sao?
Bành Kế Tổ đang uống say đến độ con mắt lừ đừ, loáng thoáng nghe câu được câu mất, liền bật cười lớn chen lời:
- Lưu công công hả? Ờ... sức khoẻ đương nhiên có đủ, lão ta có sức mà không thể tiêu trên mình đàn bà, đương nhiên phải tìm ít việc làm để tiêu bớt sức lực rồi.
Liên Đắc Lộc cũng đã uống say quắc, khuôn mặt gầy gò đỏ gay như đít khỉ, cười hềnh hệch bảo:
- Lão Bành lại nói bậy rồi! Lời này mà lan truyền ra ngoài, chính ông sẽ là người “tiêu” đấy.
Bành Kế Tổ trợn mắt:
- Ai sẽ rêu rao ra ngoài hử? Là ngươi? Là ngươi? Hay là ngươi?
Ngón tay thô kệch của gã chỉ một vòng, đến khi chỉ tới mũi Dương Lăng, gã mới phát hiện bất tiện, không khỏi cười hắc hắc rồi cầm chén rượu của mình lên nốc một hơi.
Dương Lăng cười cười, cúi đầu trầm ngâm:
- Phía bắc có giặc Thát xâm phạm, dùng binh là việc lớn của nước nhà. Việc bãi bỏ lệnh bế môn tỏa cảng và dẹp trừ giặc Oa cũng cần triều đình thật tâm đoàn kết, trên dưới một lòng. Lúc này xưởng vệ lại đấu đá lẫn nhau thực không phải là chuyện tốt, xem ra việc hoà giải lần này vẫn phải do bản quan đứng ra thực hiện rồi.
- Không được!
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt nãy giờ im lặng lắng nghe bỗng đồng thanh kêu to ngăn cản. Mấy người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu ngồi cách xa đó đang nâng rượu mời nhau nghe được câu này bèn quay đầu nhìn lại.
Hai ông già mưu sâu kế rộng liền vội nhỏ giọng lại. Hoàng Kỳ Dận nói:
- Đại nhân! Làm người tốt chưa hẳn đã là việc hay. Đại nhân nhất định đừng nhúng tay vào, nếu Thiệu Tiết Vũ tìm đến nhà, đại nhân cũng phải lựa lời thoái thác, khi nào bọn họ còn chưa phân rõ thắng thua, đại nhân chưa thể ra mặt.
- Hử?
Dẫu sao Dương Lăng vẫn còn trẻ, mấy chuyện ơn nghĩa nhân tình này y kém hiểu biết hai ông già lăn lộn lâu năm giữa chốn quan trường, chịu đủ mọi ghẻ lạnh này nhiều nên không khỏi nhìn bọn họ nghi hoặc.
Ngô Kiệt giải thích:
- Ti chức chính là lo Cẩm Y Vệ sẽ tìm gặp đại nhân, cho nên mới cố ý khơi ra chuyện này. Chuyện này rất quan hệ đến uy vọng của Cẩm Y vệ và Ti Lễ giám. Dựa vào ảnh hưởng của đại nhân, nếu đại nhân tỏ thái độ ủng hộ một phe, phe kia cũng chỉ có thể nuốt giận mà thôi.
Thế nhưng bất luận đại nhân có ăn nói khách sáo và uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa, nếu đại nhân đã khuyên Lưu Cẩn nhượng bộ, để Cẩm Y vệ công khai trình lời cung tố cáo “bọn thiến lạm quyền” lên Hoàng thượng thì không chỉ Lưu Cẩn sẽ ôm lòng oán hận ngài mà Bát Hổ của Nội đình cũng sẽ canh cánh trong lòng. Còn nếu đại nhân khuyên giải Mâu Bân sửa xoá lời cung thì oai vọng mà hắn cực khổ gầy dựng trong Cẩm Y vệ cũng sẽ rơi xuống nghìn trượng.
Hoàng Kỳ Dận gật đầu tiếp lời:
- Trừ phi một phe chịu lùi bước, bằng không cuộc chiến rối rắm này sẽ không thể nào hoá giải. Nếu như đại nhân đứng giữa điều đình, thì phe phải lùi bước sẽ trút giận sang đại nhân. Bởi thế... đại nhân nên đặt thân mình ngoài cuộc, mặc cho bọn chúng đấu đá long trời lở đất, đợi đến khi một phe thất bại thảm hại rồi, lúc đó đại nhân hãy ra mặt thu nhặt tàn cuộc. Dù đại nhân chỉ hơi đưa tay cứu vớt, đảm bảo cho sự an nguy của bọn chúng thì bọn chúng, vốn đã hứng chịu đủ mọi khổ đau, vẫn sẽ phải mang ơn đội nghĩa đại nhân.
Dương Lăng nhìn hai người một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. Quan lại đấu đá, diệt trừ lẫn nhau, sự cay nghiệt và vô tình trong đó y đã phần nào giác ngộ. Y đành thở dài bảo:
- Thôi bỏ đi. Mâu Bân đã chạy đi tránh gió, xem ra bản quan cũng phải trốn tránh một chút vậy.
Lưu Cẩn là đại thủ lĩnh Ty Lễ Giám, mấy ngày này sự vụ trong cung rất nhiều, lão ta nhất định không thể dứt ra bức bách Cẩm Y vệ làm việc cho lão. Ngày mai bản quan sẽ đi gặp Hoàng thượng, việc minh ước với Đoá Nhan Tam Vệ không thể trì hoãn quá lâu. Bản quan phải tấu xin Hoàng thượng phái một vị thân thuộc nào đó trong hoàng thất đủ để thay mặt triều đình đến Đại Đồng vào năm sau. Bản quan sẽ đi cùng y, trong kinh cứ để lão ta làm loạn đi.
Tiệc vui người say, đến lúc hoàng hôn nặng nề buông xuống, hầu hết mọi người trong phòng khách đã uống đến say mèm. Hai người Bành, Liên như hai con chó chết được thân binh dìu đỡ lên ngựa, vừa leo lên lại ngã cắm đầu xuống đất, khiến tay đội trưởng thân binh chỉ biết cười khổ sở gọi mấy tay phiên tử cường tráng cõng hai viên đáng đầu đang say như chết trở lên núi.
Phùng Đường bước chân cũng đã xiêu vẹo, song hành động vẫn còn tỉnh táo, cũng cáo từ Dương Lăng xin phép lui ra. Lão quản gia đi đến hậu đường báo Ấu Nương mời các vị nữ khách ra ngoài. Tiệc rượu trong hậu viện sớm đã tàn, Ấu Nương đang ngồi tiếp chuyện trong phòng khách, nghe tin liền vội đưa các vị nữ khách đến tiền sảnh.
Hàn Ấu Nương sắp sẵn gia nhân mang lễ vật theo sau. Nàng là nữ chủ nhân của Dương phủ, vốn có quyền tặng lễ vật, nhưng hôm nay Dương Lăng đáp tạ đồng liêu Nội xưởng nên nàng để Thành Khởi Vận giúp chọn ra vài món quà vừa hào phóng vừa đúng mực, nhằm trượng phu đích thân tặng khách.
Nghe Ấu Nương dặn dò xong, Dương Lăng mỉm cười đi đến trước mặt mấy người Ngô Kiệt và nói:
- Năm mới sắp đến, Dương mỗ có chuẩn bị một ít quà nho nhỏ tặng các vị, vẫn mong Ngô lão, Hoàng lão và Vu đại nhân đừng từ chối.
Đoạn y lấy từ trên tay gia bộc một gói quà, hai tay bưng lấy đưa cho Hoàng Kỳ Dận và bảo:
- Hoàng lão! Khí trời đang lạnh, Hoàng lão lại không tập võ, cả ngày chạy lên chạy xuống phủ trên núi e sẽ nhiễm phong hàn. Đây là hai cuộn nhung Lan Châu, nhẹ mềm lại giữ ấm, xin tặng Hoàng lão và phu nhân làm áo nhung.
Vải nhung Lan Châu vốn đã nổi danh, được chế tạo từ nhung của loài sơn dương, một cuộn nặng chỉ mười bốn lạng (một lạng Tàu tương đương 50gr - ND), mỏng nhẹ mà tinh xảo, trơn mượt như lụa tơ, mềm mại khít người, mặc vào rất ấm. Hai cuộn vải nhung này cầm vào càng thấy mềm mại nhẹ nhàng hơn mấy phần, xem ra là loại nhung Lan Châu thượng phẩm. Mặc dù đối với Dương Lăng thì giá trị của nó không quá quý giá gì, nhưng cũng đủ biểu lộ sự quan tâm yêu quý của y, Hoàng Kỳ Dận vui vẻ nhận lấy.
Dương Lăng cúi xuống xoa đầu đứa cháu nhỏ mới hơn mười tuổi của Hoàng Kỳ Dận, cười bảo:
- Thằng nhóc này lại cao thêm rồi, đã mời được thầy dạy chưa?
Thằng bé lễ phép thưa:
- Dương thúc thúc... Con chào đại nhân ạ! Hiện nay gia gia không có thời gian dạy con viết chữ đọc sách nữa, cho nên đã mời thầy cho con rồi. Thầy giáo không tốt bằng gia gia đâu, thỉnh thoảng lại đòi khẽ tay con nữa.
Dương Lăng bật cười lớn, mọi người đứng bên cạnh cũng không khỏi mỉm cười. Dương Lăng cười bảo:
- Con mà ngoan ngoãn đọc sách thì sẽ không còn ai khẽ tay con nữa đâu.
Nói rồi y thuận tay gở miếng ngọc bội đeo ở hông, miếng ngọc bích óng ánh trong suốt, rõ là loại thượng phẩm trân quý. Dương Lăng nhét nó vào tay thằng bé rồi dặn dò:
- Đây, thúc thúc đại nhân tặng con quà năm mới, mau cao chóng lớn, chăm chỉ đọc sách, học được một thân bản lĩnh nhé. Sau này con làm quan rồi sẽ chỉ có con khẽ tay người khác, người khác sẽ không khẽ được tay con nữa.
Nói rồi Dương Lăng đứng dậy, lấy một món quà khác nói với Ngô Kiệt:
- Ngô lão! Đây là hai cuộn lụa Tô Châu, một cuộn thảm lông Thiên Trúc, ngoài ra ở đây còn có một hũ rượu thuốc. Ngô lão là con cháu Ngô lão thần y Ngô Thanh Viễn, gia đình có truyền thống uyên bác từ lâu, lại biết y thuật. Có điều nếu như phương thuốc trị thấp khớp của ông đã không thể trị khỏi thì hãy dùng thử hũ rượu thuốc này của bản quan xem sao.
Ngô Kiệt hiểu ý bèn liếc sang Cao Văn Tâm đang đứng mỉm cười bên cạnh, cười đáp:
- Hẳn là do tay nữ thần y pha chế rồi? Ngô Kiệt thẹn là con cháu y đạo thế gia, thế mà ngoại trừ một ít phương thuốc tổ truyền là còn nhớ, đối với y thuật chỉ hiểu biết lơ mơ mà thôi. Thực đã làm phiền xưởng đốc đại nhân và Cao cô nương rồi.
Vu Vĩnh bàn đến chuyện buôn bán thì hết sức hào hứng. Nhưng bữa tiệc đêm nay không ai tình nguyện nói mấy chuyện này với hắn, nên hắn đành vừa uống rượu vừa tính toán mấy chuyện buôn ngựa Tây Bắc, chế áo lông Đông Bắc, nấu muối ăn duyên hải. Càng tính càng cảm thấy rất có lời nên tự rót tự uống vẫn cảm thấy rất thú vị, lúc này cũng phải nhờ tôi tớ dìu đỡ mới đứng vững được.
Dương Lăng cũng không dám đối đãi qua quýt với ông thần tài này, y cầm lên ba hộp gấm:
- Vu huynh trông nhiều hiểu rộng, bản quan cũng không biết nên tặng món gì. Ở đây có ba món nữ trang, tuy rằng giá trị không cao nhưng chế tác rất là tinh xảo, tặng cho phu nhân và con gái huynh vậy.
Vu Vĩnh coi Dương Lăng là tri âm có mắt nhìn người, vật phẩm của y tặng thì tốt xấu cũng không hề quan tâm, bèn vội cười nói:
- Đa tạ đại nhân! Na Na, Liễu Liễu, mau bước lên cảm ơn đại nhân đi.
Hai người thiếu nữ vội bẽn lẽn bước lên, uyển chuyển quỳ lạy, cất giọng dịu dàng:
- Na Na, Liễu Liễu cảm ơn Dương đại nhân.
Ở hậu trạch bọn họ đã bỏ khăn che mặt ra, khi trở về lại che mặt lại, hiện nay tấm lụa mỏng đã che phủ hai gương mặt.
Lúc bọn họ đến khách khứa rất đông, tuy Dương Lăng cảm thấy hai người thiếu nữ này có tấm thân khiến lòng người rung động, song cũng không thể chú ý nhiều. Lúc này y để ý mới thấy bọn họ vận áo xanh ống hẹp, áo chẽ bó sát người, quần dài mảnh khảnh, trên mặt lại phủ một lớp lụa mỏng chỉ để lộ cặp mắt long lanh màu lam; lúc đôi mày liễu cong vút ngó quanh thì thần thái trông hết sức mê người.
Hàn Ấu Nương cầm lấy hộp gấm trong tay Dương Lăng đưa đến tay người con gái có vóc dáng cao hơn, mỉm cười:
- Hai vị muội muội thật xinh đẹp, vẫn mong hai món nữ trang này có thể hợp với tâm ý của hai người.
Hai cô thiếu nữ cúi đầu vái thêm một vái, rồi mỉm cười nhận lấy hộp gấm.
Dương Lăng cười bảo:
- Ừm! Na Na nhất định là chị thứ hai, còn Liễu Liễu thì là cô em thứ ba rồi. Vu huynh, bản quan nói có đúng không?
Dương Lăng chưa đến tuổi nhược quán (20 tuổi), nhưng luôn mồm gọi lão là "Vu huynh", thực đã coi mình là thúc thúc của hai người thiếu nữ này. Người thiếu nữ có cặp mặt xanh ngắt như mặt nước hồ che miệng khẽ cười đáp:
- Dương phu nhân gọi con là muội muội, Dương đại nhân lại gọi cha là Vu huynh. Cha à, cha giỏi nhất là tính toán, không biết phép tính này nên tính thế nào nhỉ?
Vu Vĩnh trừng mắt với nàng, rồi đáp lời Dương Lăng:
- Đúng vậy, nha đầu tinh nghịch này chính là Na Na. Phùng Y Cống Phú Nhĩ Tư Thái Bá Cách Na Na, ha ha, đại nhân nghe thấy có oai phong không?
Mấy người Hàn Ấu Nương nghe thấy cái tên dài kỳ lạ như vậy đều bất giác che miệng cười, Vu Vĩnh không hề phát hiện, vẫn tự dương dương dương đắc ý. Chắp tay từ biệt Dương Lăng và các vị phu nhân xong, lão bước xiêu vẹo ra ngoài cổng, trèo lên kiệu trở về phủ.
Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và Ngũ Hán Siêu vừa rồi cũng đã ngà ngà say, khi thấy Dương Lăng đã hồi phục tinh thần, ba người liền vụt đứng thẳng người dậy. Các khuôn mặt tuấn tú tuy vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt đã lanh lợi sắc sảo trở lại.
Dương Lăng gật đầu hài lòng, bảo:
- Cực khổ cho các vị rồi, mấy ngày nay vẫn cần đề phòng kín kẽ. Đám đại đạo đó dám tụ tập mấy trăm người ngang nhiên gây án trong kinh sư, coi thường vương pháp, trong mắt vốn không hề có triều đình. Bọn chúng có còn to gan xông tiếp vào Dương phủ hay không, việc đó không ai dám nói trước. Liễu Bưu hãy ngủ ở tiền viện, điều hành việc phòng vệ.
Liễu Bưu mỉm cười chắp tay đáp:
- Tuân lệnh đại nhân. Bọn ti chức cũng không uống nhiều nên sẽ không để lỡ việc công,
Nói đoạn gã xoay người rời đi.
Dương Lăng gật đầu ra lệnh tiếp:
- Ừm! Nhất Thanh hãy đến hậu viện! Hầm sưởi đó là nơi bản quan hết sức coi trọng. Từ trận chiến hôm qua có thể thấy được rằng, nếu không cậy vào vũ khí lợi hại mà chỉ dựa vào sự tinh nhuệ của Nội xưởng ta thì sẽ không phải là đối thủ của đám đại đạo lục lâm vùng vẫy chốn núi rừng đó. Huynh phải hết sức cẩn thận.
Dương Nhất Thanh để lọt mất Hồng Nương Tử ngay dưới mắt mình trong khi Liễu Bưu ở nơi này đã vây đánh hơn hai trăm tên đại đạo ngang tàng hung hợn nhất trong giới lục lâm, trong lòng gã sớm đã cảm thấy hổ thẹn. Cho nên gã đã hao tổn tâm huyết đảm bảo an ninh cho hậu viện, nghe dặn dò xong liền tự tin đáp ngay:
- Đại nhân yên tâm! Trừ phi đám giặc đó không đến, bằng không cho dù có ba đầu sáu tay cũng sẽ không thoát khỏi thiên la địa võng của ti chức!
Ngũ Hán Siêu thấy Dương Nhất Thanh đã đi, bèn nôn nóng hỏi:
- Đại nhân! Tại hạ sẽ làm gì?
Dương Lăng nhìn đánh giá chàng ta mấy lượt, rồi mỉm cười hỏi Ấu Nương:
- Ấu Nương, nàng thấy vóc người của Hán Siêu có giống ta không?
Hàn Ấu Nương cười tươi đáp:
- Ưm, chỉ rắn chắc hơn tướng công một chút thôi.
Dương Lăng bèn cười nói:
- Vậy thì được rồi, nàng hãy chuẩn bị một bộ áo dài của ta, bảo người đưa đến phòng của Hán Siêu. Ngày mai ta muốn Hán Siêu cùng theo ta vào thành một chuyến.
Ngũ Hán Siêu nhìn lại mình từ trên xuống dưới một lượt. Dương Lăng mua quần áo cho y không chút keo kiệt, nếu vào thành thì cớ gì phải thay đồ của Dương Lăng chứ. Nhất thời y không biết Dương Lăng làm vậy là có dụng ý gì, trong lòng không khỏi hơi nghi hoặc.
Dương Lăng không để ý đến vẻ ngơ ngác của chàng ta, lại nói tiếp:
- Bản quan vẫn chưa mệt, hay đến phòng huynh ngồi một chút đi.
Nói rồi y đến bên cạnh Ngũ Hán Siêu,cùng sánh vai đồng hành, vừa đi vừa cười nhẹ:
- Nội công tâm pháp mà đêm qua huynh dạy cho ta, cái gì mà tay trái ôm nhật nguyệt, tay phải gạt Càn Khôn, bảo rằng lúc đi đường cũng có thể luyện tập đó, sáng nay ta mới thử một chút mà thiếu chút nữa đã trẹo cả lưng. Sáng sớm mai bản quan sẽ kêu quân dịch
(quân bưu vụ, đội dịch trạm của quân đội)
đưa thiệp bái sư đến thẳng Võ Đang cho Tiêu chưởng môn. Huynh có nói là chưởng môn chân nhân nhất định sẽ thu nhận ta, vậy bây giờ xin nhờ đại sư huynh tương lai chỉ giáo thêm cho tiểu đệ luôn nhé!
Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.
Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.
Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.
Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:
- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?
Ngọ môn tướng quân cười đáp:
- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.
Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.
Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.
Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.
Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.
Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:
- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.
Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:
- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.
Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.
Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.
Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:
- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.
Dương Lăng cười đáp:
- Không dám nhọc đại nhân đâu.
Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:
- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?
Dương Lăng đáp:
- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh. Tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.
Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:
- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình. Nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch. Rốt cuộc mục đích ban đầu của bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.
Dương Lăng cười nói:
- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể. Hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.
Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.
Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:
- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?
… đoạn lắc đầu:
- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.
Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có. Chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.
Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.
Lý Đông Dương cười lớn:
- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.
Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:
- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.
Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.
Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?
Lý Đông Dương gật đầu nói:
- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.
Ông nhướng mắt mỉm cười:
- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...
Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:
- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.
Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?
Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấy làm kinh ngạc 'Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?'
Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:
- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?
Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào
Dương Lăng lại nắm quyền ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái ty Thuế Giám này.
Dương Lăng cười đáp:
- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, ty Thuế Giám và ty Thuế Lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, ty Thuế Giám thu thuế, ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.
Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:
- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?
Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:
- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?
Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây(1)".
Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:
- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?
Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:
- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.
Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ: )
Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.
Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:
- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?
Dương Lăng đáp:
- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?
Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?
Lý Đông Dương mừng lắm, nói:
- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.
Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:
- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:
- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.
Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.
Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.
Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!
Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng "Đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc. Không thấy được đạo lý. Chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!"
Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:
- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.
Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:
- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)
Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.
Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.
Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.
Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.
Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.
Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.
Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:
- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?
Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:
- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.
Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:
- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.
Chính Đức nhăn nhó nói:
- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.
Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:
- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!
Chính Đức không nghĩ vậy, nói:
- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.
Đoạn y phấn khởi nói:
- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.
Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.
Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:
- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.
Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.
Chính Đức cười bảo:
- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?
Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:
- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.
Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":
- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.
Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:
- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.
Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.
Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.
Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.
Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:
- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.
Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:
- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...
Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.
Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:
- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?
Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:
- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...
Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:
- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.
- Đường... Nhất Tiên...
Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.
Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.
Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.
Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:
- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.
Chính Đức chán nản vung tay nói:
- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.
Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.
Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:
- Khanh ngồi đi.
Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:
- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.
Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:
- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?
Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:
- Có phải đã có hiệu quả?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.
Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.
Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.
"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.
Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:
- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?
Dương Lăng gật đầu thưa:
- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...
Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:
- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.
Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:
- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.
Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:
- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hãn lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.
Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:
- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.
Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:
- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.
- Ha ha ha ha...
Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:
- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?
Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:
- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?
Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.
Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:
- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?
Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:
- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!
Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:
- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!
Hoàng đế là vua một nước. Vua chúa dựng nên các triều đại có ai mà không cả đời chinh chiến, chém giết nơi chiến trường? Để Chính Đức chứng kiến qua sự thảm khốc ở chiến trường, thấu hiểu được một phần nỗi khổ của bá tánh sẽ còn tác dụng nhiều hơn đọc vạn câu di huấn của các bậc thánh hiền.
Những lý lẽ này đương nhiên Dương Lăng hiểu rõ. Hế nhưng vừa nghĩ đến việc dẫn Hoàng đế ra biên tái, còn phải để hắn ta âm thầm lặng lẽ giữa chiến trường chém giết của hơn mười vạn quân Minh và Thát Đát mà lẻn lên núi Bạch Đăng gặp mặt thủ lĩnh của đám người Đóa Nhan Tam Vệ lúc là bạn lúc là thù thì… Càng nghĩ Dương Lăng càng thấy lo sợ.
Để cho đức vạn thặng chi tôn(*) giá lâm đến nơi hiểm địa, chỉ một chuyện này thôi đã đủ khiến bá quan dốc mạng mà hặc tội y rồi. Hơn nữa, nếu như Thát Đát hay tin đem trọng binh tập kích, hoặc là Hoa Đáng khởi dị tâm bắt Chính Đức làm con tin, lúc đó phải làm sao?
(*) nghĩa đen: bậc tôn quí giá trị bằng vạn cỗ xe. Cụm từ này thường được dùng để chỉ nhà vua.
Đang gật gù đắc ý, hoàng đế Chính Đức chợt nhìn thấy sắc mặt Dương Lăng trắng bệch, hắn không khỏi thu lại nụ cười, nghiêm túc gọi Dương Lăng:
- Dương thị độc...
- Có thần!
Dương Lăng khổ sở đáp.
Chính Đức nghiêm mặt nói:
- Người trong thiên hạ thường nói thiên hạ của trẫm rộng lớn, thế nhưng thiên hạ của trẫm chẳng lẽ chỉ là một mảng đất trời trong Tử Cấm Thành này đây sao? Trẫm muốn ra ngoài nhìn ngắm giang sơn vạn dặm thì có gì là không tốt? Huống hồ, hiện tại đi gặp mặt Hoa Đáng chính là làm một việc lớn cho Đại Minh. Quân đội của trẫm sẽ có thể bớt đổ máu, bớt hy sinh; con dân của trẫm sẽ bớt chịu khổ đau. Thân là quân vương, trẫm... không nên đi hay sao?
Thoáng ngưng lại, hắn nhẹ giọng nói tiếp:
- Trẫm biết khanh đang lo lắng cho an nguy của trẫm, cũng lo lắng sẽ vì vậy mà bị bá quan chỉ trích.
Rồi hắn cười nhạt một tiếng, giọng khinh miệt:
- Cứ để mặc bọn chúng nói cho sướng miệng. Bọn chúng chỉ muốn coi trẫm là một con chim bị nhốt trong cái lồng này, chỉ cần trẫm giữ khuôn phép đúng mực một chút, kính trọng sĩ tử một chút, lắng nghe lời ngay thẳng của bọn chúng một chút, yên tâm ngồi đây làm một vị thần bằng đất sét thì sẽ là hoàng đế tốt trong mắt bọn chúng.
Nhưng mà, trẫm không muốn làm loại vua như vậy! Đại Minh là thiên hạ của trẫm, trẫm phải làm tròn trách nhiệm thiên tử!
Dương Lăng ngẩn ngơ đứng nhìn Chính Đức, khuôn mặt non trẻ của hắn đầy sự nghiêm túc hiếm có. Ánh mắt sáng ngời, hắn nhìn chằm chằm Dương Lăng nói tiếp:
- Còn nhớ lúc khanh mới vào kinh thành, từng kể cho trẫm nghe rất nhiều chuyện về vạn quốc ở hải ngoại hay không? Vị quân vương anh minh trong đó, khi không làm tròn trách nhiệm bản thân, lại lo sợ rúc mình trong cung điện, tự hào nói với kẻ khác rằng bảo vệ tốt cái mạng của hắn chính là làm tròn bổn phận với con dân. Khanh mong muốn trẫm là một hoàng đế như vậy sao?
Chính Đức nhếch cặp mày tuấn tú, buông từng chữ:
- Trẫm là thiên tử, hiện tại trẫm muốn đi làm một việc cần làm cho Đại Minh! Khanh là bầy tôi yêu mến của trẫm, khanh có thể phò tá trẫm hoàn thành tốt việc này hay không?
Trong lòng Dương Lăng dậy sóng: ai bảo tiểu hoàng đế trước mặt này trẻ người non dạ, trong mắt chỉ có vui chơi đùa nghịch? Là do hắn chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm làm vua hay là vì hiện thực cay đắng khiến hắn chỉ có thể đắm chìm vào trong đủ loại trò chơi để giết thời gian?
Không nói lời nào, Dương Lăng lui lại hai bước, lần đầu y mang lòng kính trọng vái Chính Đức một cái thật sâu:
- Vi thần tuân chỉ! Thần nguyện phò tá đức vua, chấn hưng Đại Minh, hoàn thành bá nghiệp lẫy lừng!
Chính Đức mừng rơn nắm chặt lấy tay Dương Lăng lắc lia lịa, vừa định mở miệng thì chợt nghe có tiếng 'rột rột' phát ra. Hắn thoáng ngẩn người, rồi không nín được bật cười lớn:
- Cùng khanh trò chuyện say sưa nên quên mất đã đến bữa rồi. Lại đây, Dương khanh hãy dùng bữa cùng trẫm! Chuyến đi đến Đại Đồng của trẫm sẽ nhờ vào khanh cả đấy.
Lúc còn kèm thái tử đọc sách ở Xuân Phường, đã không ít lần Dương Lăng dùng bữa chung với hắn, nhưng sau khi Chính Đức đăng cơ lên ngôi đế thì đây mới là lần đầu. Được dùng bữa cùng với Hoàng đế là đãi ngộ trọng hậu vô cùng, trên Khởi Cư Chú(2) và công báo triều đình đều phải ghi rõ.
Dương Lăng không muốn bị rêu rao nên đang tính lựa lời cự tuyệt thì Chính Đức đã quay ra ngoài cửa gọi to:
- Người đâu, truyền đưa cơm vào! Trẫm muốn dùng bữa chung với Dương khanh. Gọi Giải Ngữ và Tu Hoa đến cùng luôn đi.
Dương Lăng cuống quýt thưa:
- Hoàng thượng, làm vậy không thích hợp lắm đâu. Giải Ngữ, Tu Hoa tuy không phải là phi tần trong cung, nhưng dẫu gì cũng là người hầu hạ cho Hoàng thượng, thần sao dám cùng bọn họ...
Chính Đức không đồng ý, khoát tay ngăn y, rồi hào hứng bàn tiếp cách rời khỏi kinh sư. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì tiểu thái giám của Ngự Thiện phòng đã đưa các món ăn thịnh soạn trong cung lên thoăn thoắt như thoi đưa, bọn họ bèn dừng trò chuyện.
Trên chiếc bàn lớn thếp vàng chạm trổ hình con rồng cuộn mình bày đầy các thức ăn, bốn chiếc ghế gấm đặt ở bốn cạnh bàn. Tiểu thái giám nhanh nhẹn dùng đũa bạc thử qua từng món ăn, lại nếm thử từng món một, sau đó quay sang vái Chính Đức một lạy rồi lặng lẽ lui ra, chỉ để lại bốn tiểu thái giám đứng hầu.
Giải Ngữ và Tu Hoa bước vào trong điện, tha thướt như một đám mây, mùi thơm của son phấn tức thời ùa vào trong cánh mũi. Chính Đức bảo hai người con gái xinh đẹp yêu kiều đó dùng tách ngọc, còn hắn và Dương Lăng thì ngồi đối diện với nhau, cả hai đều dùng chén rượu ba chân(3).
Mới uống một chén mà Dương Lăng đã thấy hơi ngà ngà. Trong lòng lo nghĩ đến chuyện năm sau hoàng thượng sẽ xuất kinh nên mặc cho Chính Đức năm lần bảy lượt thúc giục y cũng không dám uống thêm, chỉ gắp vài món ăn nhẹ cho vào miệng.
Chính Đức thì lại cao hứng vô cùng, ăn đến non nửa mới cười nói với Dương Lăng:
- Dương thị độc, hai vị cô nương này đều biết hát dân ca đấy. Giải Ngữ, Tu Hoa, hai nàng hãy hát một khúc trợ hứng cho trẫm đi.
Giải Ngữ nhoẻn miệng cười, sóng mắt đong đưa liếc Dương Lăng, thuận tay nhón lấy chiếc đũa ngà gõ nhè nhẹ lên cốc vàng bát ngọc. Trong tiếng nhạc trong vắt vui tai, cô nàng cất tiếng ngân nga một điệu hát dân gian. Tiếng ca dịu dàng mà da diết, Chính Đức nhịp đùi đắc ý, nghe rất say sưa.
Cố gắng đợi đến khi tiệc tàn rượu cạn, nhân lúc Chính Đức đang rửa tay trong thau vàng, Dương Lăng mới thấp giọng thưa với hắn:
- Hoàng thượng! Nếu ngài muốn xuất cung thì đó là việc quan trọng vô cùng. Khi nãy thần đã suy tính kỹ lưỡng rồi, muốn bá quan gật đầu đồng ý thì thật là điều không thể, xem ra chỉ có thể theo ý của Hoàng thượng là lặng lẽ rời kinh mà thôi.
Nhưng mà, cho dù có thể giấu được bá quan văn võ thì dù sao trong kinh cũng phải có người chủ trì, cho nên không thể giấu giếm ba đại học sĩ. Tiêu đại học sĩ lão luyện thành thục lại rất quan tâm đến thánh ý, thần muốn mật nghị với ông ta trước đã.
Chính Đức cười hì hà bảo:
- Được, khanh đi đi! Việc này là ý tưởng của trẫm, Dương khanh chỉ là bị ép buộc phải tuân lệnh vua, theo vua làm việc mà thôi, không ai dám làm gì khanh đâu.
Đại Minh tuy nhiều tệ chính, nhưng đương thời vẫn là quốc gia có quốc lực lớn mạnh nhất, lúc có chiến tranh, lương thảo và quân bị đều hơn xa những nước bé chung quanh, thế nhưng chiến sự lại thường luôn ở thế hạ phong, nguyên do lớn nhất là vì "trọng văn khinh võ".
Bản thân không thể trải nghiệm qua sát phạt, thì sao rèn thành một Chính Đức văn hay, trị giỏi, võ công cao? Sau khi nghe xong lời tâm sự chân thành của Chính Đức, Dương Lăng đã quyết định mặc kệ được mất cá nhân, cho dù núi đao biển lửa y cũng sẽ cùng hắn đi một chuyến. Y nghe Chính Đức ôm hết trách nhiệm về mình, không muốn y bị bá quan thừa cơ chỉ trích thì cảm kích mỉm cười rồi cung tay thưa:
- Tạ ơn Hoàng thượng quan tâm che chở, thần xin cáo lui.
Chính Đức lấy chiếc khăn lụa trắng mịn như tuyết lau tay xong, hai người con gái xinh đẹp liền vây lại, mỗi người ôm lấy một cánh tay y. Giải Ngữ cười duyên dáng hỏi:
- Hôm nay sao Hoàng thượng vui vẻ quá vậy? Đầu mày cuối mặt ngài đều rất tươi tỉnh.
Từ khi lớn đến giờ Chính Đức mới có cơ hội được ra khỏi “nhà” lần đầu, hơn nữa lại được đi đến chốn sa trường xa xôi, cho nên hắn thực sự không kiềm nén được sự hưng phấn trong lòng. Vả lại Giải Ngữ và Tu Hoa đều là những mỹ nữ vô cùng đáng yêu; hơn nữa Giải Ngữ vui vẻ rạng ngời, nghênh đón người ta bằng sự ngọt ngào mềm mại, rất hợp với tính khí của hắn.
Không kiềm được sự hào hứng trong lòng, hắn vuốt nhẹ khuôn mặt mịn màng của Giải Ngữ, hăm hở:
- Trẫm nói cho nàng hay, nhưng nàng nhất định không được để cho người khác biết đó.
Đoạn y hạ thấp giọng, nói nhỏ:
- Đợi sang năm, trẫm sẽ trốn khỏi kinh đi tuần rồi, ha ha ha! Biển rộng sóng dâng cá vẫy vùng, trời cao gió lộng chim tung cánh.
Giải Ngữ và Tu Hoa chợt ngẩn người, bốn mắt của hai cô vừa chạm vào nhau, trong mắt Tu Hoa liền không nén được sự vui mừng. Cô nàng cũng khoác lên một bộ dáng tươi cười ngọt lịm, kéo tay Chính Đức cạ vào bộ ngực đầy đặn cao vút của mình, thỏ thẻ:
- Hoàng thượng! Ngài nói rõ hơn được không, nô gia có thể đi cùng ngài không?
Chính Đức vội lắc đầu, đáp:
- Không được không được! Nếu dẫn phụ nữ theo thì nhất định Dương thị độc sẽ không cho, trẫm thực không muốn tự làm mất mặt mình.
Tu Hoa giậm chân làm nũng:
- Trời ơi! Vậy ngài nói cho nô gia biết sẽ đi đâu đi! Hoàng hậu nương nương không ưa gì chị em nô gia, nếu như ngài không ở trong kinh nữa..., - vừa nói cô nàng vừa làm ra vẻ chực khóc.
Chính Đức thấy vậy thì trở nên mềm lòng, liền vội kéo lấy tay cô nàng cười nói:
- Yên tâm đi, trẫm sẽ thu xếp cho các nàng đến Báo phòng, bảo Lưu Cẩn hết sức chăm sóc cho hai nàng là được rồi. Muốn biết trẫm sẽ đi đâu hả? Hắc hắc, thơm trẫm một cái đi rồi sẽ nói!
***
Giờ đây, trong ba đại học sĩ thì Tiêu Phương xếp thứ hai. Được quyền cao chức trọng, thân phận tôn quý, lại không phải chịu sự ghẻ lạnh như lúc còn ở bộ Lễ và bộ Lại năm xưa, sau lưng có Dương Lăng chống đỡ, tiền đồ như thuyền xuôi gió, thế nên mặt mày của lão luôn luôn tươi rói.
Lão đang ngồi trong điện phê duyệt tấu chương, thu xếp các bộ tính toán quân lương, chuẩn bị phu dịch, vận chuyển lương thảo, khí giới, vỗ về giúp đỡ những binh sĩ thương vong, điều động thầy lang, thu gom dược liệu, … Cả đống công việc nên lão bận đến túi bụi. Chợt nghe báo Dương Lăng đến thăm, ông già Tiêu Phương liền vội bước xuống giường lò, tươi cười ra đón.
Dương Lăng là thống lĩnh thân quân của Hoàng đế, là võ tướng Chánh tam phẩm. Nội xưởng là nha môn Hoàng đế tự lập ra, không hạn chế bởi phẩm hàm trong triều, không có cấp bậc, nhưng Dương Lăng thân mang tước vị (Bá tước – ND), mặc áo bào thêu hình mãng xà bốn vuốt do vua ban thưởng, quyền lực thực tế lại không ai sánh được.
Tiêu Phương tự coi mình là người cùng phe cánh với Dương Lăng, mỗi khi gặp y vẫn đều tôn kính gọi là đại nhân, tự nhún nhường xưng là môn hạ. Lúc này tuy đang ở trong cung nhưng lão vẫn rất cung kính giữ lễ. Nghênh đón Dương Lăng vào trong thư các xong, lão đích thân dâng chén trà ngon rồi mỉm cười mở lời:
- Đại nhân vào cung lúc nào vậy? Mấy ngày nay môn hạ cần phải xử lý tấu chương rất nhiều, mãi chưa đến quý phủ thăm viếng được. Môn hạ đang tính năm mới sẽ dẫn khuyển tử đến nhà thăm viếng ngài đây.
Dương Lăng cười đáp:
- Lão Tiêu chớ nên khách sáo. Trong triều còn có những quan viên mượn việc công trả thù riêng, các nha môn bất tuân chính lệnh, tiền phương đang có chiến tranh; những việc mà hậu phương phải làm cũng quan trọng không thua kém gì. Thực đã làm khó cho ông rồi.
Gương mặt già nua của Tiêu Phương thoáng đỏ lên, lão xúc động:
- Đa tạ đại nhân đã quan tâm, môn hạ cảm kích vô cùng. Lưu công công biết được những chuyện này đã nổi cơn thịnh nộ, mấy ngày nay đang ra lệnh cho bá quan lập tức trở về nha môn xử lý chính vụ, bận rộn thêm dăm bữa nữa thì sẽ thoải mái hơn.
Dương Lăng gật đầu, ngồi xuống bên mép giường. Nhìn thấy tên tiểu thái giám đang đứng chầu chực ngoài cửa, y bèn bảo:
- Lui xuống đi! Ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa.
Đợi tấm rèm dạ nhung buông xuống sau lưng tên tiểu thái giám, Tiêu Phương mới sáp lại gần, nhỏ giọng hỏi:
- Đại nhân! Có phải là có chuyện quan trọng không?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Ừm! Quả là có chuyện muốn thương nghị cùng ông một chút, - đoạn y đem chuyện Chính Đức muốn đến Đại Đồng kể cho Tiêu Phương nghe.
Tiêu Phương vừa nghe liền nhảy dựng lên, vội vã xua hai tay phản đối:
- Vạn lần không thể được! Đúng ra đại nhân nên khuyên can Hoàng thượng, chỗ binh đao há lại có thể để cho Hoàng thượng dễ dàng mạo hiểm? Việc này không thể được, vạn lần không thể được.
Dương Lăng im lặng nhìn lão, đợi lão bình tĩnh trở lại rồi y mới nhẹ nhàng bảo:
- Thánh ý đã quyết! Tôi tới tìm lão Tiêu ông là muốn thương nghị cùng ông làm sao để thu xếp cho Hoàng thượng đi được đến Đại Đồng, việc trong kinh phải xử lý thế nào. Chuyện khuyên can sẽ không bàn tới nữa.
Lúc này Tiêu Phương mới định thần lại. Lão ngồi xuống cạnh bàn, vuốt râu, đôi mày bạc phơ cau tít, một lúc lâu sau mới khổ sở lắc đầu:
- Văn võ bá quan quyết sẽ không đồng ý.
Dương Lăng gật đầu đồng tình:
- Ừm! Việc này tôi cũng đã nghĩ đến, cho nên... Hoàng thượng chỉ có thể cải trang vi hành.
Y trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Vốn để bí mật gặp gỡ thủ lĩnh Đoá Nhan Tam Vệ, Hoàng thượng vẫn phải bí mật mà đi; cho dù không có bá quan ngăn cản thì hành trang cũng vẫn phải gọn nhẹ.
Nhưng…, tuy nói là cải trang vi hành nhưng số người bảo vệ cũng không thể ít được, cho nên tôi muốn rút lực lượng tinh nhuệ nhất từ Cấm quân, Kinh doanh, Nội xưởng và Đông xưởng để đi cùng Hoàng thượng. Ít nhất cũng phải... năm nghìn người, toàn bộ nhân mã sẽ cải trang thành quân binh tăng viện cho biên ải. Như vậy, năm nghìn nhân mã cũng không đáng kể, ít nhất cũng sẽ không khiến cho quan phủ địa phương và mật thám của phe giặc chú ý.
Dương Lăng thuật lại tình hình tỉ mỉ cho Tiêu Phương rõ. Nghe xong, Tiêu Phương suy nghĩ một hồi rồi hỏi:
- Đại nhân có đi cùng không?
Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Nếu tôi không ở cạnh trông coi Hoàng thượng thì sao yên tâm cho được? Chỉ sợ lúc đó muốn ăn ăn không nổi, muốn ngủ ngủ không yên, đương nhiên tôi phải chăm sóc bên cạnh Hoàng thượng rồi. Tôi sẽ mượn cớ thị sát để có thể đồng hành cùng Hoàng thượng đến biên ải.
Sắc mặt của Tiêu Phương lập tức hoà hoãn trở lại, lão hơi trầm ngâm:
- Vậy thì... kế này có thể thực hiện được. Nhưng để cẩn thận, đến Đại Đồng rồi, đại nhân nên bí mật thông báo cho tuần phủ Đại Đồng là Hồ Toán biết. Hắn là quan viên quân chính (kiêm quân sự lẫn chính trị - ND) cao nhất của Đại Đồng. Hiện tại tuy Dương Nhất Thanh thống lĩnh binh sĩ tiền tuyến, Miêu Quỳ đốc quân song trong tay hắn có thể điều động ít nhất hai vạn nhân mã. Có hắn âm thầm phối hợp mới bảo đảm không gặp phải sơ hở gì.
Sau thoáng trầm ngâm, Dương Lăng gật đầu đồng ý:
- Tốt lắm! Ngoài ra, chuyện này sẽ không thể giấu được mấy vị đại học sĩ Nội các. Đến khi đó Hoàng thượng sẽ mượn cớ long thể suy bệnh để lần lữa mấy ngày, áng chừng đợi bọn tôi đến Tuyên Phủ rồi, mới sẽ nhờ lão Tiêu ông thông báo cho hai vị đại học sĩ Lý, Dương.
Khi đó ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng chỉ đành phải giúp giấu giếm cho. Có ba vị tọa trấn kinh sư thì tôi yên tâm rồi, còn về những quan viên khác... Ba đại học sĩ Nội các cứ hiểu dụ(4) Lục Bộ Cửu Khanh, tuyên bố với toàn bộ quan viên bên dưới rằng Hoàng thượng long thể bất an, tạm thời không thể thăng triều là được.
Tưởng tượng đến lúc Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà phát hiện Hoàng thượng mất tích sẽ nổi trận lôi đình như thế nào, Tiêu Phương không khỏi cảm thấy nhức đầu. Lão đành thở dài:
- Thôi được, phải xin Hoàng thượng hạ mật chỉ vậy! Bằng không môn hạ sẽ không kiềm nổi hai vị đại học sĩ đâu.
Lão suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:
- Ngoài ra, việc lập trữ vương trấn thủ(*) sẽ được thu xếp thế nào?
(*) nguyên văn là “kiến trữ cư thủ”, trữ vương: người được chỉ định kế nhiệm ngôi vua.
Dương Lăng trố mắt hỏi:
- Lập trữ vương săn thú(*)? Lập trữ vương săn thú gì?
(*) nguyên văn 'kiến trữ thu thú', do hai chữ 'cư thủ' (jū shǒu, nghĩa canh giữ) và 'thu thú' (qiū shòu, nghĩa đi săn) đọc na ná nhau, nên Dương Lăng mới hiểu lầm
Dương Lăng đã lộ dốt. Y chỉ từng nghe nói hoàng đế triều Thanh hằng năm vào mùa thu thường đến Mộc Lan săn bắn, nên việc rời cung săn bắn gọi là “thu thú”. Chẳng lẽ rời kinh còn được gọi là săn thú, sao thời Minh cũng có cái thú đi săn này này?
Tiêu Phương cũng ngẩn người. Lão chợt sực nhớ vị đại nhân này chỉ đậu tú tài, vào kinh một bước lên trời mới trở thành bầy tôi quyền cao chức trọng, cho nên y không hiểu lắm về chế độ triều đình cũng là lẽ thường. Lão bèn thư thái cười đáp:
- Lập trữ vương trấn thủ là pháp lệnh mà các đời triều đình bắt buộc phải tuân theo. Đã gần trăm năm Hoàng thượng Đại Minh chưa từng rời kinh, bình thường không ai nhắc đến thể chế cũ này, chẳng trách đại nhân không nhớ.
Tiêu Phương hớp một ngụm trà, giải thích tiếp:
- Hoàng đế thân chinh ra trận hoặc giả tuần du thiên hạ, đều phải ra lệnh cho thái tử ở lại canh giữ kinh thành, gọi là “giám quốc”. Nếu như Hoàng thượng chưa có con nối dõi, hoặc thái tử tuổi còn nhỏ không thể trông nom quốc sự, thì phái hoàng đệ làm giám quốc cho, cũng có thể châm chế được.
Năm xưa khi Anh Tông bắc chinh, ngài đã phái hoàng đệ là Thành Vương ở lại trông giữ. Đương kim Hoàng thượng chưa có con nối dõi, cũng không có anh em ruột thịt, vậy chỉ có thể tạm thời tìm một vị thế tử(5) lập làm người kế vị, có người kế vị rồi mới bàn đến trấn thủ vậy.
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Hoàng thượng tuổi xuân đang thịnh, hiện mới chỉ mười sáu, có cần phải lập trữ vương này nọ to chuyện như vậy không?
Tiêu Phương vội vàng giải thích:
- Đại nhân! Đây chỉ là một quy định phải có, lo trước khỏi họa sau mà thôi. Nếu như Hoàng thượng đã bí mật rời kinh thì đương nhiên việc phong lập này cũng chỉ là soạn mật chỉ. Đến lúc đó cũng chỉ có Lục Bộ Cửu Khanh và ba đại học sĩ biết được chuyện này, cho dù là thế tử phiên vương được lập cũng không hề biết đến việc ấy. Hoàng thượng hồi kinh lại hủy đi ý chỉ đó là xong.
Dương Lăng nghe xong mới cảm thấy yên tâm, nhưng việc lập người kế vị chính là chuyện của Hoàng thượng, xem ra chuyện này vẫn phải do Chính Đức quyết định. Dương Lăng đang do dự không biết có nên quay lại cung Càn Thanh gặp Chính Đức hay không thì chợt nghe có tiếng tiểu thái giám bên ngoài kêu:
- Đại học sĩ đang thương nghị quốc sự với Dương Lăng Dương đại nhân. Ngài cứ để công văn ở đó, chốc nữa sẽ quay lại lấy.
Dương Lăng cất giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy? Ai đưa công văn đến?
Tên tiểu thái giám đứng gác bên ngoài cung kính đáp:
- Hồi bẩm đại nhân! Là lang trung Nghiêm Tung của bộ Hộ, nói có tấu chương về việc chuẩn bị lương thảo và điều động phu dịch cần trình cho đại học sĩ.
Nghiêm Tung không phải là người ngoài. Phẩm quan của hắn thấp kém cho nên hắn rất biết điều, hiếm khi đến nhà Dương Lăng mà chỉ thông qua phu nhân làm công tác ngoại giao, thủy chung vẫn bảo trì quan hệ mật thiết với nhà họ Dương.
Dương Lăng sai phái ba tỉnh Giang Nam, Hồ Nam, và Thiểm Tây, mỗi nơi cắt cử một vùng, một huyện, một tỉnh trồng thử những giống cây lương thực mới. Tuy lúc này giống lương thực và những người nông dân được đào tạo vẫn chưa được phái đi, nhưng y đã sớm ra lệnh cho ba tỉnh đo đạc và tính toán ruộng đất, nắm rõ tình hình đất đai trồng trọt nơi đó, chuẩn bị nông cụ và thuyết phục tá điền. Tất cả những việc này đều thông qua bộ Hộ ban bố thành mệnh lệnh hành chính.
Đối với việc chưa trồng thử nghiệm mà đã cho trồng trọt thí nghiệm khắp cả một tỉnh, Hàn Văn vẫn giữ vững ý kiến phản đối. Mặc dù Tuần phủ Thiểm Tây là người cùng phe cánh được Lưu Cẩn bổ nhiệm, tận hết sức lực chấp hành mệnh lệnh này, song phản ứng của Hàn Văn đối với tin tức truyền đạt từ trên xuống lại hết sức tiêu cực. Nếu không nhờ có Nghiêm Tung, là một Lang trung nho nhỏ của bộ Hộ, đứng giữa điều đình và liên lạc giữa hai bên thì không biết Dương Lăng sẽ còn lao tâm khổ trí biết bao nhiêu mà kể, tuyệt sẽ không an nhàn như hiện tại.
Dần dà hình tượng vốn có về Nghiêm Tung là một đại gian thần trong lòng Dương Lăng đã tiêu tan. Người này tuy đam mê quyền lực nhưng lại không háo sắc, không tham tiền tài, đơn giản chỉ là một kẻ cuồng sự nghiệp. Dương Lăng có cảm nhận rất tốt về hắn, đã coi hắn như tâm phúc đắc lực của mình, cho nên nghe vậy liền bảo:
- Gọi hắn vào đi!
Nghiêm Tung ôm một chồng tấu chương bước vào, đưa mắt nhìn Dương Lăng song vẫn dựa theo quy củ phẩm hàm mà thi lễ với Tiêu Phương trước, sau đó mới quay sang thi lễ với Dương Lăng. Hắn nhũn nhặn cười nói:
- Hạ quan không biết đại nhân đang cùng đại học sĩ thương nghị quốc sự, đến thực mạo muội rồi. Những tấu chương này chỉ báo cáo tình hình lương thảo và quân dịch, quan phủ các địa phương cũng không dám qua loa với việc lớn như dụng binh, họ không dám trì hoãn giấu giếm gì cho nên cũng không có gì hệ trọng.
Dương Lăng cười nói:
- Việc này các vị biết phải làm thế nào rồi. Nếu có gì thật sự khó xử thì cứ đi tìm Lưu công công, ông ấy đang rất háo hức được vẫy vùng, đang lo lắng không có chỗ để ra tay đấy. Bản quan sẽ không xen vào đâu.
Tiêu Phương và Nghiêm Tung nghe xong đều bật cười. Dương Lăng mỉm cười nói tiếp:
- Đừng khách sáo nữa, ngươi cũng ngồi xuống đi, bản quan đang có một việc lớn thương nghị cùng lão Tiêu. Ngươi cũng không phải là người ngoài, cùng nghe luôn đi.
Nghiêm Tung dạ một tiếng, ngồi khép nép xuống chiếc ghế dựa mũ quan cạnh giường, mỉm cười nói:
- Lúc hạ quan còn ở Hàn Lâm viện thì cả ngày chỉ chơi đùa với bút, viết lách ít văn chương thơ cú. Từ khi chuyển sang bộ Hộ suốt ngày tiếp xúc với lương thảo gạo tiền, mới cảm thấy tài học nông cạn, sức không bằng người. Thật như đại nhân có chuyện quan trọng, hạ quan đành xin ngóng cả hai tai, trái nghe phải đoán vậy.
Dương Lăng bực mình cười đáp:
- Chuyện này vô cùng quan trọng. Bản quan vốn biết ngươi tính tình nghiêm cẩn, hành sự ổn thỏa nên mới muốn ngươi cùng tham nghị, nếu chỉ nghe thôi thì không được.
Dương Lăng phải đi cùng Chính Đức đến Đại Đồng mà việc trồng thử lương thực mới lại không thể gác lại, rất nhiều việc lớn đều cần phải bàn giao cho gã tâm phúc này. Vốn y cũng không muốn giấu giếm hắn nên bèn thuật lại sự tình một lần nữa.
Nghiêm Tung lắng nghe, khoé miệng mang nụ cười nhẹ. Nghe nói Hoàng đế muốn cải trang rời kinh đi tuần, sắc mặt hắn cũng không hề có vẻ gì là kinh sợ, nghe đến việc an bài của Dương Lăng và Tiêu Phương, hắn cũng liên tục gật đầu, mãi đến khi nghe việc lập trữ vương trấn thủ, đôi mày rậm của hắn mới thoáng nhíu lại. Hắn trầm ngâm một lúc lâu mới lo sợ nói:
- Hạ quan cho rằng... việc này không ổn.
Dương Lăng và Tiêu Phương kinh ngạc nhìn nhau, Tiêu Phương vuốt râu bảo:
- Ừm! Duy Trung có kiến giải gì thì đừng ngại, cứ nói ra nghe thử.
Nghiêm Tung chần chừ một chút rồi đáp:
- Hạ quan cho rằng việc Hoàng thượng đi tuần phương bắc, hai vị đại nhân sớm đã tính toán sẵn trong lòng, hẳn cho rằng sẽ không có gì hung hiểm, vậy cớ gì phải rập theo cái lệ cũ là lập trữ quân trấn thủ?
Năm xưa Lưu Bang nhà Hán từng bị bốn mươi vạn thiết kỵ Hung Nô vây hãm trên Bạch Đăng sơn, nhưng thời thế xưa nay đã khác. Mảnh đất trải dài phía bắc và tây Đại Đồng đều đã nằm trong tay Đại Minh ta. Giặc Thát tuy đang tập kích quấy nhiễu, Đoá Nhan Tam Vệ tuy chưa hẳn đã trung thành, nhưng về binh mã thì Đại Minh ta lại chiếm ưu thế.
Hoàng thượng có thể đến Đại Đồng trước, sau đó mới báo tin cho Đoá Nhan Tam Vệ. Trong thời gian đó sẽ thu xếp điều binh khiển tướng, an bài ổn thỏa, chiếm hết thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì cho dù là Thát Đát hay Đoá Nhan Tam Vệ cũng sẽ không thể thừa cơ tấn kích. Nhưng nếu lập trữ vương trấn thủ thì ngược lại sẽ mang đến nhiều mối nguy hiểm và hậu họa vô cùng.
Dương Lăng lo lắng hỏi:
- Nghĩa là thế nào? Ngươi hãy nói rõ hơn đi!
Nghiêm Tung cưa quậy thân thể gầy như cây sậy, liếm môi đáp:
- Đại nhân! Họa không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong. Đại nhân thử nghĩ xem: Hoàng thượng ở bên ngoài, nếu như gặp chuyện khốn khó như bị vây hãm, những người đi theo bảo vệ đương nhiên sẽ tận lực hộ giá, còn trong triều như rắn mất đầu, bá quan văn võ tất sẽ trên dưới một lòng, hy vọng quân vương sớm ngày trở lại.
Việc Hoàng thượng không ở trong cung chưa hẳn sẽ thật sự che giấu được bá quan văn võ, cùng lắm là bọn họ e ngại lòng người hoang mang nên vờ như không biết. Nhưng giả như Hoàng thượng đã lập người kế vị..., khó dám đảm bảo sẽ không có kẻ mang dị tâm.
Hoàng thượng lâm triều chưa trọn một năm, căn cơ chưa ổn, Lục Bộ Cửu Khanh há sẽ đều trung thành? Giả như có người mang ý niệm ủng hộ vua mới, kiến công lập nghiệp thì cho dù Hoàng thượng vốn không có gì nguy hiểm, sợ rằng cũng sẽ có kẻ tiết lộ tin tức cho giặc Thát. Còn nếu như Hoàng thượng đang bị vây hãm, vậy sẽ càng...
Dương Lăng vừa nghe liền bừng tỉnh. Người kế nghiệp chưa được quyết định, bá quan văn võ tất sẽ tận tâm cống hiến và ra sức tranh giành sự yêu mến của Hoàng đế. Còn nếu người kế nghiệp đã được xác định, Hoàng đế lại ở nơi nguy hiểm mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ khác thay thế, vậy thực sẽ rất nguy. Bá quan văn võ tất sẽ có mưu tính riêng cho mình, ngáng chân cấu xé lẫn nhau, vậy sẽ lỡ hết đại sự.
Thêm nữa, sau khi Chính Đức kế vị, triều chính đổi thay, đầu tiên là một nửa số thượng thư Lục Bộ bị cho bãi chức, tiếp đó ba đại học sĩ lại mất đi hai, bá quan văn võ bị liên lụy nhiều vô số kể. Một số lão thần sớm đã sinh lòng oán hận với Hoàng thượng, cho dù là họ có ý định lập một vị vua mới có ích cho giang sơn hay là có tư tâm, muốn ủng hộ lập nên một vì vua mới, kiếm công phò tá quân vương cũng vậy, e rằng bọn họ sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn, thậm chí có thể còn ném đá xuống giếng nữa.
Như vậy, việc lập trữ vương trấn thủ sẽ trở thành chuyện không đề phòng chưa hẳn đã có họa, mà có đề phòng thì nhất định sẽ có họa lớn. Tiêu Phương lăn lộn lâu năm chốn quan trường, vừa nghe liền thông suốt điểm kỳ diệu trong đó ngay.
Dương Lăng bỗng vỗ đùi đánh đét nói:
- Phải à! Nếu đã như vậy, kiến nghị lập trữ vương trái lại sẽ khiến Hoàng thượng sa vào hiểm địa. Ngươi suy nghĩ rất phải, việc lập trữ vương trấn thủ tuyệt không thể làm, là ta suy xét chưa chu toàn rồi.
Nghiêm Tung khom người khẽ cười đáp:
- Không dám! Hoàng thượng bản tính thượng võ, đại nhân có phần lo lắng cũng là để Hoàng thượng không phải lo âu về việc cung đình, mới có thể như cá gặp nước mà thản nhiên đi tuần du bên ngoài.
Tiêu Phương vuốt râu đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, khẽ thở dài:
- Đến cửu biên tái ngoại, mạo muội dấn thân nơi đầu giáo mũi kiếm, nguy hiểm khôn lường, quả nên suy xét mọi mặt như ngươi. Ừm! Đúng là hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!
Tiêu Phương thuộc làu các điển chương và quy định, Nghiêm Tung lại thông thạo thế sự nhân tình. Có hai người một già một trẻ rất có tiềm năng trở thành “gian thần lộng quyền” này xem xét cặn kẽ, Dương Lăng đứng giữa cân nhắc chọn lựa, việc Chính Đức cải trang rời khỏi kinh sư được an bài hết sức cẩn thận. Chuyện trò đến lúc trời gần nhá nhem, ba người mới vui vẻ chia tay.
Lòng như tấu nhạc, Dương Lăng vui sướng rời khỏi cổng cung, chui vào trong chiếc kiệu quan, đám người hầu nâng chiếc kiệu lớn lên. Ngũ Hán Siêu đang ngồi tĩnh tọa, thấy y trở về bèn thu thế lại nhường chỗ cho y chui vào. Dương Lăng vào trong kiệu, vừa ngồi xuống liền áy náy:
- Đã làm phiền Hán Siêu rồi! Với tài học của mình, huynh vốn có nhiều chỗ để dùng, giờ lại bảo huynh bảo vệ che chở cho ta, ha ha! Đợi mấy ngày nữa đi, chờ yên ổn rồi, ta sẽ bổ nhiệm cho huynh một chức quan.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đại nhân không cần phải khách sáo, kẻ hèn thương thế chưa khỏi, nghỉ ngơi thêm mấy ngày cũng tốt. Khi còn ở trên núi, thông thường mỗi lần tĩnh tọa là suốt một ngày, cho nên quả thực cũng không cảm thấy buồn tẻ.
Trong lúc hai người chuyện trò, chiếc kiệu đã được nhấc lên, lắc lư di chuyển trên đường.
Chiếc kiệu rời khỏi sân rồng lát đá xanh, rẽ vào một phố lớn phồn hoa. Ngũ Hán Siêu đang quay đầu giảng giải tâm pháp nội công cho Dương Lăng thì bất chợt ngừng lại, thân dưới thoáng nhích, cả thân trên đột nhiên dịch sang ngang nửa thước, một thanh kiếm bén ngót lạnh lẽo từ ngoài rèm kiệu đâm vào. Một kiếm đâm hụt, kẻ ra tay cũng phát hiện được, “xoạt” một tiếng trường kiếm bèn được rút về.
Lúc này ngoài kiệu hỗn loạn, một loạt những âm thanh huyên náo vọng vào. Ngũ Hán Siêu mắng khẽ:
- Quả nhiên có thích khách!
Dứt lời chàng quơ lấy thanh trường kiếm bên cạnh, búng người phóng ra ngoài.
Nhát kiếm vừa nãy khiến cho Dương Lăng trông thấy mà khiếp vía vô cùng. Ngoài kiệu tiếng binh khí chạm nhau vang lên dồn dập xen lẫn với những tiếng la hét ầm ĩ của bá tánh trên đường, sau đó có tiếng con gái chửi mắng vọng lại xa dần, lại nghe Ngũ Hán Siêu quát tháo: "Bảo vệ đại nhân", rồi không còn tiếng động gì nữa.
Dương Lăng thoáng định thần lại, vén hờ rèm kiệu, thấy bốn tay thị vệ đang căng thẳng bao vây chung quanh. Gần cuối năm nên nhiều người dân ra đường mua đồ sắm tết đông đúc, nơi này lại là con đường cực kỳ phồn hoa, đám đông nhốn nháo hoảng loạn quanh đấy vẫn còn trốn chạy, trên đường vứt bừa bãi nào là đầu heo, nào là bàn thờ, vàng mã, ... ngổn ngang hỗn loạn.
Dương Lăng vén rèm bước ra ngoài quát hỏi:
- Ngũ huynh đâu?
Một tay thị vệ cầm đao, vừa căng thẳng nhìn bá tánh đang chạy tán loạn khắp nơi vừa đáp:
- Dạ đã đuổi theo nữ thích khách che mặt nọ rồi.
Dương Lăng thở phào một hơi, ra lệnh:
- Cử một người đi bảo người của Ngũ thành binh mã ty mau đến trấn áp khu vực, tình hình càng hỗn loạn thì....
Y còn chưa dứt lời, mắt đã thấy một bóng hình yêu kiều mà mau lẹ chợt xuất hiện, tay thị vệ bị kẻ đó đá văng vào trong đám người, mồm hộc máu tươi.
Kẻ vừa xuất hiện hết sức nhanh nhẹn, kiếm loé như chớp, một tay thị vệ khác vừa cảnh giác vặn người bổ một đao đã bị một kiếm đâm xuyên vai. Kiếm lui chân tới, tên thị vệ bị đá quay một vòng văng vào giữa đám đông. Dương Lăng chỉ cảm thấy hông bị siết lại, y đã bị người ta ôm chặt, bên tay vẳng lại giọng nữ khẽ quát:
- Mau đoạn hậu! Gió rát, ai nấy về chùa!
(từ lóng: ý nói tình thế không tốt, mọi người rút lui)
Dương Lăng chân không chạm được đất, bị kẻ đó kẹp nhảy vào trong đám đông, rẽ quanh rẽ quẩn rồi tiến vào một con hẻm chưa chong đèn. Con hẻm không sâu, nháy mắt đã ra khỏi đầu hẻm, đã có một cỗ xe ngựa đợi sẵn. Tay kẻ đó thoáng vung lên, ném bay Dương Lăng vào trong xe, rồi co người nhún chân nhảy vọt lên xe, quát:
- Lập tức rời thành!
Dương Lăng bị ném ngã vào trong xe, đầu vàng mắt hoa, vừa mới ngẩng đầu lên liền có một người nữa xông vào, chen ngồi cạnh y. Kế đó y bị kẻ kia túm lấy cổ áo nhấc lên.
Dương Lăng hoảng hốt chống tay gượng dậy. Y cảm thấy tay vịn vào một khối thịt mềm mại nở nang, vừa phát hiện ra là một cặp đùi săn mẩy chắc nịch thì cả người y đã bị ấn về phía sau, đập vào thanh xe "bộp" một tiếng, một lưỡi kiếm sắc lẹm lạnh lẽo đã kề sát trên cổ.
Dương Lăng định thần lại, thấy trong xe treo một cây đèn bão. Dưới ánh đèn, kẻ đó gỡ khăn che mặt xuống, toàn thân mặc đồ đen, da trắng như tuyết, tôn lên một vẻ đẹp không nhiễm bụi trần.
Gương mặt xinh xắn đó thanh nhã mà thoát tục, rực rỡ rạng ngời, một cây trâm ngọc bích màu xanh lá óng ánh cài trên mái tóc đen mượt, dưới hàng mi cong cong là một đôi mắt xinh đẹp lóe lên vẻ lạnh lùng và nghiêm nghị vô cùng.
Dương Lăng thoáng sững người, bật thốt:
- Dương Khóa Hổ Hồng Nương Tử?
Người con gái xinh đẹp vận bộ đồ bó màu đen nọ thoạt tiên ngẩn ra, sau đó nhếch miệng cười, thấp thoáng hàm răng trắng đều như bắp:
- Thì ra ngươi đã biết rõ tông tích của ta. Không sai, ta chính là Thôi Oanh Nhi! Xưởng đốc đại nhân, dù bản lĩnh ngươi to như vậy mà còn không phải đã rơi vào trong tay ta đó ư?
Nàng thoáng lật mũi thanh đoản kiếm, sống kiếm ấn vào cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh đẹp nghiêm lại, giọng lạnh lùng quát:
- Trượng phu của ta đâu? Có phải đã trúng phải độc thủ của ngươi rồi không?
Nụ cười thoáng qua kia như "bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước", nét mặt tươi cười tựa như "mây phá, trăng ra, hoa giỡn bóng", rúng động lòng người. Trong chớp mắt vẻ đẹp rạng ngời như bóng ngựa qua khe cửa, thoáng cái đã không thấy tăm hơi, trên khuôn mặt thanh tú lạnh lùng chỉ còn lại một đôi mắt đang nhìn y chằm chằm đầy thù hận.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip