CHƯƠNG 39: XEM KỊCH HIỂU TÌNH
Gần đây Yến Kinh mới mở một rạp hát mới gọi là Hy Di, rạp hát thì thường thấy, nhưng hiếm có là một gánh hát với toàn các nhạc công, đào kép là người Hồ mang tài nghệ ra để làm trò tiêu khiển như thế này.
Chỉ bởi cái gánh người Hồ với mũi cao, mày rậm, thân hình vạm vỡ mà cao lớn này, họ tinh thông mọi thứ từ ca hát, kéo đàn, gảy đàn, đến nói tiếng quan thoại cũng rất trôi chảy và chẳng hề rụt rè, thế nên từ khi khai trương, Hy Di Viên đã được cả bọn công tử nhà giàu trong kinh lẫn dân thường ngoài phố đều yêu thích, ai nấy kéo đến để thử cái mới lạ. Chẳng cần nói đến các lầu gác đều chật kín chỗ, ngay cả đám người đứng ngoài lan can xem ké cũng kề vai chen chân chật cứng. Bảng đặt mua vé xem hát ở cửa mỗi ngày đều bị giành giật hết sạch chỉ sau khắc đầu giờ Dậu, thu hút không ít người làm ăn buôn bán thức thời, dọc con phố ấy cũng bày bán vô số các loại thoại bản, truyện kịch. Luận về thanh thế và sự khoa trương, nhất thời Hy Di Viên đã lấn át cả hai gánh hát trực thuộc Giáo Phường Ty.
Khoảng sân trống trước sân khấu được gọi là trì, không đặt bàn ghế, chủ yếu dành cho người dân thường mang theo ghế đẩu nhỏ hoặc ngồi bệt ngay xuống đất, nơi ấy, họ có thể nhâm nhi chút trà thanh.
Ba mặt xung quanh là các lầu, mỗi lầu ba tầng, các tầng cách nhau vài thước, được bố trí với hoặc là giường mềm và bàn nhỏ, hoặc là ghế xếp và bàn vuông. Đặc biệt là tầng trên cùng, cách bài trí vô cùng xa hoa lộng lẫy, lại không hề nghe thấy tiếng lách cách ồn ào, đích thị là chỗ ngồi trang nhã.
Đúng lúc này, Thác Bạt Viễn, ông chủ của Hy Di Viên, nghe tiểu tử hầu cận báo lại sự việc, liền nhấc chiếc mũ rộng vành trên bàn đội lên đầu mà cố che đi mớ tóc xoăn dày dài rối bời, vội vàng đứng dậy đuổi ngay theo.
Chỉ vài bước sải dài hắn đã bước lên cầu thang gỗ, may mắn là đã kịp chạy lên trước lúc người kia vén rèm, vội nói: "Ối chao, Hồ đại nhân hôm nay có nhã hứng!"
Sau trận đại hồng thủy, những kẻ phụ lòng thánh ân, tham ô nhận hối lộ như Thẩm Túc Châu và Nguyên Tuấn Dã khó tránh khỏi việc bị Hình Bộ bắt giam và xét xử. Gần đây, Hồ Lai Ngạn cứ quanh quẩn ở phủ nha xem xét các cuộn hồ sơ cũ, chỉ mong tìm được một hai tiền lệ giảm nhẹ tội danh để có thể chen chân tìm ra sơ hở, nhưng khổ nỗi, về bản chất thì hắn vốn là Diêm Vương chuyên trị việc xử tử người ta, làm sao ông trời có thể độ cho hắn làm cái việc cứu đời hay giúp người ta thoát thân được? Chẳng thu hoạch được gì, mà bên kia Hàn Nho cùng Lỗ Vương đều theo dõi sát sao, vậy là hắn không thể nghỉ ngơi hay thả lỏng dù chỉ một khắc. Áp lực và buồn bực nghẹn ứ trong lòng đã lâu, ngực đau tức khó chịu, nên mới tìm đến Hy Di Viên nghe hát giải sầu. Vừa bước vào rạp hát hắn đã được tiểu tử hầu cận báo rằng các nhã toạ ở lầu ba đều đã được bao hết, lại hỏi xin Hồ đại nhân tạm chấp nhận ngồi ở lầu hai được chăng?
Tạm chấp nhận? Hồ Lai Ngạn lập tức lườm nguýt cái tiểu tử ấy một cái, xốc áo bào đi thẳng lên lầu ba.
"Nhã hứng?" Hồ Lai Ngạn sờ sờ chòm râu, nheo mắt cười lạnh: "E là nhã hứng đã bị tên nô tài tiện kiếp to gan không biết điều của cái Hy Di Viên này của ngươi làm cho mất hết rồi!"
Thác Bạt Viễn vội vàng cúi mình xin lỗi, bảo sẽ dùng gậy đánh chết tiểu tử hầu cận kia, vừa nói lại còn vừa liếc mắt về phía rèm ngọc, hạ giọng: "Bên trong ấy giờ đang thờ một tiểu tổ tông, phải năn nỉ van xin hết lời thì cô ta mới không bao hết cả cái rạp hát này đấy ạ." Hắn ta vừa nói vừa mạnh dạn kéo Hồ Lai Ngạn xuống lầu, cười cười nói: "Hồ đại nhân hôm nay đến thật đúng lúc, Diệp Thu Nương mà ngài từng khen là viết kịch hay ấy mới viết mấy kịch bản mới, mùi mực còn chưa tan, được cất cẩn thận trong hộp, chỉ chờ ngài đến xem thôi..."
Hồ Lai Ngạn gạt mạnh hắn ra, mặt sa sầm lại, chỉnh trang vạt áo rồi nói với ánh mắt đầy vẻ âm hiểm: "Ngươi có phải là đã kiếm đủ tiền rồi không? Cái Hy Di Viên của ngươi e rằng còn chưa kịp cắm rễ vững chắc trong Kinh thành mà ngươi đã dám không coi ta ra gì rồi đấy à?" Hắn ta tiện tay tóm lấy một tiểu đồng trẻ tuổi mắt sâu mũi cao rồi đá cho mấy cú thật mạnh để xả cơn tức, vuốt phẳng lại áo bào, bình tâm lại một chút mới cười lạnh: "Cái rạp hát này toàn là người Hồ, muốn ta gán cho một tội danh e rằng dễ như trở bàn tay, vừa hay mấy hôm nay trong lao mới kéo ra hai cái xác, hay ông chủ Thác Bạt muốn nếm thử nhục hình xứ Trung Nguyên chăng?"
Vở kịch mới có tên 'Trích Tiên Oán', mặc dù toàn là người Hồ diễn nên khó tránh khỏi có chút thay đổi ở những chi tiết nhỏ, nhưng vẫn là thấy được hình hài của nguyên tác. Vở diễn kể về thời Đức Tông, Địch Lam vì muốn rửa oan cho cha mà nữ cải nam trang, sau khi thi đỗ Tam Nguyên, trải qua sóng gió quan trường, làm quan đến chức Cửu Khanh, cuối cùng án oan được rửa, lại giúp Đức Tông Hoàng đế cải cách quan chế, chỉnh đốn triều cương. Sau khi thân phận bại lộ, dù vạn dân xin tha nhưng kim khoa ngọc luật tuyệt không thể vi phạm, cuối cùng vẫn phải chịu cảnh đầu thân chia lìa.
Đúng lúc này, trên sân khấu đang diễn cảnh Nhị phẩm Thượng Thư Lại bộ Địch Lam được Hoàng đế ban hôn, gả Hoài Tư Công chúa mới mười lăm tuổi cho, rồi phong làm Phò mã.
Trong đêm tân hôn, Hoài Tư Công chúa và Phò mã Địch Lam ngồi thắp nến chơi cờ suốt đêm, mãi cho đến gần sáng, Hoài Tư Công chúa mới ngủ thiếp đi. Địch Lam thổi tắt nến, khẽ khàng bế Hoài Tư Công chúa về giường, sau đó dùng dao găm rạch ngón tay, chấm một vệt máu giả làm lạc hồng.
Nhìn Hoài Tư Công chúa hồi lâu, Địch Lam thở, rồi chọn một chiếc bàn sách làm gối để ngủ tạm.
Địch Lam trên sân khấu giả vờ ngủ, còn Lục Hòa dưới khán đài lại gật gù liên tục, đã sắp ngủ thật đến nơi rồi.
"Hoài Tư là nữ tử, Địch Lam cũng là nữ tử..." Nghi Dương hai tay chống cằm, xem say sưa, miệng lẩm bẩm, ánh mắt mơ hồ như có điều gì đó mới được khai sáng.
Trong lòng nàng lại lặp lại mấy lần, càng niệm thì những lời ấy càng uốn lượn quanh co rồi biến thành một hình dạng khác – Hoài Tư là Công chúa, Địch Lam là Phò mã, Hoài Tư là nữ tử, Địch Lam cũng là nữ tử, ta là nữ tử, Lục Hòa cũng là nữ tử, ta là Công chúa, Lục Hòa là Phò mã...
Lục Hòa là Phò mã...
Lục Hòa là Phò mã?!
Lông mày bỗng giật mạnh một cái, Nghi Dương cố gắng trấn tĩnh, nén lại tiếng kêu kinh ngạc suýt chút nữa bật ra khỏi cổ họng. Sự hoảng loạn trong đầu chợt lóe lên rồi sau đó hóa thành như ngộ đạo và an tâm, như thể vừa mới dùng tay không gạt đi lớp mây mù dày đặc. Sau đó nàng nhìn sang Lục Hòa đang ngồi bên cạnh.
"Lục Hòa!" Nghi Dương đập mạnh xuống bàn, hai chữ gần như nghiến ra từ kẽ răng, toát lên vẻ phẫn nộ không thể kiềm chế, sự e thẹn vừa mới đây còn trong mắt cũng tan biến không còn dấu vết.
Lục Hòa chợt bật dậy khỏi chiếc giường mềm, đôi mắt mơ màng, cúi đầu đứng nghiêm: "Thần có mặt."
"Vở kịch này nhàm chán đến thế sao?" Nghi Dương chỉ tay ngọc xuống đám đông đen đặc dưới lầu: "Một vở kịch xưa kia bị cấm mà dân gian vẫn còn thích xem, thế mà ngươi lại có thể ngồi đây ngủ gật?"
Không đợi Lục Hòa liếc mắt nhìn theo hướng nàng chỉ, bên dưới đã vang lên những tràng vỗ tay và tiếng hò reo không ngớt, muôn vàn quạ tranh nhau kêu, có thể thấy được cảnh tượng náo nhiệt đến mức nào.
"Không phải thế..." Hai mắt Nghi Dương gần như đã phun ra lửa, Lục Hòa nào dám làm ngơ, lúc này đành phải dốc hết tinh thần ra đối phó, sớm đã ném Chu Công lên tận chín tầng mây rồi: "Thực ra là tối qua thần thức trắng đêm để thảo luận đề án, khó tránh khỏi cơ thể suy nhược mệt mỏi thôi."
Trong thánh chỉ của Hoàng đế đã ghi rõ, tất cả các quan lại trong Kinh thành đều phải soạn thảo đề án về việc ứng phó và cứu trợ thiên tai để trình lên ngự lãm, Lục Hòa, với tư cách Thị Giảng Học Sĩ trong phủ Công chúa cũng không phải ngoại lệ.
Thấy quầng thâm dưới mắt Lục Hòa quả thực đã sẫm lại, Nghi Dương mới miễn cưỡng nguôi giận, thản nhiên nói: "Cứ làm qua loa là được, việc gì phải nhọc lòng hao tổn tinh thần đến thế?"
"Ý của Điện hạ là..."
Quả nhiên vẫn còn non xanh thiếu kinh nghiệm, Nghi Dương kéo nàng ngồi xuống, nhẹ nhàng giải thích: "Hai châu Hồ - Tầm cách Kinh Sư nói xa không xa, nói gần không gần, nhưng việc ứng phó và cứu trợ thiên tai dù sao cũng không phải là công việc nhàn nhã như tuần tra dân chính quân chính, việc ấy vừa có thể tích lũy kinh nghiệm cho bản thân lại vừa có thể thu phục lòng người dưới quyền, có điều đường sá xa xôi, nhiệm vụ vất vả, e rằng sẽ sinh ra bệnh tật." Nói đến đây, nàng chợt cảm thấy lời nói của mình thể hiện quá mức quan tâm, vành tai nhuộm một chút màu hồng, vội vàng tìm một lý do chính đáng khác: "Làm tốt thì có thể được thăng chức ban thưởng, nếu không làm tốt, Phụ hoàng ta cũng nhất định sẽ không dung thứ."
Lục Hòa một lòng chỉ muốn tìm cơ hội thăng tiến, lại quên khuấy mất phải suy xét vì sao hầu như không có quan lại nào tự tiến cử, nàng cúi đầu đáp: "Đa tạ Điện hạ đã quan tâm chỉ bảo."
Nghi Dương là người nhạy bén, đã bắt được một tia hoảng hốt chợt lóe lên trong mắt Lục Hòa rồi ngay lập tức là vẻ chán nản như khi không đạt được mong muốn. Nàng kéo tay của người kia, đôi mắt hoa đào tràn đầy sự chân thành: "Ta biết điều ngươi muốn, ta nhất định sẽ dốc lòng giúp đỡ để tổ phụ ngươi dưới suối vàng được toại nguyện."
Lục Hòa cảm nhận lòng bàn tay ấm áp của nàng, nhận ánh mắt chân thành, và lời hứa đi kèm với giọng nói dịu dàng như thiên lại văng vẳng ở bên tai, nhưng cũng lại khiến trái tim Lục Hòa thắt lại, chìm sâu xuống đáy.
Ông nội thần, trước lúc lâm chung có di nguyện trong nhà phải có một người làm quan, để phụng sự cho quốc gia. Thật không may. quê thần hạn hán liên tục, lũ lụt thường xuyên, các huynh đệ của thần đều qua đời khi còn rất trẻ. Cha thần trọng đạo hiếu, đã nhận di nguyện thì sẽ không thất hứa, chỉ đành cắn răng để thần giả làm nam nhi từ nhỏ, chỉ hy vọng có thể đỗ đạt làm quan.
Lời nói dối đã từng dùng để dối gạt Nghi Dương ngày ấy giờ cứ văng vẳng trong đầu, như một tờ cáo trạng tuyên bố tội lỗi với thiên hạ, khiến Lục Hòa lúc này lòng đầy hổ thẹn mà không có chỗ để trút ra, lại càng sợ hãi phải đối diện với đôi mắt trong sáng chân thành ngay trước mắt. Nàng cúi đầu thấp hơn, lẩm bẩm: "Lời hứa của Điện hạ quý hơn ngàn vàng, thần sau này có làm trâu làm ngựa để đền đáp cũng cam lòng."
"Làm trâu làm ngựa đền đáp thì được gì?" Nghi Dương khẽ cười, có vẻ bất lực. Nàng nâng cằm Lục Hòa lên, nhìn rõ vẻ được mặt ấy thì đầu mày không khỏi cau lại: "Mặt mày ủ rũ thế làm gì? Ta không cần ngươi làm trâu làm ngựa, ta thích tốt với ai thì ta sẽ tốt với người đó, ta chẳng thiếu gì, càng không thiếu người làm trâu làm ngựa cho ta. Ta đối tốt với ngươi, ngươi chỉ cần tự nhiên đón nhận là được."
Đúng lúc này, tiếng ồn ào náo nhiệt từ xa dần dần truyền lại gần.
Trì Lương Tuấn thấy không thể ngăn cản được nữa, đành phải chịu thua, mặc cho Hồ Lai Ngạn ngang nhiên đi tới.
Nào ngờ được tên này, lúc nãy bị chặn ngoài cửa thì kiêu căng hách dịch, làm ra vẻ bề trên, giờ đây lại cúi đầu khép nép như trở mặt hẳn, thận trọng bước đến chỗ Nghi Dương rồi cúi người chắp tay, mặt nở nụ cười: "Thần bái kiến Nghi Dương Điện hạ, chúc Điện hạ thiên tuế."
Nghi Dương nghe thấy tiếng động thì đã sớm rụt tay khỏi cằm Lục Hòa, mà trong lòng vẫn còn chất chứa bao nhiêu lời tâm sự chưa kịp thổ lộ. Huống chi, kẻ phá đám này lại là Hồ Lai Ngạn, chẳng phải kẻ từ trước đến nay chỉ biết răm rắp theo Lỗ Vương đó sao?
Nàng liếc Hồ Lai Ngạn: "Hồ đại nhân đến đây làm gì? Nếu bản cung không nhầm thì hôm nay đâu phải ngày Hưu Mộc?"
Trước khi vén rèm bước vào, nghe Thác Bạt Viễn kể sự tình, Hồ Lai Ngạn chỉ bừng bừng lửa giận muốn tìm người để dằn hắt xả tức trong lòng, nào ngờ vừa bước vào đã gặp ngay Trường Sử Trì Lương Tuấn trong phủ Công chúa Nghi Dương. Thấy ánh mắt hắn có phần né tránh, rồi lại nghe hắn khuyên giải không nên vào bái phỏng, vậy là liền nghĩ ngay đến việc dạo trước đồng đảng và mạc liêu của Lỗ Vương đồng loạt bị giáng chức hoặc bãi nhiệm một cách hết sức bất minh. Hắn bỗng muốn quyết tâm xông vào, xem xem vị chủ tử xưa nay thích võ không thích văn này hôm nay đến đây xem hát vì lẽ gì, có phải có cơ mật gì không thể nói hay không. Nào ngờ, đúng là Nghi Dương đang ngồi ngay ngắn trên xem hát, bên cạnh ngoài Thị Giảng Học Sĩ ra thì không còn ai khác.
Đôi mắt cáo tinh của lão liếc nhìn Lục Hòa đang ngồi bên cạnh Nghi Dương, đảo mấy vòng rồi đứng thẳng dậy chỉ tay về phía Thác Bạt Viễn đứng cách nửa bước sau lưng, cười nói: "Gần đây Hy Di Viên làm ăn phát đạt, chen chúc đông đúc, e rằng có kẻ thừa cơ gây rối, thần đã cử vài sai nha đến tuần tra, mới biết tin Điện hạ hôm nay đến đây xem hát..."
"Sai nha?" Nghi Dương cười khẩy một tiếng: "Bản cung ra khỏi phủ không khua chiêng gióng trống, vào từ cửa sau Hy Di Viên rồi đi thẳng lên lầu ba, cả một đường không hề gặp người ngoài, lại còn dặn dò Thác Bạt Viễn phải kín miệng. Sai nha dưới tay ngươi có phải dính máu tanh nhiều quá nên mũi cũng thính hơn người thường, có thể ngửi thấy dấu vết của bản cung giữa Kinh thành rộng lớn này không? Hay là Hồ đại nhân quả thực lo lắng cho an nguy của bản cung nên ngày ngày đều cử người đi theo bảo vệ?"
Hồ Lai Ngạn nghe vậy, sắc mặt hơi biến, vội vàng đánh trống lảng rồi cười xòa mấy tiếng: "Điện hạ quá lời rồi, cả trái tim thần đây đều dâng cho Bệ hạ và thiên hạ xã tắc, dù có lo lắng cho Điện hạ thì cũng nào có khả năng theo Điện hạ đến nơi mua vui này được! Ngài xem..." Lão ta chỉ vào tóc mai bạc của mình, mặt mày rầu rĩ: "Mấy hôm nay thần bận rộn xử lý những kẻ không biết hối cải như Thẩm Túc Châu và Nguyên Tuấn Dã mà tóc bạc lại thêm mấy sợi!"
"Thế à?" Nghi Dương cười mà không rõ ý tứ: "Hồ đại nhân thực sự là một vị quan chấp pháp nghiêm minh, có được lương thần như vậy là phúc lớn của quốc gia. Vì lo toan chính sự mà tóc cũng bạc cả, bản cung cũng cảm thấy vô cùng lo lắng. Trì Lương Tuấn, giúp Hồ đại nhân sắp xếp lại một chút."
Trì Lương Tuấn dùng vẻ mặt nghiêm nghị đáp một tiếng "Vâng", rồi phủi ống tay áo rộng đi về phía Hồ Lai Ngạn bấy giờ đang biến sắc, mặt trắng bệch như tờ giấy: "Hồ đại nhân cứ yên lòng, phu nhân thần ưa làm đẹp, thường bảo thần giúp nàng nhổ tóc bạc, thần nhổ thành thạo lắm."
Chưa kịp để Hồ Lai Ngạn xua tay từ chối thì Trì Lương Tuấn đã nhanh tay lẹ mắt tóm lấy một nhúm tóc mai đen trắng lẫn lộn, đau đến nỗi Hồ Lai Ngạn lập tức trào cả nước mắt ra, vội vàng giãy ra, vái Nghi Dương một cái xin cáo lui trước khi Trì Lương Tuấn lại nhẫn tâm ra tay lần nữa, thế là ù té chạy xuống lầu.
Lục Hòa nhìn bóng lưng Hồ Lai Ngạn tháo chạy thục mạng mà không nhịn được cười.
Hai má lúm đồng tiền hiện ra trong mắt Nghi Dương, sống động và rạng rỡ in vào đáy lòng nàng, khiến cho nàng không khỏi cười theo: "Cuối cùng cũng chịu cười rồi? Hồ Lai Ngạn vừa tới một cái, ta thấy ngươi đã căng thẳng ra mặt."
"Hồ Lai Ngạn, người này tiếng xấu vang xa, nghĩ ra không ít hình cụ tra tấn để doạ nạt hành hạ dân thường bách tính, thế nhưng lại để cho những kẻ tội ác tày trời nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Thần chán ghét việc phải ở chung với hắn ta." Lục Hòa tiện tay cầm một chén trà, cúi đầu, mượn việc uống trà để tránh phải đối diện với Nghi Dương.
Nghi Dương đợi Lục Hoà uống xong mới nhìn thẳng vào nàng rồi nói: "Sau này, nếu như không có người ngoài thì đừng xưng 'thần' trước mặt ta."
Lục Hòa hơi khựng lại, nén vị đắng thoáng qua trong lòng rồi đáp: "Được."
——— Hết chương 39 ————
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip