Biên Hoang Truyền thuyết 1-10
BIÊN HOANG TRUYỀN THUYẾT
Nguyên tác: Hoàng Dị
Chương I
Vung roi ngăn dòng
Giữa hai con sông Hoài và Tứ có một giải đất hoang vu, hai bề dọc ngang tới hàng trăm dặm, cây cối san sát, làng xóm tiêu điều, trông giống như nơi trú ngụ của ma quỷ. Người Hán phương nam gọi nơi đây là "Biên hoang", người Hồ phương bắc lại tặng cho nó cái tên "Âu thoát". Tên gọi dù khác nhau nhưng đều khẳng định một điều rằng, mảnh đất này là nơi có một không hai trên đời. Đây là quê hương chôn rau cắt rốn của dân lành, cũng là miền đất hứa của những con người dám chấp nhận máu chảy đầu rơi, vô cùng hiểm nguy nhưng lại không ít cơ may vận hội. Nơi đây, kẻ vô danh có thể lập nên nghiệp lớn, anh hùng hào kiệt cũng có thể phơi thây. Hơn thế nữa đây còn là nơi lý tưởng để các cấp triều đình dùng làm chốn ngoại giao bí mật, đối với kẻ bị săn đuổi thì đây lại là chốn an nhàn lánh nạn. Khi thì Biên Hoang là nguồn đào hoa của thời loạn lạc, khi lại là địa ngục trần gian. Không một nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, cũng không có chốn nào hấp dẫn đáng yêu hơn nó. Biên Hoang là chốn mà ông Trời tạo nên cho những ai có bản lĩnh, biết cách chấp nhận những quy định nghiệt ngã để sinh tồn.
Sự tồn tại lạ lùng này của Biên Hoang là nhờ lịch sử lâu đời và những xảo diệu của thời thế. Mối một trang sử nơi đây đều được viết lên bằng máu đào của giang hồ hào kiệt và nỗi khổ hạnh của bách tính trong vùng.
Kể từ khi nhà Hán suy tàn, anh hùng các nơi trỗi dậy, chiến tranh diễn ra triên miên, sản xuất thương nghiệp đình đốn khiến Biên Hoang trở thành hoang vu nghèo đói. Cái ác hoành hành làm cho mảnh đất này xương trắng chất chồng, ngàn dặm xa không một mảy lửa chiều khói sáng.
Thời Tam quốc, Tôn Ngô và Tào Ngụy đối đầu, chiến sự phần lớn nổ ra giữa sông Hoài và sông Tứ làm thành quách tan hoang, ruộng vườn xơ xác, nhân dân loạn lạc muôn phương, khắp vùng vườn không nhà trống, muôn dặm vắng bóng con người.
Đến thời Tây Tấn, khi nhà Tư Mã thống nhất được thiên hạ thì cư dân nơi đây mới có được những ngày tháng yên ổn làm ăn. Nhưng những ngày tháng thanh bình chẳng được bao lâu, Trung Hoa liên tiếp xẩy ra biến cố "Bá vương chi loạn", "Vĩnh Gia chi họa", năm bộ tộc Hồ là Hung nô, Tiên Ti, Khương, Đế, Hạt nổi dậy chống lại nhà Tây Tấn làm nên một trong hai trận phong ba lớn nhất lịch sử, khiến cho vết thương ở mảnh đất này lại một lần nữa không thể liền da. Đến đời nhà Tấn thứ hai, Tấn triều buộc phải chạy tháo xuống phía nam làm thành cục diện nam bắc đối đầu. Vùng sông Hoài và sông Tứ vốn là nơi chịu nhiều tang tóc nặng nề, trở thành biên giới không thành văn của lưỡng triều Nam Bắc. Biên Hoang thành vùng đất nằm lọt giữa hai miền.
Đó là tình thế của Biên Hoang hiện giờ.
Đối với người Hồ xuất thân từ cuộc sống du mục tự do, ở nơi tiếp xúc của hai tộc người cần phải giữ lại một vùng làm nơi hoà hoãn gọi là "Âu thoát", khi không có việc gì xẩy ra, người hai phía không được đi vào nếu không muốn bị đối phương coi là có hành động khiêu khích. Với triều đình nhà Tấn phía nam, họ cũng coi mảnh đất này là không thích hợp cho việc đặt chính quyền, chỉ có thể dùng để thực hiện chiến lược "Kiên bích thanh dã", ngăn chặn kỵ binh nhà Hồ tràn xuống phía nam, mà nếu có xâm nhập cũng sẽ không có nguồn cung cấp hậu cần trong vùng hàng trăm dặm.
Biên Hoang được hình thành nên trong hoàn cảnh kỳ quặc như vậy, nhưng lại được mọi thế lực nam bắc ngấm ngầm thừa nhận.
Biên Hoang giờ đây vô cùng hoang vu, đó chính lại là điều mâu thuẫn lớn. Nơi này nằm giữa hai con sông Hoài và sông Tứ, tiếp giáp bờ tây của sông Dĩnh Thủy, toàn là chốn hưng vượng một thời. Biên Hoang là con đường vận chuyển bắc nam duy nhất, là cây cầu giao lưu thương nghiệp của hai miền, chốn tranh giành quyền lợi của các thế lực cường hào, là trung tâm kéo bè kết cánh làm chuyện phi pháp. Chỉ cần giữ được cái mạng, cho dù là thương nhân, kỹ nữ hay thợ thủ công, bất kể là ai đều có thể tìm cho mình thu nhập gấp hàng chục lần so với những nơi khác. Chính những điều này đã biến nơi đây trở thành nơi có một ma lực lạ kỳ, là nơi ông Trời tạo ra cho những con người có bản lĩnh sinh tồn, dám đánh bạc với số mạng.
Nơi đây vương pháp không thể tồn tại. Những ai đến được đây đều bị coi là Hoang nhân, không phải người nam Tấn, cũng không thuộc các tộc người Hồ phương bắc.
Thành quách đầu tiên của Biên Hoang là một thành to lớn đã bị chiến tranh tàn phá. Biên Hoang nhờ có nhiều năm liền không xẩy ra chiến tranh nên trở thành đỉnh cao chưa từng thấy của sự hưng thịnh. Thật đáng tiếc, chỉ qua một trận giao tranh đến từ phương bắc, tai hoạ ập tới ngay trước mắt những Hoang nhân.
oooooooooooooo
Phù Kiên ngồi trên mình ngựa tại một gò cao, mắt dõi nhìn tiền quân đang rầm rộ bước đi, khoát tay ra lệnh tấn công kể địch sót lại cuối cùng - Nam Tấn. Mục tiêu tấn công trước hết là Thọ Dương, thị trấn chiến lược quan trọng nằm ở bờ nam sông Hoài.
Phù Kiên phấn chấn đắc ý vô cùng. Bảy năm trước, ông ta điều binh khiển tướng tiêu diệt Đại Tiên Ti, thống nhất năm tộc người Hồ, đặt toàn bộ phương bắc nằm dưới gót sắt quân Tần. Cả Hung nô, Tiên Ti, Khương, Đế, Hán đều cúi lạy xưng thần, kết thúc "Vĩnh Gia chi họa". Đã bảy hai năm trôi đi từ khi Tấn triều chạy về phía nam, các tộc chư hầu nhà Tấn giờ đây giống như con nai bị nghẽn trước tắc sau, rơi vào cảnh hỗn loạn như rắn không đầu. Chiến công cái thế của Đế Tần vang danh thiên hạ, Phù Kiên mang thân phận ngoại tộc vào làm chủ Trung Nguyên, quả chưa từng có trong lịch sử.
Hiện nay, tất thảy mọi điều kiện để ông ta thống nhất Trung Hoa đã chín muồi. Hai châu Lương, Ích cùng với trấn Xương Dương đều rơi vào tay Phù Kiên. Thu giang sơn về một mối chỉ là chuyện trong khoảnh khắc, quả là một chiến công rực rỡ không tiền khoáng hậu!
Chuyến đi lần này, nghe lời quân sư, Phù Kiên cử em trai là Phù Dụng làm tướng soái, cử hai tướng Mộ Dung Thùy và Dao Trường làm phó soái, xuất sáu mươi vạn bộ binh, hai bảy vạn kỵ binh, ngoài ra còn tám vạn thuỷ binh xuôi Trường Giang, Hán Thuỷ đi về phía đông phối hợp chiến đấu. Bằng ấy binh lực đủ để đánh cho Nam Tấn quân thiếu tướng ít tan tác không còn mảnh giáp.
Phù Kiên bốn mươi lăm tuổi, thân hình người dân tộc Đế cao to cường tráng, vững vàng trước mọi bão táp phong ba, tràn đầy sinh lực. Bẩm sinh ông đã có khuôn mặt màu tía đầy đặn, râu ngắn như kích, tóc mai liền môi, mũi cao mắt sâu, khí thế hơn người. Lúc này Phù Kiên đang ngồi trên mình ngựa, với phong độ quân vương dõi theo từng vùng đất, dường như đã tiên đoán được thời khắc sụp đổ của nhà Nam Tấn.
Quân Nam Tấn dần dần bị đè bẹp bởi sức mạnh của liên quân hùng mạnh được tập hợp từ các tộc Hán, Đế, Khương, Hạt. Quân binh gần một triệu, đại tướng sau lưng ông cũng có hơn mười người, Phù Kiên đã trở thành lãnh tụ kiệt xuất nhất trong lịch sử các tộc người phương bắc, thành quả mà con người Phù Kiên ông luôn cảm thấy tự hào, bởi nó được sinh ra từ chính sách "Hỗn nhất tứ hải" đã gần như trở thành một chiến lược của ông. Trước Phù Kiên, kẻ thất bại trong chiến tranh không còn con đường nào khác ngoài việc chấp nhận tình cảnh bi thảm nước mất nhà tan, chỉ có người tài như ông mới biết đối đãi kẻ chiến bại. Mỗi lần tiêu diệt xong một nước, ông đều phong vương tử nước đó làm quân thần tại chỗ, ban bố chính sách khoan thứ. Đối với Phù Kiên, đây là cốt lõi của chiến lược thống nhất thiên hạ.
Trong những bại tướng của Phù Kiên đó, thanh danh nổi trội nhất chẳng ai vượt được người đứng đầu bên trái ông là Mộ Dung Thuỳ người Tiên Bi. Con người này võ công cái thế, cây thương "Bắc bá" trong tay đi tới đâu cũng như vào chỗ không người, là vị thống soái chưa hề thất bại trên sa trường. Lại còn phải kể tới các chiến binh Tiên Bi thiện chiến, đã vì ông mà lập biết bao công trạng trên mình ngựa, uy danh vang lừng bốn cõi.
Thu nạp bất cứ ai có thể thu nạp để dùng là phúc lớn của Phù Kiên, nếu không những con người ấy ắt sẽ là kẻ địch vô cùng đáng sợ.
Mộ Dung Thùy kém Phù Kiên mười tuổi, thân hình vạm vỡ, cao hơn ông đến nửa cái đầu, dung nhan tuấn tú, tóc đen dài trùm hai bên vai, dáng hình rắn rỏi, đôi mắt sáng quắc, nhãn thần ẩn liễm khó đoán, tấm lưng rộng thẳng toát lên dáng vẻ uy nghi khó lòng tả xiết.
Bên phải Phù Kiên là Dao Trường người tộc Khương, trông chẳng khác gì một pho tượng sống. Tuy thân hình ngũ đoản, nhưng bù lại cổ to lưng dày, mặt như đúc bằng hàn thiết, chiếc đầu khôi vĩ, hai con mắt tựa như hai chuông đồng, lúc nào cũng ánh lên hùng dũng, cộng thêm đôi thiết xà mâu nặng tới hai mươi lăm cân, thử hỏi có ai dám coi thường! Thực tế, uy danh của hắn tuyệt đối không dưới Mộ Dung Thùy, là một trong những mãnh tướng ưng ý nhất của Phù Kiên.
Các tướng còn lại mỗi người một vẻ, đều đã dày dạn trận mạc chiến trường.
Phù Kiên thu hồi ánh mắt, nhìn khắp lượt tướng sĩ, miệng mỉm cười nói với một giọng như giễu cợt: "Người ta nói rằng, An Thạch không ra thì sẽ như Thương Sinh. Giờ đây An Thạch đã ra, phò Tư Mã Diệu nắm giữ binh quyền, trẫm đang đợi xem hắn ta có thể giở được trò gì?"
Lỗ Quang, tướng người Đế đứng cạnh Mộ Dung Thùy, cười chen lời mỉa mai: "Tạ An thì là cái thá gì ? Chẳng qua cũng chỉ như Ân Hạo, tự coi là danh sĩ phong lưu. Về ăn nói thì chưa ai vượt qua hắn, nhưng với trận mạc thì hắn chỉ có tài đi nhặt kiếm mà thôi!"
"Long vương" Lỗ Quang nổi danh suốt một dải Hoàng Hà, binh khí là một cặp "Hỗn thuỷ thích".
An Thạch là biệt hiệu của Tạ An tể tướng của Nam Tấn, được coi là danh sĩ hàng đầu của Trung Nguyên, nhưng lại ở ẩn tại Đông Sơn suốt mười sáu năm không ra làm quan nên mới có câu "An Thạch không ra, thì sẽ như Thương Sinh", thế nhưng người Nam Tấn lại rất mong đợi và ngưỡng mộ ông ta.
Ân Hạo cũng là danh sĩ đức cao vọng trọng của nhà Nam Tấn, tuy thuộc làu binh pháp nhưng không hiểu gì về thực tế quân sự, theo phò các tướng Nam Tấn là Tổ Thích, Dụ Lượng, Dụ Dực... bắc phạt, thất trận thảm hại quay về, không chỉ mất thanh danh mà còn bị thiên hạ chê cười. Lỗ Quang gộp hai con người Tạ An và Ân Hạo đó lại làm một, ám chỉ những kẻ nhát gan ngu ngốc trong triều đình phương nam.
Các tướng đua nhau lên tiếng, khí thế trào dâng, chỉ có Mộ Dung Thùy và Dao Trường là vẫn nhất mực im lặng.
Phù Kiên nhìn sang hai bên tả hữu, chau mày hỏi: "Hai vị ái khanh có phải là có suy nghĩ gì khác, nhanh nói cho trẫm biết!"
Dao Trường nghiêm mặt vòng tay: "Nhà Tấn tuy yếu, nhưng Trường Giang địa hình hiểm trở, cứ ở mãi thì sẽ nguy hiểm cho chúng ta. Giang Nam giàu có, biết tin quân ta nam chinh, tình thế buộc người phía nam phải đoàn kết chống lại, thần nghĩ là không thể khinh địch..."
Phù Kiện lộ rõ vẻ mặt kiêu ngạo: "Người phương nam vốn có đặc điểm là yêu thích nhàn nhã nên không chú trọng trang bị vũ khí quân lương. Thêm nữa, đại tộc di cư về nam vẫn chưa gắn kết được với các cư dân đã sống lâu đời ở đó. Nếu có chiến sự xẩy ra, đợi khi họ đoàn kết được thì đến khi đó cũng đã muộn. Còn như nói rằng Trường Giang hiểm trở, với bao nhiên quân lính của ta đây, chỉ cần vứt roi, chân bước xuống sông là đã chặn nổi dòng. Phương nam bé nhỏ, lẽ nào lại không tới được!"
Vương tướng phương Bắc dùng Hán ngữ nói chuyện với nhau. Hán ngữ lúc bấy giờ đã là ngôn ngữ thông dụng nhất, chẳng thứ tiếng Hồ nào sánh bằng, trở thành ngôn ngữ dùng cho quan lại khắp các tộc Hồ. Phù Kiên luôn luôn cho rằng bản thân hiểu rất rõ ý nghĩa nho gia Vương đạo của người Hán, chỉ tiếc rằng đã thống nhất bốn phương, duy phía đông nam còn chưa bình định được.
Giờ đây chính là thời khắc lịch sử để ông ta thực hiện tròn giấc mộng bá chủ thiên hạ.
Khi Phù Kiên nhìn sang Mộ Dung Thùy, vị đại tướng bậc nhất giỏi cả võ công lẫn binh pháp thản nhiên tâu: "Binh lực đối phương so với quân ta là thua kém, chỉ nhờ vào một mình Tạ An thành lập, lại do điệt tử của hắn là Tạ Huyền huấn luyện, quân số tuy chưa vượt quá mười vạn nhưng không thể coi thường. Xin Bệ hạ minh xét!"
Phù Kiên gật đầu tán thành: "Khanh nói hay lắm. Tôn Tử từng nói: 'Biết người biết ta, trăm trận bất bại'. Tình hình lần này đã nằm trong sự tính toán của trẫm. Đốc quân tấn công Kiện Khang lần này, người phương nam chỉ có hai cách lựa chọn, một là rời thành ra ngoài nghênh chiến, hai là đóng cửa thành cố thủ. Mà bất cứ cách lựa chọn nào thì người phương nam đều phải trả giá. Trẫm chờ đợi khổ sở đã nhiều năm, đến giờ biên cương phía bắc đã thần phục, sau lưng đã không lo lắng gì, mới có thể dốc hết sức lực một đòn tiêu diệt Tư Mã Diệu và Tạ An. Tạ Huyền cho dù được coi là đại hành gia kiếm thuật bậc nhất phương nam nhưng kinh nghiệm chiến trận còn non nớt, gọi là trăm trận trăm thắng e chỉ là chưa gặp được đối thủ mà thôi. Các tướng trong Nam triều, chỉ có Hằng Xung có thể được coi là nhân vật đáng nể nhờ có mấy phần bản lĩnh của Hằng Ôn cha hắn, đã cầm chân được trẫm tại Kinh Châu. Nhưng họ Hằng giờ đây cũng chỉ có thể ru rú giữ Giang Lăng, không thể ra ngoài nửa bước."
Nói đoạn lại quay về phía sau: "Chu khanh, trẫm đã nói những gì?"
Chu Tự, vị tướng người Hán đứng trội lên ở cuối đoàn thoạt nghe giật mình, vội tâu rằng: "Bệ hạ đã tìm hiểu kỹ càng tình hình phương nam, chỉ cần chỉ tay, vi thần xin được liều mình."
Chu Tự vốn là đại tướng của Nam Tấn, bốn năm về trước chấn giữ Tương Dương bại trận đầu hàng, được Phù Kiên trọng dụng. Phù Kiên thông qua Chu Tự mà nắm được binh lực và bố trí của Nam Tấn, nhưng đó chỉ là tình hình của bốn năm về trước.
Phù Kiên ngửa mặt lên trời cười to vẻ vô cùng đắc ý, tuôn ra một hơi những ý nghĩ từ lâu giấu kín trong lòng: "Chu khanh yên tâm. Trẫm đã nhất quyết mở rộng bờ cõi Tần Đế, lấy cái đức để cảm hoá người, xem bốn biển là nhà, tuyệt đối không chém giết bừa bãi. Sau khi bình định xong phương nam, với người phương nam nhất nhất cân nhắc sử dụng. Tư Mã Diệu sẽ cho làm hữu thượng thư, Hằng Xung làm tự trung, Tạ An cử làm thượng thư bộ lại, căn cứ võ thuật cấp chức phẩm hàm mà dùng người. Trẫm chọn người hiền như vậy, các ngươi xem có được không?"
Soạt một tiếng, Phù Kiên rút kiếm ra, chỉ về phía mặt trời đang nhô dần lên phía đông, đoạn dịch mũi kiếm sang phía nam, về phía đô thành nhà Nam Tấn, hô lớn:
- Đại Tần nhất định thắng!
Chư tướng đều rút binh khí ra. Dao Trường gõ hai đoản mâu vào nhau, tiếng kim loại chói tai, đồng loạt ứng lời hô vang:
- Đại Tần nhất định thắng! Thiên vương Đại Tần muôn năm!
Tiếng hô ban đầu chỉ ở trong phạm vi quân lính hộ vệ xung quanh Phù Kiên, một lúc sau đã vang rền khắp cả đồng bằng sông Tứ Thuỷ, hàng vạn lời hô của binh sĩ tiếp ứng vang rền tựa như làn sóng triều dâng.
Tiếng hô không dứt, trước không nhìn thấy đầu, cuối không nhìn thấy đuôi, đại quân Đế Tần rầm rộ tiến về phía sông Hoài Thuỷ. Khi hạ xong thành Kiện Khang, tộc Hán Trung Nguyên sẽ mất đi căn cứ địa cuối cùng, thành kẻ mất nước, trở thành thần dân của ngoại tộc xâm lược.
ooooooooooooooo
Thành Kiện Khang nhà Nam Tấn ở về bờ nam hạ lưu Trường Giang, gần với cửa biển, là trung tâm quân sự chính trị, kinh tế quan trọng nhất ở vùng hạ lưu, nơi giao thông đường sông, đường bộ và đường biển hội tụ, là điểm tập trung hàng hóa vận chuyển từ bắc tới nam và ngược lại.
Kiện Khang nằm ở dãy gò đồi Kê Lung và Phúc Châu gần sông Hoài, phía đông nam tiếp giáp với bình nguyên Thái Hồ và lưu vực sông Tiền Đường mênh mông, đất đai phì nhiêu. Trường Giang chảy vòng vèo từ tây nam đến đông bắc qua vô số các thành quách, sông Tần Hoài ngoằn ngoèo bên ngoài phía nam thành đổ vào Trường Giang, tạo nên thế hiểm trở, địa hình rồng bay hổ phục tuyệt diệu. Chính vì thế Dao Trường mới nói rằng "Trường Giang địa hình hiểm trở".
Khi Tây Tấn bị Hung nô tiêu diệt, Lạc Thành trở nên tiêu điều xơ xác. Chắt của Tư Mã Ý, vị Hoàng đế đầu tiên dựng nên nước Tấn, Tư Mã Duệ lúc này đang chấn giữ đô thành Kiến Nghiệp do Tôn Quyền xây nên từ thời Tam Quốc, nắm binh quyền của cả Dương Châu và Giang Nam. Khi phương bắc chìm đắm, Tư Mã Duệ dưới sự chi viện của Vương Đảo, Vương Đôn và một số tướng lĩnh chạy về phương nam, dựng lên vương triều nhà Tấn tại Kiến Nghiệp. Kể từ thời Tấn Mẫn đế trở đi, Kiến Nghiệp được gọi là Kiện Khang.
Hơn hai mươi dặm xung quanh Kiện Khang có các cụm thành trì Đông Phủ, Thạch Đầu và quận thành Đan Dương tạo thế vòng cung bảo vệ lấy Kiện Khang ở trung tâm. Đặc biệt Thạch Đầu phía tây là một thành trì quân sự kiên cố, là thần hộ vệ cho Kiện Khang, bởi vậy đánh chiếm Kiện Khang là việc không dễ dàng.
Trong khi đại quân Tần của Phù Kiên tiến vào khu vực hoang vắng Hoài Tứ, tướng Hồ Bân của Nam Tấn đang chốt giữ Thọ Dương thị trấn trọng yếu bờ nam sông Hoài đã nhặt được mật thư do chim câu thám tử từ Biên Hoang gửi tới, biết tin đại quân Tần cả triệu người đang tiến gấp về sông Hoài.
Biên Hoang là nơi nhanh nhạy thông tin, bất cứ nơi nào từ bắc xuống nam có tin tức gì, cho dù là tin thật hay tin giả đều phải qua chốn này. Trên đất Biên Hoang có một đội ngũ chuyên làm nghề "bắn tin". Những người buôn bán tin tức này thông hiểu ngôn ngữ các tộc người, rất giỏi phân biệt thông tin thật giả, nếu không sẽ rơi vào bẫy của người khác mà khó thể toàn mạng.
Nhận được mật thư, Hồ Bân giật mình, đọc đi đọc lại nhiều lần, đoạn lập tức cho báo về Kiện Khang tin tức liên quan đến sự tồn vong của nhà Tấn. Vua Tấn là Tư Mã Diệu hay tin hồn xiêu phách lạc, sợ thông tin bay ra ngoài sẽ làm náo loạn lòng dân, bèn bí mật truyền gọi Tạ An, Vương Thản Chi, Tư Mã Đạo Tử ba người tới trong cung cấm bàn kế giữ nước.
Tạ An là tả Thừa tướng của Nam Tấn, là nhân vật thứ hai sau nhà vua, quản lý toàn bộ công việc triều chính, năm đó sáu mươi tư tuổi. Thời trẻ ông từng là nhân sĩ, sau đó ở ẩn Đông Sơn, năm bốn mươi tuổi được mời mãi mới ra giữ chức Thừa tướng, xây dựng chính sách an dân "Trấn chi dĩ tĩnh" giữ cho nhà Nam Tấn cục diện yên ổn suốt hơn hai mươi năm. Ông cùng với Hằng Xung một văn một võ là hai trụ cột của triều đình Nam Tấn, được gọi là "Giang tả nhị Huyền".
Tình thế Nam Tấn lúc đó, địa dư triều đình cai quản chỉ có hạ lưu Trường Giang và lưu vực Mân Sơn, Chu Giang trong đó bao gồm cả hai châu Kinh, Dương đều rất quan trọng về quân sự và chính trị. Dương Châu trấn thủ phía bắc cho thủ đô Kiện Khang, Kinh Châu ở vào đoạn giữa Trường Giang, địa hình hiểm trở, là thị trấn quan trọng về mặt quân sự của Nam Tấn. Kinh Châu nằm trong vùng Nhị hồ, thích sử Kinh Châu ngoài lo chính sự tại địa phương con phải thường xuyên kiểm tra tình hình quân sự các châu phụ cận nhằm kịp thời đối phó với Hồ tộc phương bắc vốn đất rộng quân đông. Phàm là người cai quản hai phủ thành này đều phải là nhân sĩ xuất sắc.
Nói tới triều đại Nam Tấn, các thế lực trung ương và địa phương đều tranh chấp vùng này, chủ yếu là hai châu Dương, Kinh. Trước đấy một đời, Kinh Châu do Hằng Ôn nắm giữ, lợi dụng quyền thế, có dã tâm với Triều đình. May mà đương nhiệm tri phủ là Hằng Xung con của Hằng Ôn dã tâm lại không bằng cha nên hai châu Dương Kinh mới được yên ổn.
Phù Kiên coi trọng ba người trong Tấn triều, ngoài vua Tấn và Tạ An ra, Hằng Xung cũng được coi là nhân vật đặc biệt.
Là quan lại phong lưu bậc nhất triều Tấn lúc bấy giờ, Tạ An cho dù tuổi đã xế chiều nhưng vẫn đường bệ đàng hoàng, tay phe phẩy quạt lông chẳng khác nào Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, khuôn mặt tuấn tú, râu dài, thân hình dong dỏng cao, dáng vẻ đầy ung dung tự tại.
Vương Thản Chi, con trai của khai quốc công thần Vương Đảo, là Hữu thừa tướng Tấn triều, quyền cao chức trọng chẳng kém Tạ An, năm ấy năm mươi hai tuổi, vẻ ngoài chỉ kém cạnh Tạ An một chút, hiềm nỗi hơi béo, tóc đã điểm sương, bù lại nụ cười luôn luôn túc trực trên môi, tiếng nói ôn tồn dễ nghe, tuy có béo nhưng không quá ư phì nộn, phong thái quý tộc thong dong đầy tự tin.
Vương, Tạ hai nhà là hai dòng họ quý tộc nổi tiếng triều đình nhà Tấn. Kể từ khi triều Tấn di xuống phía nam, cả hai nhà đều hết mình phò tá không tiếc sức lực. Vị trí quan trọng nhất trong triều đình đều do người hai nhà thay nhau nắm giữ. Trải qua mấy chục năm, quan hệ hai nhà hết sức gần gũi, lai càng bền vững nhờ kết thông gia, cùng ra sức phò giúp triều đình.
Tư Mã Đạo Tử là em ruột của Tấn Đế Tư Mã Diệu, là nhân vật cao quý thứ hai của hoàng tộc, nay giữ chức thượng thư lục viện, chuyên trông coi công việc triều chính ở các địa phương, quyền lực đủ khống chế được Tạ An, là đối trọng với Tạ An trong triều, bởi vậy mà quan hệ của ông ta với Tạ An không mấy mặn mà.
Tư Mã Đạo Tử năm nay ba mươi tám tuổi, dáng người cao gầy, mũi dọc dừa, để ria, mái tóc dày rậm, chuyên tâm tập luyện võ nghệ nên hình thể khoẻ khoắn, có đủ phẩm chất cao quý của bậc vương giả, duy chỉ có đôi mắt một mí ti hí thể hiện bản chất lạnh lùng tàn nhẫn. Lưng luôn đeo cây kiếm "Vong ngôn", là loại vũ khí sắc bén lợi hại nhất của Tấn triều. Trong thành Kiện Khang, ngoài Tạ Huyền và con trai Vương Quốc Bảo là Vương Thản Chi ra thì về võ công không có ai so được với Tư Mã Đạo Tử.
Biệt phòng của cung đình là nơi Tư Mã Diệu giải quyết công việc triều chính. Kể từ khi lập nước, nơi đây chỉ có hai lần họp bàn chuyện nước sôi lửa bỏng của quốc gia.
Tạ Thạch em trai Tạ An ở ngoài cung đợi hầu từ giờ ngọ cho mãi tới hoàng hôn, chờ mãi Tạ An mới xuất hiện, dù dáng bộ vẫn tỏ vẻ thư thái nhưng đôi mắt đã lộ rõ sự mệt mỏi. Điều này Tạ Thạch chưa bao giờ thấy ở anh mình, chứng tỏ cuộc họp là vô cùng quan trọng.
Tạ Thạch tiến về phía trước, Tạ An đứng lại ngay, cất giọng nặng nề:
- Hãy tìm Tạ Huyền lại cho ta!
----------------------------------------------------
(Hết chương 1)
Chương II
Nạn lớn trên đầu
Những gì còn lại của Hạng Thành chỉ là một sự đổ nát, đường xá cỏ mọc um tùm, kênh ngòi bị đất lấp kín, chỉ còn sót lại một toà lầu chuông cao mười lăm trượng giữa trung tâm Biên Hoang, trong lầu vẫn treo một chiếc chuông đồng.
Từ lầu chuông phát xuất bốn con đường lớn, lần lượt nối tới cửa đông, cửa bắc, cửa tây và cửa nam thành, các con đường khác đều chạy theo bốn đường lớn này. Chu vi Hạng Thành kéo dài hai mươi dặm, là thành phố có quy mô trung bình lúc bấy giờ.
Cửa hiệu trong thành đều mới được xây dựng trong vòng mười năm gần đây, kiến trúc hầu hết là thực dụng, không mấy hào hoa tốn kém, thể hiện rõ đặc trưng phong cách của cư dân Biên Hoang.
Tại Biên Hoang, tất cả đều lấy lợi ích làm mục đích, không có bạn suốt đời, cũng không có kẻ thù suốt đời. Trên lãnh thổ Trung Hoa, hận thù dân tộc ngày một sâu sắc, nhưng ở Biên Hoang tình hình lại không như vậy, thực tế đã khiến con người ta biết cách nhẫn nhịn thoả hiệp, dựa vào nhau mà sống, mà kiếm chác lợi nhuận.
Sáu thế lực chia nhau nguồn lợi lớn của biên Hoang, lớn nhất là Đế Bang, Hung Nô Bang, rồi lần lượt đến các bang Hán, Khương, Kiệt.
Trong sáu bang hội đó, Hán Bang không phải lớn nhất nhưng lại có vị trí đặc biệt, bởi là bang hội duy nhất khống chế được nguồn hàng hoá từ phương nam tới, các bang phái khác phải có sự hợp tác của Hán Bang mới có cơ may kiếm lời. Thế nhưng đây là chuyện hôm qua trở về trước, theo đà nam phạt của Đế Tần, tình thế đã đảo ngược tất cả.
Thế lực của Đế Bang, trong điều kiện bình thường, không dám công kích bất cứ bang hội nào, hơn nữa nếu ra tay mà thất bại thì khó lòng thoát nổi vận hạn ở Biên Hoang chứ đừng nói rằng còn thế lực mà trụ lại được. Bốn con đường chính tại Hạng Thành này vốn rất sầm uất, người xe đi lại như mắc cửi, cửa hiệu hai bên dày đặc, nhà thổ sòng bạc, quán trà phòng trọ đủ cả không thiếu thứ gì. Tuy nhiên, "Biên Hoang đệ nhất lâu" trong phạm vi cai quản của Hán Bang ở cửa đông là nổi tiếng nhất. Ông chủ Bàng Nghĩa ngoài kinh doanh giỏi giang, tài nấu ăn cũng hơn người, có thể đáp ứng được nhiều kiểu cách chế biến thực phẩm tuỳ theo sở thích khẩu vị khách hàng. Nhưng chủ yếu nhất là kỹ nghệ ủ men "Tuyết giản hương", chỉ duy nhất mỗi nhà này, ngoài ra không tìm thấy đâu khác.
"Biên Hoang Đệ nhất lâu" kiến trúc toàn bằng gỗ quý, lầu cao hai tầng, mỗi tầng kê hơn ba mươi bàn ăn lớn. Tầng lầu trên cùng về phía ngoài đường được quây lan can tạo thành mặt bằng, trên đó chỉ kê mỗi một bàn.
Lúc bấy giờ, trên tầng hai tòa lầu chỉ có một mình Yến Phi, một người một cốc, tự rót tự uống, nét mặt trầm ngâm, mắt nhìn xuống đường phố phía dưới.
Đường phố đang đông cứng nam phụ lão ấu người Hán, còn có vô vàn người từ các ngõ ngách nữa vẫn không ngừng xô tới nhập vào đội quân đông đảo đó. Khung cảnh vô cùng huyên náo, những tiếng người hô, ngựa hí, lừa kêu, còn có tiếng cót két của những cỗ xe lăn trên đường. Cửa hàng cửa hiệu khóa chặt, không ai muốn làm nô lệ cho Phù Kiên, chỉ mong thu nhặt được chút tài sản rồi vội vàng rời khỏi Biên Hoang, dù có phải đến bất cứ nơi nào chưa biết cũng được.
Khác với cửa đông, phía tây thành lại yên tĩnh lạ thường, vẻ yên tĩnh uy hiếp khủng bố. Thanh bảo kiếm "Điệp luyến hoa" danh trấn thiên hạ được treo phía trên bên phải bàn càng làm tăng thêm vẻ trầm trọng khác thường.
Sự tương phản giữa nhốn nháo tột cùng và yên tĩnh đáng sợ đó chẳng khác nào báo trước một đại họa đang đến gần.
Một luồng nắng sớm chiếu xuống khoảng đất bằng phía đông Biên Hoang, trên trời cao mây dày lớp lớp bao trùm như đang tích tụ phong ba, càng làm cho lòng người hớt hải.
Khi tin tức đại quân Phù Kiên nam chinh truyền tới, các cửa tây, nam, bắc Hạng Thành ngay lập tức bị người các tộc Hồ phong tỏa, chỉ có cửa đông vốn nằm trong lãnh địa Hán Bang là mở ra cho người Hán chạy nạn.
Yến Phi nâng cốc nốc cạn một hơi.
Đã tròn một năm rồi.
Chỉ một năm trước đây thôi, bàn chân Yến Phi đã đặt lên khắp vùng Biên Hoang, từ một tay kiếm không tên tuổi, sau mấy tháng đã nổi đình đám, trở thành kiếm thủ khó ai sánh cùng, tình yêu với Biên Hoang cũng theo đó lớn lên, từ chỗ ghét cay ghét đắng dần dần hắn lại yêu quý mảnh đất này. Bước ngoặt ấy thực ra cũng là lẽ thường tình, lúc đầu, hắn vốn nghĩ mảnh đất này chỉ là nơi thi thố âm mưu và võ công, không từ thủ đoạn nào tranh lợi cho bản thân. Nhưng dần dần hắn nhận ra, trong hoàn cảnh ác nghiệt ấy, con người ta mới có cơ hội để tỏ rõ bản lĩnh. Yêu ghét ái thù, người Biên Hoang có những lý lẽ sống riêng của mình.
Giờ đây, cuộc sống Biên Hoang đã bị sự xuất hiện của Phù Kiên làm cho đảo lộn. Tất cả quá khứ, hiện tại, tương lai đều bị cuộc đại biến trước mắt làm mất đi ý nghĩa thuờng ngày.
Yến Phi nhấp một hơi Tuyết giản hoa, cảm nhận chuỗi ngày quý giá đang bị cơn phong ba chiến tranh từ phương bắc tới làm cho tan thành mây khói. Cho dù sau cuộc chiến này hươu về tay ai thì thiên hạ cũng sẽ vĩnh viễn không còn là thiên hạ của khi xưa nữa. Dù cho cuộc sống trước đây không phải hoàn toàn là đáng lưu luyến, nhưng cơn ác mộng sắp ập đến lại càng đáng sợ hơn.
Tiếng chân vội vã bước lên cầu thang cắt ngang dòng suy nghĩ của Yến Phi. Không cần ngoái lại hắn cũng biết đó là ông chủ Bàng Nghĩa. Bước chân thường ngày thong dong vững chãi, giờ đây hấp tấp nặng nhẹ không đều, có thể đoán được nỗi khiếp sợ trong lòng Bàng Nghĩa lớn đến thế nào, đó âu cũng là lẽ thường tình khi đại họa với người Hán đang sắp ập đến.
Yến Phi lạnh nhạt: "Hãy giữ lại hai bầu rượu ngon cho ta, xem như là chia tay vậy!"
Bàng Nghĩa lên lầu, nhìn khắp lượt mọi thứ, tay vuốt ve chiếc bàn đã thân thuộc sao bao năm hành nghề.
Tấm lưng của Yến Phi rọi vào mắt lão. Mỗi lần nhìn thấy tấm lưng đó lão đều cảm nhận một sự tin tưởng khó tả, rằng đôi vai rộng của con người này có thể đảm đương một trách nhiệm lớn lao, chỉ cần hắn ta quyết chí.
Chẳng hạn như việc ở lại giữ gìn tòa lầu này.
Bàng Nghĩa lúng túng không biết nên mở lời ra sao, tuy là chuyện thuê mướn trả tiền, vậy mà trong lòng lão không khỏi xúc động.
Yến Phi làm như không biết Bàng Nghĩa đi tới bên cạnh, lại nâng cốc uống cạn một hơi, mắt vẫn nhìn xuống đoàn người chạy nạn trên đường phố.
Bàng Nghĩa lúc đó mới chau mày nói: "Khi tất cả người Hán đã đi khỏi, liệu lũ quỷ Đế Bang có chịu nói lý với ngươi không? Hôm trước ngươi đã đánh bị thương hai người bọn chúng, tốt nhất hãy cùng chúng ta chạy đi!"
Yến Phi ngang tàng duỗi chân, lộ rõ khí phách dọc ngang trời đất, đôi mắt sáng ngời nhưng rất khó nhìn thấy đáy mắt, chút hồi tưởng trong lòng bỗng vụt lên.
Trước con mắt của hắn là hàng trăm dặm đất đai hoang tàn, đủ để chứng minh nỗi khổ đau thời đại. Không ai biết thân phận Yến Phi ra sao, chỉ lạ một điều, chém giết tranh đấu bằng ấy thời gian mà đôi mắt hắn vẫn giữ được vẻ sáng trong khó tả. Thân hình cao lớn lực lưỡng như một pho tượng đá, lại mang một khí chất thanh thoát kỳ lạ. Chỉ có điều, lấy Bàng Nghĩa ra để so sánh với Yến Phi thì Yến Phi không những lười biếng, là con người chỉ biết sống đoạn tháng qua ngày, không biết tính toán, lúc nào cũng say bí tỉ, chẳng khác nào đang cố ý vứt đi tuổi thanh xuân tươi đẹp. Nhìn kỹ, Yến Phi hẳn có dòng máu người Hồ, vẫn còn mang phong cách hào hùng phóng khoáng của dân du mục phương bắc. Tóm lại một điều, Yến Phi quả là một con người xuất chúng. Ngay từ đầu Bàng Nghĩa đã không dám coi khinh hắn ta, dù luôn luôn cho rằng, con người như Yến Phi, cứ ở nơi hoang dã này đánh lộn suốt ngày thì thật là uổng phí.
Yến Phi không quay lại, nhưng âm thanh ôn tồn vẫn vẳng bên tai Bàng Nghĩa:
- Còn nhớ lời ông đã nói chứ! Chớ có nặng tình với bất cứ người hay vật nào ở chốn Biên Hoang này. Đã kiếm đủ tiền rồi thì hãy tìm tới nơi thật xa và quên đi hết những chuyện xảy ra. Chúng ta vốn sớm có cam kết rồi, ông đưa tiền cho tôi, tôi giết người cho ông. Một bên bán một bên mua, không ai nợ ai cả. Thế thôi, ông đi đi! Hãy sống những ngày tháng vui vẻ, đừng có canh cánh trong lòng, chập chờn mỗi giấc ngủ rằng ngày mai Đệ nhất lầu sẽ bị người ta đập phá.
Bàng Nghĩa cất tiếng cười khổ sở, giơ tay giành lấy bình Tuyết giản hương, tu một hơi như dốc cả rượu vào trong cổ họng, đoạn thở dài: "Những ngày tháng vui vẻ ư? Làm gì còn chốn nào để sống được an nhàn, người Hán chúng ta còn đâu hi vọng nữa? Bàng Nghĩa ta chịu muôn vàn cay đắng chạy từ phương Bắc tới đây, một lòng mong mỏi dụng tay nghề kiếm chút của cải, thành lập gia đình, an cư lạc nghiệp. Tất cả đều đã hết rồi, Biên Hoang cũng đã hết, sông núi phương nam sẽ biến thành mồ chôn những sinh linh. Yến Phi, ngươi làm anh em với ta cũng được, không làm cũng chẳng sao, ta không thể để cho ngươi vì ta mà mổ bụng moi gan người khác. Đi đi thôi! Chúng ta cùng đi nào!"
Yến Phi giơ tay nắm lấy mép bàn, đưa mắt nhìn Bàng Nghĩa, mỉm cười:
- Tin truyền về đêm qua, các bang Đế, Hung nô và Khương đã sớm động viên toàn lực lượng, trước tiên phong toả bến thuyền, tịch thu tất cả thuyền bè, đánh bị thương hàng trăm người, ép đến nỗi người Hán cửa đông chỉ còn có cách chạy bộ lánh nạn. Ông có biết mục đích của bọn chúng là gì không ?
Bàng Nghĩa hầm hầm tức giận:
- Lũ thỏ đế kia lẽ nào lại còn mượn gió bẻ măng, giết người cướp của?
Cặp mắt lão ta nhìn xuống đường phố muôn người hỗn loạn mà lo lắng cho tương lai của họ.
Yến Phi vẫn giữ nét mặt thản nhiên: "Nhớ mang theo con dao chặt thịt của ông, sau khi ra khỏi thành cứ theo chỗ vắng mà chạy thì có thể giữ được tính mạng."
Bàng Nghĩa giật mình hít sâu một hơi, ngắm nhìn biển người không ai giúp đỡ chật ních trên đường phố cửa đông, sợ hãi hỏi: "Còn họ thì thế nào?"
Yến Phi giơ hũ rượu lên rót, cười một cách khổ đau:
- Tôi năm nay hai mốt tuổi, từ nhỏ đến lớn mắt nhìn toàn chuyện bất bình, những điều chứng kiến toàn là thảm kịch, muốn giơ cao nắm đấm dẹp yên thiên hạ cũng không biết nên bắt đầu ra sao. Cũng may là giờ đây rốt cuộc đã có một cơ hội. Chúc lão bản của Hán Bang không tốt với tôi, nhưng tôi không thể không thừa nhận rằng ông ta là kẻ giang hồ sáng suốt, nhất định sẽ bảo hộ cho người Hán chạy nạn an toàn. Người của ba bang muốn đuổi theo, trước hết phải qua được cửa ải mà Yến Phi tôi đây canh giữ. Đừng có khuyên nhủ gì nữa, ông nên đi ngay cho. Cứ để một mình tôi với thanh kiếm này, Yến Phi tôi khắc có đường sống!"
Tới giây phút này, Bàng Nghĩa mới hiểu được sự cao thượng vốn giấu kín trong lòng vị kiếm khách lạnh lùng này. Lòng lão ta vô cùng cảm động, chỉ còn biết đứng nhìn Yến Phi trân trân.
Yến Phi giơ cao bàn tay phải nắm chặt bàn tay Bàng Nghĩa, cười lớn:
- Mỗi người có quyền lựa chọn cuộc sống cho mình, biết rõ bản thân đang làm gì thì không phải là ngốc nghếch. Sau khi rời khỏi nơi này ông hãy quên hết đi, chớ có nói thêm gì nữa. Hừm! Ông cho tôi tiền tài, tôi thay ông giết người, cam kết vẫn còn giá trị đó.
Bàng Nghĩa buông tay, ôm chầm lấy Yến Nghĩa nghẹn ngào:
- Đệ đã biết chỗ ta giấu rượu. Khi cần đó có thể là nơi ẩn náu an toàn nhất của đệ.
Nói rồi lướt ánh mắt qua thanh kiếm Điệp luyến hoa, hai mắt đỏ ngầu xúc động, chạy nhanh xuống lầu.
Yến Phi lại uống một hơi Tuyết giản hương, nhìn theo Bàng Nghĩa tay nải ngang lưng đang hòa vào dòng người chạy nạn cuối cùng, mất hút ra ngoài cửa đông. Dòng người đi qua, cả con đường chợt trở nên vắng lặng như tờ, hệt như nơi ở của ma quỷ.
Tiếng vó ngựa dồn dập truyền từ đường phố khác tới.
Yến Phi nốc cạn rượu trong bát, ngửa mặt nhìn bầu trời xám xịt mây đen, tưởng như đã nhìn thấy ngày cuối của cuộc đời.
Sống có gì đáng vui? Chết có gì đáng sợ ?
oooooooooooooooooo
Cung Kiện Khang nằm phía bắc Kiện Khang thành, cửa nam thành gọi là cửa Đại Tư Mã. Từ cửa Đại Tư Mã đến cửa Tuyên Dương hướng chính nam nhìn ra phía ngoài thành là đường dành riêng nhà vua dài tới hai dặm gọi là Ngự đạo. Sau Ngự đạo là đường ra khỏi cửa Tuyên Dương đi đến cầu Chu Tước của sông Tần Hoài, cũng là con đường dành cho vua dài năm dặm, tổng chiều dài bảy dặm, tạo nên tuyến đường thông suốt nội bộ Kiện Khang thành.
Bên ngoài cửa Đại Tư Mã là đường phố rộng nối thông đông tây, phía đông nối với cửa Xuân Môn, phía tây tiếp giáp cửa Tây Minh, chia thủ đô Tấn Triều ra làm hai phần. Phía bắc là thành trì nhà vua, phía nam là nơi ở của quan lại trong triều. Các phủ đệ quan lại, chợ búa, dân sinh đều ở ngoài thành, phân bổ ở các cửa Tuyên Dương đến sông Tần Hoài, trải dài năm dặm hai bên Ngự đạo. Kể từ khi Tây Tấn bị diệt vọng, phương bắc chịu nhiều tang tóc chiến tranh, người Hán di cư xuống phía nam có tới hàng triệu, Nam Tấn dần dần quy hoạch thành quận kiều dân, trở thành chốn phồn hoa hai bên bờ sông Hoài, trong ngoài thành chật ních người từ phương bắc di cư xuống, làm cho thành Kiện Khang có đủ mọi phong tục, vô cùng náo nhiệt.
Cầu Chu Tước, còn được gọi là bến Chu Tước hoặc bến nổi Chu Tước, là cây cầu cắt ngang Ngự đạo. Gọi là cầu nổi bởi toàn là thuyền kết nối lại với nhau mà thành. Khi bình thường thì làm cầu thông thương, có chiến tranh thì thuyền tách ra ngăn cách giao thông đôi bờ. Kiểu cầu nổi này, sông Hoài có tới những hai mươi tư, tuy nhiên không có cầu nào sánh được với cầu Chu Tước.
Phía đông Ngự đạo không xa cầu Chu Tước, hẻm Ô Y bên bờ sông Hoài là đường phố giàu có nhất của Kiện Khang. Bởi cả hai gia tộc nổi tiếng nhất của Nam Tấn là Vương, Tạ đều cư ngụ tại nơi này.
Cổng hẻm Ô Y chạm rồng vẽ phượng, là chốn mà người thường không được bước chân vào. "Ô y hào môn" là cách gọi để chỉ chiếc cổng đó.
Lúc bấy giờ, một đội quân người ngựa tựa cơn lốc vượt qua cầu Chu Tước, theo hướng phải Ngự đạo phi thẳng tới hẻm Ô Y. Lính bảo vệ không những không dám cản ngăn mà còn tỏ ra hết sức kính nể, nét mặt ai nấy đều biểu hiện sự khâm phục.
Tạ Huyền trong bộ võ phục trắng, thắt lưng xanh, lưng đeo cây bảo kiếm "Cửu thiều định âm", cưỡi ngựa trắng, mặt mày tuấn tú nhưng lạnh lùng tựa như được đúc bằng thép, khí phách phi phàm, tràn trề sức mạnh và lòng tin, tựa như thanh bảo kiếm đã được rút ra khỏi vỏ. Mặc dù đã bốn mươi tuổi, nhưng bề ngoài không khác gì tráng hán ba mươi.
Đi kề bên Tạ Huyền là mãnh tướng Lưu Khiên Chi, chừng hai lăm tuổi. Theo sau là hơn chục tùy tùng, người nào người ấy khí thế ngất trời, đều là lính tinh nhuệ đã từng kinh qua trận mạc.
Tạ Huyền được cử làm thích sử châu Cổn, canh giữ vùng Quảng Lăng. Dưới sự giúp đỡ của Tạ An, ông chiêu mộ được mười vạn dân vùng Giang Bắc sông Hoài làm lính. Người Giang Bắc mạnh mẽ, võ nghệ cao cường, Tạ Huyền huấn luyện không mấy thời gian đã làm cho họ trở thành thiện chiến. Đội quân này được gọi là "Bắc phủ binh". Phù Kiên mấy lần lấn xuống phương nam, quân Bắc phủ đánh trả bất phân thắng bại, từ đó tiếng tăm quân Bắc phủ nổi như cồn, lính các lộ khác tôn kính không còn lời để nói.
Lần này, Phù Kiên đem đại quân tới, binh lực nhân số áp đảo, lại có sự giúp đỡ của danh tướng Mộ Dung Thùy, cho dù Tạ Huyền có tài dùng binh như thần, võ công hơn người cũng khó lòng trụ được.
Lính canh Tạ phủ mở rộng cổng, hơn mười nô bộc chạy ra dắt ngựa vào chuồng. Tạ Huyền xuống ngựa, Tạ Thạch kinh ngạc chạy đến:
- Điệt quả là nhanh. Tối qua ta vừa mới gửi thư câu cho điệt mà.
Tạ Huyền ngạc nhiên: "Gửi thư chim câu? Ba ngày trước điệt nhận được tin đại quân Phù Kiên tiến đánh Lạc Dương, tiền quân của hắn đã vào tới Biên Hoang, mũi tiên phong trực chỉ Kiện Khang, quân số đông đến cả triệu, nên lập tức tới vấn an các thúc bá."
Lưu Khiên Chi vội vàng tới chào, Tạ Thạch mỉm cười vui vẻ: "Lưu tham quân cùng anh em vất vả quá, trước hết xin hãy dùng chút trà nóng."
Khi đám tùy tùng đã vào hết trong nhà, Tạ Thạch kéo tay Tạ Huyền đi vòng qua đại sảnh về phía thư phòng Tạ An, nói nhỏ:
- Chúng ta đang lo muốn chết, vậy mà đại bá vẫn cứ thư thái, tối qua đến lầu Tần Hoài bên sông nghe hát, sớm nay trời chưa sáng đã tới Đông sơn bơi thuyền. Thật may là cháu đã tới, hãy đi hỏi rõ xem đại bá định thế nào!
Tạ Huyền hạ giọng: "Triều đình có phản ứng gì không?"
Tạ Thạch mặt sầm xuống nói: "Lực lượng của Tư Mã Đạo Tử dồn hết ở Trường Giang, Tần Hoài, còn mời Hoàng thượng xa giá rút khỏi Tuyên Thành, rõ là có ý mượn cớ nắm lấy quyền hành quân cơ. May mà đại bá và Vương Tương phản đối quyết liệt nên Hoàng thượng mới tạm thời ở lại. Những điều này đều là Vương Tương nói lại với thúc, đại bá của cháu đến nguy mất!"
Tạ Huyền nghe tên Tư Mã Đạo Tử, hai con mắt đỏ ngầu lên, hỏi lại:
- Đại bá đánh tiếng với Hoàng thượng thế nào ?
Tạ Thạch trả lời:
- Đại bá rất khôn khéo, tâu rằng 'Từ xưa tới nay chỉ có vua có đạo lý thắng vua vô đạo. Thiên hạ đang thái bình, Tần vương vô duyên vô cớ xâm lược là trái với đạo lý, nhất định là không được lòng dân. Binh thư xưa nay đều khẳng định, hai nước đánh nhau, nước vô đạo sẽ nhất định thất bại. Hoàng thượng nếu kêu gọi toàn thể dân chúng lấy đạo lý chống lại vô đạo thì mới giữ được non sông gấm vóc.' Hoàng thượng tất nhiên hiểu rõ, đại bá và Tư Mã Đạo Tử ai là người được lòng dân, hơn nữa thượng tướng Hằng Xung vốn chẳng ưa gì Tư Mã Đạo Tử, binh lực Bắc phủ lại nằm trong tay điệt. Hoàng thượng cho dù không muốn, cũng phải phong cho đại bá làm Đại đô đốc, toàn quyền điều binh khiển tướng đánh Phù Kiên.
Vừa đi vừa nói, hai người đã tới thư phòng bên ngoài hoa viên của Tạ An. Nơi đây lấy trúc làm cảnh chính, trong vườn còn có non bộ bốn mùa, phân biệt nhờ mầm đá, hồ đá, ghép lại tạo cảnh xuân, hạ, thu, đông. Sách chất đầy giữa hai dãy núi hạ và thu hướng bắc nam, sắp xếp ra dáng núi non hùng vĩ, có khắc ba chữ "Vong quan hiên", trên cột hiên chính khắc câu đối "Cư quan vô quan quan chi sự; xử sự vô sự sự chi tâm".[b]
Cho dù thân thể mạnh mẽ hơn người, trong lòng hai thúc điệt Ta gia lại đang rối bời. Hiểm họa trùng trung trước mặt khiến họ phải quên đi tất cả nỗi niềm, quên hết những niềm vui trần tục.
Bỗng một võ sĩ trẻ đi nhanh đến trước mặt hai người, nói giọng giận dữ:
- Thiên hạ này là của họ Tạ các ngươi đấy chắc! Vương Quốc Bảo ta quả thực đang chờ xem các người đối phó thế nào với Phù Kiên?
Nói đoạn quay phắt lại, bỏ đi.
Hai người nghe xong mà ngán ngẩm, Tạ Thạch lắc đầu thở dài. Vương Quốc Bảo là con trai Vương Thản Chi, con rể của Tạ An, kiếm pháp hơn người, đáng tiếc là không được thi thố tài năng. Tạ An không muốn sử dụng hắn ta vào bất cứ công việc gì trong chiến dịch đánh Tần, do đó hắn mới tức tối mà nói năng càn rỡ như vậy.
Giọng hoà nhã của Tạ An từ Vong quan hiên vọng tới:
- Có phải là tiểu Huyền đã tới không? Đến đúng lúc lắm! Ta đang định tìm cháu đánh cờ.
Tạ Huyền và Tạ Thạch khó hiểu nhìn nhau. Tình thế đang ngàn cân treo sợi tóc như thế mà Tạ An vẫn còn lòng dạ chơi cờ.
Chương III
Chạy trốn trối chết
Yến Phi chậm chạp rót rượu, như không hề nghe thấy tiếng vó ngựa.
Bóng người cưỡi ngựa phi như bay ra khỏi cửa thành phía đông. Phía sau người đó, hơn mười chiến sĩ Kiệt tộc cười ngựa giương cung đuổi theo.
- Phật, phật, phật!
Hơn mười mũi tên xé gió vun vút lao về phía kẻ chạy trốn. Trong lúc ấy, người đó đã phi ngựa đến sát Đệ Nhất lâu, nhanh như sóc rời ngay lưng ngựa, nhảy phóc lên lầu hai chui ra sau lưng Yến Phi, chìa ba ngón tay ra trước mặt hắn:
- Ba lạng vàng!
Con ngựa chiến hí thảm lên một tiếng rồi ngã gục. Đầu tiên hai chân trước của nó quỳ xuống, rồi toàn thân đổ nghiêng sang một bên, trên mình ngựa cắm chi chít bảy, tám mũi tên, cảnh tượng ghê rợn đến không dám nhìn.
Thế mà người đó vẫn thản nhiên không một chút động dung.
Hắn ta có bộ mặt dài như mặt ngựa, tuổi chừng mười tám mười chín, dáng người cao gầy, cả tay lẫn chân đều dài ngoẵng trông rất hoạt bát. Điều đáng chú ý nhất là đôi mắt sáng quắc tinh ranh của kẻ cờ bạc. Thực ra đây là Cao Ngạn người Hán, một trong những nhân vật tiêu biểu của cuộc sống Biên Hoang, là kẻ buôn bán tin tức xuất sắc nhất. Con người luôn ung dung phong độ ấy giờ đây đang hoảng sợ đến cắt không ra giọt máu.
Yến Phi một tay nâng bát rượu, tay kia xòe cả năm ngón giơ lên, Cao Ngạn hét toáng:
- Năm lạng vàng? Anh định giết tôi chắc?
Đám chiến sĩ Kiệt tộc ập đến, buộc ngựa vào cây rồi dàn ra thành hình vòng cung hướng lên trên lầu, bộ mặt ai nấy đều tỏ ra hung dữ, nhưng lại không ai dám động thủ, tỏ vẻ rất gờm Yến Phi.
Yến Phi vẫn khoan thai uống rượu.
Một tên Kiệt hét từ dưới lên:
- Đây là ân oán giữa bọn người Kiệt ta với Cao Ngạn. Yến Phi, nếu biết điều thì đừng có nhúng tay vào!
Cao Ngạn nấp sau lưng Yến Phi tựa như con gà chọi bại trận dằn giọng:
- Thì năm lạng vậy! Rõ ràng là anh rất biết bắt bí.
Yến Phi đặt bát rượu không xuống bàn, đôi mắt đã đỏ ngầu vì rượu nhưng lời nói thì lại cực kỳ bình tĩnh:
- Cút ngay đi cho ta, bằng không các người sẽ hối không kịp đấy!
Tay hảo hán người Kiệt tay nắm chuôi kiếm, mắt long lên tựa như con sói khát mồi nhìn Yến Phi hồi lâu mới hét lên giận dữ:
- Được, bọn ta đi. Cứ đợi đấy, xem Yến Phi ngươi đắc chí được bao lâu!
Một luồng bụi bốc mù lên, cả đám Kiệt tộc lục tục phi ngựa quay lại.
Cao Ngạn thở một hơi dài, lau mồ hôi hột trên trán, ngồi vào chiếc ghế Bàng Nghĩa ngồi lúc trước, không khách khí cầm lấy bình rượu tu ừng ực, đoạn đặt xuống đưa mắt nhìn chằm chằm Yến Phi:
- Anh ở lại đây làm gì? Thấy cuộc sống dài quá phải không?
Thấy ánh mắt Yến Phi vẫn không một biểu lộ, Cao Ngạn trừng mắt không chớp, bỗng ra vẻ đau lòng, gật đầu:
- Ừm. Cứ cho là tôi sợ anh đi!
Đoạn đưa tay vào người lấy ra năm đồng tiền vàng to lóng lánh, ngập ngừng đẩy về phía Yến Phi, than thở:
- Tôi phải vào sinh ra tử mới kiếm được chút tiền, anh thì ngồi đây uống mấy chén, nói mấy câu là lột hết tiền của tôi, thế thì còn gì là công bằng nữa!
Yến Phi không thèm khách khí cầm luôn năm đồng tiền vàng cho vào trong bát, nhíu lông mày:
- Vậy cậu cớ gì phải lưu lại đây, hử?
Đôi mắt Cao Ngạn bỗng sáng quắc lên, ghé tai Yến Phi thì thầm:
- Đây là cơ hội ngàn vàng để kiếm tiền, người phía nam trả được lắm. Tiện thể tôi mách với anh một điều, trả tôi một lạng vàng thôi, thôi được miễn phí vậy! Mệnh của anh xem ra không tốt lắm đâu, năm bang người Hồ đã liên kết với nhau, chuẩn bị ngênh đón đội quân tiên phong của Phù Dụng, em Phù Kiên rồi đó, bọn chúng đã thề không tha cho bất cứ người Hán nào cả. Hiện giờ chúng đang tụ tập tại quảng trường lầu chuông, chuẩn bị truy sát những người Hán chạy nạn. Con bà chúng nó! Anh có biết Hào soái mãnh tướng Hung nô dưới trướng Phù Kiên không? Thôi, tôi phải đi đây.
Cao Ngạn nhanh nhẹn chui khỏi lầu từ một cửa sổ khác, chớp mắt đã không còn thấy đâu nữa.
Yến Phi không để ý đến Cao Ngạn nữa, vọt qua bàn ra trước lan can, tiện tay cởi lấy thanh Điệp luyến hoa nhảy xuống đất sải bước tới cửa đông.
Tiếng vó ngựa vang lên từ phía sau, mỗi lúc một gần. Yến Phi nhanh như gió quay ngay người lại.
Tên nhằm đầu hắn tới tấp bắn đến.
000000000000000000000000
"Vọng quan hiên" chất đầy bảo vật hai triều Hán Ngụy. Gốc hòe trăm tuổi phía nam, cây lưỡi gà mềm mại phía bắc, hòn hạ sơn đẹp đẽ phía tây, dãy thu sơn ngạo nghễ phía đông, đình nhỏ ao tương thủy tĩnh, qua các ô cửa sổ đủ kiểu hình dáng, thấp thoáng lọt vào mắt người trong phòng, cảm giác như đang được sống cùng một lúc bốn mùa.
Đồ gỗ trong hiên thảy đều màu hồng nhạt, bảo họa danh thư treo khắp bốn bề tường nhà, trên xà nhà là cây cung đăng tám cạnh, sự giàu sang phú quý không làm mất đi vẻ văn chương tao nhã, tỏ rõ thân phận và sở thích của Tạ An.
Dưới ánh bình minh mềm mại, hai thúc điệt Tạ An và Tạ Huyền đang ung dung chơi cờ. Người có tuổi dáng vẻ tự tại ung dung, kẻ tráng niên thì ngược lại lộ vẻ âu lo rầu rĩ, chau mày nhìn Tạ An đang bình thản cầm lên quân đen.
Từ tư thế ngồi chơi cờ của họ có thể nhìn thấy được sự khác nhau về tập quán sinh hoạt của hai tộc người Hán Hồ. Người Hán ngồi quỳ theo kiểu từ thời Ân Chu, phần mông đặt lên gót chân, phong tục tập quán này đã trở thành một phần quan trọng của văn hoá lễ giáo. Còn kiểu ngồi đặt mông xuống đất hai chân chĩa về phía trước, ngồi ôm gối hoặc buông lỏng chân trên ghế trên giường đều bị coi là khiếm nhã cấm kỵ.
Đến cuối đời nhà Hán, Hồ Hán đan xen, hầu khắp thiên hạ ngồi thế nào cũng chẳng sao, ngồi trên ghế cao, trên vai giường thõng chân đều không ai dị nghị. Chỉ trong các gia đình Hán tộc quyền quý thì kiểu ngồi của người Hồ vẫn bị coi là không có giáo dục.
Tạ An mỉm cười đầy thâm ý, đặt con đen trên tay xuống bàn cờ, ăn con đại long mà Tạ Huyền đã cố hết sức gìn giữ, một góc bàn cờ ngay lập tức bị con đen ấy chiếm trọn.
Tạ Huyền cúi đầu: "Điệt thua rồi!"
Tạ An bất giác thở dài:
- Kể từ khi cháu biết đánh cờ, năm năm lại đây ta luôn luôn thắng cháu. Thắng thua trên bàn cờ cũng như trên sa trường, mấu chốt chính là ở trong lòng. Tạ Huyền cháu chẳng qua buồn phiền rối ý, không tập trung tinh thần nên đã thất bại. Nếu trong trận chiến cháu vẫn nóng nảy hoang mang như thế, cho dù chiến lược dùng binh của Phù Kiên có kém xa thì cháu cũng khó lòng mà đánh lại.
Tạ Huyền cười gượng gạo:
- Phù Kiên binh lực mạnh hơn của điệt đến cả mười lần, làm sao mà điệt lại không hoang mang!
Tạ An cười hà hà đứng lên, hai tay chắp sau lưng đi về cửa sổ phía đông, chăm chú nhìn vườn cây đẹp đẽ bên ngoài, lắc đầu:
- Hỏng hết, hỏng hết! Tạ Huyền, bởi lòng cháu rối bời nên không nhìn thấu được điểm yếu của Phù Kiên. Hắn ta dồn hết quân tiến về nam lần này, không chỉ mất đi thiên thời mà còn mất đi cả địa lợi, chứ chưa nói tới nhân hòa, như thế thì cuối cùng hắn ta sẽ nhất định thất bại thôi. Chỉ cần biết tận dụng lợi thế là chúng ta sẽ cho Đại Tần thảm bại, còn nhà Tấn chúng ta sẽ khôi phục giang sơn.
Tạ Huyền không động đậy, đôi mắt ngời sáng nhìn dáng vẻ thong dong của Tạ An, trầm giọng nói: "Xin Đại Bá chỉ giáo!"
Tạ An ung dung: "Nhà Tấn chúng ta mấy năm nay được Hoàng thiên phù hộ, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Còn ở phương bắc chiến tranh liên miên, đất đai hoang vu khô nẻ, mùa màng sa sút. Phù Kiên vừa mới thống nhất xong phương bắc, tình thế ấy chưa đủ điều kiện phát động viễn chinh, nếu cứ cưỡng cầu mà xuất đại quân là không có thiên thời.
Đoạn tự tin quay lưng lại mỉm cười:
- Quân lính Phù Kiên đi xa, phải vượt qua Biên Hoang bị ngăn bởi mấy con sông hiểm trở. Còn chúng ta lại tận dụng được lợi thế hiểm trở của Trường Giang, ngăn cách bắc nam. Như vậy là Phù Kiên mất địa lợi.
Đoạn đi về phía Tạ Huyền, ngồi xuống chỗ ban đầu nói một cách khoan thai:
- Phù Kiên sở dĩ lấy được thiên hạ phía bắc, đều nhờ việc thi hành chính sách, ban chức tước quan tướng cho các tộc, đại xá những kẻ đầu hàng, nhờ đó mà thành công. Đó chính là nuôi ong tay áo. Quân đội Phù Kiên cho dù đông cả triệu người nhưng được nhóm góp từ mọi miền mà có, hoặc là cưỡng bức tập trung nên sức chiến đấu nào có mạnh mẽ gì. Lấy ví dụ như Chu Tựu, ta tin là người này đang sống ở Tần nhưng lòng thì bao giờ cũng nhớ về Tấn. Nói cho cùng thì Đại Tấn ta mới là chủ nhân của Trung Nguyên, tuy phải di giá về tả ngạn Trường Giang nhưng vẫn là nơi hướng đến của lòng dân trăm họ. Ngoại bang xâm lược lần này, người Trung Nguyên cùng ngồi trên một thuyền, nhất định sẽ đồng lòng đoàn kết chống lại nỗi nhục vong quốc. Còn các tướng dưới trướng Phù Kiên, mỗi tướng quản lấy quân riêng của mình. Mộ Dung Thùy hay Diêu Trường đều là những kẻ luôn bạo ngược thì đời nào chấp nhận thuần phục dưới trướng của ai? Như thế thì Phù Kiên không có lợi thế nhân hòa. Ta chắc rằng hắn ta sẽ vì những lẽ đó mà thua. Chỉ cần cháu hiểu sâu sát thực tế này, sử dụng sách lược chia rẽ nội bộ, tận dụng địa hình mà bố trí, nắm thật chắc hậu cần thì có thể nhất cử đánh thắng Đế Tần, tránh được cái họa từ phương bắc tới.
Tạ Huyền mắt sáng lên nhìn khắp bốn phía, gật đầu:
- Thật là lời vàng ý ngọc. Như thế thì chúng ta có nên trực diện nghêng đấu với đối phương không?
Tạ An nở nụ cười nhiều hàm ý:
- Cháu là tướng trận tiền, có quyền tự quyết định mọi chuyện, cả quyền tiền trảm hậu tấu. Trên danh nghĩa thì tam thúc Tạ Thạch làm soái cho cháu, thực tế thì có việc tác chiến cụ thể nào mà cháu không chỉ huy định đoạt? Trận chiến này phải tiến hành thật nhanh chứ không được loanh quanh trì hoãn, nếu để cho quân lính Phù Kiên đến được sông lớn, cắm chân yên chỗ thì không hay gì cho ta. Nhà Tấn ta đang yên ổn lại có lũ tiểu nhân như Tư Mã Đạo Tử thừa thời cơ làm mưa làm gió, nếu không cẩn thận thì chưa đánh đã thua rồi. Đi đi cháu! Tồn vong của Đại Tấn nằm trên vai cháu, chớ có quên cái lý do thua cờ lúc nãy!
Tạ Huyền đứng thẳng người lên, rồi quỳ xuống cung kính vái lạy:
- Điệt xin hết sức nghe lời đại bá!
Tạ An vẫn ngồi yên không nhúc nhích, thần sắc đôi mắt hết sức phức tạp, hít một hơi sâu mới nói: "Trận này nếu chiến thắng, uy danh của nhà họ Tạ chúng ta sẽ lên đến tột đỉnh. Nếu như không có chuyện gì xẩy ra ngoài dự đoán thì chúng ta sẽ được an nhàn uống rượu trò chuyện trong hẻm Ô Y này, làm thơ viết phú tràn trề tình yêu thương thân thiết, sống cuộc sống thơ rượu phong lưu, mãi mãi như vậy. Hãy chú ý chăm sóc Diễm Nhi, để cho nó có cơ hội được rèn luyện."
Tạ Huyền gật mạnh đầu: "Điệt xin nghe lời!" Nói rồi nhanh chóng lui ra khỏi thư phòng.
Tạ Diễm đang cùng Tạ Thạch trò chuyện bên ngoài, thấy Tạ Huyền ra vội chen lên đứng cạnh, khẽ hỏi:
- Cha, có chuyện gì cha nói lại đi !
Tạ Huyền nắm lấy bờ vai rộng của Tạ Thạch, rồi bỗng nhiên nở nụ sảng khoái:
- Tiểu điệt muốn đi chơi núi bơi thuyền, thúc thúc đi không
oooooooooooooooooooooo
Cho dù là tay kiếm trứ danh, Yến Phi cũng không thể chống lại được hơn hai chục mũi tên của những tay cung Hung nô chính diện bắn tới.
Hắn cười ha hả, vội vã nấp sau một bờ đá tránh được làn tên thứ nhất, cánh tay đấm mạnh tấm ván, cửa quầy khoá chặt của lầu một tung ra.
Yến Phi với sức lực tuổi trẻ có thể chặn nổi lực lượng bốn bang liên kết, không cho chúng đuổi theo đoàn người Hán chạy nạn, nhưng Cao Ngạn đã cho hắn biết, đối thủ của Yến Phi giờ đây còn đáng sợ hơn đám giang hồ hảo hán không biết bao nhiêu lần.
Từ Cừ Mông không muốn để cho bất cứ cao thủ nào trốn lại ám sát Phù Kiên nên Yến Phi đã trở thành cái gai lớn nhất trong mắt hắn. Suy cho cùng, chuyện giết một đám người Hán chỉ là chuyện nhỏ.
Ầm !
Với cú đấm mạnh mẽ của sức vóc tuổi trẻ, tấm ván cửa kiên cố là vậy cũng bật tung ta như tờ giấy. Yến Phi lao qua của vào trong, không để ý gì tới những thứ hàng hoá đổ ngổn ngang trên mặt đất.
Bên ngoài vang lên tiếng hét loạn xạ của bọn Hung nô, tiếng võ ngựa cồm cộp náo loạn, hàng loạt mũi tên bay tới cắm ngập vào cửa.
Yến Phi không kịp ngoái đầu lại, lướt mắt qua phía bên, lanh lẹ tránh những mũi tên bắn tới, đoạn lao nhanh về phía cửa sau, nếu cứ sính cường mà ở lại tất sẻ chết thê thảm ở chốn này.
Chính vào lúc đó, gỗ đá từ chiếc quầy trước mặt Yến Phi bay tới như mưa bão, một mũi mâu nặng trịch ẩn trong đám gỗ đá lẳng lặng công tới khiến Yến Phi lạnh gáy, có cảm giác như mũi mâu đang chĩa thẳng vào yết hầu.
Thanh Điệp luyến hoa được rút khỏi vỏ, lưỡi kiếm sáng loáng vung lên, chém mạnh vào mũi mâu "choang" lên một tiếng.
Điệp luyến hoa dài ba thước tám tấc, trên thân khắc hoa văn tối màu, ẩn hiện ba chữ "Điệp luyến hoa" như rồng bay phượng múa, phần lưỡi lại sắc không đều. Sống lưng kiếm tạo một đường mũ tên rõ nét, chỗ rộng nhất ở sát chuôi kiếm rồi thu nhỏ dần về mũi, chỗ sắc nhất ở phần bụng dần lên đến phía đầu mũi. Cây kiếm sáng loáng chỉ nhìn đã có cảm giác lạnh người, sợi lông bắn tới lưỡi sắc cũng có thể cắt đứt làm hai.
Yến Phi không phải là không hiểu đấu pháp tối ưu vào lúc này là chờ cho đối phương tiến sát đến, ra tay khống chế rồi vượt qua rồi rút chạy ra cửa sau. Thế nhưng, mũi mâu của kẻ địch uy lực khủng khiếp, lăng lệ ập tới trước mặt, không khí bốn bề dường như trở nên khô khốc, ép vào ngực đến nghẹt cả thở.
Không phải Yến Phi võ công thấp hơn đối phương, mà là đối phương đang bừng bừng khí thế. Yến Phi đang lâm vào thế bị động, buộc phải chống đỡ cầm cự chờ thời cơ phản công.
Thanh Điệp luyến hoa thuận đà chém về phía trước một nhát, mẫu gỗ bị kiếm chẻ làm đôi đổi hướng tựa như dòng nước chia làm hai không bắn vào người Yến Phi mẩu nào.
Bống một tiếng choang đinh tai vang lên khiến Yến Phi rùng mình kinh hãi. Tuy có chém đúng mũi mâu, nhưng Yến Phi không thể không lùi lùi lại mấy bước.
Những mẩu gỗ phía trước bắn tới tấp về phía hắn.
Đằng sau Yến Phi lại xuất hiện một khuôn mặt đầy râu dài tới tận vai. Người này không cao không thấp nhưng lưng to cổ mập như một con ác thú, hai tay cầm đôi rìu có tới năm mươi cân nặng, miệng gầm lên đinh tai nhức óc, hai chiếc rìu chẳng khác nào đôi bánh răng quay tít vung ra nhằm vào lưng Yến Phi bay tới.
Yến Phi đã sớm đoán ra tình thế sau lưng có hổ, trước mặt có sói. Nếu lùi lại, tức khắc sẽ vấp phải đối thủ mạnh mẽ phía sau trong khi địch nhân trước mặt vẫn không ngớt công đến.
Tên địch trước mặt Yến Phi rốt cuộc đã lộ rõ thân hình, cằm hắn toàn râu màu nâu tựa như chiếc bàn chải lớn nhưng đầu thì trọc lóc, khuôn mặt trắng nhợt khác thường, đôi mắt lại lạnh băng như hai viên đá. Thân hình cao gầy, nhưng đôi tay cầm mâu thì lại cuồn cuộn cơ bắp.
Yến Phi nghĩ thầm thế là hết rồi!
Hắn biết rõ hai kẻ này là ai nhờ vẻ ngoài và binh khí bọn chúng. Thằng nhãi Cao Ngạn chỉ lộ tin một nửa, còn kẻ trước mặt hắn này lại không hề nhắc tới. Hai kẻ đó, chỉ cần một tên dẫm chân là cũng đủ chấn động Biên Hoang!
Tên sử dụng đôi rìu chính là "Hào soái" mà Cao Ngạn nói tới, là mãnh tướng dưới trướng Phù Kiên tên gọi Từ Cừ Mông. Tên dùng mâu kia cũng là một mãnh tướng của Phù Kiên. Binh khí hắn dùng là đôi kim mâu danh trấn tây bắc, được gọi là Độc ưng, cao thủ thứ hai của người Tiên Bi sau Mộ Dung Thùy.
"Đinh" một tiếng chói tai, Yến Phi vung kiếm chặn đứng chiếc rìu thứ nhất ném tới. Kiếm nhẹ rìu nặng, Từ Cừ Mông lại ỷ vào công phực phi phàm mà lấy hết sức ném đi cả hai rìu định kết liễu Yến Phi trong nháy mắt, nhưng rồi rìu đã bị hoá giải, chỉ còn là vật vô dụng.
Có hai đại cao thủ ra tay ứng chiến, đám võ sĩ Hung nô phấn khởi hò hét vang trời, lại có thêm ba bốn người nữa tới cạnh Từ Cừ Mông, dao mâu đều giơ lên nhằm hướng Yến Phi khua loạn, không để cho hắn cả cơ hội để thở.
Yến Phi biết mình đã ở vào cảnh tuyệt vọng nhưng vẫn không tỏ chút sợ sệt, bỗng bất ngờ xoay người vung kiếm múa một vòng ngang.
Đột ưng lập tức múa tít cây mâu, chiêu chiết chiêu với Yến Phi. Chỉ trong chớp mắt, Điệp luyến hoa của Yến Phi đã đánh ra mười mấy đường, cho dù mâu thế kín mít không một chỗ hở nhưng cây kiếm vẫn chém đúng mũi mâu. Độc ưng sợ đối phương lấn tới vội vàng thu mâu về né tránh.
Từ Cừ Mông hít một hơi thật sâu, đoạn hét lên một tiếng lớn, lao tiếp vào trận, rìu trong tay múa tít. Kiếm của Yến Phi cũng lăng lệ vung lên, chỉ nghe thấy một tràng âm thanh chan chát không biết đến bao nhiêu lần. Yến Phi quyết ý đọ tốc độ với Từ Cừ Mông, kiếm chiêu tới tấp đánh tới đẩy đối phương lùi lại.
Võ công cả hai tên Từ Cừ Mông và Độc ưng đều là là danh bất hư truyền, Yến Phi biết là không thể đả thương dù chỉ một trong hai, nếu giao đấu thêm một lúc nữa, để đối phương dồn ép như thế thì cái chết chắc chắn cầm tay.
Tại cửa chính đằng sau hắn, quân Hung nô đã đứng chắn đường, cửa sau chỉ có một mình Độc ưng trấn giữ.
Yến Phi hiểu rõ rằng, cách thoát thân duy nhất dù có thể phải chấp nhận thương tật, chính là phải vượt qua cửa sau, bèn chuyển người vung tay, thanh Điệp luyến hoa múa tít trên đầu như vũ bão lao thẳng về phía Độc ưng.
Sắc mặt Độc ưng vẫn lạnh như băng, kim mâu trong tay quay tít toả ánh vàng loang loáng đón đợi, bỗng mặt biến sắc tránh ngang sang bên nhường đường.
Một người thân hình khôi vĩ đầu trùm khăn đen xuất hiện ngay bên cạnh Độc ưng, hai tay cầm hai thanh đao ngắn. Độc ưng hoàn toàn bị bất ngờ buộc phải rút lui.
Người đó hô vang: "Yến Phi, chạy!"
Yến Phi tiện tay chém ngang qua Độc ưng một nhát, đoạn dồn hết sức bình sinh phóng theo người trùm đầu ra khỏi cửa sau.
Chương IV
Hùng Tài Đại Lược
Nằm sát sông Hoài, Biệt phủ Tạ gia ở hẻm Ô Y rộng tới hơn mười mẫu, gồm năm khu lâm viên hợp lại, nổi tiếng nhất là thư phòng Vọng quan lầu trong khu vườn bốn mùa, còn đẹp đẽ nhất phải kể đến hai khu Đông và Nam viên bên bờ sông.
Công trình kiến trúc hùng vĩ nhất của Tạ phủ là Tùng Bách Đường, hoa lệ đến tột đỉnh, chính giữa là uyên ương sảnh, xung quanh ngăn cách bởi tám bình phong chạm khắc, bên ngoài là quảng trường rộng dành cho các dịp khánh tiết. Nếu bỏ các bức bình phong đi có thể đủ chỗ cho hàng trăm người ngồi dự tiệc.
Ngoài sân khánh tiết chính là hẻm Ô Y, đối diện là cơ ngơi của nhà họ Vương cũng không kém nguy nga tráng lệ. Phía tây của là Ngự đạo dài bảy dặm, hai bên bờ hẻm thẳng băng cũng là nơi cư ngụ của nhiều gia tộc lớn khác.
Tại một góc của Tùng Bách Đường, Tạ Huyền, Tạ Thạch, Tạ Diễm và Lưu Khiên Chi đang họp bàn kế sách.
Sau khi thống nhất chiến lược kháng Đế Tần, Tạ Huyền trầm ngâm một lúc, đoạn lên tiếng dõng dạc:
- Chúng ta nhất định phải gọi cho được Chu Tự về với Đại Tấn.
Tạ Thạch chau mày:
- Chu Tự đã mang ô danh phản bội, khó mà lần nữa quay đầu. Trước hết vẫn chưa biết, liệu hắn có theo Phù Kiên nam chinh không? Cho dù biết hắn ở trong doanh trại Đế Tần, tìm được hắn cũng khó chẳng khác nào lên trời.
Tạ Diễm lạnh lùng:
- Sĩ khả sát bất khả nhục, kẻ trượng phu đội trời đạp đất ở đời, khí tiết mới là điều quan trọng nhất. Chu Tự nếu có quay về với Tấn thì con người vẫn y nguyên như vậy, chúng ta làm sao có thể tin dùng được?
Tạ Huyền cười hà hà:
- Chúng ta đang bàn cách giành thắng lợi chứ không bình phẩm nhân cách con người. Đại ca nhìn người không có sai đâu, chúng ta cần liên lạc với Chu Tự. Nếu thuyết phục được ông ta làm nội ứng, dốc sức cho nhà Tấn thì sẽ có lợi thế cho chúng ta nhiêu lăm.
Tạ Diễm hiểu tính phụ thân, lập tức cúi đầu im lặng. Tạ Thạch chau mày thăm dò:
- Cho đến trước khi vượt sông Hoài đánh Thọ Dương, quân Đế Tần sẽ chỉ hành binh qua vùng hoang vu của Biên Hoang, làm sao có thể quỷ không hay thần không biết mà gặp được Chu Tự?
Lưu Khiên Chi gật đầu:
- Phù Kiên mà đến thì người Hán ở Biên Hoang sẽ tháo chạy bằng sạch, thám tử của chúng ta cũng không thể trụ lại nổi. Việc này quả là vô vàn khó khăn, có điều...
Tạ Huyền phấn chấn hẳn lên:
- Có điều cái gì vậy?
Lưu Khiên Chi do dự một thoáng rồi nói:
- Chỉ có duy nhất một người làm được việc này. Người này là phó tướng Lưu Dụ dưới quyền mạt tướng. Con người này gan góc cẩn trọng, văn võ song toàn, không chỉ võ nghệ cao cường mà thuật khinh thân cũng hết sức trác tuyệt, từ nhiều năm nay chuyên làm công việc thu thập tình hình Biên Hoang, từng nhiều lần bí mật tới đó giao dịch với những kẻ buôn bán tin tức. Ngoài am hiểu tình hình Biên Hoang, người đó còn thông thạo tiếng Đế và tiếng Tiên Bi.
Tạ Diễm hỏi ngay: "Người đó xuất thân thế nào?"
Tạ Huyền, Tạ Thạch bất giác chau mày nhìn nhau. Trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc này, Tạ Diễm lại còn nghĩ tới xuất thân con người, có phải là chuyện đáng cười không?
Lưu Khiên Chi ngây người bối rối. Chính ông ta cũng xuất thân nghèo hèn, được Tạ Huyền nâng đỡ nên mới có ngày hôm nay, tuy bất mãn cũng không thể không trả lời:
- Lưu Dụ xuất thân sĩ phu thanh bần, thuở nhỏ gia đình túng bấn, làm nghề nông kiêm đốn củi. Năm mười sáu tuổi tới Bắc phủ sung quân, đã tham gia nhiều chiến dịch, mưu dũng đều hơn người.
Tạ Huyền không để cho Tạ Diễm có cơ hội lên tiếng, nói một cách dứt khoát:
- Chính những người xuất thân như thế mới có thể kết giao được với bọn người Biên Hoang. Phiền Lưu tướng quân lập tức quay về, viết ngay một mật thư gửi đi cho Chu Tự. Nếu cần thiết hãy cho họ Chu hiểu rõ tình thế hiện nay, khi hành sự hãy tuỳ cơ ứng biến, toàn quyền định liệu. Chúng ta sẽ hỗ trợ toàn diện, hoàn thành sẽ được trọng thưởng! Tạ Huyền ta quyết không nuốt lời.
Tạ Thạch nói thêm:
- Hồ Bân đang chỉ huy kỳ đội năm ngàn binh mã ở Thọ Dương. Sứ mạng của Lưu Dụ thành bại không thể nói trước, liệu chúng ta có nên tăng viện hỗ trợ ?
Tạ Huyền lộ ra nụ cười đầy ẩn ý:
- Trước hết chúng ta hãy giành cho Phù Kiên một bài học. Khi quân tiên phong của Đế Tần tập trung phía bắc Thọ Dương, chuẩn bị nhân lực vật lực công thành, Hồ Bân sẽ phải vượt sông Tứ rút lui về giữ thành Hiệp Thạch. Ta sẽ dạy cho Phù Kiên biết rằng không thể vượt nổi sông Tứ, dù chỉ một bước.
Ba người kia cùng phấn khích hét to, trong lòng đã nắm bắt được ý đồ của Tạ Huyền. Hùng khí bốc cao, không ai còn thấy sợ Phù Kiên nữa.
ooooooooooooooooooooo
Chiếc thuyền nhỏ lướt vun vút qua bờ tây sông Dĩnh Thuỷ, bỏ lại toán quân truy đuổi đang trơ mắt ếch nhìn theo. Yến Phi gác Điệp luyến hoa ngang trên đầu gối, lim dim mắt ngồi đầu mũi thuyền vận khí hồi sức.
Thuyền ngoặt sang trái tiến vào một nhánh nhỏ của con sông, chẳng bao lâu đã chui vào một rừng bách rậm rạp.
Yến Phi chầm chậm mở mắt, hai con mắt sáng trong toát lên thần sắc vui vẻ hiếm thấy. Bỗng đầu mũi thuyền vang lên tiếng nước động, một cành cây rơi xuống từ chạc cây trên bờ.
Hai người không ai bảo ai lao vút khỏi thuyền đến gần gốc cây rồi nhanh như cắt leo lên ngọn, vạch lá quan sát động tĩnh xung quanh. Thanh Điệp luyến hoa đã ở trên lưng Yến Phi tự lúc nào.
Người cứu Yến Phi vứt bỏ mái chèo, lột vải trùm đầu, nở nụ cười tươi rói nhìn sang Yến Phi, vui vẻ:
- Yến Phi à, kiếm pháp của huynh hình như tiến bộ hơn nhiều rồi đó! Làm sao mà huynh có thể choảng nhau với cả Độc ưng và Từ Cừ Mông mà không xây xước chút nào vậy? Chúng ta đã nghe nhiều tin đồn về huynh, nhưng hôm nay ta mới tận mắt trông thấy!
Nói đoạn nhảy xuống đất, chạy đến buộc thuyền vào gốc cây.
Người này tuổi tác tương đương Yến Phi, thân hình tộc Tiên Bi cao to cường tráng, tóc dài buông xõa tới vai, hai cánh tay rắn như thép, mũi cao mỏ diều, hốc mắt sâu hoắm, lưỡng quyền cao nhiếp người, dưới hàng lông mày rậm là đôi mắt sắc như mắt diều hâu. Tất cả những nét đó vừa hoang dã lại vừa vẫn hài hoà, thêm vào cặp môi rộng luôn nở nụ cười, cái cằm cương nghị và đôi dái tai to dày gây cho người nhìn ấn tượng không tranh với đời. Chỉ Yến Phi là biết, nếu thực sự kẻ nào có ý nghĩ như vậy, có khi chết rồi vẫn không hiểu chyện gì.
Tiên Bi nhân đó chọn một hòn đá bên bờ sông ngồi xuống. Một trận gió thổi tới làm tung bay tấm áo choàng, mái tóc đen dài cũng xõa tung theo gió, càng hiện rõ vẻ cô độc dũng mãnh.
Người đó ngửa mặt nhìn mây đen cuộn bay trên bầu trời, đôi mắt tối đi thương cảm, cất giọng chậm rãi:
- Trời sắp mưa to rồi! Cơn mưa như trút sẽ ập ngay xuống, chúng ta đều là một lũ trẻ ranh, bốn bề đều là cường địch, nhìn thấy anh em chú bác chúng ta lần lượt gục ngã ngay bên cạnh... ài, sự việc mới như vừa hôm qua...
Yến Phi nhẹ như chim én từ trên cành cây nhảy xuống, ôm gối ngồi đối diện với người đó, đôi mắt tư lự nhìn ra phía xa:
- Bảy năm rồi! Cậu nói tiếng Hán đã thông thạo rồi đó!
Người đó chằm chằm nhìn Yến Phi, đôi mắt chợt bùng lên ngọn lửa thù hận, nhưng lời lẽ ngược lại rất bình tĩnh lạnh lùng:
- Nhà Yến chúng ta sở dĩ thất bại dưới tay Phù Kiên chính là vì không biết vứt bỏ đi sự mông muội, không hiểu cần phải dựa vào người Hán, lại càng không biết học cách trị quốc của người Hán. Sức mạnh đã giúp Phù Kiên thống nhất phương bắc, nhưng muốn cai trị thì phải dùng kiến thức người Hán. Bỏ tiếng Tiên Bi để dùng tiếng Hán chỉ là bước đầu tiên học hỏi người Hán của ta đấy thôi!
Yến Phi gật đầu đồng ý.
Từ sau trận chiến Xích Bích, ba nước Nguỵ - Thục - Ngô tạo nên thế chân kiềng đối đầu, trong đó mạnh nhất là Tào Ngụy, dựa vào lưu vực Hoàng Hà mà xưng hùng thiên hạ. Nhà Tư Mã dựa vào thế Tào Ngụy lập nên Tây Tấn, thống nhất thiên hạ. Đáng tiếc, khi xẩy ra "Bát vương chi loạn", các tộc Tây bắc nhất nhất nổi dậy làm cho thiên hạ đại loạn. Đến "Vĩnh Gia chi hoạ" thì Tây Tấn sụp đổ, nhà Tấn buộc phải chạy về phương nam.
Trước Phù Kiên, tại phương bắc họ Lưu tộc Hung nô, họ Thạch tộc Kiệt và họ Mộ Dung tộc Tiên Bi là ba dòng họ thống soái. Bởi Hán hoá không triệt để, lại áp dụng chính sách chia rẽ Hồ Hán nên cả ba họ dần bị thất bại.
Giờ đây, Thác Bạt Quy đã nhìn thấu được chính sách đúng đắn của Phù Kiên. Còn Phù Kiên sau khi thống nhất xong phương Bắc lại mắc sai lầm chết người là việc hoà nhập dân tộc vẫn chưa yên ổn mà đã phát động nam chinh.
Thác Bạt Quy quỳ gối xuống đất, giơ hai tay nắm lấy đôi vai rộng của Yến Phi, hai mắt sáng long lanh, nói đanh gọn từng tiếng một:
- Ta Thác Bạt Quy đã chịu đựng suốt bảy năm nay rồi. Giờ đây thời cơ ngàn vàng đã tới, Phù Kiên nhất định phải đền món nợ máu của dân tộc Tiên Bi chúng ta. Ta không phải người tài giỏi, nhưng có sự trợ giúp của Yến Phi huynh, lẽ nào việc lớn lại không thành? Dưới gầm trời này, chỉ có mỗi một Yến Phi huynh là khiến Thác Bạt Quy ta tâm phục khẩu phục.
Yến Phi mỉm cười, giơ tay xoa đầu Thác Bạt Quy, nói:
- Được rồi, cậu nhỏ! Không ngốc nghếch đi ám sát Phù Kiên đấy chứ ?
Thác Bạt Quy buông Yến Phi, đứng lên xoay người lại, mắt nhìn ra sông, hầm hừ trong cổ họng:
- Thác Bạt Quy ta không thể bằng Yến Phi huynh, nhưng chúng ta vốn đã biết nhau từ thuở nhỏ, sao lại không thể học huynh được đến ba phần! Giết Phù Kiên chẳng có ý nghĩa gì cả, quyền lực nhà Tần thực ra đều nằm trong tay Phù Dụng. Con người này tinh minh sáng suốt hiếm thấy, vốn kịch liệt phản đối cuộc nam chinh lần này. Phù Kiên nếu chết đi, quyền lực sẽ chuyển sang tay hắn, hắn sẽ rút ngay quân về phương bắc. Mọi kế hoạch của ta sẽ đổ xuống sông suống bể.
Lại một trận gió thổi tới, Thác Bạt Quy giơ hai tay hét lên trời cao:
- Nhà Tần phải tiêu vong, Phù Kiên phải thành kẻ vong quốc! Bằng không nỗi nhục mất nước của tộc Tiên Bi chúng ta sao có thể rửa sạch đây!
Mưa bắt đầu lác đác, mỗi lúc một nặng hạt rồi như trút xuống. Bốn bề mờ mịt, trận mưa dữ dội như nước tích tụ bấy lâu đổ xuống đất bằng, tưởng chừng như lời nói của Thác Bạt Quy đang được trời đất đáp lại.
Yến Phi ngước đầu để những giọt mưa tự do rơi vào mặt. Đã bắt đầu vào đông, giá lạnh đã ăn vào da thịt, hắn dùng nước để lấy lại cảm giác nhanh nhạy, càng mong cơn mưa dày nặng hơn nữa.
Yến Phi thầm thở dài, nói to trong mưa:
- Không phải là ta không muốn giúp cậu, mà miền Bắc đang là như thế nào đây? Chẳng phải đã chia năm xẻ bảy đấy ư, chẳng phải đang đối đầu nhau đến chết đấy ư? Những ai chưa chết đi được đều chịu cực nhục. Kể từ khi ta ra đời đến nay, chẳng có ngày nào là sống đúng với nghĩa cuộc sống, ta chán ngán đã đến đỉnh điểm rồi.
Thác Bạt Quy lại khom người quỳ xuống, mở miệng uống từng giọt nước mưa, mắt quắc lên nói chầm chậm:
- Yến Phi, đừng giễu cợt ta. Cho dù mấy năm lại đây ta không rõ là huynh làm gì, nhưng Yến Phi vẫn cứ là Yến Phi, trong con người vẫn chảy một nửa dòng máu Tiên Bi chúng ta, nửa máu kia là của tộc Hán, nửa nào cũng đều không muốn sống quỳ. Lần này, Thác Bạt Quy Tiên Bi ta sẽ làm lại, không thể như trước kia chỉ biết ăn thịt, uống máu, lang thang đây đó. Mọi sự với ta giờ đã khác, sợ gì xây thành, ngại gì trồng trọt, tại sao lại không thể lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, tại sao lại không thể dưỡng sức dân? Tần Tấn chiến tranh, nếu như Đế Tần sụp đổ thì đó sẽ là cơ hội của Tiên Bi chúng ta. Chiến lược của Phù Kiên là vô cùng đúng đắn, chỉ là đi sai nước cờ, khi chưa ngự trị được các tộc phương bắc mà đã ngang nhiên xâm lược phương nam. Thật tiếc là Vương Mãng đã sớm chết đi, chứ không thì sẽ không thể xẩy ra chuyện này. Thê nhưng đây là cơ hội trời cho của Thác Bạt Quy ta đây. Yến Phi à, huynh chớ nên lựa chọn, hãy dốc hết sức phò tá ta đi !
Mưa lạnh lẽo ướt hết thân mình, thế nhưng lòng Yến Phi lại bừng bừng lửa nóng.
Thác Bạt Quy đã trưởng thành hẳn rồi! Tiểu tử chỉ biết khóc gào bảy năm trước đó, từ trong khổ hạnh và tai ương đã biết nghĩ về dân tộc mình, biết tìm con đường đi cứu nước, trở thành người lãnh đạo biết nhìn xa trông rộng. Không ai hơn Yến Phi có thể nhìn thấu rõ con người Thác Bạt Quy. Khi Thác Bạt Quy đã nhận rõ mục tiêu thì sẽ bất chấp tất cả để đạt lấy, chỉ có cái chết mới ngăn được mà thôi!
Thở dài một hơi, Yến Phi lên tiếng:
- Cậu có cách gì để đánh tan cả triệu đại quân của Phù Kiên chưa?
Môi Thác Bạt Quy mỉm một nụ cười tự tin, dần nở ra trong tiếng cười đắc thắng:
- Đây chính là "nhân thế thành sự" đấy. Yến Phi à, huynh cần hiểu rõ, hôm nay đáp lại lời Thác Bạt Quy ta đã có hai người. Dao Trường và chú ta Mộ Dung Thùy, hai người này nhất định sẽ ủng hộ ta, sẽ đem quân quay về bắc với ta.
Thân hình vạm vỡ của Yến Phi giật nẩy lên, cặp mắt như có điện nhìn chằm chằm Thác Bạt Quy.
Thạc Bạt Quy mắt không chớp nhìn lại, trầm giọng:
- Bảy năm qua ta sinh sống bằng các chiến mã vô song vùng Biên Hoang mà người phương nam lúc nào cũng trả giá cao. Một mặt, ta cần tiền của cho ta và các chiến sĩ của ta, mặt khác là làm Phù Kiên không thể không đề phòng. Để giữ bí mật, ta dù biết huynh đã tới Biên Hoang nhưng tránh không liên lạc với huynh, tránh lộ bí mật những gì ta tính toán. Chỉ vừa rồi khi cần cứu huynh mà ta mới lộ mặt ra tay.
Yến Phi chăm chú nhìn Thác Bạt Quy, trong lòng trỗi lên những cảm giác phức tạp. Thác Bạt Quy mà hắn biết trước kia chỉ là tay ngang tàng trong thời loạn, chưa bao giờ nghĩ rằng, thủ đoạn ý tưởng của hắn ta lại phong phú đến như vậy.
Mưa như trút đổ xuống lá cây, mặt nước, đất bằng, tạo nên bản hợp xướng đủ mọi âm thanh. Bốn bề mờ mịt vắng lặng, hai người họ như đứng giữa trời đất mà quyết định vận mệnh tương lai thiên hạ, cho dù hiện tại xem ra vẫn đang là chuyện mông lung.
Yến Phi cười một cách khổ sở:
- Được rồi ! Cậu đã bao năm nay trau dồi kiến thức thì nên có quà gì đó cho Phù Kiên đi. Nếu như Phù Kiên thất bại, kẻ đắc ý nhất sẽ là người phương nam hoặc Mộ Dung Thùy, đứng thứ ba chính là Dao Trường. Cậu chỉ có thể là kẻ đứng sau cùng mà thôi. Hừ! Đây mới là chuyện đáng lo đấy, cậu vẫn nghĩ Mộ Dung Thùy sẽ ủng hộ cậu chăng? Nếu ta mà là Mộ Dung Thùy, người cần giết trước tiên sẽ là cậu đó!
Thạc Bạt Quy cười toáng lên:
- Huynh đánh giá quá cao đối thủ của ta rồi. Nếu nói tới người phương nam, họ chỉ nghĩ tới vận mạng mất nước thôi. Vua Tấn Tư Mã Diệu và em trai là Tư Mã Đạo Tử chỉ là hai con rùa rụt cổ, mọi sự đều phó thác vào Tạ An và chính quyền Giang Tả lười nhác hủ bại. Khoan chưa nói tới bọn quý tộc Giang Tả phù phiếm đó, hãy bàn tới chuyện quan trọng nhất là, ai có thể bằng người Hồ ta, ai mới là người có khả năng xưng đế? Triều đình nhà Tấn nghi ngờ lẫn nhau, đã không ủng hộ lại còn tìm cách đả kích ngăn cản, làm cho ý tưởng bắc phạt mai mãi không thành. Ngoài những vấn đề đó ra, Nam Tấn còn có hai chuyện đáng lo. Một là, cái gọi là "Giang Tả Song Huyền". Tạ An bên ngoài ngỡ là dốc lòng với Tấn. Hằng Huyền tay đao lợi hại em của Hằng Xung, cha anh họ xuất thân quyền uy danh vọng, đền là người có dã tâm lớn, lúc nào cũng muốn lợi dụng biến cố để trỗi dậy. Còn Phù Kiên thì sao? Nếu lão ta bại trận, gia tộc họ Tạ nhất định sẽ bị nhà Tấn đè nén, như thế thì cơ hội của Hằng Huyền có còn nữa không?
Yến Phi không nói thêm gì, nhưng hiểu lời Thác Bạt Quy quả thực đã bao quát cả tình hình chính trị hai miền Nam Bắc. Thác Bạt Quy lại nói tiếp:
- Còn một cái hoạ lớn nữa là, Nam Hải đang nằm trong tay năm phe nổi dậy. Trong đó lực lượng chính Tôn Tư không chỉ vượt trội hai đại tộc Giang Tả về võ công, lại còn biết lung lạc dân chúng bằng đạo thuật, đã thu nạp được không ít cường hào nhân sĩ từ bắc xuống, sớm muộn cũng sẽ tiến về phía Bắc. Bởi vậy, chỉ cần ta thống nhất được phương bắc thì chính quyền Giang Tả chỉ cần giành ra một chức tể tướng. Là Mộ Dung Thùy hay Dao Trường, tất thảy đều do ta bố trí. Trong hoàn cảnh hiện thời, ta chỉ cần huynh giúp ta một việc.
Yến Phi không còn cách chối từ, bất đắc dĩ cười khổ:
- Ta đang nghe đây!
Thạc Bạt Quy ghé lại thì thầm:
- Huynh đi tìm Tạ Huyền cho ta, nói với ông ta rằng, Mộ Dung Thùy sẽ không những không dốc sức cho Phù Kiên mà còn để lối cho ông ta rút lui, mục đích là khiến cho Phù Kiên thua cuộc chiến này. Chắc chắn Tạ Huyền sẽ gật đầu chấp nhận, khi đó ta sẽ cùng Tạ Huyền ngồi lại bàn bạc phương cách hợp tác tùy theo tình hình.
Yến Phi ngỡ ngàng:
- Mộ Dung Thuỳ?
Thạc Bạt Quy bất ngờ đứng thẳng lên, lôi từ trong người ra một chiếc túi da dê đưa cho Yến Phi:
- Ta đâu có thời gian rỗi tán gẫu! Trong này là bảo vật truyền đời của gia tộc Mộ Dung, huynh có thể lấy đó làm vật chứng bảo đảm với Tạ Huyền rằng huynh không nói dối. Việc này là vô cùng gấp gáp, chỉ có huynh mới có thể làm được cho ta. Tạ Huyền là người thông minh, tất sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào đánh bại kẻ thù.
Hai người quy ước cách thức liên lạc, cách ứng biến theo tình hình, thông báo những nơi có thể giấu mình, bao gồm cả kho lớn chứa rượu của Đệ nhất lâu.
Xong xuôi, Thác Bạt Quy bỏ đi ngay tức khắc.
Nhìn theo bóng dáng cao lớn khuất dần nơi rừng xa đầy mưa, Yến Phi hiểu Thác Bạt Quy đã thực sự trưởng thành, sẽ bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc chiến loạn này.
Chương V
MỖI SƯ MỘT SÁCH
Ánh mắt đăm chiêu của Phù Dụng đăm đăm nhìn vào chiếc thuyền con giấu trong một chỗ khuất bên bờ sông, hai bên hắn là hai mãnh tướng bộ dạng đối nghịch Độc ưng tộc Tiên Bi và Từ Cừ Mông tộc Hung nô. Ngoài hơn chục tên vệ binh đứng im phăng phắc phía sau, mấy trăm chiến binh đi theo đều đang trải thảm dọc bờ sông lùng sục.
Mưa ngớt dần, trên cao mây đen vẫn trôi nhưng thấp thoáng đã có thể nhìn thấy bầu trời xanh thẳm, cảnh vật hoang dã quanh con sông càng hiện rõ hơn bao giờ hết.
Phù Dụng đầu đội mũ sắt, mình khoác chiến bào, cổ quấn khăn len, bên trong là áo giáp lấp lánh, khí độ phi phàm. Thân hình người này không hẳn gây sự chú ý, nhưng đôi mắt sáng dữ dằn khiến ai ai cũng không thể coi thường.
Độc ưng hằm hằm nói:
- Trận mưa chết tiệt này thật không đúng lúc, dù sao cũng quyết tìm bằng được hai tên giặc cỏ này, phanh thây chúng ra mới hả.
Phù Dung cười lạnh:
- Tại sao bọn chúng lại không xuôi dòng đi tiếp mà lại để thuyền đây rồi lên bờ?
Độc ưng thoáng giật mình, Từ Cừ Mông gật gật đầu nói:
- Có thể bọn chúng đã quay lại Biên Hoang, nếu đúng như vậy chắc hẳn phải có âm mưu lớn!
Chưa ai kịp trả lời, một bóng người nhanh như quỷ mị đã hiện ra trước mặt Phù Dụng.
Người đó có thân hình cao gầy, bên ngoài khoác áo da dài màu đỏ, đầu đội chiếc mũ chống gió đỉnh tròn, mình mặc áo ngắn nhiều lớp, bên dưới là chiếc quần đen bó sát, trang phục đó vốn đã có bảy phần lập dị, nhưng kỳ quái hơm nữa lại là khuôn mặt của hắn ta. Khuôn mặt gầy rộc như chiếc đầu lâu bọc da, đôi mắt vô hồn như không có tiêu điểm, thế nhưng những ai nhìn vào đều có chung cảm giác ớn lạnh.
Cả Độc ưng và Từ Cừ Mông cùng lúc lộ ra thần sắc sợ sệt.
Ánh mắt Phù Dụng chuyển từ con thuyền nhỏ tới khuôn mặt quái nhân:
- Quốc Nhân có phải đã phát hiện được cái gì không ?
Con người kỳ quái này hoá ra là đại cao thủ Tiên Bi Khất Phục Quốc Nhân, võ công trong tộc chỉ đứng sau Mộ Dung Thùy. Thời Ngũ Hồ náo loạn Trung Hoa, tình hình Tiên Bi hết sức phức tạp, các họ tộc tranh giành sinh ra xung đột chia rẽ, Mạnh nhất có các họ Mộ Dung, Thác Bạt, Đoàn, Vũ Văn, Khất Phục, mỗi họ đều có một người đứng đầu gọi là "Hiệu".
Khất Phục Quốc Nhân buông thõng tay trái ném hai thanh đao rơi xuống đất phát ra hai tiếng "keng keng" lanh lảnh, ngữ điệu ôn tồn nhưng lại khiến người ta có cảm giác hắn đang rít lên:
- Hai kẻ đó chia tay nhau tại đây. Một tên quay lại Biên Hoang, dọc đường vứt lại hai thanh dao này. Tên còn lại vượt sông qua bờ bên kia, dấu chân vẫn còn mờ mờ trên bùn, mưa lâu chút nữa là mất dấu, có lẽ đã đi về hướng nam rồi.
Phù Dụng cau mày:
- Thế thì tên đi về hướng nam nhất định là Yến Phi, còn tên kia là ai? Đôi đoản đao này không tương xứng với võ công của hắn, chắc chắn cầm theo chỉ để che giấu thân phận, sợ dùng binh khí tùy thân sẽ lộ lại lịch. Hừm, hắn muốn đánh lạc hướng chúng ta, điều này lại khiến ta đoán được hắn là ai.
Khất Phục Quốc Nhân nói mà da mặt không hề động đậy:
- Kiểu buộc dây neo thuyền là của gia tộc Thác Bạt Tiên Bi. Không cần Quốc Nhân nói ra, Phù soái chắc cũng biết ngay hắn là ai.
Phù Dụng trợn trừng đôi mắt:
- Nhất định là tên cướp cưỡi ngựa Thác Bạt Quy hôm kia đánh lén chúng ta. Vũ khí của hắn bữa đó là đôi kích, hôm nay lại đổi kích dùng đao.
Độc ưng cười gằn nham hiểm:
- Tiểu tử lần này lại dám động thủ lên cả đầu ông bà hắn. Ta nhất định phải cho hắn bài học, Phù soái cứ giao việc này cho ta!
Phù Dụng lắc đầu:
- Chúng ta không còn nhiều thời gian, phải nhanh tay dọn quang mặt đất đón Thiên vương vào Biên Hoang.
Đôi mắt hắn lóe lên tia sáng lạnh:
- Từ Cừ Mông, Độc ưng, các người nhanh chóng điều động tiền quân tiến vào Biên Hoang, gom hết bọn Tiên Bi lại, bất kể già trẻ gái trai giết hết không chừa một mống! Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, quyết không để lọt lưới con cá nào. Ta dám chắc có Thác Bạt Quy trong số đó, không thì làm sao cứu nổi Yến Phi?
Từ Cừ Mông và Độc ưng lập tức lĩnh mệnh đi ngay.
Ánh mắt Phù Dụng chuyển sang Khất Phục Quốc Nhân:
- Theo suy luận này thì rõ ràng Yến Phi có quan hệ mật thiết với Thác Bạt Quy. Vậy xuất thân của hắn là thế nào? Từ kiếm pháp mà suy, có thể khẳng định hắn không hề là người tầm thường!
Khất Phục Quốc Nhân cười lạnh:
- Bất kể hắn ta là ai, chỉ cần Phù soái ra lệnh, ta xin bảo đảm hắn không thể sống qua ngày thứ ba!
Phù Dụng ngửa mặt cười lớn:
- Vậy thì Quốc Nhân hãy đi về hướng nam. Giết hắn cũng tốt, nếu như bắt sống được hắn tra ra tin tức về bọn người Thác Bạt thì lại càng hay. Quốc Nhân, ngươi là đại cao thủ truy tung của Đế Tần ta. Tin rằng Yến Phi không thể lọt khỏi bàn tay ngươi!
Khất Phục Quốc Nhân hừm to một tiếng rồi quả quyết:
- Cho dù hắn có trốn xuống địa ngục, ta nhất định lôi về cho Phù soái!
Tiếng gió rít trên cao gần lại, một con liệp ưng sà xuống đậu lên vai Khất Phục Quốc Nhân. Khất Phục Quốc Nhân chân như không chạm đất lùi về phía sau, mái tóc dài bay lất phất trong gió.
Con liệp ưng không báo cho hắn điều gì mới mẻ, Yến Phi đã biệt tăm biệt tích trong rừng cây.
oooooooooooooooooooooo
Kinh Châu, Giang Lăng, phủ Thích sử, Nội đường.
Hằng Huyền đi xồng xộc vào cửa, tới sau Hằng Xung đang an nhàn ngắm cảnh sắc ngoài vườn, giận dữ nói:
- Đại ca hãy cho đệ một lời phân xử. Dù gì đi nữa thì đệ cũng là Nam Quận công, nước nhà lâm nạn, Hằng Huyền đệ tình nguyện dẫn quân tinh nhuệ về bảo vệ kinh thành, vậy mà Tạ An không chấp nhận, lại còn nói rằng đệ cứ yên tâm! Ba ngàn binh mã không nhiều nhưng cũng không phải là ít, cái quan trọng là bảo vệ được Kinh Châu. Đại ca, huynh nói xem đệ phải làm gì bây giờ, lẽ nào cứ ngồi yên nhìn Tạ An dâng nước cho giặc?
Hằng Xung thân hình tầm thước, khuôn mặt đoan chính trung hậu, năm đó sáu mươi mốt tuổi, mũi dày, lưỡng quyền cao, ánh mắt cương nghị. Nhìn vẻ ngoài Hằng Xung không có nét gì đặc biệt nhưng lại tạo ấn tượng là con người chắc chắn đáng tin cậy.
Hằng Huyền hai bảy, kém anh trai những hơn ba chục tuổi, vẻ ngoài trông lại còn trẻ hơn, tinh thần bạo mãn, ngũ quan ngay ngắn. Khiếm khuyết lớn nhất là đôi mắt ti hí gian giảo, bù lại vầng trán cao rộng lại thể hiện sự thông minh tài trí hơn người. Hằng Huyền cao hơn Hằng Xung nửa cái đầu, thân hình cân đối, da dẻ trắng trẻo mịn màng, mình mặc võ phục oai phong, lưng đeo thanh đao danh tiếng "Đoạn ngọc hàn", khí thế quả có chút ngạo thế hơn đời.
Hằng Xung vẫn đăm đăm nhìn qua cửa sổ ngắm cảnh đẹp đầu đông, cất giọng nhỏ nhẹ chư đang nói với chính mình:
- Phù Kiên từ đất Ba Thục theo dòng mà xuất thủy binh tới, tình hình hiện nay như thế nào?
Hằng Huyền ngạc nhiên sững lại, vốn rất kính trọng Hằng Xung nên hắn không dám hỗn hào, cố ghìm bực bội trong lòng, trả lời:
- Dạ thưa, đã cầm được giặc ở thành Kiện Bình. Nhưng một cánh quân của họ Phù vẫn tiến được vào Tương Dương uy hiếp Giang Lăng. Đệ đã điều quân phòng thủ Tuyên, Đô, hai thành cạnh Giang Lăng, lũ Tần tặc tấn công thành nào thì đại quân của chúng ta có thể theo đường thuỷ tới chi viện.
Hằng Xung trầm ngâm một lát:
- Nếu hai cánh quân giặc hợp lại, thuận dòng tấn công Kiện Khang, đệ đã lường hết hậu quả chưa?
Hằng Huyền nghiến răng:
- Đệ đã nghĩ đến chuyện đó. Có điều, đã có đại ca giữ Kinh Châu thì Dương Châu sẽ vững như bàn thạch. Đệ chỉ nghĩ tới việc bảo vệ Triều đình. Hãy xem, Tạ An dùng toàn người nhà, thống soái là Tạ Thạch, quân tiên phong có Tạ Huyền và Tạ Diễm, đệ chỉ có một mũi quân không thể sánh nổi với họ. Đệ mười sáu tuổi đã cầm quân đánh địch, lập nhiều chiến công. Giờ đây, Đế Tần tiến sát biên cương o ép, Tạ An vẫn tự cho mình cái quyền không nghe ai cả. Đệ thừa nhận Tạ An là trụ cột Triều đình, nhưng về mặt quân sự thì vẫn rất non nớt, các tướng ông ta cử ra cũng đếu thiếu kinh nghiệm tác chiến, hậu quả thế nào đệ thật không dám nghĩ tới.
Hằng Xung thở một hơi dài, vẻ đồng tình với ý kiến Hằng Huyền:
- Chính vì đại quân Đế Tần ép sát biên giới nên chúng ta không còn cách lựa chọn. Tạ An văn võ song toàn, chưa hẳn như đệ nhìn nhận đâu. Tiểu đệ ạ, hãy giúp huynh giữ vững Kinh Châu. Kinh Châu còn, giang sơn nhà Tấn không thể mất được.
Hằng Huyền tới bên cạnh Hằng Xung, nheo mắt lạnh lùng nói:
- Đại ca cớ gì phải tự ép mình như vậy? Chỉ cần đại ca gật đầu, đệ sẽ dẫn toàn quân đến Kiện Khang xông hẳn vào giữa trận tiền, nói không chừng sẽ khiến thần thánh thay đổi ý định, tạo phúc lớn cho muôn dân.
Hằng Xung vẫn không ngoái nhìn lại, lắc đầu:
- Thắng bại trận tiền đều dựa vào tướng giỏi. Đệ hẵng làm sao cho tướng lĩnh Bắc phủ đều khâm phục, đừng để trai cò giao tranh, tiểu nhân ngư ông Tư Mã Đạo Tử thừa cơ trục lợi, ngàn lần cũng không thể để chuyện ấy xẩy ra.
Hằng Huyền tức giận nói:
- Đại ca ! Hằng gia chúng ta còn phải khuất thân đến bao giờ? Phụ thân chúng ta thuở ấy đã chuẩn bị lên ngôi, nếu không vì Tạ An, Vương Thản Chi và mấy kẻ nữa cố ý trì hoãn thì Người đã là Hoàng đế rồi. Chỉ tiếc phụ thân sớm bệnh qua đời, đại ca thì không có lòng ham muốn đế vương. Bây giờ thì...
Hằng Xung quay phắt lại nhìn em trai, hai mắt sáng quắc, nói lớn:
- Câm ngay! Việc lớn bây giờ không phải tranh giành nội bộ mà là đoàn kết chống giặc. Chỉ có làm trọn bổn phận may ra chúng ta mới không thành kẻ nô lệ mất nước. Đệ hãy về đi! Nếu để xẩy ra chuyện gì lộn xộn thì chớ trách ta không coi trọng tình nghĩa anh em. Đi ngay!
oooooooooooooooooooooooooooo
Màn đêm buông xuống, một chiếc thuyền chiến lặng lẽ từ Thọ Dương ngược dòng Dĩnh Thủy, đến ngã ba sông lại ngoặt hướng tây chạy vào Hoài Thủy về hướng Biên Hoang.
Đứng trên thuyền là tướng trấn giữ Thọ Dương Hồ Bân và mấy mươi thuộc hạ thân tín. Lưu Khiên Chi đã dặn dò kỹ lưỡng, nhiệm vụ hôm nay là đưa một người đến Dĩnh Khẩu, người đó là ai, nhằm mục đích gì Hồ Bân lại không được biết. Điều khiến ông ta tức bực là viên tiểu tướng Lưu Dụ được cử tới cũng kín miệng như bưng, khi gặp mặt chỉ nói vẻn vẹn có mấy câu xã giao, còn thì chỉ đứng im nhìn ra mặt sông.
Hồ Bân cùng Lưu Dụ đứng trên mũi thuyền. Hồ Bân không khỏi bực bội vì cảm giác mình là kẻ ngốc, còn Lưu Dụ trước sau chỉ chăm chú nhìn địa thế bờ bắc Hoài Thuỷ.
Một lúc, Hồ Bân không đừng được hỏi thăm dò:
- Lưu Dụ, có vẻ ngươi nắm rất rõ tình hình Biên Hoang?
Lưu Dụ khẽ gật đầu nói:
- Tiểu tướng vâng mệnh, đã nhiều lần đi thám sát tình hình vùng này rồi.
Hồ Bân nhìn kỹ Lưu Dụ, sự tò mò càng tăng thêm. Lưu Khiên Chi cử Lưu Dụ đến Biên Hoang mà không báo rõ cho Hồ Bân khiến ông ta không khỏi có chút mếch lòng. Hồ Bân đảm nhiệm trọng trách trận tiền, được tin Phù Kiên kéo quân xuống nam, ông ta sớm đã thăm dò đầy đủ, có thêm một con người này cũng không làm nên trò trống gì hơn. Huống hồ, viên tiểu tướng này mới ngoài hai mươi tuổi, kinh nghiệm chắc chắc chưa có là bao.
Thế nhưng Hồ Bân cũng không dám tỏ ra coi thường bởi con người Lưu Dụ toát ra vẻ tự tin bình tĩnh hơn người, khí chất của kẻ có thể làm nên việc lớn.
Lưu Dụ cao hơn người bình thường một chút, mặt vuông tai lớn, cơ bắp rắn rỏi, tướng mạo đàng hoàng, đôi mắt kín đáo không bộc lộ nội tâm, hai bàn tay đặc biệt to sâu, mặc dù chỉ im lặng đứng yên nhưng lại khiến người nhìn có cảm nghĩ khác lạ là trong con người này tiềm ẩn một sức mạnh kinh hồn sẽ bùng phát trong tương lai không xa.
Hồ Bân gằn giọng:
- Sau khi vào Biên Hoang ngươi sẽ phải đơn độc tác chiến, quân của ta không thể giúp gì được ngươi. Ta không rõ Tham quân đại nhân cử ngươi đến Biên Hoang làm cái gì? Người Hán nơi đó đều đã di tản hết, người Hồ bắt gặp người Hán là giết, thủ đoạn vô cùng tàn nhẫn. Vạn nhất ngươi bị chúng bắt mà lộ ra cơ mật của chúng ta thì sẽ làm hỏng hết đại sự!
Lưu Dụ chậm rãi:
- Thuộc hạ địa vị thấp hèn, không hiểu việc lớn, nếu nắm không đúng tình hình thì sẽ chết trước tiên, mong tướng quân hiểu cho thuộc hạ.
Hồ Bân thấy o ép như vậy mà Lưu Dụ vẫn không lộ chút gì về thân phận nhiệm vụ, nỗi bực tức càng tăng lên, nhếch mép cười khẩy.
Ánh mắt Lưu Dụ tập trung về phía bờ bắc Hoài Thủy. Sông Dĩnh Thuỷ đã lùi lại phía sau, hai bên bờ bình nguyên hoang vu trải dài. Theo hướng bắc mà đi, chỉ một đêm là có thể đến được hoang thành Nhữ Âm ở rìa nam Biên Hoang, từ đó đi tiếp hai ngày sẽ tới Biên Hoang Tập.
Trong lòng Lưu Dụ trỗi dậy một luồng hào khí. Hắn nào có quan tâm tới sự tồn vong của nhà Tấn, cũng không để ý đến cả vinh quang công trạng bản thân. Cái mà Lưu Dụ chờ mong chỉ là cơ hội thâm nhập vào sau lưng địch, cảm giác kích thích tột cùng khi một mình len lỏi giữa ngàn vạn quân thù mà thực hiện sứ mạng của mình.
Chiến thuyền ghé sát bờ. Hồ Bân nói một cách lạnh nhạt:
- Đi đi. Đừng mong lập được đại công, mà có mong cũng không được đâu!
Lưu Dụ xốc lại tay nải, thẳng người định nhảy lên bờ, đột nhiên hai tay giật lên trong một linh cảm bất tường.
Soạt một tiếng như tiếng quần áo rách bên mạn trái con thuyền. Một bóng đen rẽ nước lao lên, nháy mắt đã đến trước hai người.
Chiếc ác bào màu tro bay lất phất theo gió như cánh dơi đêm khổng lồ, đôi mắt sáng rực như ánh mắt quỷ. Hơn hai mươi tinh binh hộ vệ chưa kịp động tay đến binh khí, thích khách đã xòe hai tay như hai chiếc quạt chụp lên đầu Lưu Dụ và Hồ Bân.
ooooooooooooooooooooooo
Những giọt mỡ chảy ra từ chiếc đùi chó sói rơi trên thanh củi nướng. Ngọn lửa bập bùng phát ra những tiếng xèo xèo không dứt. Yến Phi hỏa tốc lên đường hai ngày đêm liền không nghỉ, đã đến lúc phải nghỉ ngơi để lấp đầy cái bụng.
Nơi hắn dừng chân cách sông Dĩnh Thủy chừng nửa dặm. Bờ bên kia chính là thành Nhữ Âm hoang tàn lọt thỏm giữa Biên Hoang Tập và cửa sông Dĩnh Thủy. Yến Phi vẫn chưa biết phải làm cách nào để gặp được Hằng Huyền, nhưng điều chắc chắn là hắn phải tìm cách lọt vào và lưu lại Thọ Dương để tìm đường thực hiện kế sách. Đây mới là việc quan trọng nhất bây giờ chứ không phải là sự tận hưởng món thịt ngon lành mà hắn vừa săn được.
Giá mà có được một bình nước tuyết tan thì tuyệt vời biết mấy!
Sông Dĩnh Thủy vắng vẻ khác thường, mặt nước mênh mông không có bóng dáng một con thuyền. Bầu trời dày nặng mây đen khiến người ta có cảm giác như những trận mưa đang sẵn sàng ập tới.
Yến Phi rút dao cắt lấy một miếng thịt chó sói cho vào miệng, vẻ mặt mãn nguyện thư thái. Hơn một năm từ bỏ lối sống hoang dã, giờ đây hắn lại được thưởng thức cái cảm giác thú vị thuở nào.
Nếu chiến tranh không đe dọa đằng sau thì ngọn lửa và bữa thịt sói hôm nay sẽ là cảm giác thống khoái lớn nhất mà hắn có thể mơ ước!
Yến Phi lôi từ thắt lưng ra mấy đồng tiền vàng của Cao Ngạn, nheo mắt ngắm nghía trong ánh lửa bập bùng. Tại quê hương hắn, chừng này vàng là đủ sống an nhàn một thời gian dài, thật đáng tiếc là hắn phải đi về hướng ngược lại!
Yến Phi nhớ lại những lời của Thác Bạt Quy. Thác Bạt Quy tự cho rằng hắn ta nắm rõ tình hình nhà Tấn như trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, sự tình có những điều ngoắt nghéo mà con người Thác Bạt Quy dù thông minh tuyệt đỉnh cũng không thể nào hiểu được.
Với thế lực thân tộc mà Vương, Tạ là hai tộc đại diện, sau khi nhà Tấn rời về phương nam, việc chọn lựa chức tước dần dần ổn định, con em các tộc theo phò Tấn Đế nam di nối đời làm công khanh, thế lực dòng họ vì thế càng ngày càng lớn. Trong tình hình chức tước nối đời như thế, dù một chục Thánh chỉ ban ra cũng khó lòng mà thay đổi được điều gì.
Đối với các gia tộc quyền quý, ai làm Hoàng đế cũng không phải là điều bận tâm, miễn sao địa vị ưu việt của gia tộc mình được đảm bảo. Triều thịnh hay suy, vua lên hay xuống, tuyệt nhiên không phải là lo lắng hay đáng tiếc, điều họ quan tâm là sự bền vững của gia tộc. Bởi vậy, tìm trung thần trong hai đại gia tộc của nhà Tấn lúc bấy giờ thật khó như lên trời, còn con cái hiếu thảo thì đông như kiến cỏ. Đây chính là tình hình quái đản hình thành nên trong lầu son gác tía nhà Nam Tấn.
Hai gia tộc quyền uy Vương, Tạ của nhà Tấn thuở đó cũng có chỗ khác nhau. Gia tộc họ Vương coi trọng nho học, còn Tạ gia thì xông xáo trận mạc, nhân sĩ tộc Tạ gắn kết với quốc sự nhà Tấn. Những thành viên gia tộc quyền cao chức trọng như Tạ An, Vương Thản Chi, đến Tấn Đế cũng không thể khống chế được. Mâu thuẫn trong lòng Tấn triều vì thế ngày một gay go kịch liệt, đại loạn đe dọa nổ ra bất cứ lúc nào. Tồn vong của nhà Tấn có thể đếm được từng ngày, chỉ không rõ tai họa từ phương bắc tới hay là tự trong lòng phát sinh?
Nghĩ tới đây, bỗng trong lòng Yến Phi chợt động, liền đưa dao thong thả cắt một miếng thịt sói, ung dung cất tiếng:
- Hãy hiện thân đi, ông bạn.
Khất Phục Quốc Nhân trợn cặp mắt trắng dã như mắt cá chết, bật cười khùng khục:
- Chẳng phải đã có ngươi ngoan ngoãn theo hầu đấy thôi, ta làm gì còn cô đơn nữa!
Yến Phi vẫn đứng yên, môi hé nụ cười ý nhị, "soạt" một tiếng rút kiếm khỏi bao, cùng lúc chân trái đá tung thanh củi đang cháy làm muôn vàn đốm lửa tung toé đỏ rực không gian như sao sa bay về phía Khất Phục Quốc Nhân. Điệp luyến hoa loang loáng nhằm vào ngực Khất Phục Quốc Nhân công đến, thế kiếm vừa hung mãnh vừa hiểm độc. Yến Phi hiểu rõ sự lợi hại của đối phương nên vừa ra tay đã vận toàn công lực mà tung sát chiêu.
Khất Phục Quốc Nhân cười lớn, chiếc áo đỏ đang buông chùng bỗng căng ra như cánh buồm quạt đám lửa than bay trở lại. Yến Phi bất ngờ bị lửa than rơi cả lên đầu, thất kinh lùi lại phía sau. Hắn đã biết uy danh Khất Phục Quốc Nhân từ lâu, nhưng vẫn không lường được là võ công con người này lại cao cường đến thế.
Phía bên kia đống lửa, Khất Phục Quốc Nhân cũng toát mồ hôi lạnh, không ngờ thế công của Yến Phi lại hung hiểm đến vậy, chỉ cần một thoáng lơi lỏng là suýt nữa trúng đòn. Tuy nhiên giờ đây Yến Phi đã thất thế, chỉ cần nương theo đà mà truy kích thì Yến Phi nhất định sẽ không kịp trở tay.
Sợi Huyền thiết xích dài hai thước tám tấc của Khất Phục Quốc Nhân vung ra phía trước. Thứ vũ khí khiến giới võ lâm nghe tên mà kinh động ấy đang loang loáng công kích Yến Phi.
Păng, păng, păng!
Tiếng binh khí va nhau chát chúa, than lửa bắn tung toé bốn bề. Khất Phục Quốc Nhân rốt cuộc đã gặp phải kỳ phùng địch thủ. Mỗi một thế kiếm Yến Phi bổ tới đều buộc hắn phải căng mình ra chống đỡ, khí thế dần dần tiêu tan. Ngạo thị thế gian mấy mươi năm, lần đầu tiên Khất Phục Quốc Nhân mới gặp một kiếm thủ lợi hại như vậy.
Một tia sáng hiểm độc lướt qua trong mắt Khất Phục Quốc Nhân, hắn dướn người lên hết sức quật sợi xích xuống.
Trong con mắt Yến Phi, Khất Phục Quốc Nhân vẻ ngoài tuy vẫn hùng hùng hổ hổ, nhưng động tác chậm lại cho thấy thể lực đã có phần suy giảm, không thấy có thêm sinh khí mới. Nếu chớp lấy lợi thế mà gia tăng sức ép thì rất có thể hắn sẽ lập được kỳ tích đánh bại cao thủ thứ hai của tộc Tiên Bi này.
Khất Phục Quốc Nhân dường như không có ý né tránh những đường kiếm nhanh như chớp của Yến Phi, Huyền thiết xích bủa vây đón đỡ nhưng thế tay đã dần chậm lại, thêm nữa thân hình hắn thấp hơn Yến Phi, tóc dài tung bay thành từng búi trước ngực, dễ bị che mắt mà trúng đòn Điệp luyến hoa.
Chân trái Khất Phục Quốc Nhân chợt khụy xuống như sơ ý dẫm phải chỗ đất trơn, Huyền thiết xích thu lại, cả người hắn khom xuống để giữ thăng bằng. Yến Phi không bỏ lỡ cơ hội, Điệp luyến hoa vung lên bổ chéo từ trên xuống hòng kết liễu kẻ đại địch.
Mắt thấy tính mạng Khất Phục Quốc Nhân sắp hưu hỉ đến nơi, hắn bỗng lạnh lùng hừ lên một tiếng, Huyền thiết xích đang buông thõng đột nhiên thẳng cứng như thanh côn thép quất ngược trở lên. Kiếm của Yến Phi chẳng khác nào bị chiếc búa ngàn cân giáng trúng, suýt tuột khỏi tay bay đi. Yến Phi bắt đầu cảm thấy lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo như khó bề chịu đựng thêm nữa. Hắn hiểu rõ sự sống còn lúc ấy, vội miễn cưỡng dốc hết sức bình sinh mượn thế lùi lại, Điệp luyến hoa lấp loáng che chắn toàn thân, từ tấn công trở về thế phòng ngự.
Khất Phục Quốc Nhân đắc ý cười lớn, đứng thẳng người lên, nhanh như cắt xông về phía Yến Phi, Huyền thiết xích nhằm đầu hắn bổ xuống tới tấp mãnh liệt.
Yến Phi đã mượn thế lùi để xoay người hồi phục sức lực. Thấy Khất Phục Quốc Nhân sử dụng cách đánh ngạnh công như vậy, tim Yến Phi đập lên dữ dội, quyết định phản kích.
Chát chát chát chát! Tiếng kiếm xích va nhau đinh tai. Khất Phục Quốc Nhân không ngừng bổ Huyền thiết xích lên đầu Yến Phi. Yến Phi dồn toàn lực đỡ những đòn như bài sơn đảo hải của đối phương, vừa đỡ vừa lùi dần về mé sông Dĩnh Thủy.
Chỉ trong khoảnh khắc, Khất Phục Quốc Nhân không biết đã quật xuống bao nhiêu lần, cũng không biết Yến Phi đã chặn được bao nhiêu chiêu xích. Cả hai đối thủ đều tập trung cao độ, Huyền thiết xích biến hoá khôn lường, Điệp luyến hoa cũng khinh linh vững chãi chặn đứng sợi xích danh trấn giang hồ đang công tới từ mọi góc độ.
Đột nhiên...
"Phâng" một tiếng.
Con chim ưng của Khất Phục Quốc Nhân vẫn đứng yên từ nãy tới giờ lẳng lặng xông tới, một cước đá trúng mũi kiếm của Yến Phi.
Con vật bất ngờ lao vào với sức rất mạnh, không ngờ đã làm cho tay kiếm Yến Phi đau tê tái, loạng choạng ngã dúi về phía sau.
Khất Phục Quốc Nhân cũng bị hụt đòn không thể công tiếp, đành vọt lên cao rồi đáp nhẹ xuống đất làm cho khoảng cách giữa hai bên xa ra đến cả hai trượng.
Yến Phi loạng choạng đứng dậy, nhổ ra một ngụm máu tươi, lắc thanh Điệp luyến hoa hướng về phía đối thủ.
Huyền thiết xích của Khất Phục Quốc Nhân cũng chờn vờn như con độc xà nhằm về phía Yến Phi, mái tóc dài đen lất phất trong không khí tựa như quỷ dữ. hai mắt lạnh băng, sát khí đằng đằng.
Khất Phục Quốc Nhân gằn giọng:
- Kiếm pháp khá lắm, phải có tới gần mười năm lại nay ta mới bắt gặp tay kiếm xuất sắc thế này, lại càng không ngờ là ngươi vẫn còn trẻ như vậy. Có điều đêm nay ngươi khó thoát nổi rồi.
Yến Phi hiểu rõ Khất Phục Quốc Nhân đã từ bỏ ý định bắt sống mà quyết giết chết hắn. Hắn cười nhẹ, cố tìm cách kéo dài thời gian để phục hồi sức lực:
- Cho dù cả đám khuyển mã nhà ngươi tới đây, thử xem ngươi có thực hiện được ý nguyện không?
Khất Phục Quốc Nhân bật cười tàn nhẫn:
- Ta đã biết ngươi là ai rồi! Mộ Dung Văn có phải là đã chết bởi tay ngươi không? Chỉ cần cái tin này bay ra, cho dù ngươi có chắp cánh bay lên trời thì cũng không thể thoát nổi, Mộ Dung gia Tiên Bi sẽ truy ngươi đến cùng trời cuối đất!
Yến Phi giật thót mình, tuy biết Khất Phục Quốc Nhân dụng đòn tâm lý nhưng cũng không khỏi động tâm, kiếm trong tay tự nhiên cũng lỏng ra đến hai phần.
Khất Phục Quốc Nhân "phì" một tiếng, tựa cơn gió ào đến, Huyền thiết xích tới tấp bổ xuống, mạnh mẽ khôn lường.
Yến Phi bất đắc dĩ phải lui lại hai bước, cố tập trung tinh thần, dốc hết sức bình sinh tự vệ. Điệp luyến hoa như rồng bay phượng múa liên tiếp vẽ những vòng tròn trong không khí, từ to thu thành nhỏ, đón nhận từng đòn tấn công như vũ bão của Khất Phục Quốc Nhân. Những vòng kiếm mỗi lúc một nhỏ dần, cuối cùng giống như bất động chọc thẳng vào vòng xích đang công tới.
Khất Phục Quốc Nhân cảm thấy lưỡi kiếm Điệp luyến hoa loang loáng lọt vào trong vòng múa của Huyền thiết xích, đắc ý gằn giọng "Tiểu tử, đi chết đi!" đoạn lựa thế dùng xích cuốn lấy kiếm nhổ ra hòng đoạt lấy vũ khí của Yến Phi.
Thật không ngờ thanh kiếm tưởng như bất động kỳ thực vẫn đang rung lên dữ dội, sóng kiếm truyền qua xích vào tay làm Khất Phục Quốc Nhân giật bắn mình, công lực phát tán đến một nửa.
Đằng kia, Yến Phi cũng không khá hơn, mặt mày tái mét, "phù" một tiếng nhổ ra một ngụm máu tươi vào giữa mặt Khất Phục Quốc Nhân, dựa thế bay người lùi lại, cười:
- Tạm gửi lại cái mạng già cho ngươi ba hoa một phen.
Nhãn tuyến Khất Phục Quốc Nhân bị che mờ bởi ngụm máu tươi của Yến Phi. Trong lúc đó Yến Phi đã lùi về phía bờ sông mỗi lúc một nhanh. Khất Phục Quốc Nhân tức tối hét lên vang trời, dồn sức đuổi theo.
Chương VII
ĐÊM ĐÔNG NẤU RƯỢU
Lưu Dụ luồn ra khỏi bụi cây, một lũy thành nhỏ tối đen trong ánh trăng mờ hiện ra trước mắt. Hắn không chút ngạc nhiên vì những lũy thành kiểu này có khắp mọi nơi phía bắc sông Hoài, có điều lũy thành kia đã hoang phế từ lâu, cỏ mọc um tùm, tường ngoài đều đã đổ. Trong luỹ thành không có đèn lửa, cổng thành không cánh trông hun hút như một hang động.
Kể từ sau đại loạn Vĩnh Gia, dân chúng vì nhu cầu tự vệ đã nghĩ ra kiểu lũy thành này. Cư trú trong thành không phải quân binh mà là người cùng thôn hay cùng giới cùng tộc, trở thành một đơn vị tự vệ trong bốn bề tường vây, sống tự cung tự cấp. Lũy thành lớn nhất có thể chứa tới cả ngàn hộ gia đình, tối lửa tắt đèn có nhau, nương dựa vào nhau mà tồn tại. Luỹ thành nho nhỏ phía trước còn có vọng lâu, trên thành có xây tường ngăn hình răng cưa, nhìn quy mô chỉ chứa khoảng trăm hộ chung sống. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện quá khứ, còn bây giờ cả vùng vắng lặng như tờ, không một bóng người, cảnh đổ nát hoang tàn như chứng tích của một thời đại loạn.
Lưu Dụ bước nhanh hơn, tới cửa cổng luỹ thò đầu nhìn vào, mắt đảo một lượt. Ba xác người ngổn ngang ngay cổng thành, thi thể gần Lưu Dụ nhất xương đầu gối bị dập nát nom hết sức man rợ.
Lưu Dụ không còn muốn đi sâu vào trong luỹ tìm hiểu thấu đáo sự tình, càng không muốn gặp phải lũ yêu đạo Thái Bình Giáo, vội quay người bỏ đi theo hướng Nhữ Âm thành.
Với trọng trách hắn đang mang trên vai, vụ án mạng trong luỹ thành này không còn là việc quan trọng nữa.
oooooooooooooooooooooooooooooooo
Khất Phục Quốc Nhân truy theo Yến Phi tới bờ đông sông Dĩnh Thuỷ. Dòng sông dập dờn phản chiếu ánh trăng soi, vảy nước cuốn lấp lánh. Cây rừng trên bờ soi bóng xuống lòng sông, hư thực mờ ảo, nhưng Yến Phi đã biệt vô tăm tích.
Con liệp ưng Thiên nhãn bay lượn trên trời cao phía bên kia bờ sông không hạ độ cao, dấu hiệu không tìm ra dấu vết của Yến Phi. Dòng sông vẫn thản nhiên trôi về phía nam, trên mặt sông chỉ có một cành cây xù xì nhấp nhô theo sóng.
Khất Phục Quốc Nhân nhìn cành cây nhếch mép cười nham hiểm. Yến Phi như thế là đã qua sông bằng cành cây kia, sau đó nhanh chóng lẩn vào rừng cây bên bờ, thoát khỏi cặp mắt soi mói của con chim ưng của hắn.
Đang trong lúc do dự xem nên qua sông bằng cách nào, con liệp ưng đã bay vọt lên theo hướng cành cây đang trôi, cự li mỗi lúc một gần lại.
Khất Phục Quốc Nhân chợt hiểu ra, hừ lên một tiếng tức tối, vận công đuổi theo cành cây. Trong lúc bất ngờ, thân pháp hắn chao đảo, loạn mất một nhịp.
Khúc cành cây vỡ nát từng mẩu, một luồng sáng chói loá từ dưới dòng sông vụt lên lao thẳng về phía Khất Phục Quốc Nhân. Không còn thời gian rút Thiết huyền xích, Khất Phục Quốc Nhân hét lớn một tiếng vận tận công lực cho một chiêu liều mạng sinh tử. Cả người hắn tức thì vút lên không, bàn chân phải nâng cao, bàn chân trái dẫm lên đầu mũi kiếm, công lực dồn hết vào huyệt dũng tuyền dưới lòng bàn chân.
"Tõm" một tiếng, cây kiếm như bị ngọn núi Thái sơn đập trúng, rơi thẳng vào lòng sông. Khất Phục Quốc Nhân gào lên một tiếng kinh thiên động địa, chiếc ủng dài rách bươm, gót chân máu tươi tung toé, ba chân bốn cẳng lùi lại rồi nhanh chóng mất hút.
Yến Phi lăng không bay lên khỏi mặt sông. Nước sông lẫn máu tươi từ trên người không ngừng theo nhau rớt xuống. Một chiêu hết sức bình sinh, lại chiếm thế bất ngờ như vậy mà vẫn không hạ được kẻ thù. Tuy nhiên một vài canh giờ trước mắt chắc chắn hắn sẽ được yên ổn.
Con chim ưng chấp chới rít lên mấy tiếng thê lương, biến theo chủ nhân vào rừng cây rậm rạp phía bờ đông Dĩnh Thủy.
Yến Phi bò lên bờ tây con sông, dừng lại một chút lấy hơi, đoạn nhanh chóng phi thân về phía hoang thành Nhữ Âm. Đả thương được Khất Phục Quốc Nhân nhưng chính hắn cũng bị nội thương nghiêm trọng, phải cấp tốc tìm nơi lánh thân liệu thương, sau đó sẽ quay về Biên Hoang Tập.
Không có nơi ẩn náu nào tốt hơn Nhữ Âm thành lúc này.
ooooooooooooooooooooooo
Hẻm Ô Y, Kiện Khang thành, Vọng quan hiên trong khu vườn bốn mùa nhà Tạ An.
Tạ An ngồi trên chiếc chiếu sát ô cửa sổ, đang say mê gảy cây ngũ huyền cổ cầm. Ánh trăng rải khắp sân vườn, Vọng quan hiên không nến không đèn, chỉ có ánh sáng lờ mờ của lò than toả ra chập chờn.
Một vị hòa thượng áo trắng, phong thái ung dung, đang dùng quạt giữ lửa hâm rượu.
Tạ An như chìm vào âm thanh ngọt ngào tao nhã của tiếng đàn. Cổ cầm thánh thót, lúc trầm lúc bổng như xoá dần đi những ai oán đời thường. Nghe tiéng đàn của Tạ An, ai cũng trở nên phiêu diêu thoát tục.
Tiếng đàn bỗng dừng đột ngột, như thể chuyện dữ sắp ập đến.
Bạch y hòa thượng cất tiếng ngâm vịnh: "Ngoài không kiêu ngạo, trong dạ sáng ngời. Như đôi hồng nhạn, vỗ cánh trời cao! Tạ huynh cốt cách tao nhã, thuở làm ẩn sĩ là danh sĩ phong lưu, còn khi là thân sĩ lại là tể tướng phong lưu. Điều khiến ta tâm phục khẩu phục là, Tạ huynh khi làm ẩn sĩ chẳng bao giờ quên giang sơn, mà khi làm thân sĩ cũng luôn nghĩ về thơ nhạc, không hổ thẹn là một con người phong lưu bậc nhất trên đời.
Tạ An cười thản nhiên:
- Chi Tuần đại sư quá khen rồi, Tạ An không xứng đâu. Kể từ thời Hán Tấn lại đây, danh sĩ trong thiên hạ có biết bao nhiêu, ta làm sao lại được vinh danh trong đó. Đại sư đang có điều gì suy nghĩ phải không?
Chi Tuần hòa thượng gật đầu:
- Nghe tiếng đàn của Tạ huynh, thấy ngay Tạ huynh tuy vẻ ngoài phiêu diêu thơ thới nhưng bên trong chất nặng tâm tư, hẳn Tạ huynh đang ôm mối cảm thương cho giang sơn bách tính đang loạn trong nạn ngoài?
Chi Tuần hòa thượng vừa nói vừa nhấc bếp lò lên đốt dưới bình rượu, tay kia lấy hai chiếc bát rót rượu ra đem tới ngồi trước mặt Tạ An.
Tạ An ung dung tự tại:
- Cuộc chiến này ta đã giao phó cho con cháu thực hiện, dù thắng hay bại Tạ An ta cũng không để trong lòng. Tuy vậy còn sự tồn vong của nhà Tấn, trước đây ta vốn chưa nghĩ tới bao giờ. "Đạo cùng tắc biến, vật cực tất phản", việc này là lẽ trời, không ai có thể làm thay đổi được.
Nói đến câu sau cùng, môi Tạ An hé một nụ cười chua chát.
Chi Tuần rót rượu ra chén, cung kính dâng lên Tạ An:
- Huynh nói đúng lắm, nhưng ta lại hiểu rằng, từ sau khi Phù Kiên quật khởi ở phía Bắc, Tạ huynh luôn ở sông Hoài tính kế ứng phó một trận chiến quyết định vận mạng, không chỉ cắt đất dồn dân để lấy lại đất đai từ tay thế tộc giàu có mà còn lôi kéo đông đảo suất đinh về thành lập quân đội Bắc phủ. Bên ngoài huynh sống thanh tịnh không nhũng nhiễu dân chúng, không lên mặt kể lể công trạng, nhưng bên trong thực hiện trấn áp bình định, tính kế dài lâu, bỏ qua cái nhỏ lựa lấy cái lớn. Đối với kẻ bên dưới không tỏ ra lên lớp đe nẹt, khôn khéo lắm lắm. Đúng như lời của huynh nói đấy, rằng huynh chẳng làm bất cứ chuyện gì!
Đoạn tự rót rượu cho mình, nói tiếp:
- Từ trong hưng thịnh nhìn thấy được suy tàn. Từ trong mạnh mẽ nhìn rõ chết chóc. Sống chết, thịnh suy là quy luật muôn đời. Đã là quy luật thì việc gì Tạ huynh phải chia lòng làm hai?
Tạ An nâng bát rượu mời. Hai người uống cạn một hơi.
Tạ An đặt bát xuống, giọng nói vẫn day dứt:
- Thái thượng quên đi tình nghĩa, mười mấy năm sau mới nhớ lại mà sửa sai. Tình trong tình, chính là đời ta đấy. Ban nãy ta gửi lòng vào tiếng đàn, nghĩ tới thân phận Tạ gia mới không khỏi ưu tư trầm lặng như vậy.
Chi Tuần kinh ngạc:
- Cớ làm sao huynh lại nói như vậy?
Tạ An không trả lời thẳng mà kể chuyện vòng vo:
- Vương Đảo đến nhà Tạ An ta, mỗi lần đến lại một lần giở trò, cuối cùng là muốn giành lại đất đai nhân lực của các gia tộc quyền quý. Tạ An ta là quan đầu triều, vừa phải vì vận nước, vừa phải vì thế tộc trong các thế tộc. Đại sư nghĩ xem, như vậy có phải là rất mâu thuẫn không?
Chi Tuần gật đầu, đã hiểu rõ vấn đề.
Nhà Tấn đoạt nước lên ngôi, sắc phong tôn thất, họ Vương đời đời làm đô đốc, từ đó mà sinh ra "Bát vương chi loạn". Các thế tộc giàu có theo phẩm cấp mà hưởng đặc quyền bổng lộc, tức là đất đai, ruộng vườn và tá điền. Chính vì thế, cắt đất là biện pháp quan trọng hạn chế quyền lợi của thế gia vọng tộc công khanh. Đây là biện pháp đối đầu gay cấn với thế gia vọng tộc.
Tạ An trầm giọng:
- Cuối đời Đông Hán, lần lượt sinh ra các loạn Khăn vàng và Đổng Trác, anh hùng hào kiệt thiên hạ nổi lên tranh giành đánh phá, tai hoạ liên miên mãi cho tới ngày nay, đã hơn hai trăm năm rồi mà vẫn chưa chấm dứt. Nhà Tấn ta tạm thời thống nhất được non sông, nhưng lâu cũng chỉ được mười tám năm, đất nước lại bị chia năm xẻ bảy. "Bát vương chi loạn" đương nhiên đã phá hoại nghiêm trọng nhà Tấn, tuy vậy so với loạn các tộc Hồ thì có thấm vào đâu? Loạn các tộc Hồ khiến cho trăm họ lưu lạc, Trung Nguyên tiêu điều hoang vắng, bách tính đói rét nơi nơi, hiền tài cũng theo đó mà tan tác. Nguyên nhân chủ yếu là bởi chính trị Trung Nguyên rối ren, để tộc Hồ thừa cơ lấn tới. Tạ An ta đứng đầu thế tộc, nghĩ tới chuyện đó mà luôn canh cánh bên lòng.
Chi Tuần nói:
- Tạ huynh đã nghiêm khắc với mình như vậy, thế thì nhà Tấn sẽ có hi vọng lớn chứ?
Tạ An cười một cách khổ sở:
- Ta nói ra lời bộc bạch đó là bởi không còn chút hi vọng nào. Ta đã già nua rồi, thời gian chẳng còn bao nhiêu, niềm hi vọng chỉ còn biết đặt lên vai thế điệt Tạ Huyền, mong sao nó tổ chức được quân Bắc phủ chống lại Phù Kiên. Tạ Huyền dám làm chuyện lớn, không nhân nhượng anh em, ai có tài đều được trọng dụng. Nhưng tình hình đến nay đã quá rõ ràng, trận chiến này nếu thất bại đương nhiên là sẽ mất tất cả, nhưng nếu thắng lợi thì cháu ta lại trở thành cái gai trước mắt triều đình, sợ rằng sẽ sinh ra một Hằng Ôn thứ hai uy hiếp vương triều nhà Tấn. Trong tình hình như thế, con cháu Tạ gia muốn duy trì địa vị gia tộc e không dễ dàng, trừ phi triều chính có cuộc cải cách mà thôi. Chà! Không thể mong đợi gì ở nhà Tấn nữa rồi!
Chi Tuần lắng nghe, không thốt lên lời nào nữa.
Tạ An bỗng giơ tay đập xuống phím đàn, âm thanh vang lên như nước chảy, vừa đàn vừa hát:
- Vì nhà vua nào có dễ, vì lương thần nên mắc nạn, chuyện trung tín mập mờ, hẳn có ngày gặp hoạ tai...
Tiếng hát nghẹn ngào, chan chứa nỗi niềm bi ai thời vận.
oooooooooooooooooooooo
Thành Nhữ Âm bị tàn phá đến tận đất bằng. Cả một vùng rộng lớn hầu hết đã bị thiêu trụi, chỉ còn sót lại vài ba cửa hiệu tạm gọi là nguyên vẹn, còn thì cửa đổ tường sụp, cỏ mọc um tùm, khung cảnh hoang vu tiêu điều đến rợn cả người.
Lưu Dụ phóng mắt nhìn con đường dài dưới bóng trăng âm u. Sông Dĩnh Thuỷ chảy từ hướng tay phải tới.
Trong lòng hắn tràn đầy cảm giác bất an, có phải vì vừa chứng kiến tội ác của lũ yêu ma Thái Bình Giáo hay là vì nhạy bén trực quan của một người lính dày dạn?
Lưu Dụ quyết định không đi vào trong thành mà vòng sang phía đông nam, men theo những ngôi nhà đổ nát lên hướng bắc theo dòng Dĩnh Thuỷ. Gió trên cao, trăng đỉnh đầu không dễ gì lạc lối. Hắn vẫn nuôi hi vọng gặp được một vài người Hán Biên Hoang chạy nạn, nhưng nhìn thành quách hoang vu thế này, cho dù trong thành còn người ẩn nấp cũng sẽ mất rất nhiều công sức để tìm ra họ, phần nữa trong lòng vẫn còn e dè lũ yêu ma Thái Bình Giáo nên quyết định không vào mà đi vòng qua thành.
Chủ định đã có, Lưu Dụ không ngần ngại men theo chân thành đi về hướng bắc. Theo cách tính toán thông minh này của hắn, giá sử dọc đường gặp sự cố thì hắn có thể trốn ngay vào trong thành, muốn đánh muốn chạy đều thập phần tiện lợi.
Sắp vượt qua cửa đông bắc thành, bỗng phía trước vang tới tiếng vó ngựa. Lưu Dụ vội vàng nấp vào sau một bức tường đổ chừng ba thước, thận trọng đưa mắt nhìn ra.
Chim đêm giật mình bay tán loạn dưới ánh trăng mờ, bụi cuốn mù, lửa đuốc soi rọi lập loè. Lưu Dụ là tay thám thính chuyên nghiệp, lập tức nhìn theo hướng bắc, thấy toán người đến có tới hàng trăm, đoán có lẽ là quân tiên phong của Đế Tần đang tiền trạm dẹp đường cho đại quân Phù Kiêm vượt sông Hoài Thủy.
Theo kinh nghiệm của Lưu Dụ, để thực hiện việc này thế không thể chỉ có một đội quân mà phải chia làm nhiều hướng khép chặt cả một vùng rộng lớn. Hắn thầm tính toán, nếu cứ cắm đầu đi lên, có tránh được toán quân tiền trạm thì cũng dễ vấp phải trinh sát của đối phương. Cách nào cũng đều nguy hiểm, thà nấp vào trong thành đợi cho quân địch đi khỏi mới tiếp tục lên đường, hơn nữa cũng chỉ còn hai canh giờ là trời sáng.
Lưu Dụ hít một hơi dài, luồn vào phía tây hoang thành, nhằm hướng đông bắc phía con phố chính mà chạy, vừa chạy vừa quan sát các ngôi nhà, nhớ rõ địa hình để chuẩn bị trước đường rút.
Đến một ngôi nhà trên đường phố chính, có lẽ trước đây là một tiệm bán thức ăn chín, khi đang lom khom nhìn qua khe cửa sổ lớn phía tây thì cũng là lúc hàng trăm binh lính Đế Tần kéo vào thành, chia làm hai mũi đi về hướng nam, may mà không lùng sục các ngôi nhà trên phố.
Gan Lưu Dụ quả là không nhỏ, địch nhân ầm ầm đi qua như vậy mà hắn vẫn bình tĩnh ngồi sau cửa sổ quan sát từ đầu tới cuối, thực ra một phần cũng vì hắn đoán được trước đó nhất định đã có thám tử đi trước tìm hiểu tình hình nên toán người ngựa này mới ung dung vào thành, lại không hề lục soát như vậy.
Lửa đuốc chiếu sáng, Lưu Dụ nhìn thấy rất rõ bộ dạng không hề mệt mỏi của đám binh mã Đế Tần, chứng tỏ chúng sẽ đi tiếp mà không dừng lại nghỉ.
Đang chăm chú nhìn, chợt nghe thấy một âm thanh khe khẽ phía sau, Lưu Dụ giật nẩy mình, tức tốc ngoái đầu nhìn lại.
Một cặp mắt đen láy tròn xoe cũng đang chăm chăm nhìn hắn.
oooooooooooooooooooooo
Yến Phi tỉnh lại bởi tiếng vó ngựa dồn dập. Hắn đã cởi chiếc áo ươt sũng ra phơi nên giờ đây toàn thân trần trùng trục, thương tích đầy mình.
Nội công của Yến Phi hết sức cao cường, chính là nhờ mẫu thân hắn truyền lại cộng với công phu khổ luyện mà thành.
Sau khi rời Thịnh lạc sáu năm trước, một phần muốn quên đi nỗi đau bởi cái chết của mẹ hiền, Yến Phi lao vào luyện kiếm, rồi một mình một kiếm phiêu bạt thiên hạ, tìm thầy cao tay dốc sức tập luyện, rồi trở lại lánh mình nơi Biên Hoang. Trải qua thời gian luyện tập khắc khổ và hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, Yến Phi đã ngộ ra một kiếm pháp có một không hai cho riêng mình. Nguyên lý kiếm pháp của Yến Phi là "nhật nguyệt vi hữu, thiên không vi vô, dĩ hữu chiếu vô, minh hoàn nhật nguyệt, ám hoàn hư không, hư thực tương hỗn", từ khi luyện thành chỉ có thắng không bại.
Kể từ ngày nhà Hán sụp đổ, Huyền học nổi lên. Đây là một trào lưu tôn ba vị Lão Tử, Trang Tử và Chu Dị làm "Tam Công", kết hợp với nho gia kinh nghĩa làm nên trào lưu thay thế cho Kinh học rối rắm của hai triều Hán. Theo thuyết Tam Công, tâm là gốc, còn ngọn là không, không mà có, có mà không. Với võ thuật mà nói, nguyên lý đó tức là "Thiên địa vạn vật giai dĩ vô vi bản" (*) và "Tự sinh nhi tất thể hữu" (*). Yến Phi đã biết tập hợp hai hệ thống lớn này với nhau, tạo nên môn tâm pháp độc đáo không tiền khoáng hậu.
Tất nhiên đây chỉ mới là giai đoạn đầu của Yến Phi. Nếu cho hắn thời gian, Yến Phi tất sẽ phát triển khôn cùng. Cũng chính vì lẽ đó mà Khất Phục Quốc Nhân nhất định sẽ không buông tha hắn.
Câu nói của Khất Phục Quốc Nhân làm dậy lên nỗi niềm tâm sự của Yến Phi. Không phải Yến Phi sợ sự truy sát của Mộ Dung gia Tiên Bi, mà là bị kích động bởi nỗi đau mất mẹ.
Bởi Mộ Dung Văn chính là kẻ đã gây nên cái chết cho mẹ hắn.
Bảy năm trước, Phục Quốc bị Đế Tần tiêu diệt. Ông ngoại hắn là Văn Đại vương Thậm Dật rơi vào tay Phù Kiên rồi bị giết chết. Yến Phi cùng mẹ được bộ lạc Lưu Quảng Nhân là bộ lạc tách ra từ Thác Bạt Tiên Bi cưu mang. Sự an nhàn tạm bợ ấy cuối cùng cũng chẳng được bao lâu. Được Phù Kiên hậu thuẫn, Mộ Dung Văn bất ngờ đột kích bộ lạc Lưu Quảng Nhân gây nên một trường thảm sát không tiền khoáng hậu. Lưu Quảng Nhân chết tại trận, mẹ đẻ của Thác Bạt Yến "Tiên Bi Phi Yến", vì liều thân bảo vệ cho Thác Bạt Yến và Thác Bạt Quy nên bị loạn kiếm phân thây. Từ đó, Thác Bạt Yến và Thác Bạt Quy trở thành cặp trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, cùng hừng hực ý chí báo thù. Thác Bạt Quy biết rõ cha mẹ mình là ai, còn Thác Bạt Yến chỉ biết rằng cha hắn là người Hán.
Máu mủ họ tộc dần dần mất đi trong các cuộc chiến tranh. Thác Bạt Yến cũng không muốn lưu lại quê hương đau thương của mẫu thân nữa, bèn đổi tên thành Yến Phi để ghi nhớ tới người mẹ thân yêu, một mình một kiếm lên đường. Dù Thác Bạt Quy hết sức phản đối, Yến Phi bất chấp tất cả, lao vào cuộc đời phiêu bạt cho đến tận bây giờ.
Hai năm trước, Yến Phi âm thầm tới Kinh đô Tràng An của Đế Tần, giết chết Mộ Dung Văn, xong việc tháo chạy trót lọt.
Sự kiện ấy đã làm chấn động cả một dải phương bắc, kích động lòng thù hận của cả bộ tộc Mộ Dung Tiên Bi. Hai em trai của Mộ Dung Văn là Mộ Dung Xung và Mộ Dung Vĩnh phát động toàn nhân mã đuổi bắt Yến Phi. Nhờ thuật ẩn mình thiên hạ vô song, Yến Phi thoát khỏi lãnh thổ Đế Tần, trốn tới Biên Hoang, chấm dứt quãng thời gian phiêu bạt tầm thù.
Có điều, giết được kẻ đại thù mà lòng Yến Phi không vợi được tâm tư. Sau cái chết thảm của mẫu thân, sinh tử đối với hắn không còn ý nghĩa nữa. Thiên hạ đã loạn lạc không còn niềm hi vọng, sống hôm nay chết ngày mai, cái chết sẽ là kết cục cuối cùng, tất thảy những gì phải đến rồi cũng sẽ đến.
Ánh trăng mềm mại lọt qua khung cửa sổ gãy nát làm Yến Phi nghĩ tới chuỗi tháng ngày trẻ thơ. Trong mái lều giữa bình nguyên ấm áp, mặt trăng trên cao vừa to vừa sáng, người mẹ tuyệt sắc ngồi bên cửa sổ may áo mới cho hắn, vừa may vừa khe khẽ hát ru hắn vào giấc ngủ.
Tiếng hát ngọt ngào của người mẹ thân yêu như vẫn còn văng vẳng bên tai. Nước mắt Yến Phi bỗng tuôn trào. Hắn chưa hề khóc từ sau khi mẹ mất, vậy mà câu nói của Khất Phục Quốc Nhân cùng với cảnh vật xung quanh đã làm nỗi đau giấu kín trong lòng trỗi dậy.
Khi Yến Phi nhận biết được sự vật xung quanh, mẹ bao giờ cũng nói cười vui vẻ với hắn, chỉ sau khi mẹ mất đi hắn mới biết bà không có phút giây nào thanh thản. Mẹ bao giờ cũng dồn tình thương cho hắn, vậy mà hắn lại luôn nghịch ngợm làm bà phải buồn phiền. Giờ đây, có hối hận bao nhiêu hắn cũng không thể nào đền đáp công ơn mẹ.
Người đã không hồi sinh được nữa thì ngày tháng đẹp đẽ cũng có ý nghĩa gì đâu!
--------------------------------------------
(*) Hai câu này nghĩa là:
"Thiên địa vạn vật giai dĩ vô vi bản": Vạn vật trong trời đất đều lấy cái không làm gốc.
"Tự sinh nhi tất thể hữu": Tự sinh ra thì tất nhiên cơ thể sẽ có.
Chương VIII
NGƯỜI ĐẸP BỌ CẠP
Thoạt tiên Lưu Dụ tưởng hắn đã gặp yêu đạo Thái Bình Giáo, nhưng những gì đập vào mắt lại là một nụ cười yêu kiều lộ hàm răng đều đặn trắng tinh, một sắc đẹp tương phản lạ lùng với khung cảnh hoang tàn và cuộc hành binh rầm rộ trên con đường lớn ngoài kia.
Người con gái xuất hiện gần như vô thanh vô tức, thậm chí khi đã đứng trước mặt hắn vẫn mang một vẻ thần bí khó lường bởi ánh đuốc chập chờn bên ngoài. Lưu Dụ lạnh lùng nhìn cô gái, ngầm vận công đề phòng, song vẫn không tránh khỏi cảm giác xốn xang bởi sắc đẹp của nàng.
Mỹ nhân khoác trên mình chiếc áo choàng đuôi én mỏng, bộ váy bằng lĩnh màu trắng, lưng thắt một giải lụa hồng nhạt, kiểu cách ăn mặc trang điểm không khác gì con cái nhà quyền thế ở kinh đô Kiện Khang. Xiêm y kiêu sa không hợp chút nào với hoàn cảnh lúc này, nhưng dáng vẻ hết sức tự nhiên của nàng đã biến tất cả những gì nghịch mắt trở thành hết sức hợp lý.
Mái tóc đen mềm mại như lụa xõa xuống bờ vai thon đầy sức quyến rũ, làn da trắng nõn nà điểm xuyết đồ trang sức tao nhã càng làm cho thân hình nàng thêm vẻ ngọc ngà. Điều mê hoặc người ta nhất là đôi mắt vừa như ngây thơ vừa như mơ màng lãng mạn càng khiến nàng giống một nụ hải đường hàm tiếu, có thể khép lại một cách bí ẩn, cũng có thể nở bung ra trong rạo rực xuân tình.
Mỹ nhân vờ như không nhìn thấy Lưu Dụ, đi nhanh đến bên một ô cửa sổ khác, nhìn ra ngoài qua khe cửa, cất giọng khẽ khàng:
- Trung Hoàng Thái Ất!
Thanh âm của nàng vừa dịu dàng vừa trong trẻo, ngọt ngào thanh thoát, đầy sức quyến rũ.
Lưu Dụ bỗng nghĩ tới một người, giật thót lên, lắc đầu:
- Ta chỉ là một Hoang nhân chạy loạn!
Lưu Dụ phụ trách công tác thám thính trong quân Bắc phủ, rất am hiểu tình hình nam bắc, vì thế đã sớm nhận ra kẻ ám sát Hồ Bân có liên quan với Tôn Tư. Mỹ nhân nói ra một câu ám ngữ khiến hắn nghĩ ngay đến thời dọc ngang phương bắc của mình. Lưu Dụ hiểu ngay hắn đã tình cờ rơi vào nguy hiểm, chỉ có hết sức khôn khéo mới thoát ra được để tiếp tục thực hiện trọng trách.
Trung Hoàng Thái Ất là Tổ thần của giặc Khăn Vàng cuối đời nhà Hán. Khởi nghĩa Khăn Vàng gồm hai lực lượng lớn là Thái Bình đạo và Trương Lăng Thiên sư đạo do Trương Giác sáng lập. Khăn Vàng bị tiêu diệt nhưng dư đảng vẫn còn, lại chia ra thành nhiều phái, ở miền nam phái Tôn Tư là mạnh nhất, lấy Thái Bình đạo làm tôn chỉ. Còn ở miền bắc, Tông sư Trương Lăng tự xưng là Thái Thanh Huyền Nguyên Thiên sư, sáng lập nên Thái Ất Giáo hiện đang hưng thịnh. Thái ất Giáo chủ Giang Lăng Hư nổi tiếng khắp lưu vực Hoàng Hà, vì cùng tranh giành địa vị thống soái kế thừa mà xung khắc với Tôn Tư như nước lửa.
Mấy năm nay lại nổi lên một nhân vật có tên An Thế Thanh, còn được gọi là "Đan vương" chuyên nghề luyện đan, tự gọi mình là đạo gia mà không theo Đạo giáo. An Thế Thanh coi cả Thái Bình và Thiên Sư là đỉnh điểm ngu dân, chỉ có đạo của ông ta là đúng đắn. Người biết An Thế Thanh không nhiều, bởi ông ta ở một nơi cố định mà thường qua lại giữa Xuyên và Thục, nhằm tìm chỗ tốt luyện đan. An Thế Thanh sở dĩ trở nên nổi tiếng là bởi cả Giang Lăng Hư và Tôn Tư đều muốn từ ông ta mà có được bảo vật Đạo giáo nên đều phân phó cao thủ vào núi tìm An Thế Thanh. Thật không ngờ, tất cả những kẻ ra đi đều gặp phải trảm trạng, kẻ chết nằm ngang giữa đường, người sống bị thương trở về cũng thân tàn ma dại. Cuộc truy tìm này nấy năm liền làm náo loạn cả hai miền bắc nam, rồi từ đó hai phái Giang Lăng Hư và Tôn Tư không còn dám nhắc tới chuyện này nữa.
Khi sự việc tạm lắng xuống, từ phương bắc bỗng nhiên xuất hiện một người con gái có sắc đẹp tuyệt thế tự xưng là An Ngọc Tinh, con gái An Thế Thanh, liên tiếp gây ra mấy vụ đại náo tam đàn Thái Ất Giáo, khiến Thái Ất Giáo nổi giận toàn lực truy sát, nhưng nàng đã an toàn thoát đi ngay trước mũi bọn họ.
Lẽ nào mỹ nhân yêu kiều kia lại chính là An Ngọc Tinh?
Lưu Dụ dần nhớ lại từng diễn biến của vụ thích sát Hồ Bân, đột nhiên tỉnh ngộ ra rằng đó không phải là một kế hoạch từ trước mà chỉ do Thái Bình Yêu đạo trên đường tới Nhữ Âm thành ngẫu nhiên bắt gặp Hồ Bân mà ra tay. An Ngọc Tinh trước mặt kia lại cũng không phải là giáo đồ Thái Ất, chỉ vì một đại sự nào đó liên quan tới Đạo giáo tại Nhữ Âm thành này mà lén đến đây.
Lưu Dụ giờ đây chỉ tâm niệm một điều, đợi quân Đế Tần đi khỏi liền lập tức lánh cho thật xa.
Đúng vào lúc đó, tay hắn chợt phát sinh cảm ứng, vội vung lên đỡ lấy tay áo thơm tho của An Ngọc Tinh đang quét tới, không ngờ chạm phải một mũi nhọn sắc như lưỡi dao bên dưới lớp vải mềm mại.
Hóa ra đó là một ngọn thiết tật lê, đã đâm ngập vào đầu ngón tay hắn. Một cảm giác tê tê khó chịu chạy từ ngón tay lên tới cẳng tay, hiển nhiên mũi lê đã tẩm độc.
An Ngọc Tinh chừng như không ngờ Lưu Dụ đỡ được mũi ám khí của mình, liền lùi lại một bước, ngước mắt nhìn gã, điệu bộ ngây thơ hết mức:
- Hóa ra là ngươi tay chân nhanh nhẹn, ta không ngờ đấy!
Lưu Dụ trong lòng nổi giận, nghĩ thầm lão tử này không động đến ngươi thì thôi, ngươi lại dám trêu vào ta, nữ nhân này dung sắc như tiên nữ, không ngờ lại là yêu quái coi mạng người như rác, thật còn độc ác hơn cả yêu nghiệt Thái Bình. Có điều lúc này trước hết phải trục độc ra, tạm thời không thể gây sự với ả. Nghĩ thế hắn chỉ lầm bầm một tiếng hờ hững, đoạn vận công dồn độc tố vào lòng bàn tay, ép độc ra ngoài theo chỗ vết thương.
Lưu Dụ không khỏi cám ơn hoàng thiên đã ban cho mình một đôi tay khác thường như vậy.
Hắn tòng quân khi mới mười sáu tuổi, theo hầu Tôn Vô Chung phó tham quân của Lưu Khiên Chi, chỉ sau một thời gian ngắn đã được chọn huấn luyện làm thân binh đặc biệt, chưa đầy hai năm đã trở thành điêu luyện, bất luận võ công hay trí lực đều vượt xa Bắc phủ thập kiệt, được Lưu Khiên Chi phong chức Tư mã, chuyên làm nhiệm vụ thăm dò địch tình.
Tôn Vô Chung nhãn quan hơn người, đặc biệt đánh giá cao đôi tay của Lưu Dụ, đôi tay không chỉ vô cùng khéo léo, lại vừa mạnh mẽ vừa nhạy cảm khác thường, khiến hắn vượt trội hơn tất thảy những người cùng trang lứa, trở thành ngôi sao mới của Bắc phủ.
Đại sự đang nặng trên vai, phải nhanh chóng giải độc trước khi quân Tần đi qua, bằng không yêu nữ mà ra tay lần thứ hai thì hậu quả khó lường.
An Ngọc Tinh nói mà như thủ thỉ với bạn thân:
- Không nói được nữa rồi sao? Đừng lo, độc tố ngươi trúng là một trong chín loại kịch độc của cha ta, ngươi sẽ chết nhanh thôi. Ngươi chết rồi cũng đừng tìm ta đòi nợ, có trách thì tự trách mình, tự nhiên lại có mặt ở đây làm người ta phải ra tay với người!
Lưu Dụ nghe mà nộ khí xung thiên, lại cũng không khỏi lấy làm ngạc nhiên, độc tố này đã huyền diệu đến thế, tại sao hắn lại trục ra dễ dàng như vậy?
Một giọt máu hồng rỉ ra rơi xuống đất.
An Ngọc Tinh nhíu mày nhìn xuống, sắc mặt vẫn bình tĩnh, bỗng trong tay sáng loá một con dao găm, vạch một đường ngang cổ Lưu Dụ.
ooooooooooooooooooo
Đạo Tần binh rầm rộ rốt cuộc đã đi qua.
Yến Phi khó nhọc chui vào một căn nhà đổ, lết đến gần cửa sổ nhìn ra. Quân Đế Tần vừa khuất bóng, từ một cửa hiệu trước mặt chợt loé lên ánh sáng, đúng là quang ảnh của binh khí.
Yến Phi không khỏi lấy làm kinh ngạc. Có điều hắn đã trọng thương, đây tới kia chỉ cách một con phố mà xa lắc như ngàn sông vạn suối, phải đợi quân Tần đi xa mới có thể vượt đường sang xem.
Tiếng vó ngựa xa dần. Bỗng từ dãy nhà sau mặt tây bắc vọng tới một thanh âm thảm thiết khiến hắn thoắt rùng mình, vội tập trung cảnh giới.
Hoang thành Nhữ âm hôm nay không vắng lặng như vốn có mà đang chứa chất mối nguy hiểm tứ bề.
ooooooooooooooooooooooo
Lưỡi chủy thủ loang loáng nhằm cắt ngang cổ Lưu Dụ. Hắn đã trục hết độc tố khỏi tay, lập tức nhón mũi thiết tật lê búng mạnh ra, vào giữa tấm lưng thon nhỏ mềm mại của đối phương, cả góc độ và vị trí đếu hết sức chuẩn xác, An Ngọc Tinh nếu cứ giữ nguyên thế công thì nhất định lãnh nguyên mũi lê vào xương sống, đồng thời hắn cong người lùi lại, nhẹ như cơn gió thoảng.
Lưỡi dao của An Ngọc Tinh thoắt đổi hướng, điểm về phía dưới đúng vào đầu mũi thiết tật lê, ám khí rơi xuống đất vang nhẹ một tiếng "keng", động tác vừa thành thục vừa đẹp mắt.
Lưu Dụ nhìn mà thất kinh, phải tự hổ rằng hắn không thể nào làm được như vậy, nữ nhân này chưa toàn lực ra tay có lẽ chỉ bởi sợ lộ hình tích mà thôi. Vậy ả đang định đối phó ai, quân Đế Tần, Thái Bình yêu đạo hay Thái Ất giáo? Nghĩ tới đây, Lưu Dụ đã có được kế sách, thân mình vừa dựa được vào tường lập tức bật đứng lên, đao tuốt vỏ chĩa thẳng vào độc mỹ nhân, đao khí ràn rụa vây kín lấy ả. Mặc cho đối phương là ai, khi đã rút đao Lưu Dụ chỉ có một ý chí tiêu diệt đối phương, không cần biết kẻ địch mạnh mẽ hay xinh đẹp cỡ nào.
An Ngọc Tinh lại không hề đánh tới, sững người một lúc, chân khí hộ thể lập tức dâng lên chống lại đao khí của Lưu Dụ, cặp thu nhãn nửa như say đắm nửa như kinh dị lướt qua người hắn từ trên xuống dưới, cặp môi hồng đỏ khẽ hé trong thanh âm thánh thót:
- Không đánh nữa! Xem ngươi kìa, sao mà ngươi không trúng độc gì cả?
Nháy mắt Lưu Dụ lâm vào tình trạng dở mếu dở cười. Nữ nhân kia đã không tự mắng bản thân giở độc thủ, lại còn đi trách hắn không chịu trúng độc!
Tiếng binh mã đã dần dần lặng xuống. Lưu Dụ càng tin vào phán đoán của mình, độc mỹ nhân chắc chắn sợ lộ hành tung nên mới rền dứ như vậy. Hắn cũng nhỏ giọng: "Bỏ con dao đi cho ta!"
An Ngọc Tinh nở nụ cười ngọt ngào, nét mặt ngây thơ chìa cả hai bàn tay nõn nà như tuyết ra trước mặt hắn:
- Làm gì có nữa!
Thanh chủy thủ đúng là không biết đã biến đi đâu, thật là kỳ xảo hết mức!
Lưu Dụ biết rõ nữ nhân bất cứ lúc nào cũng có thể xuất dao nhưng không tiện vặn hỏi thêm. Cả hai người lúc này đều không muốn đối phương biết rõ tung tích của mình, tránh phiền phức xẩy ra sẽ làm ảnh hưởng đến chính sự của từng người.
Lưu Dụ cười gằn:
- Con người ta có oán báo oán, có thù báo thù. Ngươi cứ đợi đấy, ta sẽ giết chết ngươi!
An Ngọc Tinh lướt cặp mắt biết nói long lanh về phía hắn, chau mày vẻ nũng nịu:
- Con người ngươi sao thù dai thế. Người ta đã chịu thua rồi, ngươi lại còn dọa chém doạ giết. Nói thực nhé, ta thấy ngươi võ nghệ cao cường đã có chút lòng mến mộ, còn đánh nhau nữa làm gì!
Lưu Dụ biết chắc trong những lời vừa nói ấy không có đến nửa chữ thật lòng, nhưng âm thanh thánh thót, cộng với nhan sắc thiên kiều bá mị đó vẫn đủ sức làm tay đao trong tay hắn lơi đi đến ba phần. Bèn lắc đầu, tra đao vào vỏ, cười miễn cưỡng:
- Ta phải đi đây!
An Ngọc Tinh dịch đến cửa sổ, vẫy tay:
- Ngươi định đi đâu? Chuyện hay sắp đến rồi đó. Hãy ở lại đây cùng ta xem nhiệt náo có phải hơn không ?
Lưu Dụ dồn hết hai tai nghe ngóng, tiếng vó ngựa vẫn mang máng truyền tới từ đường cái quan. Bây giờ lên đường không chừng sẽ đụng hậu quân Đế Tần. Tốt nhất là lánh xa yêu nữ, tới tường thành phía bắc quan sát động tĩnh rồi sau đó mới quyết định có nên đi hay không. Nhưng nghĩ là nghĩ như vậy, đôi chân lại như mọc rễ ra tại chỗ, rồi tự nhiên cứ dịch chuyển đến chỗ bên cạnh yêu nữ cùng nhìn theo ả về phía con đướng lớn.
Hắn chợt tỉnh ngộ, biết rằng nữ nhân độc ác như bọ cạp kia phản phúc khó ai bằng, song lại có sức hút khôn lường đối với hắn. Ở bên cạnh ả, cảm giác thật kích thích như khi đùa với lửa.
Bất chợt, Lưu Dụ nhìn về phía nữ nhân, ả vẫn tập trung dõi nhìn đường phố bên ngoài. Dưới ánh trăng, khuôn mặt trông nghiêng tựa như vàng khắc ngọc chạm không chút khiếm khuyết, làn da mịn màng thoang thoảng hương thơm, chiếc cổ cao cao như thiên nga lộ ra khỏi cổ áo khiến nam nhân không khỏi thèm thuồng muốn nhìn sâu hơn xuống dưới. Đây chính là lẽ tự nhiên của con người.
An Ngọc Tinh chợt ngoái nhìn hắn. Lưu Dụ lúng túng cụp mắt lảng sang chỗ khác, mỹ nhân đã bật cười khúc khích: "Đồ quỷ, muốn dùng mắt chiếm tiện nghi trên người người ta hả?"
Lưu Dụ nghe mà trong lòng nóng ran, muốn trả lời mà cổ họng cứ nghẹn lại. Nữ nhân này không những lang độc mà còn bạo dạn hơn người, làm hắn trở nên vô phương chống đỡ.
Đang trong tình trạng dở khóc dở mếu đó, một thanh âm rít gió từ đằng xa con đưòng lớn truyền đến.
ooooooooooooooooooooooo
Yến Phi nương theo dãy nhà hướng về chỗ phát xuất làn quang mang. Kẻ nào đó sau khi đã giết người ở vùng phụ cận đã lặng lẽ luồn tới cửa hiệu bên kia, tiếng y phục phất khẽ khiến Yến Phi nhận ra hành tung của hắn. Người này là Khất Phục Quốc Nhân hay là thuộc hạ của hắn? Dù là ai thì kẻ bên kia cửa hiệu chắc chắn là một cao thủ. Nếu là Khất Phục Quốc Nhân, tốt hơn hết là hắn lập tức bỏ đi. Nhưng nghĩ đến con Thiên nhãn đang bay lượn trên cao, Yến Phi lại quyết định ở lại. Suy cho cùng, ẩn nấp nơi có mái che vẫn kín đáo hơn nhiều.
Ngôi nhà bên kia không còn động tĩnh gì nữa. Ánh trăng vằng vặc tỏa khắp mọi nẻo, hoang thành đã trở lại vắng lặng như tờ. Nếu thực sự có âm hồn bất tán, nơi này chắc chắn đang lảng vảng hàng ngàn hồn ma bóng quỷ, những ma quỷ ấy đang khóc than cho số phận của mình khi còn trên dương gian, hay đang lo lắng cho mình sẽ không được siêu thoát?
Lòng Yến Phi lại chuyển về Thạc Bạt Quy. Thạc Bạt Quy không hề đánh giá thấp Phù Dụng, vấn đề là có đủ trí lực để đối phó với hắn hay không. Thác Bạt Quy vì gấp gáp cứu Yến Phi nên đã để lộ hành tung. Khất Phục Quốc Nhân đoán được chuyện Yến Phi giết Mộ Dung Văn, tất cũng sẽ suy ra người cứu Yến Phi là Thác Bạt Quy, bởi oán thù sâu sắc giữa Thác Bạt tộc và Mộ Dung Văn là chuyện mà ai cũng biết.
Phù Dụng không đóng quân bên ngoài mà dồn vào trong thành khiến Yến Phi cảm nhận phán đoán của hắn không sai là bao. Thác Bạt Quy cùng cả tộc Tiên Bi đang rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm. Phù Dụng nếu bắt sống được Thác Bạt Quy, chưa chừng sẽ không giết đi mà giữ lại để bức hỏi cho ra nơi người Tiên Bi ẩn náu. Yến Phi nếu kịp chạy về không chừng sẽ cứu được bằng hữu, cùng lắm thì cũng chỉ thêm một mạng người chết, có sao đâu!
Nghĩ tới đây, Yến Phi hạ quyết tâm, bất chấp cả con Thiên nhãn đang tìm kiếm trên cao, phải trở về Biên Hoang cho bằng được.
oooooooooooooooooooooo
Chính vào lúc ấy, tiếng y phục phất gió vang lên, một người xuất hiện trên đường phố.
Người ấy có thân hình béo mập, mình mặc áo đạo bào màu trắng, trước sau đều thêu hình Thái cực âm dương đen đỏ hai màu. Trong màu đỏ có điểm đen, trong màu đen có điểm đỏ, ý nói trong dương có âm trong âm có dương, nom rất bắt mắt.
Người đó không thấp, nhưng vì thân thể béo mập, cổ lại to, cúc áo phải cài một cách miễn cưỡng nên dù thế nào đi nữa, khi nhìn vào người ta vẫn có cảm lão thấp hơn người khác đến một cái đầu.
Trên đầu lão vấn một búi tóc lớn che kín cánh mũ, từ trên xuóng dưới đều rất sạch sẽ đạo mạo. Tướng mạo lão cũng không xoàng, khuôn mặt luôn như có nụ cười túc trực khá gây thiện cảm. Duy chỉ có đôi mắt nhỏ tinh tường lấp lánh ánh tím là biểu hiện con người không dễ trêu vào.
Đạo nhân to béo ấy quay người, cười khà khà:
- An toàn rồi! Phụng Thiện xin lĩnh giáo!
Lưu Dụ đang tập trung thị lực quan sát động tĩnh của đạo nhân tên gọi Phụng Thiện, bên tai chợt văng vẳng giọng nói thánh thót của An Ngọc Tinh:
- Phụng Thiện yêu đạo là môn đồ chân truyền của Thái Ất Giáo chủ Giang Lăng Hư. Chớ nhìn thấy lão mặt mày tươi cười mà tưởng, tiếu lý tàng đao đấy! Hừm, ta chỉ hận không thể một dao giết quách lão đi cho xong!
Lòng Lưu Dụ cảm thấy kỳ lạ, độc mỹ nhân này vừa muốn lấy mạng hắn, thoắt cái đã coi hắn như bằng hữu mà giải thích này nọ. Phải chăng là sợ hắn ta bất chấp mà bỏ đi thì sẽ kinh động đên Thái Bình Yêu đạo nên tìm cách lưu hắn ở lại?
Ả vô duyên vô cớ toan sát tử hắn, lý do chắc cũng giống Thái Bình Yêu đạo, giết hết những ai chứng kiến nhằm không để lộ ra bí mật gì. Hơn nữa, yêu nữ này có lẽ còn muốn lợi dụng hắn, nhưng hắn cũng có thể tương kế tựu kế, tuy thời mà giành lợi cho mình.
Lưu Dụ tài trí hơn người, chỉ thông qua mấy lời của An Ngọc Tinh đã suy ra biết bao nhiêu là chuyện.
Hắn làm bộ đứng lên, cười nhạt:
- Ta chẳng có hứng thú gì với mấy chuyện này. Ta đi đây!
An Ngọc Tinh quả nhiên hốt hoảng, vội hấp tấp nói:
- Không lẽ ngươi không muốn biết lão vì cớ gì mà tới đây?
Lưu Dụ nhún vai:
- Biết để làm gì? Với ta thì có ích lợi gì chứ?
An Ngọc Tinh trợn mắt tức tối nhưng vẫn không quên hạ thấp giọng:
- Không nể nhà ngươi võ nghệ tinh thông ta đã đạp cho một phát xuống suối vàng rồi. Sao ngươi biết là không có lợi gì? Lợi nhiều lắm đó!
Phụng Thiện đạo nhân vẫn ung dung đứng giữa đường, như thể sẵn sàng đứng đợi đến khi trời già đất lão.
Lưu Dụ quay sang nhìn khuôn mặt xinh tươi, cho đến lúc này hắn vẫn tránh không dám nhìn lâu vì sợ mình tâm mê trí loạn, nói nhanh:
- Nói đi! Ta không nhẫn nại như lão béo ngoài kia đâu!
An Ngọc Tinh trừng mắt nhìn hắn:
- Ba năm trước, giáo chủ Thái Ất giáo Giang Lăng Hư và giáo chủ Thái Bình giáo Tôn Tư, hừ, ngươi rốt cuộc có biết họ là ai không đấy?
Lưu Dụ cười hì hì:
- Cứ nói đi, An đại tiểu thư của ta!
An Ngọc Tinh bối rối một lúc bởi hắn gọi đúng tên mình, lườm Lưu Dụ một cái rồi mới vừa cười vừa rủa:
- Đồ quỷ chết tiệt! Có phải là đoán bừa mà trúng không vậy?
Tiếng Phụng Thiện lại vang lên trên phố:
- Phụng Thiên ta y ước mà tới đây. Nếu đạo huynh không muốn xuất đầu lộ diện thì ta đành phải quay về nói lại với Thái tôn vậy!
Lưu Dụ bị cuốn hút nhìn ra ngoài. Lúc này hắn đã biết rằng, "Đạo huynh" trong câu nói của Phụng Thiện chính là Thái Bình Yêu đạo, trong lòng chợt nảy ra ý định "Toạ sơn quan hổ đấu".
Giọng nói thánh thót của An Ngọc Tinh lại rót vào tai hắn:
- Không nói lan man nữa! Hai người bọn họ tranh nhau một khối đan ngọc đồ nên đã hết sức quyết chiến một trận, kết quả là hai bên đều bị thương, chẳng ai chịu nhường ai, đành mỗi bên một hướng ẩn náu dưỡng thương, hẹn sau ba năm lại gặp nhau quyết chiến, ai thắng thì được đan ngọc đồ. Tiên đan ấy có hai viên, ngươi nếu giúp ta lấy được đan ngọc đồ, một viên đan ta sẽ chia cho ngươi, thế nào?
Lưu Dụ tin chắc tiên đan chỉ có một viên, ả nói hai viên chỉ để lừa hắn. Hơn nữa Lưu Dụ cũng không tin trên đời thực sự có tiên đan, nếu không thì người luyện đan làm xong đã nuốt từ lâu rồi.
Trong lòng hắn đang cười thầm, tiếng rít gió đã nổi lên, bốn bóng người chia thành bốn hướng đông tây nam bắc từ trên mái nhà lao thẳng về phía Phụng Thiện đạo nhân.
Sát khí tức thời dâng ngập con đường lớn.
Chương IX
Thái Bình ngọc bội
Phụng Thiện cười hà hà, tà áo choàng phồng lên từ cổ tới tận chân, lớn tiếng nói:
- Người ta thường bảo tiên lễ hậu binh, các người thì lại tiên binh hậu lễ. Hay, hay lắm!
Nói đến chữ cuối, toàn thân lập tức vọt lên không.
Bốn tên dạ hành sát thủ đều vận hắc y, mặt mũi che kín, một đao ba kiếm công đến lưng, ngực, đầu và hai chân Phụng Thiện, phối hợp chặt chẽ như một trận thế, chặn kín mọi đường tiến thoái của lão. Cho dù Phụng Thiện đã chọn cách lao lên trên không, kiếm quang đao ảnh vẫn bám theo không rời, biến thế nhằm vào lưng, đầu, bụng, ngực của lão.
Luu Dụ nhìn bốn tên thích sát người nào người nấy công lực cao thâm, ra tay ác độc, thầm nghĩ đổi ta là Phụng Thiện, chắc không chống đỡ nổi.
Không ngờ An Ngọc Tinh lại bĩu môi:
- Một lũ vô dụng!
Ả chưa dứt lời, bên ngoài đã phân định thắng bại.
Ba kiếm một đao chỉ nháy mắt nữa là trúng thân mình Phụng Thiện. Áo choàng của lão thoắt cái thu vào dính chặt lên người rồi nhanh như chớp bung ra đón lấy mũi kiếm. Cả ba kiếm thủ như bị búa thép đập trúng bắn tuốt ra xa, khí công của lão đạo này hiển nhiên đã đạt mức đăng phong tạo cực.
Lưu Dụ nghĩ thầm, Phụng Thiện đã như vậy thì võ công của Giang Lăng Hư sư phụ lão còn siêu phàm tời mức nào!
- Ối!
Đó là tiếng thét thê thảm của mông diện nhân đang giơ đao chực bổ xuống đầu Phụng Thiện. Lão nhanh như cắt giơ tay đoạt đao bằng một thế võ điêu luyện rồi song cước vung lên quất thẳng vào bụng và ngực đối phương. Thân hình kẻ xấu số đó bắn tung lên trời.
Phụng Thiện đạo nhân này thân hình to béo, nét mặt tươi cười nhưng ra tay quả thực là ghê gớm.
"Oa!"
Vang lên tiếng kêu của một trong số ba tên kiếm thủ. Công trúng áo choàng của Phụng Thiện, hắn không những bị chấn lui mà mắt còn tóe đầy đom đóm. Vừa lúc nghe tiếng la thảm từ tên sử đao, biết mình không phải là đối thủ của Phụng Thiện, liền lập tức quay đầu tháo chạy. Chính khi đang định tháo lui, vai hắn bỗng chạm vào ai đó, chưa kịp định thần mắt đã tối sầm, miệng đớp không khí rồi rũ xuống bất động.
Phía bên kia đường, Yến Phi nhìn mà ngứa ran đầu tóc. Phụng Thiện công lực cao cường, thủ đoạn xảo quyệt, nhưng lão đạo thân hình khô khốc lêu nghêu như quỷ bên kia cửa hiệu cũng không kém cạnh chút nào. Thân pháp nhanh như quỷ mị, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp rồi kết liễu một tên thích khách ngay trên đường phố, thủ đoạn ác độc so với Phụng Thiện chỉ có hơn không kém.
Phụng Thiện cười lớn:
- Lư đạo huynh, xin chào!
Đoạn khom lưng vươn người, giơ tay tung một chưởng phách không nhằm tên sử kiếm thứ hai đang chạy đến đầu đường phía đông. Đang cắm cố chạy bỗng hắn giật lên chúi về phía trước, mồm ộc máu tươi, đoạn ngã lăn xuống nằm yên tại chỗ.
"Bịch!"
Tên bị Phụng Thiện đạp cho hai cước lúc này mới rơi đến mặt đất, chân tay vắt vẻo, máu bắt đầu loang ra xung quanh.
Cao nhân ra tay, chiêu tiếp chiêu nhanh hơn chớp mắt!
"Ối"
Lại một tiếng kêu thảm thiết vang lên, tên sử kiếm thứ ba bị đạo nhân cao gầy truy tới, hai tay vươn ra bóp mạnh, cả cái đầu lập tức vỡ nát.
Phụng Thiện vẫn đứng nguyên chỗ cũ, xoa hai bàn tay vào nhau như cố lau đi vết máu, trông bộ dạng lại như ngượng nghịu vì đã làm một chuyện không đáng để làm, đôi mắt lấp lánh tử quang nhìn về phía đạo nhân cao gầy, miệng cười hì hì:
- Tưởng đạo huynh sai hẹn thì ta thất vọng vô cùng đấy!
Trong bóng tối, Lưu Dụ cố căng mắt nhìn. Đạo nhân vận áo choàng màu tro kia chính là người hành thích Hồ Bân, thân hình lão ta cao chẳng khác gì chiếc sào phơi quần áo, người gầy đến độ như không trọng lượng, khuôn mặt xanh xao khô khốc, tóc quấn hoàng cân, đôi mắt dài ti hí trắng dã như đôi dao sắc, khiến ai nhìn vào đều cảm thấy ớn lạnh.
Thanh âm như mật của An Ngọc Tinh lại vang trong tai Lưu Dụ: "Kẻ mới đến kia là Lư Tuần, em rể Tôn Tư. Chờ chút nữa chúng đánh nhau lưỡng bại câu thương là đến chúng ta ra tay..."
Lưu Dụ lướt nhìn bốn thi thể trên đường phố, chau mày:
- Bọn kia là ai vậy?
An Ngọc Tinh càu nhàu:
- Chỉ là dư tặc Khăn vàng, để ý làm gì!
Tiếng cười của Lư Tuần vang tới khiến cả hai cùng lắng tai nghe:
- Phụng Thiện đạo huynh chớ có trách tội ta đến muộn. Ước hẹn đêm nay, ngoài hai vị sư phụ thì chỉ có ta với huynh biết mà thôi, ấy vậy mà tin tức đã lọt ra ngoài khiến lũ phản đồ nổi lòng tham. Ta phải dành chút thời giờ để làm rõ trước chuyện này, thật là kỳ quặc!
Phụng Thiện cười khùng khục, chậm rãi trả lời:
- Mục tiêu bọn chúng theo đuổi là ta chứ không phải là huynh. Thiên hạ xưa nay, đâu lại có kẻ dẫn người đến để hại mình! Chà. con người ta tuổi càng cao, lý ra càng phải nhẫn nại, còn ta thì ngược lại. Huynh có mang theo vật tới chứ?
Lư Tuần ngước khuôn mặt dài ngoẵng lên nhìn trời cao:
- Con súc sinh này không dưng bay chơi ban đêm, còn lượn vòng mãi trên đầu chúng ta. Đạo huynh xem có gì gian tà ở đây không?
Yến Phi lẩm bẩm chửi thầm một câu, biết rằng Khất Phục Quốc Nhân không những đã tiếp tục truy đuổi hắn mà còn tìm tới tận Nhữ Âm thành rồi.
Phụng Thiện cũng ngửa mặt nhìn trời, gật đầu:
- Xem ra chẳng có gì là điềm lành. Đêm nay quả không may. Vừa đụng độ với bọn lính Hồ lại gặp phải con chim tà quái này. Hay là chúng ta nên tìm chỗ khác?
Lư Tuần lắc đầu:
- Đạo huynh hóa ra lại kiên nhẫn hơn ta! Việc này cần phải giải quyết nhanh lên không được chậm trễ. Nhất thiết đêm nay phải quyết định "Thái Bình động cực kinh" thuộc về Thái Ất Giáo các người hay là Thái Bình Đạo chúng ta!
Lưu Dụ nghe thấy ngoảnh lại nhìn về phía An Ngọc Tinh, ả vẫn nhún vai không chút xấu hổ, truyền âm liến thoắng vào tai hắn:
- Trong Động cấp kinh có phép luyện đan, luyện ra được hai hoàn, chẳng phải là mỗi người một viên đấy sao?
Lưu Dụ bực mình, càng muốn chuồn đi thật nhanh. Bên ngoài hai kẻ gian ác đang đứng, cạnh hắn là độc mỹ nhân khó lường, lại còn con ác điểu trên trời nhắc nhở một mối nguy khác đang rình rập. Tốt nhất là bỏ sang một ngôi nhà khác, quan sát tình hình rồi tùy thời mà rời khỏi chốn thị phi này.
An Ngọc Tinh hơi nhíu cặp mày đen nháy:
- Không được đi! Bằng không ta sẽ có cách khiến chúng liên thủ đối phó với ngươi. Đến khi đó chớ có trách ta!
Lưu Dụ càng căm ả thấu tim gan, rốt cuộc cũng chẳng có biện pháp nào, đành ngoan ngoãn trở về chỗ cũ.
Tiếng Phụng Thiện vang lên bên ngoài:
- Đạo huynh đã có nhã ý, Phụng Thiện đương nhiên sắn sàng phụng bồi, có điều huynh có mang bảo vật đến không?
Lư Tuần lạnh lùng:
- Người theo đạo tất biết giữ chữ tín. Này, xem đi!
Lão lôi trong người một chiếc túi to bằng nửa bàn tay, dốc túi lấy ra một viên ngọc trắng hình bán nguyệt. Dưới ánh trăng mờ, viên ngọc toả ánh phơn phớt hồng, lấp lánh nom lạnh như băng. Kỳ lạ nhất là dưới đáy bán nguyệt lại có vết răng cưa lồi lõm, chỉ riêng việc mài viên ngọc thành hình thù này thật đã là một kỳ công.
Đôi mắt Phụng Thiện hiện rõ nét tham lam, chằm chằm chiếu vào viên ngọc trên tay Lư Tuần, cố nhìn rõ những hoa văn li ti trên đó, nhưng rõ ràng là vô ích. Ánh trăng mờ ảo, ngọc quang lấp láy khiến những đường vân nhảy nhót bất định, lúc ẩn lúc hiện.
Cả An Ngọc Tinh cũng đã mất vẻ bình tĩnh, nhướn người lên nhìn không chớp vào khối cổ ngọc bên ngoài. Lưu Dụ có chút khó hiểu, thầm nghĩ Lư Tuần là người giận vui không lên mặt, tự nhiên lại khinh suất bày ngọc ra trước đối thủ thế này, thật là không đúng chút nào, nhưng nhất thời cũng không đoán ra ý đồ của lão
Lư Tuần vẫn ung dung nói:
- Có đi thì phải có lại, đạo huynh là người hiểu biết, chắc sẽ không làm ta thất vọng chứ?
Phụng Thiện nuốt nước bọt, gật đầu:
- Điều đó thì đương nhiên rồi. Phụng Thiện ta có ý kiến thế này, chúng ta có thể đem ngọc này để ra bên cạnh rồi ra tay tỉ đấu, người thắng được mang ngọc đi. Đạo huynh thấy thế nào?
Nói rồi rút từ trong người ra một nửa viên ngọc giống y như của Lư Tuần, dưới đáy cũng có vết mài răng cưa, nếu đem ghép vào với nửa kia thì sẽ tạo nên một viên ngọc hoàn chỉnh, giữa có một vòng tròn chạm khắc rộng chừng một tấc.
Lư Tuần đột nhiên cười lớn lên:
- Việc gì phải như thế! Ta cứ giao bảo vật này cho huynh bảo quản, sau đó lại dựa vào bản lĩnh lấy lại viên ngọc từ trên xác huynh, thế có phải là hứng thú hơn không?
Nói rồi, mặc cho đối phương đồng ý hay không, lập tức ném nửa viên ngọc trên tay cho Phụng Thiện. Viên ngọc trắng lấp lánh bay đến trước mặt Phụng Thiện, chỉ nghe tiếng gió là biết tốc độ và kình khí đều mạnh mẽ khôn tả.
Biến hóa này nằm ngoài ý nghĩ của ba người đang nhìn trộm qua khe cửa, cũng không hề có trong dự tính của Phụng Thiện. Lão đạo to béo giật thót kinh hoàng, dù biết Lư Tuần không tử tế nhưng cũng không thể làm nửa viên ngọc kia hỏng mất. Hơn nữa lão còn có ý cầu may, nếu đỡ được nửa viên ngọc rồi tìm cách chuồn nhanh, chẳng phải là đại công cáo thành hay sao?
Trong tay Phụng Thiện vẫn cầm nửa viên ngọc, nếu giơ tay kia bắt lấy nửa viên đang bay tới, có khác gì đã tự trói mình? Có điều thời khắc đã quá ngặt nghèo, không còn kịp nhét nửa ngọc vào người, trong khó ló khôn, Phụng Thiên vận tận âm kình vào bàn tay cầm ngọc, đưa ra đón nửa viên ngọc đang bay tới, tay kia nắm lại công thẳng đến Lư Tuần một chưởng phách không. Chỉ cần chặn đối phương lại một khoảnh khắc, lão có thể đoạt lấy nửa viên ngọc kia, sau đó muốn đánh hay muốn chuồn, cách nào cũng được.
Ngỡ hai nửa ngọc va nhau vỡ tan, chính lúc này mới thấy trí xảo tuyệt vời của Phụng Thiện. Âm kình trong tay lão không những hoá giải được công lực của Lư Tuần phổ vàn khối bán ngọc, lại còn vừa vặn ghép hai nửa ngọc vào nhau đánh rắc một tiếng. Hai hàng răng cưa ăn khớp tạo thành một khối ngọc hoàn chỉnh, giữa có khuyết tròn. Kình khí vừa đủ, phương vị thời điểm đều chính xác không sai một mảy, thật đáng cho người cúi đầu thán phục.
Tuy nhiên từ trong nhà, cả Yến Phi, Lưu Dụ lẫn An Ngọc Tinh đều đã nhìn ra, từ bây giờ mới bắt đầu tai hoạ của Phụng Thiện.
Hai đạo nhân cao thủ võ công không chênh lệch bao nhiêu, nếu không Lư Tuần cũng không phải nghiến răng ném nửa khối ngọc đi như vừa rồi. Một chiêu mạo hiểm ấy của lão ta xem ra lại là cao kế, một tay Phụng Thiện giờ đây phải cầm khối ngọc, chỉ còn một tay có thể ứng chiến, ưu thế thuộc về ai không nói cũng dễ dàng biết được.
Lư Tuần cất tiếng cười dài:
- Đạo huynh trúng kế rồi!
Đoạn xoay nhanh người, hoá giải phần lớn quyền chiêu của Phụng Thiện, tốc độ không những không giảm mà còn tăng thêm, lao tới đập mạnh vào bụng Phụng Thiện.
Phụng Thiện giật thót mình, áo choàng lập tức phồng lên đón đỡ, Lư Tuần đã nhanh như cắt bay vọt lên trên đầu Phụng Thiện.
Lão đạo nhân béo không kể gì thân phận, lậo tức ngã người lăn tròn trên đất như một quả cầu thịt, tránh sát chiêu của đối phương đang từ trên bổ xuống, khối ngọc tuột khỏi tay lăn ngang phố đến bên hè. Tuy tránh được cú đòn sấm sét của Lư Tuần giáng lên đầu nhưng tình thế lão vẫn tột cùng nguy hiểm. Đến giây phút này, Phụng Thiện cũng chưa thể tìm được khe hở nào để giấu viên bảo ngọc Thái Bình.
Lư Tuần trầm người xuống truy theo Phụng Thiện. Đôi chân Phụng Thiện không biết bằng cách nào đã vung lên quạt hai cước vào bụng dưới và ngang hông Lư Tuần.
Lư Tuần dằn giọng: "Chết này!" song chưởng toàn lực giáng xuống trúng vào mũi hai bàn chân Phụng Thiện. Một bên dùng hết sức công từ trên xuống, một bên miễn cưỡng ra đòn từ dưới lên, mạnh yếu chỉ một chiêu là phân định.
Phụng Thiện há mồm phun ra một búng máu lớn, cả người lăn long lóc trên đường phố. Lư Tuần đang toan đuổi theo kết liễu kẻ đại địch, Phụng Thiện đã vung tay. Bảo ngọc Thái Bình như tia chớp mờ vút lên trên không.
Lư Tuần chỉ chờ có thế, lập tức buông thõng: 'Đa tạ!" Đoạn bỏ ngay Phụng Thiện, đảo người quay lại đuổi theo viên ngọc.
Một tiếng "Hây!" lanh lảnh cất lên. An Ngọc Tinh yên lặng suốt từ nãy giờ vụt ra như một con chim sẻ, váy áo tung bay chặn trước mặt Lư Tuần, vọt lên trên cao về phía viên ngọc.
Phụng Thiện thọ thương không nhẹ, "rầm" một tiếng lao vào dãy nhà bên đường, tới gian thứ ba sát bên gian Lưu Dụ đang nấp.
Lưu Dụ không hề ngăn An Ngọc Tinh. Trong suy nghĩ của hắn, Tôn Tư và Lư Tuần là một hoạ lớn của Nam Tấn. Thái Bình Giáo nếu đoạt được bảo ngọc, dựa theo đồ hình tìm được "Thái Bình động cực kinh", hậu quả với nhà Nam Tấn ra sao không ai có thể biết trước. Viên ngọc đó rơi vào tay An Ngọc Tinh có thể lại là tốt hơn. Vả lại Lư Tuần sẽ không để An Ngọc Tinh đắc thủ dễ dàng, càng cho hắn cơ hội lặng lẽ lẩn đi.
Bảo ngọc Thái Bình đã lên đến đỉnh, bắt đầu rơi từ trên cao mười trượng xuống. An Ngọc Tinh cách chừng năm trượng, Lư Tuần vẫn còn những bảy tám trượng xa, hai mắt trừng trừng nhìn An Ngọc Tinh đang sắp đoạt được báu vật, đôi con ngươi như tóe lửa.
Chính vào lúc ấy, một luồng sáng trắng từ trong cửa hiệu đối diện vút lên đón trúng hướng viên ngọc đang rơi xuống, phát sau tới trước, cự li tốc độ đều không sai lệch mảy may. Quang ảnh kia nếu trúng đích, viên ngọc chắc chắn sẽ nát thành bột!
Sự biến nằm ngoài dự kiến mọi người. Cả người trong cuộc lẫn người dõi xem đều ngẩn người ra bất ngờ.
Người ra tay hóa ra là Yến Phi. Yến Phi giống như Lưu Dụ, đối với cái gọi là "Thái Bình động cực kinh" hoàn toàn không có chút hứng thú, chỉ thấy con người và thủ đoạn của Phụng Thiện và Lư Tuần đầy độc địa nên nghĩ rằng, bọn chúng đoạt được bảo ngọc tất sẽ không có chuyện gì tốt lành. Hành động của Yến Phi chỉ là chút ngẫu hứng, thà phá nát bảo ngọc kết thúc mọi sự còn hơn để ngọc lọt vào tay ma quỷ.
Lưu Dụ nhìn sang phía bên kia đường, tuy không rõ đối phương là ai cũng hiểu được tâm ý người đó, trong lòng thầm kêu "Được lắm!".
Mắt thấy bảo vật sắp thuộc về mình lại có cơ mất đi, An Ngọc Tinh tái mặt phẫn nộ, phất mạnh tay áo, dao găm trong tay áo vút ra đón đầu chủy thủ của Yến Phi. Cho dù khinh công trác tuyệt đến đâu, ả cũng không thể ở mãi trên không, đành xoay người hạ xuống.
"Choang"! Tiếng hai con dao va vào nhau rồi bắn ra mỗi nơi một con, rơi trên mặt đất.
Lư Tuần hét thầm: "Trời phù hộ ta rồi!" hai chân quẫy mạnh lao tới, hi vọng chộp được khối ngọc trước An Ngọc Tinh. Nào ngờ, phía tay trái lão kiếm ảnh đã rộ lên, Yến Phi luồn qua cửa sổ, không đếm xỉa gì tới bảo vật đó mà chỉ nhằm chặn Lư Tuần lại.
Vừa thấy Yên Phi, Lưu Dụ đã nhận ra ngay. Mấy năm nay hắn qua lại không ít lần ở Biên Hoang nên hiểu rõ người bên kia là thần thánh phương nào. Mỗi lần theo Cao Ngạn đến Đệ nhất lâu, Lưu Dụ đều thấy Yến Phi ngồi đúng chiếc ghế đó, vẫn uống loại rượu đó. Nhờ Cao Ngạn giới thiệu, họ gật đầu chào nhau nhưng chưa lần nào trò chuyện, bởi Yến Phi luôn hờ hững vừa chậm rãi uống vừa nhìn xa xăm.
Nhìn thấy Yến Phi lúc này, không ngờ trong Lưu Dụ lại rộn lên niềm vui không gì ngăn nổi, biết đâu có thể hỏi rõ tình hình Biên Hoang từ hắn, mà cũng có thể thông qua Yến Phi tìm ra Cao Ngạn, bao nhiêu cái lợi hiện ra trước mắt mà chẳng mảy may hại gì!
Nghĩ tới đó, Lưu Dụ lập tức vượt qua cửa sổ ra ngoài, trong lòng rắp tâm hỗ trợ Yến Phi phá nát bảo ngọc rồi cùng nhau tẩu thoát.
"Phâng phâng"
Tụ kiếm tương giao, âm thanh kinh thiên động địa. Lư Tuần tức giận điên người, dốc hết bản lĩnh vào hai tay áo cứng như sắt, nhưng vốn đã bị thương khi giao thủ với Phục Thiện, rốt cuộc bị kiếm Yến Phi ép xuống, đành nghiến răng nhìn Lưu Dụ xông đến chổ bảo ngọc.
Yến Phi chợt thấy một người nữa xuất hiện, tuy không nhớ rõ tên họ là ai nhưng vẫn nhận ra là người miền nam thường qua lại gặp gỡ. Nhìn thấy Lưu Dụ giơ đao lên trên không, bổ xuống vòng ngọc, hắn reo to:
- Làm tốt lắm!
Lưu Dụ cũng cười vang đáp lại:
- Đã là tà vật, ai cũng có quyền tiêu hủy. Yến huynh, xin chào!
Cặp chân nõn nà của An Ngọc Tinh cũng vừa chạm đất, đang toan vận lực vọt lên. Mắt nhìn thấy lưỡi đao sắp chém trúng khối ngọc, ả hoảng hốt thét lớn:
- Đừng!
Ba người sáu con mắt đều chứng kiến khối ngọc sắp bị băm nát. Đúng sát na đó, bỗng một bóng đỏ bay tới trên đầu Lưu Dụ, một sơi dây vút ra cuộn lấy bảo vật, thanh đao Lưu Dụ nháy mắt chém vào chỗ trống không.
Khất Phục Quốc Nhân!
Mũi chân Yến Phi chạm đất, hai mắt đắc ý nhìn Lư Tuần và An Ngọc Tinh không còn để ý gì đến hắn mà cùng vọt lên về chỗ kẻ vừa đoạt được viên ngọc.
Thân hình Lưu Dụ nhào tới trước theo đà nhát chém. Sợi dây đã cuộn lại sau lưng hắn. Lưu Dụ giận dữ xoay mình, trường đao vung ra cắt đứt sợi dây, hai chân lập tức tung lên đá đúng khối ngọc.
Vốn nghĩ bảo ngọc sẽ vỡ tan. Chẳng ngờ ngọc còn cứng hơn cả đá, không hề suy suyển bắn tung ra xa, tấu xảo lại đúng về hướng Yến Phi đang đứng.
An Ngọc Tinh và Lư Tuần mất mục tiêu, sững lại một thoáng. Khất Phục Quốc Nhân đã từ trên cao bổ xuống. Hắn ẩn mình quan sát từ lâu, biết rõ những người ở đây đều là hạng cao thủ, liền xoay mình vượt qua Lưu Dụ, tiện tay vứt bỏ sợi dây, song tụ xoè ra quạt về phía An Ngọc Tinh và Lư Tuần.
Yến Phi dậm chân vọt lên trên cao, không phá hủy mà bắt lấy khối ngọc, hô lớn:
- Người anh em, đi thôi!
Lưu Dụ không cần nhắc nhở, đã nhanh chân tách khỏi đấu trường, lao lên nóc dãy nhà phía tây chạy thục mạng theo Yến Phi.
Khất Phục Quốc Nhân, Lư Tuần, An Ngọc Tinh bỗng chốc thành một mặt trận tay ba, người đánh ta, ta đánh người, loạn xạ tứ tung, nhưng chẳng ai dám phân thân đuổi theo Yến Phi cùng Lưu Dụ.
Chương 10
Tình trong hoạn nạn
Yến Phi Lưu Dụ người trước kẻ sau cắm đầu luồn qua rừng rậm, cả hai đều đã mệt mỏi rã rời. Người trước nhảy lên ngọn cây quan sát, người sau dựa vào thân cây nhìn trở lại, đảo mắt một lượt quanh khu rừng hoang vắng mênh mông. Hoang thành Nhữ Âm chỉ còn là một chấm đen mờ phía chân trời.
Yến Phi nhảy xuống ngồi cạnh Lưu Dụ, nói khẽ:
- Con chim ưng kia không đuổi theo rồi.
Lưu Dụ chau mày:
- Có phải tên nó là Thiên nhãn?
Yến Phi kinh ngạc:
- Huynh cũng biết ư? Đúng là nó có tên như vậy!
Lưu Dụ cả cười:
- Ta nhận ra Khất Phục Quốc Nhân ở bộ y phục đỏ cộng dáng hình quái dị. Yến Phi huynh có lẽ quên tên ta là Lưu Dụ rồi.
Yến Phi khiêm tốn:
- Lưu huynh xin chớ trách! Ta uống say rồi thì không còn biết trời trăng gì nữa. Mà Lưu huynh cũng quả là lớn mật, biết rõ là Khất Phục Quốc Nhân vẫn không ngần ngại cắt luôn dây lưng của hắn.
Lưu Dụ thản nhiên cười:
- Ta vốn không sợ bất cứ người nào! Có điều, sao Yến huynh lại không nhanh tay hủy cái viên ngọc yêu tà đó đi?
Yến Phi lôi vòng ngọc ra, trao cho Lưu Dụ:
- Ta muốn dùng nó làm nhiễu loạn kẻ địch, khiến Khất Phục Quốc Nhân phải vướng tay vướng chân. mục đích đã đạt, viên ngọc này để cho Lưu huynh xử lý!
Lưu Dụ đón lấy bảo ngọc, nhờ ánh trăng soi nhìn đăm đăm từng đường vân trên đó, đoạn nói:
- Như vậy là Khất Phục Quốc Nhân không phải vì theo bảo ngọc mà đến. Có lẽ chỉ là truy lùng Yến huynh rồi gặp sự biến ngoài ý muốn đấy thôi. Yến huynh có nợ nần gì với Phù Kiên chăng?
Yến Phi sầm mặt lắc đầu:
- Chuyện này một lời không thể kể hết. Lưu huynh vì cớ gì lại đến Nhữ Âm thành? Cô gái ấy có phải đi cùng với huynh không?
Lưu Dụ biết Yến Phi tránh né câu hỏi của hắn, mà bản thân hắn cũng lại có điều khó nói, bèn cười xòa:
- Việc của tiểu đệ có phần khó nói. Còn yêu nữ kia tên là An Ngọc Tinh, chỉ là tình cờ gặp trong thành mà đã muốn giết ta ngay! Huynh xem này, theo địa lý đồ trên bảo ngọc này, dù biết được là nơi núi non nào lại không chỉ dẫn cụ thể vị trí giấu kinh. Có đến đó thì cũng làm được gì?
Đoạn hắn trao vòng ngọc lại cho Yến Phi.
Yến Phi vốn cũng chẳng hứng thú gì với viên ngọc tà dị đó, nhưng vị phép lịch sự cũng cầm lấy xem, xem xong cũng thốt lên một câu: " Đúng là kỳ thật!"
Lưu Dụ lấy lại khối ngọc, nói:
- Ta cứ giữ lấy, biết đâu còn giá trị lợi dụng. Chẳng phải Yến huynh từ Biên Hoang tới đó sao? Có nắm được tình hình gì về Cao Ngạn không?
Dù chỉ sơ giao, Yến Phi không hiểu sao lại có chút cảm tình với gã trai trí dũng song toàn này, liền kể thật:
- Huynh hẵng đến ngay Thọ Dương, có thể hắn còn ở đó, bằng không hỏi Hồ Bân chắc sẽ biết tung tích của hắn. Huynh chẳng phải là cùng chỗ với Hồ Bân đó sao?
Lưu Dụ thất vọng không hỏi về Cao Nhạn nữa mà chuyển chủ đề:
- Thế thì ta chỉ trông vào may rủi thôi. Huynh có biết tình hình Biên Hoang Tập hiện nay không?
Yến Phi đã sớm biết Lưu Dụ muốn nắm tình hình Biên Hoang, mỉm cười trả lời:
- Lưu huynh chớ cười ta biết ít mà nói nhiều. Quân tiên phong của Phù Dung đã tràn ngập Biên Hoang Tập, phong toả tất các đường xuất nhập, chuẩn bị ngênh đón đại quân của Phù Kiên. Huynh đến Biên Hoang lúc này có khác nào dấn thân vào chỗ chết! Nếu huynh có thể nói huynh đến đây vì chuyện gì, biết đâu ta có thể giúp huynh?
Lưu Dụ ngầm thở dài. Hắn với Yến Phi mới giao thiệp lần đầu đã thấy có duyên. Chỉ nhìn Yến Phi thì biết, Yến Phi biết rõ Khất Phục Quốc Nhân đang đuổi sát nút vẫn bất chấp nguy bản thân cố huỷ cho được bảo ngọc, không để ngọc lọt vào tay yêu ma, chỉ cần như vậy đã bíêt Yến Phi là người thế nào. Có điều nhiệm vụ trên vai quá mức trọng đại. Nếu tiết lộ việc đi tìm Chu Tự, nhỡ lọt đến tai Phù Kiên thì hỏng bét tất cả.
Hắn chỉ còn cách cười khổ sở:
- Tiểu đệ thật sự thân mang nghiêm lệnh, những mong Yến huynh thông cảm!
Yến Phi thản nhiên:
- Lưu huynh đã có điều khó nói thì ta cũng không hỏi thêm. Trời sắp sáng rồi, ta nên chia tay ở đây. Hi vọng còn có dịp gặp lại!
Lưu Dụ giơ cả hai tay ra bắt chặt tay Yến Phi, thành khẩn:
- Yến huynh xin chớ trách cứ, thật sự Lưu Dụ ta chỉ muốn hết lòng với Yến huynh, song việc đại sự không thể không tuân. Mai sau nếu còn giữ được cái mạng này, Yến huynh nếu qua Quảng Lăng có thể đến phủ tướng quân Tôn Vô Chung tìm ta, tiểu đệ nhất định sẽ tạ tội với huynh.
Lưu Dụ nói thế, đã gián tiếp thừa nhận mình là người của Bắc phủ.
Yến Phi nghe tới cái tên Tôn Vô Chung, trong lòng xáo động, đang toan nói thì sự biến xảy ra.
Hai người còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì, trong khoảng ba trượng xung quanh nơi họ đứng cành lá bỗng rung động ào ào, từ hoang tập phía bắc cuồng phong chợt nổi lên dữ dội.
Rồi tiếng gào rú như từ bốn bề vọng tới, đầu tiên nghe còn xa xăm nhưng chỉ một lát sau đã ầm vang, dội vào khu rừng ập thẳng đến tai. Xung quanh hai người bỗng ngập tràn kình khí, giống như hàng vạn bàn tay vung dao chém ngang chém dọc vào thân thể họ. Cả Lưu Dụ lẫn Yến Phi cùng loạng choạng nghiêng ngả, đến khi trụ vững được lại thì cuồng phong chợt biến mất.
Yến Phi cảm thấy đất trời như tối sầm lại. Thực ra vầng trăng vẫn sáng như vậy, bốn bề cũng không xuất hiện chướng ngại gì, chỉ có chân khí hộ thể của hắn bị những luồng kình khí xoáy tròn kia vặn cho suy kiệt, công lực gần như mất hẳn, thị lực cũng giảm đi nghiêm trọng. Hắn vẫn không xác định được vị trí của kẻ tập kích, chỉ biết võ công người này cao ngoài chỗ tưởng, gặp chưa từng gặp, nghe cũng chưa nghe, thậm chí còn chưa từng mơ thấy.
Lưu Dụ rút soạt thanh đao sau lưng, tả xung hữu đột phía trước Yến Phi vẫn đang mơ mơ màng màng, nhưng rốt cuộc hắn cũng không khá hơn Yến Phi, chân tay ngày càng trì trệ.
"Ào ào!"
Hai luồng kình khí đặc sánh như hai vật hữu hình chia ra làm hai đánh vào bối tâm Lưu Dụ và Yến Phi. Trúng phải đòn ấy, lục phủ ngũ tạng của cả hai chắc chắn sẽ tan tành, chân khí hộ thể cũng không có nghĩa lý gì.
Lưu Dụ vận sức xoay người, giơ đao chém thẳng vào luồng kình khí.
Yến Phi biết rằng sở dĩ Lưu Dụ chọn cách đón thẳng đỡ thẳng như vậy thực ra là vì không có cách gì né tránh. Công lực của đối phương không chỉ vượt trội hai người mà còn như đã toàn lực đánh ra. Lưu Dụ sức lực kém hơn, lại nghênh chiến trong vội vã, hậu quả sẽ sao đây?
Hắn mới thét dài một tiếng, Điệp luyến hoa xuất ra khỏi vỏ, trước hết dùng lực âm kinh chặn đứng cơn lốc đang cuộn tới, rồi vận tận dương khí thay cho âm kình, dồn lên mũi kiếm nhằm khe hở giữa hai luồng kình khí đâm thẳng về phía đối thủ.
Lưu Dụ đã dồn toàn bộ sức lực, lưỡi đao chém trúng luồng kình khí, tuy phát hiện đối phương đã thu lại mấy phần công lực nhưng thân đao đã như bị cây búa ngàn cân đập trúng, miệng trào máu tươi, cả người văng tuốt ra xa đập vào một thân cây lớn. Khí huyết hắn sôi lên rã rời, phải ngồi bệt xuống gốc cây, cả thanh đao bất ly thân cũng suýt nữa tuột khỏi tay bay mất.
Tiếng hò hét giao tranh rộ lên trong rừng cây tối bóng. Lọt vào đôi mắt vẫn nẩy đom đóm của Lưu Dụ là một hắc y đại hán thân hình cao to lực lưỡng đeo mặt nạ quỷ, đôi thiết tụ dập dờn đang đánh cho Yến Phi vất vả né đông tránh tây, tình cảnh mỗi lúc một thêm khốn đốn.
Thâm tâm hắn biết Yến Phi đang liều chết giao thủ cứu mình, bằng không tính mạng hắn đã hưu hỉ từ lâu! Lưu Dụ muôn phần cảm kích, lôi khối ngọc từ trong lòng ra, lấy hết sức bình sinh hô lớn:
- Bảo ngọc Thái Bình ở đây!
Đoạn vung mạnh tay ném viên ngọc bay vèo vào rừng rậm.
Cao thủ thần bí đáng sợ đó lập tức quật ra một chiêu thiết tụ khiến Yến Phi ngã sang một bên, đoạn quay người vọt vào rừng đuổi theo viên bảo ngọc, động tác nhanh như quỷ mị.
Lưu Dụ vội vàng bổ về phía Yến Phi. Cứu tinh của hắn lúc đó đang vất vả lắm mới đứng lên được, mặt trắng nhợt tờ giấy, máu không ngừng túa ra hai bên khóe miệng.
Bỗng tiếng tiếng hô hét và tiếng vũ khí va nhau vọng từ cánh rừng bên ngoài tới. Nét mặt Yến Phi lộ vẻ vui mừng, giơ tay đặt lên vai Lưu Dụ nói:
- Trời giúp ta rồi, kẻ ngoài kia nhất định là Khất Phục Quốc Nhân. Hắn đến đây nhất định sẽ không còn mạng trở về. Chúng ta chuồn nhanh lên!
Hai người chạy một mạch tới hơn mười dặm, tới một con sông nhỏ chảy vòng vèo qua một khu đồi mới dám dừng lại trong một chỗ trũng, ngồi bệt xuống thi nhau thở dốc.
Lưu Dụ chúm miệng khạc ra một bãi máu, bỗng bật lên cười lớn, không rõ là vì sung sướng hay đau khổ.
Yến Phi toan cất tiếng hỏi, song đột nhiên cũng há miệng cười, mặt nhăn lại vì đau nhưng cảm giác lại vô cùng sảng khoái.
Lưu Dụ ho mấy cái mới nói:
- Ta giữ viên ngọc ấy lại đề phòng vạn nhất có chỗ dùng, chẳng ngờ cứu được cả hai cái mạng. Nếu biết từ trước thì đã có thể dùng nó đổi cả cái đầu của Khất Phục Quốc Nhân rồi. Chà, con bà nó! Thiên hạ lại có cao thủ đến như thế, thế mà vẫn không dám lộ mặt ra! Ta đoán hắn nếu không phải Tôn Tư thì là Giang Lăng Hư, chỉ một trong hai đại yêu quái đó.
Yến Phi bò lên trước hai bước, nhúng mặt vào dòng nước lạnh. Lưu Dụ thấy thế cũng bắt chước, tiến đến ngâm đầu xuống sông.
Trời dần mờ sáng. Con sông nhỏ che kín bởi rừng cây hai bên bờ, uốn lượn theo những quả đồi nhấp nhô trở thành nơi ẩn nấp lý tưởng của hai người.
Lưu Dụ ngẩng đầu cho từng giọt nước mát lạnh chảy xuống cổ, nghĩ ngợi:
- Người đó cũng có thể là An Thế Thanh, phụ thân An Ngọc Tinh, có điều khả năng này không lớn. Hãy xem xem, ai còn có thể biết mà đuổi theo chúng ta nữa?
Yến Phi xếp bằng, vận công đả thông khí huyết, cất tiếng:
- Lưu huynh thương thế sao rồi?
Lưu Dụ quay người nằm ngửa, ngắm nhìn trời cao trong xanh, nói:
- Ta chỉ mệt thôi, không sao cả. Chờ có dịp sẽ báo đáp ơn cứu mạng của Yến huynh.
Yến Phi cười mỉm:
- Huynh cứu ta, ta cứu huynh, chúng ta hoạn nạn cùng giúp nhau mà. Huynh có còn muốn đến Biên Hoang Tập nữa không?
Lưu Dụ thản nhiên trả lời:
- Huynh quả là con người rất đặc biệt. Hãy trả lời câu hỏi của ta trước được không?
Lưu Dụ đoán rằng Yến Phi có gì đó muốn thổ lộ cùng hắn. Qua trận ác chiến thập tử nhất sinh, quan hệ hai người đã trở nên tin cậy, đã có cảm giác sống chết có nhau, kề vai sát cánh. Hắn chậm rãi trả lời:
- Được thôi. Ta gánh vác trọng trách do Thứ sử đại nhân đích thân giao phó, cho dù có chết cũng phải toàn tâm thực hiện.
Yến Phi hạ giọng:
- Tạ Huyền?
Lưu Dụ bình tĩnh gật đầu:
- Mệnh lệnh do đích thân Thứ sử Tạ đại nhân giao phó.
Yến Phi phấn chấn:
- Làm sao huynh lại đột nhiên cởi mở như vậy?
Lưu Dụ nhìn Yến Phi. Khuôn mặt với những đường nét cương nghị đầy nam tính đập vào mắt hắn. Một khuôn mặt nam nhân hiếm có, vừa hào mãnh lại không gợn chút thô tục của kẻ giang hồ. Vẻ sáng láng tuấn tú ấy khiến ai gặp cũng đều muốn kết giao gửi gắm. Lưu Dụ nhẹ nhàng:
- Chân lý giản đơn lắm. Nếu không có huynh giúp đỡ ta không thể nào hoàn thành được sứ mạng, tình thế buộc ta phải lựa chọn.
Yến Phi chiếu ánh mắt về phía Lưu Dụ. Bốn mắt gặp nhau, trong lòng cả hai đều dâng lên cảm nghĩ duyên trời gặp gỡ, mọi nghi kỵ phút chốc chợt biết mất tăm.
Yến Phi nói:
- Nói thật với huynh, Cao Ngạn đi Thọ Dương là để hẹn cho ta gặp Tạ Huyền. Ta có cách cho ông ta thắng được trận này, thật tiếc là giờ đây ta đã không còn chắc nữa!
Lưu Dụ ngồi bật dây, nghiêm túc:
- Lưu mỗ xin được nghe tường tận!
ooooooooooooooooooooo
Tạ Huyền ghìm ngựa bên ngoài thành Quảng Lăng, hai bên tả hữu là hai cánh tay phải trái Lưu Khiên Chi và Hà Khiêm. Cả hai tướng tùy tùng đều giáp trụ thiết mão, trái hẳn với Tạ Huyền bạch cân bố y, càng làm tăng thêm vẻ nho nhã tuấn tú cho họ Tạ.
Hai vạn quân tiên phong dưới sự chỉ huy của Tạ Diễm đang hùng dũng đi ngang Quảng Lăng tiến về Bát Công sơn, điểm phòng ngự chiến lược trên bờ đông Phì Thủy.
Tạ Huyền ngắm nhìn binh lính Bắc phủ khí thế ngút trời diễu qua trước mặt, trong lòng cảm xúc cuộn trào.
Từ khi thành lập quân Bắc phủ, Tạ Huyền đánh trăm trận đều bất bại, uy danh vì thế mà vang dội nơi nơi. Trận chiến then chốt xác lập địa vị hôm nay của họ Tạ xảy ra bốn năm về trước. Lúc bấy giờ Phù Kiên sai con trai là Phù Phi dẫn bảy vạn quân xâm lược Nam Tấn. Quân Phù Phi trước hết tấn công Xương Dương, bắt sống Thứ sử Chu Tự, chiếm được bàn đạp liền sai Bành Siêu bao vây Bành Thành, làm triều đình Nam Tấn nháo nhác chấn động.
Tạ An một tay sắp xếp đại sự, Tạ Huyền còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nhưng vẫn vâng lệnh xuất trận. Khi đó Tạ An chỉ dặn hắn đúng hai câu: "Hư trương thanh thế, giương đông kích tây". Tạ Huyền làm đúng lời Tạ An dặn, vờ như sắp tấn công nơi Bành Siêu để quân lương, khiến cho họ Bành phải kéo đại quân về bảo vệ. Hà Khiêm nhân đà đó lấy lại được Bành Thành. Bành Siêu sau khi hợp quân liền kéo lực lượng hơn sáu vạn người thẳng xuống phía nam bao vây trọng trấn Tam A cách thành Quảng Lăng trăm dặm. Tạ Huyền từ Quảng Lăng lập tức bí mật tây tiến đánh úp, đại phá quân Tần, đốt cháy tất cả chiến thuyến và thuyền chở quân lương của địch, đánh cho hơn sáu vạn quân Tần ở Tam A tan tác gần như không còn một mống.
Thế nhưng họ Tạ vẫn không thể lấy lại được Tương Dương, để lại hậu quả hôm nay Phù Kiên lại ôm mộng lớn mà đích thân kéo quân nam tiến.
Không giống như lần trước, Đế Tần lần này dốc hết tướng tài binh giỏi. Ngoài đại quân cả triệu người, Mộ Dung Thuỳ và Dao Trường đều là hai mãnh tướng cái thế, khiến cho Tạ Huyền không có chút nào hi vọng chiến thắng.
Tạ Huyền vẫn đặt lòng tin vào Tạ An, bởi Tạ An chưa sai lầm bao giờ. Trí óc tinh minh ấy, liệu lần này có còn linh nghiệm nữa không ?
oooooooooooooooooooo
"Bộp" một tiếng, Hằng Huyền vỗ tay lên chiếc bàn gỗ táu, để lại mặt bàn dấu đủ cả năm ngón tay. Cả đêm qua hắn không ngủ, một mình một chén dốc tận giải sầu, sầu không vơi mà trong lòng mỗi lúc một thêm bất mãn.
Lời trách móc của Hằng Xung văng vẳng bên tai hắn. Hằng Huyền tự hỏi, Tạ Huyền kia có điểm nào hơn hắn, vậy mà họ Tạ lại được xếp thứ nhất trên bảng vàng cửu phẩm cao thủ, Hằng Huyền phải lép vế đứng thứ hai. Giờ đây Phù Tần kéo quân nam chinh, Tạ Huyền được đường đường đốc quân nghênh chiến, còn hắn phải bó gối ở Kinh Châu.
Đang lúc càng nghĩ càng tức, tiếng của mưu sĩ tâm phúc Khuông Sĩ Mưu nói từ ngoài cửa:
- Sĩ Mưu có lời muốn lập tức bẩm báo!
Hằng Huyền trầm giọng:
- Nếu không có chuyện gì gấp thì đừng làm phiền ta.
Khuông Sĩ Mưu nhè nhẹ đến sau lưng Hằng Huyền, cúi đầu nói nhỏ:
- Đại Tư Mã có phải đang buồn vì tình thế ở Giang Hoài không? Sau khi Đại Tư Mã gặp Nam quận công thì bệnh tình tái phát, nằm ệp trên giường không còn cách chữa trị, xem ra tình hình không tốt rồi.
Đại Tư Mã chính là Hằng Xung. Hằng Huyền nhớ công cha mà có ấp phong ở Nam quận, vì thế được gọi là Nam quận công. Trận chiến Tương Dương bốn năm trước, Hằng Xung trúng tên độc quân Tần, độc ấy đến nay vẫn không trục ra được, sức khoẻ ngày càng suy giảm, cộng thêm tuổi tác đã cao, khí thế ngày nào đã gần như mất hẳn.
Khuông Sĩ Mưu ăn vận trang phục văn nhân, thân thể gầy còm, đôi mắt gian xảo, luôn có lòng tính toán mưu mô.
Hằng Huyền lại uống thêm bát rượu buồn, mặt sầm lại vẻ bất cần:
- Ông ta chết đi lại hay. Bao nhiêu uy phong ngày xưa đều tự ông ấy đánh mất đi rồi!
Khuông Sĩ Mưu cả mừng:
- Quận công chỉ cần một câu, mưu đồ bá nghiệp ắt thành.
"Choang" một tiếng, chiếc cốc trên tay Hằng Huyền rơi xuống bàn vỡ tan thành từng mảnh, vội vã:
- Ngươi vừa nói gì?
Khuông Sĩ Mưu cung kính:
- Chiến bại thì khuynh tông, chiến thắng thì phúc tộc. Đó là kết cục của tất cả danh tướng trọng thần Nam Tấn. Nay đại quân Phù Kiến kéo tới, triều đình đang rối loạn hết lên. Đại Tư Mã nếu có chuyện gì lúc này, Tư Mã Diệu ắt phải để Quận công thay thế, mục đích làm yên lòng dân Kinh Châu. Đó chính là cơ hội ngàn vàng cho Quận công, nếu không đi trước một bước, chờ tới khi tình thế yên ổn, Tư Mã Diệu ắt sẽ tước mất binh quyền của Hằng gia.
Sắc mặt Hằng Huyền bỗng trắng nhợt, nói:
- Nếu như Phù Kiên chiến thắng thì thế nào ?
Khuông Sĩ Mưu tự tin trả lời:
- Chỉ cần Quận công nắm binh quyền trong tay, khi đó có thể thuận theo lý tự lập làm đế, hiệu triệu dân chúng phương nam, nhân khi quân Tần còn chưa đứng vững mà tận dụng lợi thế thượng du, xuôi theo dòng đánh úp quân Tần, đuổi Phù Kiến về phía bắc, nghiệp lớn như vậy tất sẽ thành.
Mặt Hằng Huyền càng trắng nhợt, nhìn chằm chằm đống mảnh vỡ, dằn từng tiếng một:
- Người muốn ta...
Khuông Sĩ Mưu hạ giọng:
- Sĩ Mưu đâu dám khuyên Quận công đi làm gì, tất cả là suy nghĩ của ngài mà thôi. Sĩ Mưu chỉ làm phận sự của kẻ cận thần, không muốn Nam quận công mất đi cơ hội...
Hằng Huyền trầm ngâm im lặng, trống ngực không ngừng đập thình thình, rõ là trong lòng đang đấu tranh kịch liệt
Những lời khe khẽ của Khuông Sĩ Mưu rót bên tai hắn:
- Chỉ cần Nam quận công vờ như quan tâm tới bệnh tình của Đại Tư Mã, dặn người hầu đem tiên dược tới dưỡng thương cho Người...
Hằng Huyền ngả người dựa lưng vào ghế, cố tung ra một lý lẽ yếu ớt cuối cùng:
- Nếu như chú ta uống thuốc mà chết, Hằng Huyền ta sẽ là con người bất trung, bất nghĩa hay sao?
Khuông Sĩ Mưu thầm thì trơn tru:
- Quận công hãy yên tâm, loại thuốc này ba ngày sau mới phát tác. Tán dụng của nó lại không phải là giết người mà chỉ làm cho độc chất có sẵn trong người Đại Tư Mã đồng loạt phát tác không có cách gì cứu chữa, đảm bảo thần không hay quỷ không biết. Ài! Sĩ Mưu do bởi thấu hiểu tâm trạng của Quận công cho nên mới cất công tìm tới đây tâu bày.
Hằng Huyền trầm giọng xuống:
- Thuốc đâu ?
Khuông Sĩ Mưu lấy từ trong người ra hộp thuốc bọc gấm, cung kính đặt lên bàn.
Hằng Huyền giương to đôi mắt nhìn hộp thuốc, khẽ nghiến răng:
- Việc này còn có ai biết nữa?
Khuông Sĩ Mưu nghĩ đã lập được công lớn, mặt mày tươi tỉnh:
- Sĩ Mưu đâu thể bất cẩn, chuyện này chỉ duy nhất Sĩ Mưu biết thôi.
Hằng Huyền gật gật đầu, bàn tay bỗng khum thành chưởng đập đúng giữa ngực Khuông Sĩ Mưu. Thân hình gầy gò văng ra rơi bịch trên đất, không kịp kêu lên đến nửa lời.
Họ Hằng hai tay nâng hộp thuốc, cẩn thận giấu vào trong lòng, giọng thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
- Bây giờ thì chỉ một mình ta biết thôi!
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip