CHƯƠNG 52

Hoàng đế đã nói là làm, dù sau đó trên đường đi hai người vẫn ngủ chung giường nhưng lại giống như vì công việc mà chung đụng, chẳng còn những thân mật vượt giới hạn nữa. Long sàng rộng rãi, Hoàng đế nằm trong, Cố Uyên nằm ngoài, gần như chẳng cần cố ý cũng có thể tạo ra một khoảng cách rõ ràng, nước sông không phạm nước giếng.

Đại trướng trong đêm khuya tĩnh mịch khác thường, có thể nghe rõ tiếng gió ngoài lều, cũng nghe thấy cả tiếng thở đều đều khe khẽ của Hoàng đế. Những hành vi thân mật đến khó nói và những dấu vết ân ái trên người Cố Uyên cũng đều phai mờ không còn chút tăm hơi, khiến nàng có cảm giác như giữa hai người chưa từng xảy ra chuyện gì, vừa khiến nàng buồn vô cớ, lại vừa làm nàng thấy an tâm.

Có lẽ khoảng cách giữa quân thượng và thần tử chính là cách tốt nhất để họ có thể ở bên nhau, thất tình lục dục là cái bẫy mà cho dù ai cũng khó tránh khỏi, một phút sa ngã của bậc quân vương, chỉ cần kết cục không quá tệ, thì phận làm thần tử có trách nhiệm phải bao dung. Cũng dưới cái danh nghĩa quân thần vua tôi ấy, Cố Uyên có thể bình thản đón nhận những hành động vượt quá giới hạn mà Hoàng đế từng làm với nàng.  Tuổi còn trẻ trung, tình còn non nớt, Hoàng đế sa lưới tình mà si mê đến thế, can gián là bổn phận của phận làm tôi, nhưng nếu cứ lãnh đạm lặng lẽ đợi Hoàng đế tự mình bình tâm lại thì đó chẳng phải cũng là một cách giải quyết uyển chuyển khéo léo mà không làm hỏng đại cục hay sao?

Sấm sét hay mưa móc đều là ân huệ của vua ban, chỉ cần giữ vững và nhớ kỹ suy nghĩ này, Cố Uyên có thể giữ tâm thái dửng dưng trước những sủng ái hay lạnh nhạt của Hoàng đế, đồng thời cũng nhìn rõ vị trí của chính mình hơn — nàng chỉ là một trong số rất nhiều thần tử của Hoàng đế, còn những khao khát bắt đầu nhen nhóm để khắc sâu tình ý với ngài thì rõ là không hợp thân phận, cũng không hề đúng lúc. Người tài trong cung thì nhiều vô số kể, rồi sẽ có một ngày, có thể là ngay trước kỳ thi ân khoa, có thể là hẳn đến vài năm sau, Hoàng đế sẽ chán nàng, sẽ chán một Tư tẩm không biết lấy lòng hậu hạ cũng chẳng màng giành yêu tranh sủng, rồi sẽ đuổi nàng ra khỏi hậu cung, và cuối cùng là vĩnh viễn lãng quên trong tất cả những tháng ngày về sau.

Thế thì, cách tốt nhất là cứ an phận thủ thường, gõ mõ đến đâu hay đến đấy, lặng lẽ chờ ngày được ra khỏi cung và rồi sẽ không còn phải thấp thỏm vì những nỗi lo sợ lạ lẫm và kỳ dị của việc có được rồi lại mất đi.

Tâm tư đã an ổn vững vàng, thời gian trôi đi càng nhẹ nhàng nhanh chóng, khi những tiểu cung nữ được dạy dỗ xong xuôi và trở nên thành thạo cũng là lúc vết thương trên tay Cố Uyên lành hẳn, không để lại một chút sẹo nào, và đoàn người cũng đến Hành cung Định Giang Khẩu.

Đây là lần đầu tiên Hoàng đế tự mình chủ trì lễ tế Đông, tông thất huân quý và cả sứ thần các nước đều có mặt đầy đủ, diễu dọc theo con đường chính của hành cung trải dài hàng chục dặm và xếp thành hàng dài chào đón.  Hai bên đường rải sỏi màu vàng đều có những lều vải đầy màu sắc, những người quỳ gối và cả quan binh đứng nghiêm chỉnh thành một hàng dày đặc, đủ loại nhạc lễ, tiếng nhạc tiếng pháo trộn lẫn vào nhau.

Đoàn người chia ra ở cửa hành cung, cung nhân và hầu cận theo cửa phụ để vào nơi sắp xếp, còn đại liễn của Hoàng đế thì đi từ cửa chính vào Chiêu Hòa điện để nhận nghi lễ bái lạy. Xe lừa của Cố Uyên cùng vài người khác theo phía sau, đỗ lại ở Đông Giác môn. Bấy giờ Ngụy Liên dẫn mấy thái giám đứng đợi ở cửa, thấy họ thì cung kính hành lễ, sau đó bảo tiểu thái giám xuống xe khuân đồ rồi dẫn họ đến tẩm cung của Hoàng đế. Ngụy Liên đi theo Ngụy Phùng Xuân đến hành cung trước để sắp xếp, hơn hai mươi ngày đã đi gần hết hành cung, vừa đi vừa chỉ cho mọi người những cảnh sắc gần xa. Hành cung toạ lạc ở vị trí tựa núi kề sông, các điện và các đều lợp ngói xanh tường trắng, dù quy chế không đổi nhưng nơi đây không có ngói lưu ly vàng và những bức tường cao vút, mà cả một vùng đều là đá sỏi và hoa cỏ, so với trong cung lại mang đậm vẻ thoáng đãng tự do hơn.

Tẩm cung của Hoàng đế ở điện Thái Tố, không nằm cùng một khu với Chiêu Hòa điện mà nối với nơi ấy bằng một hành lang dài uốn lượn ven hồ, chính điện và các điện phụ đều lợp mái xanh, tường trắng cùng cửa sổ gỗ, cột gỗ san sát tạo nên một vẻ cổ kính nên thơ.

Ba người vừa mới sắp xếp hành lý trong Tây vi phòng xong thì nữ quan chưởng án đã mang một chồng cao tấu chương đến. Chỉ một khắc hương sau, Hoàng đế ngồi kiệu trở về Thái Tố điện, bị gió lạnh bên hồ làm cho lạnh đến mức sắc mặt có chút tái, nhưng nhờ chiếc mũ Dực Thiện và áo gấm đỏ mà không hề lộ ra vẻ yếu ớt, ngược lại càng tôn lên dung mạo cao quý của nàng.

Chính điện của điện Thái Tố có bảy gian, gian giữa đặt một bảo tọa theo đúng như thông lệ, chỉ dùng cho những khi tiếp thần tử tới bái lạy. Hoàng đế xem tấu chương ở Đông Noãn các, còn nơi nghỉ ngơi hằng ngày thì ở Tây Noãn các.

Nhìn thấy sắp đến giờ Hoàng đế ngủ trưa, Cố Uyên và Thu Dung cùng nhau bố trí ổn thỏa bên Tây noãn các, đang định vén rèm ra Đông noãn các mời Hoàng đế về nghỉ thì chợt thấy Ngụy Phùng Xuân đã dẫn vài vị thân vương tiến vào sân, thế là hai người lại lui vào Tây noãn các để đợi.

Mấy vị thân vương đến để báo cáo với Hoàng đế về việc sắp xếp tiệc tối, vốn dĩ là do Tông chính đảm nhiệm, nhưng vì Đoan Vương đang bị giam lỏng ở nhà nên Phó Tông chính Dụ Vương là người chịu trách nhiệm. Đây là lần đầu tiên hắn được giao cho một chức vụ quan trọng như vậy, tiếng nói đắc ý vang vọng qua mấy lớp rèm, đủ để người ta hình dung ra vẻ mặt hớn hở kiêu ngạo của hắn. So với giọng hắn, giọng nói của Hoàng đế lại bình ổn, trầm trầm và mang một vẻ điềm tĩnh lạ thường. Cố Uyên lẳng lặng nhìn mấy vị thân vương nhận chỉ rồi cáo lui, ai nấy đều đội mũ cánh chuồn, mặc áo gấm đỏ, nhưng trang phục dáng vẻ thì có kẻ tuấn lãng, có kẻ khiêm cung, hoặc là lanh lợi, công tâm thì đều là những người có vẻ ngoài sáng láng, dung mạo trên mức trung bình, nhưng chẳng một ai mặc áo gấm mà có thể toát ra được cái vẻ đẹp sang quý như Hoàng đế cả.

Nàng nghĩ như vậy, còn Thu Dung bên cạnh thì đã không kiêng dè mà nói ra thành lời: "Ai cũng nói người trong Thiên gia có tướng mạo hơn người, chúng tư coi như đã nhìn thấy hết mấy vị điện hạ rồi, ngó tới ngó lui vẫn là Quan gia nhà chúng ta đẹp nhất."

"Vẻ đẹp của nam và nữ vốn không thể so với nhau được, mà những lời này cũng không thể nói ra." Đông Thuần bưng bộ thường phục của Hoàng đế vào, liếc nhìn nàng một cái rồi hạ giọng nói, "Ta mới đến Tứ Chấp khố, nghe nói hôm qua mấy vị cận thần trực ban cùng nhau thất lễ vì buông lời bàn luận tướng mạo của Quan gia, chẳng may bị lính tuần doanh bắt gặp rồi tâu lên, thế là bị xử tội bất kính, mỗi người bị phạt hai mươi roi thì thôi đi, ngay cả kỳ khảo sát phong tước năm nay cũng không được tham gia nữa!"

Thu Dung giật mình, co vai rụt cổ lại, không dám lên tiếng nữa.

Cố Uyên lại thấy việc tướng mạo Hoàng đế nổi bật hơn người là chuyện ai cũng biết, trước giờ ngài cũng rất ít khi kìm hãm ngôn luận của quần thần, lần này lại đột nhiên xử lý nghiêm khắc như vậy nhất định là vì có nội tình khác. Nhưng thấy Đông Thuần không muốn nói nhiều nên nàng cũng không hỏi thêm, lại thấy Ngụy Phùng Xuân cúi người vén rèm cho Hoàng đế đi vào bên trong, vậy là nàng lập tức làm theo lời dặn của Thái y mà dâng thuốc bổ dạ dày lên. Hoàng đế uống thuốc xong thì súc miệng, những người khác đều lặng lẽ lui ra khỏi noãn các, vậy là, đã đến lúc Hoàng đế cởi áo chuẩn bị nghỉ ngơi.

Tấm gương lớn trong noãn các còn lớn hơn trong Thanh Hòa điện, chiếm gần nửa bức tường, Hoàng đế đứng yên lặng trước gương, để cho Cố Uyên cởi bỏ đai ngọc, lột bỏ lớp áo gấm bên ngoài và cả lớp áo lót bên trong. Tấm gương phản chiếu rõ mồn một thân hình thiếu nữ được bao bọc trong lớp áo trắng, vòng eo thon thả đến nỗi một vòng tay cũng không ôm trọn. Cố Uyên chợt cảm thấy tim đập như trống bỏi, vị Hoàng đế trong một dáng vẻ như trước mắt đột nhiên trở nên xa lạ, khiến nàng luống cuống, bàn tay đặt trên eo người cũng vô thức dừng lại.

Hoàng đế vẫn dõi theo hai người trong gương, khẽ nhíu mày, dường như đang suy tư điều gì, cũng bị chậm lại một nhịp mới mở lời: "Sao thế?"

"Không có gì." Cố Uyên trấn tĩnh lại, cởi y phục cho Hoàng đế là bổn phận của Tư thiết, Hoàng đế lại không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy muốn vượt qua giới hạn, thì bản thân nàng có gì mà phải luống cuống chứ?

Hoàng đế dường như có tâm sự, lên nằm trên long sàng nhưng không nhắm mắt nghỉ ngơi, vẫn nhíu mày nhìn theo nhất cử nhất động của Cố Uyên, đợi đến khi nàng thả một nửa rèm trướng xuống thì đột nhiên lại lên tiếng: "A Uyên, nàng lên nằm cùng trẫm một lát." Rồi nhích người vào trong, để lại một khoảng trống đủ cho hai người, "Trẫm chỉ muốn có người ở bên cạnh để nói chuyện thôi."

Yêu cầu này đối với một Tư thiết mà nói thì không mấy hợp lý, nhưng với một nữ sử Tư tẩm thì lại hiển nhiên là một chuyện thường tình. Cố Uyên đứng trên bục, nhón chân thả chiếc rèm bên kia xuống, theo lễ quân thần tạ lỗi một tiếng rồi mới lên nằm sát mép giường: "Quan gia muốn nói chuyện gì?"

Hoàng đế mở lời, dường như với một chút do dự: "Trên đường đi, nàng có từng nghe được  hồ ngôn loạn ngữ[1] về trẫm không?"

[1] Li nhảm nhí.

Nghe giọng này thì có lẽ muốn dò xét về những tin đồn rồi, Cố Uyên đáp: "Nô tỳ là người của Ngự tiền, dù là có lời bàn tán thì người ta cũng sẽ không tùy tiện nói với nô tỳ, nên nô tỳ không nghe thấy lời gì cả. Có lời hồ ngôn loạn ngữ ư? Lẽ nào nô tỳ lại mang thêm tai tiếng gì cho Quan gia sao?"

Đầu mày Hoàng đế giãn ra, vẻ mặt như vừa trút được gánh nặng, nhưng không chịu nói gì thêm, chỉ đáp: "Không phải là do nàng, chỉ là có những kẻ si tâm vọng tưởng mà thôi. Trẫm hận không thể coi như chưa từng nghe thấy, còn nàng chưa từng nghe thấy thì tốt rồi."

Cố Uyên ngạc nhiên, nhưng Hoàng đế đã chuyển đề tài: "Trẫm nhớ nàng là người Ngô Châu, nàng đã từng đến phủ Trấn Ninh bao giờ chưa?"

"Năm xưa phụ thân nô tỳ từng giữ chức Chủ bộ ở Ty Thị Bác của phủ Trấn Ninh ba năm, từ thuở nhỏ nô tỳ cũng đã theo phụ thân đến đó ở."

"Đã từng làm Chủ bộ, vậy hẳn là cũng từng giao thiệp với những người Tây Dương rồi?"

"Vâng." Cố Uyên do dự một chút rồi thẳng thắn thừa nhận, "Phụ thân nô tỳ có cốt cách kẻ sĩ, mà kẻ sĩ bất khả nhục, ông coi việc thiếu hiểu biết và thua kém về kiến thức là nỗi nhục, cho nên đã nghiên cứu và học hỏi rất nhiều từ những người Tây Dương. Sau này vì quan lại trong nha môn dịch thuật các văn thư khế ước thường để xảy ra sai sót nên ông còn tự học cả ngôn ngữ của người Tây Dương, lúc đó nô tỳ lấy làm thích thú, cũng học theo vài câu."

"Vậy là trẫm hỏi đúng người rồi." Hoàng đế nảy sinh hứng thú cao độ, gượng người ngồi dậy, nắm lấy tay Cố Uyên rồi vẽ lên lòng bàn tay nàng một vài nét, "Thế, một chữ như thế này trong tiếng Tây Dương có nghĩa là gì?"

Những nét mà Hoàng đế vẽ trên lòng bàn tay nàng không phải là cách viết chữ Tây Dương mà giống như là ghi nhớ hình ảnh rồi vẽ ra cho giống thôi. Cố Uyên hơi cau mày, nhắm đôi mắt, tưởng tượng cho ra những nét ấy ở trong đầu rồi viết lại lên lòng bàn tay Hoàng đế một chữ: "Tiểu gia hỏi từ này ư? Trong tiếng Tây Dương từ này có nghĩa là 'thuê mướn".

Mắt Hoàng đế ánh lên tia kinh ngạc, đến mức dứt khoát ngồi hẳn cho thẳng dậy, nhìn Cố Uyên rồi hỏi dồn dập: "Có giống với từ 'thuê mướn' của chúng ta không? Cùng là lập khế ước, giao tiền thuê, hết hạn hoặc vi phạm khế ước thì có thể đuổi đi? Không còn nghĩa gì khác nữa sao?"

Cố Uyên gật đầu: "Theo như nô tì biết thì không còn ý nghĩa nào khác nữa."

Hoàng đế gật đầu, thở phào một hơi nhẹ nhõm rồi lại nằm xuống: "Trẫm cũng từng hỏi những người thông dịch trong Hoành Văn Quán nhưng không có ai trả lời rõ ràng rành mạch như nàng, vậy mà họ còn dám nói là họ thông hiểu mọi chuyện ở xứ Tây Dương. Trẫm đưa cho họ một cái đồng hồ mà họ còn không biết sửa!"

"Cơ chế bên trong đồng hồ rất phức tạp, sửa không dễ đâu."

Hoàng đế nghiêng mặt nhìn Cố Uyên, nhướng mày: "Biết tiếng Tây Dương, cả đồng hồ tự cũng biết sửa, nàng còn có tài năng gì mà trẫm không biết nữa chăng? Chẳng lẽ cả gương soi, nước hoa, phép tính lịch pháp, súng hỏa mai, thuyền bọc thép của người Tây Dương... nàng cũng biết hết ư?"

"Phụ thân từng học một vài phép tính lịch pháp từ một đạo sĩ Tây Dương, nhưng không tinh thông lắm, cũng dạy lại cho nô tỳ biết một ít. Còn thuật chế tác gương soi và nước hoa thì chỉ có người của vài nước Tây Dương mới làm được, nghe nói họ cũng đề phòng các nước khác học theo lắm. Còn súng hỏa mai..." Cố Uyên lắc đầu, "Nô tỳ chỉ từng đọc trong sổ tay của phụ thân có viết là nó không giống với súng cơ của Thần Cơ doanh, nhưng mỗi thứ có một ưu nhược điểm riêng, rất khó để phân thắng bại."

"Thuyền của họ tuy không lớn bằng của chúng ta nhưng lại chắc chắn và linh hoạt hơn, đi được cả đường biển xa xôi, binh lính gan dạ và am hiểu thủy tính, nếu có xảy ra chiến sự thì Hải Châu Vệ thì còn đỡ, nhưng Ngô Châu chắc chắn sẽ chịu thiệt." Hoàng đế nhíu mày than thở, "Lần này bọn họ đến yết kiến có dâng lên hai khẩu súng hỏa mai, trẫm đã sai người bí mật thử qua, đúng là súng tốt hơn của Thần Cơ doanh. Trẫm đã đưa đến xưởng, bảo họ hãy tháo ra rồi thử làm theo xem sao. Mà, nếu như quan lại của ty Thị Bác ai nấy đều tận tâm cống hiến như phụ thân nàng chứ không chỉ lo vơ vét bạc thì đã sớm cảnh báo để triều đình biết được động thái của những người Tây Dương này, làm gì đến để nỗi giờ đây bị bọn họ làm càn như thế này? Mấy ngày trước sứ giả nước An Nam[2], nước Thiên Trúc[3] đều gửi quốc thư cảnh báo rằng những người Tây Dương đó đều là hạng người ham lợi ích, có lòng lang dạ sói, đều đang lăm le nhòm ngó xứ họ, vậy mà trong triều ta vẫn còn có người hô hào 'viễn giao cận công'[4] ư? Giờ đây nước gần thì giao hảo mà nước xa thì càn quấy, lẽ nào trẫm lại phải xuất binh đánh ai sao?"

[2] Việt Nam.
[3] Ấn Độ
[4] Kế trong Chiến Quốc sách, xuất phát t mưu lược của Phạm Tuy, mưu sĩ của Tần Chiêu Tương vương, ý là kết giao nhng nước xa, tấn công nhng nước gần.

"Viễn giao cận công chắc chắn không nên." Cố Uyên nói, "Hiện nay láng giềng giao hảo, còn nhìn xa ra chút, phía Bắc có La Sát, phía Đông có người Oa, phía Tây có người Ba Tư, phía Nam có Tây Dương, lẽ nào lại để Đại Tề đơn độc ứng phó?"

"Không sai." Hoàng đế gật đầu, "Chiến tranh thì lại thành đất xấu, không thể nuôi binh, không thể an dân, chiếm lấy cũng chỉ là được cái danh hão, mà còn lãng phí nguồn lực để duy trì." Hoàng đế vốn lo Cố Uyên là người đọc sách, vẫn mang chút tính cách của kẻ sĩ, sợ nàng sẽ giống như một vài quan lại trong triều mà ham cái hư danh của việc làm bá chủ được bốn phương thần phục, không ngờ Cố Uyên lại suy nghĩ chu toàn, có tình có lý chứ không có cái thói nói suông.

Tâm tình tốt hơn, Hoàng đế dứt khoát nói hết nỗi lo trong lòng: "Nay phủ Trấn Ninh đã tự ý ký một khế ước thuê mướn với người Tây Dương, lại còn cho thuê một nửa hòn đảo hoang trực thuộc phủ Trấn Ninh để làm bến cảng. Chắc chắn bọn ngoại bang kia đã nhét đầy bạc vào túi quan lại ty Thị Bác rồi, ngay cả quan lại trong triều cũng có người nói đỡ, bao che cho chúng. Nếu trẫm cứng rắn huỷ khế ước, tuy cũng không phải là không thể, nhưng rốt cuộc là ta lại trở thành bên thất tín, làm mất danh tiếng của triều đình. A Uyên, nàng từng sống ở phủ Trấn Ninh, nàng có từng nghe qua tình hình ở đó không, bây giờ ra sao rồi?"

"Thuê một nửa hòn đảo hoang ư?" Cố Uyên nhíu mày suy nghĩ, "Xin thứ cho nô tỳ nói thẳng, nếu hòn đảo hoang đó là đảo Trấn Minh thì tàu thuyền của người Tây Dương đã cập bến ở đó hằng năm kể từ khi phụ thân nô tỳ rời khỏi ty Thị Bác rồi. Khi đó phụ thân còn tự mình đi một chuyến, đích thân trình văn thư lên ty Thị Bác. Lại nghe nói Đề đốc Ngô Châu bảo mấy kẻ phương xa tới buôn bán thì không hiểu biết gì về quốc nội, cũng không có dấu hiệu phản nghịch hay gây rối, cho nên Đề đốc không chịu đuổi họ đi. Sau đó nha môn phủ Trấn Ninh ra mặt phái mấy nha dịch đến răn đe những người buôn bán đó một phen, rồi sau đó chuyện cũng chìm xuống. Giờ những người Tây Dương đó đã thuê cả hòn đảo rồi sao?"

"Thì ra là vậy." Hoàng đế hiểu ra, "Nhiều năm như vậy mà không hề nhắc đến chuyện tiền thuê, năm nay đột nhiên lại nhắc tới ư? Có lẽ kỳ thi đại khoa sắp đến nên bọn họ lo bị nắm được sơ hở nên mới nghĩ ra chiêu trò này. Thảo nào trong biểu tấu thỉnh cầu của sứ giả Tây Dương có nói đã xây cái gì mà giáo đường, y viện, cư xá... Trẫm vốn lấy làm lạ, nếu là năm nay mới khế ước cho thuê thì sao mà đã xây nhiều nhà như vậy, chẳng lẽ nhà đều làm bằng cỏ? Lại còn nói là có thể làm rào chắn, toàn lắt léo dụ dỗ, đúng là hồ đồ hết sức!"

"Cũng không hẳn là lắt léo." Cố Uyên nói, "Phụ thân năm xưa từng nói với nô tỳ rằng trên đảo đó nhiều đá ít đất, lại không có suối, không thể tự cung tự cấp. Chỉ cần nắm chặt hai thứ này trong tay thì người Tây Dương có làm trò gì cũng không thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát được. Vả lại, đảo Trấn Minh là con đường mà bọn cướp biển thường đi qua để cướp phá, Quan gia đã thấy súng hỏa mai và thuyền của họ mạnh hơn vệ Ngô Châu thì chi bằng cứ miễn tiền thuê cho họ, để họ canh giữ nơi đó, để họ canh giữ nơi ấy, lấy ấy làm thù lao? Chỉ cần phái một quan viên có năng lực để kiểm soát tình hình, nắm chắc nguồn thức ăn và nước ngọt trên đảo thì không còn gì phải lo lắng nữa. Người Tây Dương dù sao cũng vượt biển để đến đây từ xa, nếu có binh đao thì việc tiếp tế cũng không dễ dàng. Triều đình có thể nhân cơ hội này thăm dò thực lực hải chiến của Tây Dương, chờ đến khi Ngô Châu mạnh lên, khế ước thuê cũng hết hạn, bấy giờ thong thả thu hồi lại thì chẳng phải tốt hơn sao?"

"Trẫm cũng muốn thong thả xử lý, chỉ là lo nuôi hổ gây họa thôi." Hoàng đế cúi đầu nghĩ một lát, đột nhiên cười dịu dàng: "A Uyên nói như vậy thì chắc là không sao rồi. Vậy trẫm sẽ chấp nhận thỉnh cầu của họ, trước tiên chỉnh đốn lại người của mình trước, rồi sẽ tiếp tục tính."

Cố Uyên lắc đầu: "Đại sự như vậy sao Quan gia có thể nghe lời của một mình nô tỳ mà quyết định? Vẫn là nên triệu tập quần thần để nghị sự..."

"Trẫm tự khắc sẽ triệu người đến thương lượng, giờ chỉ là chúng ta bàn bạc với nhau thôi." Hoàng đế chống người dậy nhìn Cố Uyên một cái, đột nhiên nghiêng người đến, hôn nhẹ lên má nàng: "Trẫm cũng hỏi riêng những người khác rồi, kẻ thì bảo trẫm hãy khoan dung nhẫn nhịn, người thì bảo trẫm phải đuổi hết bọn họ đi, chỉ có một mình A Uyên có suy nghĩ giống trẫm."

Giọng Hoàng đế vô cùng chân thành, trong lòng Cố Uyên bỗng cũng dấy lên cảm giác đắc ý, rất đỗi tự nhiên ngước mắt cười với Hoàng đế: "Nô tỳ tuy không phải là anh hùng nhưng vẫn may mắn có cùng suy nghĩ với Quan gia."

Hoàng đế ngây ra một lúc, chỉ thấy nụ cười của Cố Uyên đẹp đến lạ thường. Từ ấy, Hoàng đế cứ nghĩ ngợi rất lâu, cho đến khi cả hai người đã chìm vào giấc ngủ thì mới chợt nhận ra: kể từ khi Cố Uyên vào cung tới giờ, đây là lần đầu tiên nàng nở một nụ cười thật tâm với mình.

—— Hết chương 52 ——

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip