1. Danh ẩn, thân lưu
Gió tháng ba thổi nhè nhẹ qua những cánh đồng lúa vừa trổ đồng đồng, mang theo mùi lúa non mới trổ và hương cỏ lẫn trong sương sớm. Con sông Ngân vẫn uyển chuyển uốn mình quanh làng Trại Đông như dải lụa dài quấn quanh bãi bồi màu mỡ, lặng lẽ trôi êm giữa một vùng đất trù phú và yên bình.
Làng Trại Đông thời ấy chưa hẳn là thái bình nhưng cũng tránh được cảnh nhiễu nhương loạn lạc ngoài kinh kỳ. Triều đình lúc bấy giờ đã suy yếu đến mức chỉ còn hư danh. Vua vẫn còn đó, nhưng ngai vàng không đủ sức trấn áp lòng người, tất cả chỉ giữ lại cái bóng của uy quyền ngày trước. Quyền lực thực tế nằm rải rác trong tay các thân vương, đại thần, trấn thủ, thổ hào địa phương. Mỗi người một phương, mạnh ai nấy giữ, ai cũng giương cờ "phù vương diệt loạn", nhưng trong lòng đều ôm mộng giang sơn. Quan lại tham nhũng, luật pháp bị bẻ cong bởi kẻ có tiền, có thế.
Chiến sự không nổ ra rầm rộ nhưng âm ỉ lan dần như lửa cháy dưới tro. Bên ngoài kinh kỳ, nông dân thì mất mùa, dân chúng thì đói khát, trộm cướp lại nổi lên từng đám, từng đám. Thổ phỉ đã không còn đơn giản là những nhóm cướp vặt, nhiều nơi chúng kết bè kéo cánh, chiếm núi chiếm vùng, lập trại như tiểu quốc, chư hầu. Quan quân triều đình ở nhiều địa phương vừa yếu, vừa rệu rã, thường phải ngó lơ hoặc ngầm thỏa hiệp với chúng để giữ yên một phương trời.
Trong khung cảnh hỗn loạn ấy, nhiều làng mạc tan hoang, dân tình phiêu bạt. Nhưng Trại Đông vẫn giữ được sự yên ổn hiếm hoi, phần vì địa thế hiểm trở, phần vì lòng dân đoàn kết. Trên hết, là nhờ có nhà họ Trịnh, một dòng tộc lớn nắm giữ cả tài lực lẫn nhân tâm vùng ấy. Họ Trịnh không chỉ giàu có, mà còn nổi tiếng nghiêm cẩn, có học, có kỷ cương. Bấy giờ, người đứng đầu tộc họ còn được dân trong vùng ngầm xem như một "tiểu vương", giữ được yên ổn mà không cần đến mệnh lệnh từ triều đình.
Trịnh Văn Kỳ là chủ gia đình ấy, tuy xuất thân là thương nhân, tay trắng dựng nghiệp từ chợ búa và thuyền hàng, ông lại sống như một nho sĩ chính hiệu. Mỗi ngày đều thắp hương khấn tổ, đọc "Luận Ngữ", "Trung Dung", lấy Nho học làm gốc, phép tắc làm rường, dạy dỗ từ người ở đến con cháu trong nhà.
Dưới sự cầm trịch của ông, nhà họ Trịnh chẳng khác gì một tiểu triều đình thu nhỏ: người làm thì không dám lười, kẻ ở không dám lếu láo, con cháu nói năng phải chừng mực, bước đi phải nắn nót. Dù trong tay không binh quyền lớn mạnh, nhưng chỉ riêng kỷ cương ấy cũng đủ điều khiển lòng dân mà giữ vững được vùng Trại Đông yên ổn hơn bất kỳ huyện thành nào khác.
Trong thời buổi triều đình tan rã, quan lại yếu hèn, cướp bóc hoành hành, thì chính gia tộc họ Trịnh chứ không phải quan tri phủ mới là điểm tựa thực sự cho dân. Người dân quanh vùng vẫn thường nói: "Có ông Trịnh ở Trại Đông, còn hơn có mười thằng quan trong phủ."
Ông có hai người con, con trai trưởng tên Trịnh Văn Du, người trầm lặng, ít nói, từ nhỏ đã ham đọc binh pháp, kinh sử, say mê những chuyện thiên hạ trị loạn, càn khôn xoay vần. Khi còn ở nhà, dù mới mười bốn mười lăm, cậu bé đã ngồi trầm ngâm cả buổi bên bộ "Tôn Tử Binh Pháp", "Thái Công Lục Thao", hỏi cha những điều vượt xa tuổi. Ông Trịnh, vốn không dạy con theo đường võ bị, nhưng thấy con có chí lớn, cũng không nỡ lòng ngăn cấm. Mười tám tuổi, Văn Du theo một vị quan lớn có tiếng cương trực và thao lược về giữ trấn phía Nam làm môn hạ của một thân vương, vừa để rèn tài, vừa để tránh xa vòng nhiễu nhương của kinh kỳ.
Trong thư gửi về, Văn Du viết chữ nắn nót, lời lẽ kiệm nhưng sâu:
"Khi lòng người chưa yên, thì chẳng có lễ nghi nào đủ giữ được cốt nước. Con không mong làm quan lớn, chỉ mong đủ trí mà giúp cha giữ được Trại Đông yên bình. Trung dã giả, thiên hạ chi bổn dã; Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã (*). Lúc thế đạo rối ren, kẻ sĩ giữ mình chưa chắc là hèn yếu, mà là để khỏi bị cuốn theo vòng tranh đoạt, để không đánh mất cái trung dung trong lòng."
(*) Trung dã giả, thiên hạ chi bổn dã; Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã: theo Trung Dung, trung là gốc lớn của thiên hạ, hòa là đạo thông suốt khắp thiên hạ.
Ông Trịnh đọc thư xong, ngồi im hồi lâu. Mắt ông không lay động, nhưng trong lòng như có giọt nước vừa rơi vào mạch đá.
Ông là người sống theo lý, một đời tin vào sách thánh hiền, thuộc lòng từng chữ Luận Ngữ, Trung Dung, nhưng lại ít khi nghe ai nói những điều ấy một cách giản dị, thành tâm như vậy. Du là kỳ vọng của họ Trịnh: nếu thời thế tốt, thì có thể ra phò quân tử, giúp dân giúp nước mà không thẹn với lương tâm; nếu thời thế xấu, thì chí ít cũng biết rút lui đúng lúc, không làm kẻ xu nịnh, không vì lợi danh mà làm điều tổn hại cốt khí cha ông.
"Trung và Hòa", ông thầm nhắc lại hai chữ ấy trong đầu. Thời buổi này, có bao nhiêu người còn nhớ đến?
Lại nói đến con gái là Trịnh Ngọc Cẩm Yến, hòn ngọc của dòng họ, là niềm tự hào và cũng là mối bận tâm lớn nhất của Trịnh Văn Kỳ.
Từ thuở còn thơ, Yến đã được cha rèn theo khuôn mẫu Nho gia: đọc Tam Tự Kinh, học nữ công gia chánh. Lớn thêm chút nữa, nàng học Liễu Phàm Tứ Huấn, Nữ Giới của Trình Thị, tập nói năng khéo léo, hành xử khiêm nhường, dẫu trong tâm có ý thì ngoài mặt cũng phải từ tốn, nhỏ nhẹ.
Nàng là hiện thân của chữ "thuận", của khuê môn nề nếp, của tất cả những gì người đời khi ấy mong muốn ở một người con gái "vừa đức vừa hạnh". Trong làng, trai tráng không ít người mơ được làm rể nhà họ Trịnh, không chỉ vì gia sản, mà còn vì nết na và dung mạo của Yến, một vẻ đẹp khiến người nhìn có cảm giác như đứng trước ánh trăng mùa thu, dịu dàng, thanh sạch và cũng thật khó gần.
Ông Trịnh yêu thương Cẩm Yến hơn ai hết, nhưng sự yêu thương ấy không chỉ nằm ở việc giữ gìn khuôn phép.
Hôm ấy, trời vừa sập tối, gió Trại Đông về khuya thổi mát rười rượi, gió lùa từ đồng thổi vào man mát cả da thịt. Trịnh Gia Trang thời khắc này yên ắng đến lạ, chỉ còn tiếng dế kêu dưới chân tường và thỉnh thoảng tiếng sột soạt của lá chuối vỗ nhau sau hè.
Mái ngói lợp lâu năm đã phủ rêu, hiên nhà thâm thấp, cột gỗ đã muốn bóng lên theo năm tháng. Dưới tàng cây bồ đề trước sân, vài con đom đóm cứ lập lòe bay. Mấy chum nước bên vách lặng thinh, nước trong chum ôm trọn ánh trăng lưỡi liềm vừa nhú lên khỏi lũy tre.
Trịnh Văn Kỳ ngồi trên chiếc ghế gỗ quen thuộc trước nhà, tay phe phẩy cái quạt mo, mắt lim dim mà nhìn xa xăm. Cái bóng nghiêng nghiêng của ông đổ dài xuống nền gạch tàu cũ kỹ. Bà Trịnh bưng bình trà gỗ mới nấu ra đặt lên bàn, rồi ngồi xuống bên cạnh, kéo lại tắm khăn choàng vai.
"Tui thấy mình cứ ngồi im nãy giờ, có chuyện gì trong bụng đúng không?"
Ông Trịnh tay vẫn phe phẩy cái quạt, như có như không, giọng ông đều đều:
"Ừ, cũng không có gì, nghĩ chuyện con Yến thôi"
"Con Yến nó nết na, học hành biết điều nhưng mà cái tuổi này ngòa kia đã có mấy đứa bồng con rồi." Bà Trịnh cũng hiểu được mối lo trong lòng chồng mình.
"Càng lớn, tui càng lo. Bà coi đi, ở cái xứ này, có thằng nào coi được đâu. Con mình nó càng hơn người thì càng khó tìm được người xứng. Nhìn quanh quanh cái Trại Đông này, trai chưa vợ không làm biếng thì cũng thất học, có học thì bạc nhược không gánh nổi một gia đình. Gả nó đi rồi, lúc về làm dâu người ta, nó chịu uất ức sống qua ngày, sao tui yên tâm được."
"Nhưng mà ông không gả thì thiên hạ người đồn..." Bà Trịnh hiểu ý chồng, bà tất nhiên cũng yêu thương con gái nhưng phận đàn bà thì phải chịu vậy. May phước thì gả cho thằng nó thương yêu, lo làm lụng, không thì gả cho cái loại chắp vá phải sống ẩn nhẫn cả một đời. Nhưng lời chưa kịp nói ra thì bị chồng ngắt lời.
"Thiên hạ họ nói cái gì tui mặc kệ. Hồi đó tới giờ, tui đọc sách thánh hiền không thiếu trang nào, nhưng chưa bao giờ tin mấy cái chuyện "nữ tử vô tài tiện thị đức". Tui còn nhớ hồi nó mười ba, mười bốn, tui vẫn để nó đọc sách cùng thằng Du, thậm chí cho học chữ Nho. Mấy người ngoài nhìn vô nói tui làm bậy, nhưng tui nghĩ con gái mà có trí, cũng phải được học hành đàng hoàng chứ không phải để biết lo cơm nước không. Tui dạy nó giữ nết là để có chỗ dựa, chứ không phải để suốt đời luồn cúi dưới gối thằng nào. Tui thà nuôi nó cả đời còn hơn. Người ta nói con gái đến tuổi phải lấy chồng, nhưng tui không tin mình sinh con ra là để đem gả đi cho trọn đạo cha mẹ."
Bà Trịnh không đáp, chỉ nhìn chồng bằng ánh mắt chậm rãi. Một lát sau, bà mới nhẹ giọng:
"Ông vẫn đọc sách thánh hiền, vậy mà nghĩ như kẻ trong phường văn mới."
Ông cười khẽ, rồi đáp: "Tui đọc là để hiểu đời, chứ không phải để buộc con gái mình sống trong khổ. Nho đạo là để người sống cho ra người, không phải để lấy khuôn mà đóng vào người khác. Con Yến nó có khí chất riêng. Nó không phải thứ hoa cắm vào chậu, gả bừa cho xong."
Bà Trịnh nghe tới đó thì ngồi im, hai tay đặt lên đầu gối, thở dài một hơi:
" Ừ, thì mình nói vậy tui cũng hiểu. Nhưng mà con gái, đến tuổi, cũng phải nghĩ cho tương lai nó chứ?"
Ông Trịnh gật gù:
" Ừ, thì cũng phải. Nhưng phải là đứa nào xứng đáng. Còn không thì thôi. Tui thà thấy nó ở vậy, còn hơn thấy nó bưng mặt khóc trong buồng người ta."
Nói rồi ông ngửa mặt nhìn trời. Gió đêm vẫn thổi nhè nhẹ, lay mấy chậu phong lan treo dưới hiên. Mấy con bồ câu ngủ trong mái chuồng sau hè khẽ cục cục, như cũng nghe được nỗi lòng người cha đang lo cho đứa con gái một đời nết hạnh.
Bà Trịnh ngồi sát lại, tay đặt lên cánh tay chồng. Không cần nói gì thêm. Giữa hai người, bao nhiêu năm rồi, có những điều không cần lời lẽ, chỉ cần ngồi bên nhau vậy thôi là đủ.
***
Thế nhưng, đời vốn đâu phải tờ giấy phẳng phiu cho người ta viết sẵn điều tốt lành.
Một buổi sớm đầu hạ, khi nắng còn lửng lơ trên ngọn cỏ và sương chưa tan hết bên bờ lau, có người đánh cá phát hiện một cô gái nằm bất tỉnh bên rìa sông Ngân, gần bến Lẻ, nơi mà xưa nay hiếm dấu chân người. Nàng vận áo vải thô, mình mẩy ướt sũng, trán sưng tím, tay vẫn nắm chặt một chiếc trâm bạc đã gãy. Trâm khắc hoa văn lạ, như từ một thế giới không thuộc về nơi này.
Người làng hốt hoảng, vội đưa nàng lên đình trình báo. Theo lệ, sự việc được đưa tới nha môn. Nhưng quan phủ vùng này bấy giờ là Trần Thâm vốn chỉ quen ngó lơ chuyện không can dự đến sổ thuế, xem đây là việc lặt vặt, liền phẩy tay đùn đẩy:
"Nếu không phải xác chết, thì giao về cho Trịnh Văn Kỳ mà xét. Vùng ấy xưa nay vốn do ông ấy trông giữ bình an, có gì thì tự ông ấy xử lý."
Thế là nàng được đưa về Trịnh Gia Trang. Phú ông sai người khám mạch, thấy không nguy đến tính mạng thì cho đưa xuống gian bếp dưới mái sau, nơi từng để dành cho những người vãng lai đau yếu. Bề ngoài là để tiện bề chăm sóc, nhưng thực ra cũng là để giữ nàng trong tầm mắt mà dò xét thân thế.
Khi tỉnh lại, nàng không nhớ mình là ai, không biết từ đâu tới, chỉ thều thào một cái tên ngắn ngủi, Lâm, đơn sơ như một tiếng thở bật ra từ bụng đất, như một giấc chiêm bao chưa kịp đặt tên. Giọng nàng mềm như tơ, ánh mắt thì trong đến lạ, như phản chiếu cả một khúc sông vẫn còn chưa ngủ yên.
Phú ông ngờ vực, nhưng thấy nàng lễ độ, không ương bướng, liền giữ lại làm người ở, hầu nước hầu trà, quét sân nhặt rau. Đám gia nhân không thích Lâm vì thấy em lạ lùng, ít nói, hay trầm ngâm một mình bên gốc nhãn sau nhà. Thế nhưng tiểu thư Cẩm Yến lại để ý.
Ban đầu, Lâm quét sân còn vụng. Tay cầm chổi rơm không đúng tầm, lúc hất quá mạnh, lúc lướt quá nhẹ, khiến bụi bay ngược lên mắt. Có bận, em lỡ tay làm rớt thùng nước xuống bậc tam cấp, cả sân lát gạch tàu trơn ướt, ngã một lần nhớ đời. Nấu nước thì mấy bận để sôi trào ra lửa, làm chị bếp lắc đầu chép miệng:
"Cái con nhỏ này, đúng là công tử bột, chưa bữa nào đụng tới than tro."
Ai cũng nghĩ, em chỉ là một đứa ở dạt về, chịu khổ được vài hôm rồi sinh chuyện bỏ đi. Nhưng chỉ vài bữa thôi, em đã quen tay, quen việc. Không ai kêu, em cũng tự biết giờ nào phải quét sân, lúc nào phải hứng nước giếng, đun bếp. Làm việc lặng lẽ, gọn gàng, không rề rà cũng chẳng ồn ào.
Cứ như thể, dù chưa từng làm những việc hạ tiện, em vẫn học rất nhanh, nhanh đến lạ, như một người đã từng âm thầm quan sát từ lâu. Quét sân, em học cách nắm chổi cho đúng, vừa tay; rửa rau, em không làm nát lá; đun nước, lửa không bén ra ngoài nữa. Từng việc một, Lâm làm như thể đang nhớ lại, không phải học mới.
Ban đầu, ai cũng dè bỉu: "Được ba hôm thôi, rồi lại sinh tật." Nhưng đến ngày thứ tư, thứ năm, khi thấy sân luôn sạch, rau rửa xong đặt ngay ngắn trong rổ tre, nồi nước không trào cũng chẳng cạn đáy, thì mấy người bếp già cũng phải gật gù.
Vài bà giúp việc trong nhà bắt đầu kháo nhau:
"Chắc con nhỏ hồi xưa nhà cũng khá giả... Sao nó cầm nắm cái gì cũng có khuôn có thước. Mặt mày không lanh lợi, mà làm lại không sai. Coi bộ không phải hàng hèn."
Dẫu vậy, cũng chính cái sự "lạ" ấy khiến Lâm bị để ý. Đám người làm cũ trong nhà không ưa cô. Nói thì không ai nói ra, nhưng ai cũng thấy: em ít lời, ít cười, hay đứng một mình sau gốc nhãn sau vườn mỗi chiều. Có bữa đang nắng chang chang, em vẫn ra đó ngồi, nhìn lên trời như trông ngóng gì đó từ xa. Cái dáng lặng im ấy khiến người khác cảm thấy bất an, như thể em đang mang giấu trong người một điều gì đó không ai biết.
Không rõ từ lúc nào, Yến bắt đầu quan sát người con gái ấy nhiều hơn. Nàng nhận ra, dù Lâm làm việc thô nhọc, nhưng lưng vẫn luôn thẳng. Chưa từng thấy em lom khom, chưa từng thấy em bệ rạc. Bước đi cũng không giống người nhà quê quanh năm quen đất cát. Không vụng về, không lật đật. Đặt chậu nước xuống sân không nghe cái "rầm", mà là một cái "cạch" nhẹ. Cầm bát, cầm thúng, cầm dao đều rất gọn.
Có lần, lúc Yến vô tình đi ngang qua bếp, nàng nghe một mùi trầm nhè nhẹ tỏa ra từ người Lâm. Không phải mùi trầm đốt, cũng không phải dầu thơm. Là mùi đã thấm vào da, như thể lớn lên trong phòng có hương nhang, có đàn hạc, có lễ nghi. Ngón tay Lâm tuy có vết chai mờ nhưng vẫn thon, từng đốt ngón sạch sẽ, móng cắt tròn. Một thứ sạch sẽ tự nhiên, chứ không phải học theo. Càng nhìn, Yến càng có cảm giác nghịch lý, hình như người con gái này, chẳng giống một người sinh ra để làm người ở.
Rồi đến một chiều, nắng nhạt dần sau vòm cau, Yến ngồi đọc sách bên hiên, còn Lâm quỳ rửa lu nước cạnh đó. Bất chợt, hai ánh mắt chạm nhau. Không lâu, chỉ trong một khắc nhưng đủ để Yến thấy trong mắt Lâm có điều gì đó rất sâu. Không hẳn là sợ, cũng không hẳn là phục tùng. Mà là thứ gì đó cũ lắm, buồn lắm, và kiêu hãnh lắm. Một cái nhìn khiến lòng Yến như có ai đó gõ nhẹ từ bên trong.
Lại một hôm trời đổ nắng từ sớm. Mặt trời chưa lên khỏi lũy tre đã dội xuống sân một màu vàng ươm, lấp lóa trên mái ngói rêu phong và gạch tàu đỏ sẫm của Trịnh gia trang. Gió không thổi, chỉ có cái oi âm ỉ trong không khí, làm ai bước ra sân cũng thấy đầu như chụp lửa.
Vậy mà Lâm vẫn cúi người quét sân. Động tác chậm rãi, đều đặn, cây chổi rơm xòe ra từng vệt lớn, quét sạch từng cánh hoa rụng và lá khô còn đọng sương. Mồ hôi đã thấm ướt vạt áo nâu sồng, lưng áo sẫm lại, dính sát vào da, phơi bày từng đường nét mảnh dẻ. Tóc mai ướt rịn, dính bết vào hai bên má, vài sợi vương trên cổ trắng như tách khỏi ánh nắng. Mặt không biểu lộ gì, nhưng không hề có vẻ gì khổ sở hay uể oải, cứ như em không để tâm đến mồ hôi hay cái nóng, chỉ để tâm làm cho xong việc mình.
Từ sau khung cửa gỗ lim, Cẩm Yến ngồi trong bóng râm, tay cầm khung thêu dở. Nàng đã nhìn ra sân tự lúc nào không rõ, kim chỉ ngưng lại giữa chừng. Nắng ngoài kia làm sáng hẳn hình dáng của Lâm, như thể bóng dáng ấy không thuộc về chốn này.
Yến bất giác siết nhẹ mép khung vải. Không hiểu sao tim nàng khẽ đập mạnh một nhịp. Cảm giác ấy không lạ, nhưng cũng chẳng quen. Giống như khi còn nhỏ lần đầu thấy mưa đầu mùa, mùi đất nồng lên, gió thổi qua mặt mát lạnh, chỉ là một khoảnh khắc bất ngờ khiến lòng dậy sóng.
Nàng bỗng quay đi. Cố tập trung lại vào mũi thêu, nhưng sợi chỉ bỗng rối trong tay. Một lát sau, nàng lại ngẩng lên. Lâm lúc này đã ngồi bên hiên, tay rửa chậu. Nét mặt vẫn thản nhiên, nhưng ở một góc nào đó, Yến cảm giác có gì thật lặng - mà sâu. Một thứ yên tĩnh không giống với sự cam chịu của kẻ hầu, cũng chẳng giống sự dịu dàng học được từ lễ nghi. Là thứ yên tĩnh của người từng thấy nhiều mà chọn im lặng.
Và cũng từ hôm đó, lòng Cẩm Yến bắt đầu giữ lấy cái tên Lâm một cách chặt chẽ hơn những người hầu khác.
Thực tế không ai biết rằng, trong sâu thẳm, Lâm vẫn nhớ rất rõ mình là ai.
Em là Lâm Anh, con gái út của cố Hoàng Đế, một công chúa từng được sủng ái trong cung đình, nay bị cuốn khỏi kinh thành bởi cuộc binh biến đẫm máu vài tháng trước. Khi quân phản loạn tràn vào nội điện, bà vú già khuyên công chúa thay ra quần áo của nô tỳ, liều mình dẫn chủ nhân chui lỗ chó của cổng thành mà thoát thân, thế nhưng cả hai vẫn bị giặc truy đuổi gắt gao cuối cùng bà ôm lấy Lâm Anh nhảy xuống sông, để mặc số phận trôi dạt theo nước. Từ sông lớn ra nhánh nhỏ, rồi lạc đến vùng đất này. Người cứu em đã chết. Em còn sống, nhưng từ đó, mang một thân phận khác, người ở của nhà họ Trịnh.
Giả vờ mất trí là cách duy nhất để sống sót. Em biết, nếu ai đó phát hiện mình là công chúa, đầu rơi máu đổ có thể xảy ra ngay trong đêm. Vương quyền đã muốn đổi chủ, và những kẻ muốn tận diệt tàn dư hoàng tộc thì chưa từng vơi bớt. Ẩn mình dưới lớp áo người hầu, giữ im lặng, cúi đầu mà sống, ấy là lựa chọn duy nhất để chờ ngày trời cho sống lại tên thật của mình.
Nhưng Lâm Anh đâu ngờ, thứ khiến lòng mình run rẩy không phải lưỡi kiếm, mà là ánh mắt dịu dàng của tiểu thư Cẩm Yến, người vẫn thường ngồi bên cửa sổ, tay cầm chiếc quạt giấy thêu hoa sen, nghiêng đầu ngắm mây trôi, như chẳng vướng bụi trần.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip