NHÀ TRẮNG PHƯƠNG ĐÔNG TRONG TẾT MẬU THÂN
Hệt như trong chuyện cổ tích, tòa nhà cao 6 tầng nghênh ngang tọa lạc tại góc đường Thống Nhất (Lê Duẩn) - Mạc Đĩnh Chi bỗng nhiên "biến mất", không còn dấu vết. Giờ đây đi ngang qua nơi này ta bỗng thấy trống trải. Trong khuôn viên được bao kín khu đất rộng trị giá hàng chục ngàn lượng vàng SJC. chỉ có mấy ngôi nhà triệt lợp ngói nhựa màu xanh thấp nhỏ mọc lên từ ngày khai trương Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ (16-8-1999), nơi làm việc của ông Chard Aray, Tổng lãnh sự đầu tiên của chính phủ Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể ra tòa nhà đồ sộ "không cánh mà bay" chẳng có gì lạ vì nó là "bất động sản" của chính phủ Mỹ theo định ước quốc tế. Do thế, trong phạm vi tường rào là "bất khả xâm phạm", họ đập bỏ, san bằng hay "cẩu" ngôi nhà đi đâu là quyền của họ. Có điều rắc rối cho cơ quan quản lý di tích lịch sử - văn hóa thành phố, vì di tích quân sự "Tòa đại sứ Mỹ" được bộ văn hóa cấp bằng công nhận theo quyết định số 77A/VHQĐ ngày 26 tháng 6 năm 1976. Theo nguyên tắc đã là di tích lịch sử thì phải có thực thể hình khối. Chứ cái bãi trống không thì làm sao gọi là di tích. Hay tạm liệt vào loại di tích văn hóa "phi vật thể"?
May thay chứng tích của một trận đánh lừng danh làm chấn động cả thế giới, còn lại tấm bia kỷ niệm, nhưng "bất khả xâm phạm" nên tấm bia trước đây gắn vào bức tường trước cổng "sứ quán Hoa Kỳ" từ năm 1976 được "di dời" ra ngoài lề đường, cách xa vị trí cũ khoảng 30 mét. Những dòng chữ trên "trang sử đá" nhắc nhở mọi người một sự kiện nổi tiếng với lời lẽ ngắn gọn súc tích: "Nơi đây vào lúc 3 giờ sáng ngày mùng 2 tết (tức ngày 31 tháng 1 năm 1968), trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của quân và dân toàn miền Nam. 17 cán bộ và chiến sĩ lực lượng vũ trang biệt động thành phố Sài Gòn - Gia Định đã tấn công và chiếm lĩnh tòa đại sứ Mỹ trong nhiều giờ...".
Vâng, nơi đây đã xảy ra trận đánh mà lịch sử mãi nhắc tới. Nhưng trước hết phải "tái hiện lại hiện trường" để ta có thể hình dung được phần nào trận kịch chiến tại trung tâm đầu não cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, của đế quốc Mỹ.
Theo bình địa tòa đại sứ Mỹ thì tọa độ của nó là 863-922, quận 1, đông giáp sứ quán Anh, tây giáp sứ quán Pháp, nam giáp Tổng nha bưu điện, bắc giáp Ty cảnh sát quận 1. Tòa nhà nằm trong khuôn viên rộng 5000 m2, cao 6 tầng, dài 63 mét, rộng 15 mét, bức tường bao có chu vi 131 mét, cao 2,70 mét, dày 38 cen-ti-mét. Toàn bộ nền: 4.470m, chia thành 140 phòng. Tổn phí xây dựng 2,6 triệu đô la.
Bố trí binh lực: 1 đại đội quân cảnh Mỹ thuộc lữ đoàn 18 quân cảnh của liên đoàn 89. Nhân viên cơ quan trang bị súng M16 và M79. Thường xuyên có 1 đến 2 trực thăng túc trực trên sân thượng. Lực lượng ứng cứu: lữ đoàn 3 dù thuộc sư đoàn kỵ binh không vận 101, tiểu đoàn 1 trung đoàn thiết giáp số 11. Bốn góc tường có 4 lô cốt và bên trong có 4 lô cốt bằng xi măng cốt thép. Ngoài ra còn công sự bao cát, hàng rào thép gai bùng nhùng, thùng phuy cát.
Tính chất toà đại sứ: cơ quan tổng hợp tình báo của Mỹ và bộ mặt ngoại giao ở Việt Nam và Đông Nam Á.
T
rong quyển di tích lịch sử văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh lại có những chi tiết cập nhật hơn: Tòa đại sứ Mỹ trước đó ở 39 Hàm Nghi - quận 1, cao 5 tầng. Khoảng 10 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1965, đã bị đội Biệt động F21 dùng 150 ki-lô-gam thuốc nổ tiến công làm sụp đổ từ tầng 5 trở xuống. Gần 200 quan chức Mỹ, chư hầu và nhân viên chết và bị thương. Phó đại sứ Mỹ Allexis Johnson mặt đầy máu chui ra từ đống gạch vụn
Tòa đại sứ mới (mệnh danh là "Nhà Trắng Phương Đông") được dời sang "long " ở đại lộ Thống Nhất, khởi công.xây dựng năm 1965 và hoàn tất ngày 24 tháng 9 năm 1967. Vật liệu và máy móc thi công được chở từ Mỹ sang và người Mỹ đích thân chỉ huy việc xây cất.
Theo thiết kế, tòa nhà được bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống được mìn và đạn pháo. Cửa chính làm bằng thép dày, các cửa khác có kính dày đặc biệt chống đạn, tất cả điều khiển tự động. Trong đại sứ quán có 200 nhân viên phục vụ ngày đêm. Đại sứ Mỹ Buker làm việc tầng dưới cùng với ê kíp nhưng ngụ tại nhà riêng ở đường Pasteur gần đó. Viên phó đại sứ làm việc ở lầu 5.
Ngoài ra còn có một dãy nhà phụ gọi là "khu Norodom" dành cho nhân viên tình báo CIA. Ngoài hệ thống phòng thủ kiên cố và 60 lính gác, còn có một hệ thống màn hình ra da kiểm soát mặt tiền.
"Nhà Trắng Phương Đông", nơi xuất phát những âm mưu thâm độc về chính trị và quân sự nhằm thôn tính Việt Nam, bị một đòn cảnh cáo nhớ đời trong giai đoạn cuối cuộc "chiến tranh đặc biệt" bởi đội trưởng Bảy Bê và đồng đội, nay đến lượt Ba Đen và các chiến đấu viên của anh đánh phá tan hoang vào cao điểm của "chiến tranh cục bộ".
Lẽ ra sứ quán Mỹ đã tránh được bi thảm trong Mậu Thân, nếu như vào giờ chót Phân khu 6 nội thành không nhận thêm mục tiêu với ý nghĩa ngắn gọn: Đánh Sài Gòn không thể không đánh Sứ quán Mỹ. Nó đã bị bỏ sót trong kế hoạch tấn công Sài Gòn. Đó là mệnh lệnh của Tổ quốc, chỉ có chấp hành.
Lúc này giờ G cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 đã gần kề. Các mục tiêu nội thành như dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Đài phát thanh, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát... đã chuẩn bị hoàn tất về người và vũ khí sẵn sàng vào cuộc. Lực lượng tinh nhuệ nhất của biệt động xây dựng huấn luyện nhiều năm qua, hầu như sắp được tung hết vào trận quyết định Mậu Thân. Các hầm vũ khí có sẵn trong Sài Gòn đã phân phối xong cho các đội biệt động chuẩn bị đột nhập nội thành nay mai...
Vậy lấy đâu ra quân số vũ khí để tấn công tòa đại sứ Mỹ lúc này? Các đồng chí chỉ huy đau đầu thực sự. Cuối cùng thì cũng tìm ra được một "giải pháp tình thế" gom tất cả số cán bộ, chiến sĩ giao liên, phục vụ của đơn vị bảo đảm thành lập Đội biệt động mang số hiệu 11. Việc này chỉ có Ba Đen (tức Ngô Thành Vân) nguyên là chỉ huy đội Biệt động 159, sau là chỉ huy đơn vị A30 bảo đảm, một cán bộ dũng cảm, bản lĩnh, dày dạn kinh nghiệm tổ chức cơ sở nội thành kham được.
Ba Đen nhận mệnh lệnh trong cảnh "nước sôi lửa bỏng", tất bật ra công đi gom góp được tất cả 17 người tập trung ở Củ Chi chờ tổ chức đưa vào nội thành. Riêng anh sẽ là người trực tiếp chỉ huy trận đánh sứ quán Mỹ.
"Nhân sự" tạm xong nhưng vũ khí còn ở tận Trảng Bàng - Tât Ninh, phải chuyển ngay vào Sài Gòn. Lúc này chỉ còn hơn một ngày nữa là tới giờ nổ súng. Chiến sĩ lái xe Ba Báo, người thường xuyên dùng xe nhà chở vũ khí cho biệt động, nhận lãnh sứ mệnh quan trọng này.
Theo lệnh của đội trưởng Ba Đen và Chính trị viên Hai Trí, Ba Báo "đánh xe" lên Bàu Mây (An Tịnh, Trảng Bàng) vào sáng 30 tết bỏ cả việc cúng tất niên của gia đình. Khi anh lên Củ Chi, bọn lính đi càn, trực thăng quần đảo ầm ĩ làm dân sợ hãi, nhưng ông Năm Đây đã chở xe bò vũ khí gồm 12 khẩu AK, 3 khẩu B40, 2 khẩu súng ngắn, 100 quả lựu đạn, 200 ki-lô-gam thuốc nổ TNT và hàng ngàn viên đạn, ra điểm hẹn, ông đứng trên xe mình trần, râu bạc phơ lớn tiếng động viên bà con anh em cơ sở cách mạng:
- Có chết tôi chết tại đây cùng mấy chú. Mau đưa hàng vô Sài Gòn!
Chừng đó vũ khí giấu trong các tấm cà tăng và cần xé chất toàn cà chua chuyển lên xe. Ba Bảo ngụy trang kỹ lưỡng, cấp tốc chạy về Sài Gòn. Lại gặp rắc rối: khi qua khỏi Bàu Mây một quãng, một nhà sư vẫy tay xin quá giang. Sau một lát lưỡng lự, Ba Bảo gật đầu, anh nghĩ, lúc này có một nhà sư trên xe chúng bớt nghi ngờ.
Nhưng gần tới trạm khét tiếng Hồng Châu của bọn cảnh sát thì "họa vô đơn chí", xe anh đụng chiếc Vespas của một gã "anh chị" có khẩu côn ló chuôi ra khỏi túi quần, khiến con bồ của hắn văng xuống đường. Ba Bảo "xuống nước", năn nỉ mãi và bấm bụng bồi thường 3.000 đồng, hắn mới đá đít cho qua... Lẽ ra móp pô, hư bảng số, chỉ đền 2.000 đồng là cùng.
Hối lộ dọc đường vài lần nữa, Ba Bảo lái xe về trung tâm thành phố. đến điểm quy định "giao hàng", nhưng cơ sở của Ba Đen bị bể. Bí quá anh đành lái cả "kho vũ khí" đem đút vào ga ra người anh ở Phú Nhuận rồi bỏ đi, báo hại người chị dâu lục sờ phải súng, sợ hãi quên cả ăn Tết.
Quả là chuyến xe "nặng vía" không ai dám chứa, khi rời khỏi nhà anh vợ, nó chạy đôn đáo khắp phố mà vẫn chưa có chỗ trú chân. Khẩn cấp quá, lúc này Ba Đen và Hai Trí phải cầu cứu "Ba Trinh", một cán bộ lãnh đạo dân vận ra tay chạy vạy thương lượng, đến sát mùng 1 tết, chị Hai Phê mới đồng ý cho Ba Bảo de xe vào nhà.
Chưa hết, xe chở quân ở Củ Chi vào thành phố đến nhà cơ sở; do anh Xứng không báo cho gia đình biết nên vợ anh thấy các chiến sĩ biệt động, sợ quá tri hô "cướp cướp", khiến anh em phải lên xe "tẩu thoát".
Chiếc xe hàng vào nhà, dỡ càng tăng, cần xé "hàng bông" ra thấy toàn súng đạn, thuốc nổ, người nhà chị Hai Phê sợ hết hồn. Cả nhà chị như ngồi trên đống lửa, chỉ một sơ sẩy là tai họa ập đến tức khắc.
Từ lúc ấy, Ba Bảo trút được "gánh nặng ngàn cân", nhưng trong nhà 69 Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), anh em đội Biệt động 11 đã tề tựu đông đủ ở đây và bắt đầu thao tác thiết bị chất nổ thành từng gói bộc phá và chuẩn bị phân phối súng đạn cho từng cá nhân, trong khi ngôi nhà chếch trước mặt là cơ quan của ngụy, bọn mật vụ và bọn cảnh sát đang đi lại và ngó ra đường.
Căn nhà gần như chật cứng người, một số phải chuyển lên gác xép. Một không khí rạo rực như dồn nén tại đây
Đến giờ chuẩn bị xuất phát, chị Hai Phê nhận ra người đến chúc Tết gia đình tối 30 mang hộp mứt nặng chịch (bên trong là thuốc nổ) là Ba Đen, một nhân vật mà chỉ nghe tiếng, chị đã hết lòng khâm phục.
1 giờ 30 phút ngày 31 tháng 1 năm 1968, hai chiếc xe, một du lịch, một vận tải nhẹ đến đậu êm trước nhà. Chị Hai mở cửa nhẹ cho xe vào sân, rồi cùng người nhà giúp anh em nhanh chóng đưa vũ khí lên xe. Đội trưởng Ba Đen hỏi lại đường đến Sứ quán Mỹ rồi dặn chị cho các cháu xuống ngủ dưới nhà, không nên ngủ trên cao. Chị Hai Phê hiểu trận đánh sắp xảy ra.
1 giờ 45 phút, hai chiếc Peugeot và Dauphin do Tư Hùng và Bảy Thuận điều khiển trực chỉ mục tiêu Sứ quán Mỹ lao vút đi trong đêm, lát sau rẽ vào đường Mạc Đĩnh Chi ra đường Thống Nhất. Trên chiếc xe du lịch Dauphin gồm có Ba Đen chỉ huy chung, Bảy Tuyền phái viên Sở chỉ huy Phân khu, út Nhỏ trực tiếp phụ trách đội, số anh em còn lại đi trên chiếc Peugeot. Tất cả có 17 cán bộ, chiến sĩ.
Thấy còn "trống" thời gian, Ba Đen cho xe chạy từ từ về phía nhà thờ Đức Bà rồi quay sứ quán Mỹ. Thành phố dường như còn mê ngủ... cả hai chiếc xe của Đại đội 11 bất chợt dừng lại trước tòa nhà cao lớn làm bọn lính gác giật mình. Nhưng chúng chưa kịp định thần thì hai chiến sĩ Văn và Chính đã nổ súng. Hai tên quân cảnh Mỹ gục xuống trước cổng thép khóa chặt.
Tường bao quá cao không thể leo vào được. Lập tức Tèo và Đực dùng bộc phá đánh thủng một lỗ lớn ở gần lô cốt góc đường Thống Nhất - Mạc Đĩnh Chi. Toàn đội chui qua tường lọt vào khuôn viên Đại sứ quán Mỹ. Mấy phát B40 liền chọc vỡ mặt tiền "tổ ong" của tòa nhà. Toàn đội chia làm 4 mũi, 2 mũi án ngự 2 cổng, 1 mũi đánh vào dãy nhà nhân viên sứ quán, một mũi do Ba Đen và út Nhỏ chỉ huy đánh thẳng vào tòa nhà . Trong 5 phút đầu đã diệt hết bọn lính bảo vệ, chiếm tầng trệt và phát triển lên lầu 1, bắt nhiều tù binh tống vào phòng giam lại.
Đoạn này, Don Oberdoifer mô tả: "Ngay sau một tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển cả sứ quán, khối thuốc nổ 15 pao (6,759 ki-lô-gam) đã phá thủng một lỗ lớn của bức tường, nơi chiếc xe tôi đỗ".
Daniel, một trong hai người Mỹ hét to trên làn sóng vô tuyến: "chúng tôi đang tới, chúng tôi đang tới, cứu tôi với!". Thế rồi điện đài bỗng ngưng bặt. Sau đó người ta tìm thấy xác Daniel với một vết đạn cắm vào đầu. Còn người Mỹ kia, Sabast, binh nhất thì bị một viên đạn xuyên thủng ngực".
Lúc 3 giờ 5 phút (giờ Sài Gòn), một chiếc xe đi tuần của quân cảnh Mỹ bắt được tín hiệu phát đi từ sứ quán, từ phía dinh Độc Lập vội chạy tới, 2 tên quân cảnh vừa từ trên xe nhảy xuống liền bị bắn gục tại chỗ.
Nhận thấy tiểu đoàn 716 quân cảnh Mỹ không đủ sức bảo vệ đại sứ quán Mỹ, Fred Weyand, tư lệnh lực lượng Mỹ vùng 3 chiến thuật điều một bộ phận của sư đoàn dù 101 ở miền Đông đổ quân bằng trực thăng xuống sân thượng tòa đại sứ, nhưng bị hỏa lực biệt động bắn lên quá mạnh phải bay đi. Trận đánh trở nên ác liệt, các mũi xung kích đều bị thương vong, phải chống đỡ phía trước và sau tòa nhà. Hỏa lực địch từ cao ốc bắn tới.
5 giờ sáng, địch đã bao vây phía ngoài. Trực thăng lại ồ ạt đến đổ quân, nhưng bị các chiến sĩ ta bắn hất ra xa. Đến lúc này vẫn không thấy bóng dáng 200 thanh niên và sinh viên đến tiếp ứng như trong kế hoạch hiệp đồng. Biết là phải chiến đấu đơn độc, nhưng anh em vẫn ngùn ngụt quyết tâm.
7 giờ sáng. quân cảnh Mỹ mang mặt nạ đầu heo xông vào cống chính. 20 phút sau đó, hãng AP Mỹ đưa tin do ký giả Peter Arnét từ Sài gòn điện về New York: "Việt cộng đã chiếm lĩnh bên trong tòa đại sứ".
Không còn ai canh giữ, một số tù binh tự chạy ngược lên lầu. Ba Đen chĩa súng lùa tất cả chúng vào một phòng rồi khóa cửa lại.
Tổ chiến đấu của Ba Đen đã lên được tầng 3. Lúc này bọn Mỹ đã đổ được quân xuống sân thượng, tổ chức đánh từ trên xuống. Tổ biệt động quét AK diệt một số tên, bọn còn lại lùi trở lên.
7 giờ 30 phút. lính Mỹ phản công, dùng cả hơi ngạt phun xuống làm các chiến sĩ sặc sụa, tức thở, nước mắt, nước mũi chảy ràn rụa. Anh em cố chịu đựng và tập trụng hỏa lực vào quân địch. Thấy một phòng đóng kín, nghi là có đại sứ Bunke bên trong, Ba Đen ra lệnh cho Vinh bắn phá cửa. Vinh phóng vào cửa một trái B40, giấy tờ trong phòng bốc cháy. Do mảng tường chắn phía sau quá gần, Vinh hy sinh ngay khi bóp cò súng. Phía trên, địch vẫn lao xuống. Mạng phóng vào chúng một quả B40. Nhiều tên Mỹ cháy rụi, nhưng anh cũng hy sinh do mảng tường chắn phía sau quá gần như trường hợp của Vinh.
Ba Đen bị hơi ngạt trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh lần mò trong khói đạn, theo cầu thang xuống tầng trệt. Tại đây chiến sĩ Đực hy sinh nằm bên cạnh út Nhỏ bị thương gần kiệt sức. Anh cùng út Nhỏ ráng sức phòng ngự, dùng tiểu liên và súng ngắn bắn vào đám lính từ phía trên cầu thang tràn xuống và ngăn chặn bọn ngoài sân cỏ tiến vào. Phía ngoài đường, bọn chiến tranh tâm lý dùng loa phóng thanh kêu gọi các chiến sĩ biệt động đầu hàng.
Địch ném xuống từng chùm lựu đạn tạo nên màn khói dày đặc, út Nhỏ quằn quại đau đớn rồi tắt thở. Nhờ có thùng phi cát phòng hỏa, Ba Đen chỉ bị trọng thương. Trong tình thế nguy kịch, anh kiên quyết sống mái với chúng, anh lượm được quả thủ pháo từ tay Đực buông ra, áp sát cửa chắn cầu thang chờ giặc.
Không còn nghe tiếng súng bắn trả, bọn Mỹ dò dẫm xuống chân cầu thang, đám ở ngoài sân cũng lần tới. Chút sức còn lại cộng với lòng căm thù, Ba Đen giật nụ xòe quả thủ pháo định ném vào chúng, nhưng không còn đủ lực ném ra xa. Anh ngất đi trong tiếng nổ chuyển dội khu nhà.
Don Oberdoifer viết: "Foray thận trọng chui qua lỗ tường, anh ta thấy một lính Việt cộng bị thương nặng đang cố gượng ngồi trên bãi cỏ và lăm lăm quả lựu đạn trong tay, sẵn sàng ném ra. Foray ngắm mục tiêu người lính trong đường ngắm của khẩu súng thì một tia chớp màu da cam lóe lên trước mặt anh ta. Người lính biệt động Cộng sản đã tháo chốt quả lựu đạn, nhưng không đủ sức để ném đi".
Đây có lẽ là một trường hợp khiến bọn Mỹ kinh hoàng nhất trong trận đánh.
9 giờ sáng, địch mới "tràn ngập" chiếm lại tòa nhà ngổn ngang xác chết.
Đội 11 biệt động được tổ chức gấp rút trong vòng 4 ngày, không có vũ khí ém sẵn trong thành phố, đã chiến đấu cực kỳ anh dũng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh chiếm tòa đại sứ Mỹ từ tầng 1 đến tầng 3, giữ trận địa được 6 giờ 30 phút, vượt chỉ tiêu cấp trên giao 4 tiếng rưỡi đồng hồ, diệt và làm bị thương nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện, tài liệu của chúng. Toàn đội 17 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, còn lại một người bị bắt là đội trưởng Ba Đen. Anh trở thành nhân chứng duy nhất còn lại của trận đánh Sứ quán Mỹ.
Phía địch đưa tin: 5 binh sĩ Mỹ tử thương và 22 người bị thương chết tại bệnh viện, số bị thương lên tới 124 người.
Trận tấn công của Biệt động vào Đại sứ quán Mỹ làm chấn động toàn nước Mỹ. Trong quyển sách "Tết" dày 380 trang xuất bản tại New York, nhà báo Mỹ Don Oberdoifer có mặt ở miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân đã giành hẳn chương 1 nói về ảnh hưởng của trận đánh này, có đoạn viết:
"Tuy là một trận đánh nhỏ về số người tham gia, nhưng đã kích động mạnh mẽ công chúng Mỹ về chính trị và tâm lý. Sứ quán Mỹ, nơi ngọn cờ sao và vạch chính thức cắm trên lãnh thổ Việt Nam, là điểm tượng trưng cho cố gắng và quyền lực Mỹ! Làm cho người ta nghĩ rằng lực lượng Cộng sản mạnh hơn nhiều so với mức chính phủ Mỹ mô tả... Và như vậy chiến tranh còn lâu mới kết thúc...".
Báo Washington bình luận: "dân chúng Mỹ choáng váng, không khí Washington ảm đạm. Tổng thống vừa đau tim vừa đau đầu. Sự sửng sốt ngày đầu chuyển sang rã rời tuyệt vọng...".
Tờ Daily News Washington đăng xã luận với tựa đề hoang mang: Chúng ta trước đây ở đâu? "chúng ta hiện nay ở đâu? Kèm theo là bức tranh biếm họa Westmoreland đụng đầu với một chiến sĩ giải phóng ở góc nhà đề chữ "sứ quán Mỹ - Sài Gòn". Những ngôi sao cấp tướng bật khỏi cầu vai, súng của Wes rơi xuống đất, còn súng của người chiến sĩ giải phóng thì cắm vào bụng Wes, phía dưới có dòng chữ phụ đề "chúng ta đi qua chỗ ngoặt. tướng Wes ạ...".
"NhàTrắng Phương Đông" không dừng lại ở sự kiện bi đát Tết Mậu Thân, mà một sự kiện khác không kém phần cay đắng nhục nhã là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong hai ngày 29 và 30 tháng 4 năm 1975 của giặc Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công như vũ bão của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tớ thầy Mỹ - ngụy, hàng ngàn tên chen lấn đạp nhau tranh giành một chỗ trên sân thượng để hòng được trực thăng cứu thoát.
Chiến tích trận đánh chiếm tòa đại sứ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã góp phần dẫn đến thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cuộc tháo chạy tán loạn của chúng đã hằn lại một vết đen lịch sử, mặc dù tòa nhà 6 tầng nghênh ngang mất dạng. Nơi đây chỉ còn lại một tấm bia với những dòng chữ giản dị nhưng Tổ quốc và nhân dân mãi mãi ghi công các chiến sĩ biệt động đã xả thân vì sự nghiệp chiến đấu giành độc lập tự do cho đất nước Việt Nam mãi mãi trường tồn.
NGƯỜI NỮ ANH HÙNG
TRONG TRẬN ĐÁNH BỘ TỔNG THAM MƯU
Oanh nhớ rất rõ chỉ mấy giờ trước lúc vào trận, vẻ mặt cụm trưởng biệt động Đỗ Tấn Phong (Ba Phong) hết sức căng thẳng. Anh là chỉ huy trưởng trực tiếp chịu trách nhiệm trận đánh cực kỳ quan trọng này. Và bao giờ cũng thế, anh giữ Oanh nhất là trong lúc khó khăn. Oanh tên thật là Phạm Thị Mỹ, nhưng mọi người quen gọi cô bằng cái tên ngụy trang là "Oanh". Oanh nhớ cả câu nói đầy vẻ trang nghiêm của Ba Phong: "Kế hoạch không có gì thay đổi: đúng giờ G của toàn Miền, ta bắt đầu nổ súng".
Câu nói ngời lên trong đầu Oanh suốt trận đánh. Cô thấy tầm mức trận chiến đấu mà cô và đồng đội tham dự. Trong đó, trách nhiệm của người chiến đấu viên phải thể hiện cao nhất... Lúc ấy, màn đêm buông loáng ướt trên cành lá. Bầu trời Sài Gòn lắng đọng trong cơn trở mình của thành phố. Những ngọn gió thổi về lạnh trong đêm như muốn đánh thức cả thành phố bừng dậy chào đón phút giây lịch sử của một mùa xuân mới.
Trong vị trí ém quân, anh Ba Phong chốc chốc lại xem đồng hồ, vầng trán hằn lên nếp nhăn khác với ngày thường. Oanh ở bên cạnh cũng nôn nao chờ đợi khoảnh khắc nổ súng. Dường như ai cũng cảm thấy thời gian trôi quá chậm chạp. Những trái B40 mới xanh đã cắm vào nòng súng, những khẩu tiêu liên AK đạn đã lên nòng, chỉ chờ bật khóa an toàn là những làn đạn bóng căng vút bay về phía trước. Đối với Oanh, những giờ phút như thế này vừa hứng thú lại vừa căng thẳng. Sự dồn nén dường như quá cỡ sắp nổ tung cả bầu trời trận địa. Rồi giây khắc tràn đầy hồi hộp đó cũng đến.
Trận kịch chiến xảy ra ngay ở cổng số 4, gần ngã ba Trương Quốc Dung - Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ) do Ba Phong, Ba Tâm, Tám Bền và Năm Đức chỉ huy. Đây là khu vực gần cổng chính trong 8 cổng của Bộ tổng tham mưu ngụy, một căn cứ trọng yếu của địch án ngự ở phía tây bắc thành phố. Tại đây đủ các cỡ súng thi nhau nổ trong khi những nơi khác tiếng súng dữ đội cũng đã dội lên. Hai mũi xung kích do Ba Phong và Ba Tâm chỉ huy đã đẩy lùi những đợt xung phong đầu tiên của địch. Hai chiến đấu viên xuất sắc là Việt và Hai đã hy sinh.
Trận chiến đấu càng lúc càng trở nên ác liệt bởi lực lượng đôi bên quá chênh lệch cả về binh lực lẫn hỏa lực. Cụm biệt động (6-7-9) do Ba Phong chỉ huy vỏn vẹn chỉ có 27 tay súng mới lấy từ dưới hầm bí mật lên hầu hết đã sét rỉ phải đương đầu với hàng trăm tên từ trong căn cứ tràn ra và từ các nơi khác kéo tới. Tình huống vô cùng ga cấn buộc các chiến sĩ biệt động phải trụ lại quyết tử chiến đấu bằng bất cứ giá nào trong lúc tiểu đoàn mũi nhọn của ta chưa kịp tới chi viện theo phương án hiệp đồng của Bộ Chỉ huy tiền phương.
Suốt từ hai giờ sáng ngày N của chiến dịch xuân Mậu Thân đến lúc này đã ngót mấy tiếng đồng hồ nhưng trận đánh vẫn dằng co dai dẳng ở khu vực cửa mở. Ý đồ tác chiến đột phá nhanh chóng đánh chiếm căn cứ Bộ tổng tham mưu ngụy khó thực hiện được. Các chiến sĩ biệt động phải trụ lại ven đường và khu phố, để chiến đấu giữ từng tấc trận địa. Tiếng nổ chát chúa, ầm ĩ của súng đạn xen lẫn trong tiếng bom rền, tiếng gầm rú của phản lực, trực thăng... tạo nên một hợp âm hỗn loạn bao trùm khoảng không gian chỉ trong chừng khoảng vài trăm mét vuông. Mặt đất khét nồng mùi bom đạn.
Đã mấy lần máy bay địch lên gọi loa chiêu hồi ra rả như bồi thêm đòn đánh "cân não" xuống cụm biệt động. Chúng gọi đích danh những đồng chí chỉ huy, trong đó có tên Đông là bí danh của Ba Phong hiện ở dưới vòng bay của chúng. Kẻ nào đó trong hàng ngũ đã phản bội cách mạng trước khi vào chiến dịch?
Những dãy nhà trong khu vực chiến sự sau nhiều đợt giao tranh quyết liệt đã trở nên đổ nát, tan hoang. Oanh vẫn như con thoi lao lách giữa bom đạn nối liền đường dây liên lạc giữa các tổ chiến dấu. Cô gái trẻ lúc này như một động mạch chuyến trong cơ thể đơn vị. Thật khó hình dung được làm sao cô có thể di chuyển lẹ làng khéo léo và kín đáo trước tầm quan sát của địch ở mọi phía. Sự bình tĩnh, can đảm xử trí tình huống của cô làm yên lòng các cán bộ chỉ huy và đồng đội.
Thêm một tình huống khó khăn xảy ra ở cửa mở. Một nữ chiến sĩ bị thương. Lập tức Oanh được lệnh thế vào chỗ trống của đội hình. Oanh vừa leo lên một tầng nhà thì một cánh quân khác của địch ào ạt mở đợt phản kích mới. Hoả lực của chúng như dồn cả vào trận địa của cụm biệt động. Đất đá, gạch ngói bắn tung tóe, nhiều mảnh văng vào mặt Oanh. Rõ ràng là địch đang tập trung nỗ lực cố xuyên thủng đội hình đối phương mà chúng biết chắc là lực lượng không lớn lắm. Oanh đã tìm được một địa hình tương đối thuận lợi, quay mũi súng về phía địch.
Ba Phong ra hiệu cho chỉ huy phó Ba Tâm phụ trách mũi xung kích 2 sẵn sàng ứng phó. Ở các gốc cây, bờ tường, đồng đội của Oanh cũng đang ráo riết chờ địch. Tốp lính Mỹ đi đầu xăm xăm tiến vào tầm súng của các chiến sĩ biệt động. Chắc hẳn chúng ỷ thế đông sẽ đè bẹp đối phương trong chốc lát.
Nhưng những tên lính viễn chinh quen thói kiêu ngạo đã lầm. Khi ở khoảng cách hiệu lực nhất, những loạt AK bất thần xé lên quật mạnh vào đội hình chúng. Chưa bao giờ Oanh thấy những thằng Mỹ gần đến thế. Không có đủ thời gian để hình dung chúng sẽ hành động như thế nào, ngón tay cô xiết chặt cò súng. Hai tên đi trước đổ xuống. Một tên đưa tay lên nhưng không làm kịp làm dấu thánh giá, tay kia rời khỏi khẩu tiểu liên cực nhanh chưa bắn được viên nào.
Oanh thấy tự tin hơn và lia mũi súng sang mấy tên đi kế, bóp cò. Cô liếc nhìn thấy ở những phía khác, bọn Mỹ đang la lối tháo lui... và cảm thấy mình không còn tâm lý lo sợ như những đợt chiến đấu đầu tiên, khi bọn Mỹ tiến vào trận địa.
Đây là đợt xung phong thứ bao nhiêu của địch, Oanh không nhớ nữa chỉ thấy trước đội hình của đơn vị xác những tên Mỹ nằm ngổn ngang cách cô vài ba chục mét.
Đợt phản kích vừa qua, bọn Mỹ và ngụy như húc vào tường, chúng buộc phải co lại trong khu nhà lớn, trong khi xe tăng và xe bọc thép đã được huy động hàn kín ở phía ngoài. Tình huống diễn biến mỗi lúc một phức tạp. Địch đã thấy hết sự nguy hiểm nếu như không làm chủ được tình hình và để căn cứ đầu não bị uy hiếp lâu. Chúng điều tới hai khẩu đại liên và tung hỏa lực kiềm chế mãnh liệt vào đội hình chiến đấu của Ba Phong và Ba Tâm.
Những trận mưa đạn xối tới. Cụm hỏa lực này của địch thật lợi hại. Chúng giăng được một hàng rào lửa ngăn chặn hướng phát triển của đơn vị. Anh Ba lau mồ hôi trán, suy nghĩ: nếu không diệt được hai khẩu đại liên này thì đơn vị không những không hoàn thành nhiệm vụ mà quân số thương vong càng tăng thêm. Nhìn Oanh bằng ánh mắt tin cậy, anh ra lệnh khẩn cấp:
- Đồng chí Oanh, tìm coi khẩu đại liên của địch ở đâu báo tôi ngay
Hai tiếng đồng chí thốt ra từ Ba Phong nghe khô khan kỳ lạ, bởi lúc thường quan hệ giữa anh và Oanh bao giờ cũng chú cháu thân mật. Không hề do dự, cô nhanh chóng chấp hành nhiệm vụ.
Oanh xách súng trườn đến một gốc cây khá lớn, trên cao những cành bị đạn chém đứt. Có cành còn dính lủng lẳng chực rơi xuống. Cô ngước lên ước tính phải leo tới chạng ba mới có thể quan sát được mục tiêu. Khi còn ở nhà, Oanh không những giỏi việc đồng áng mà còn thạo leo cây. Nhưng cây cao thế này cô chưa khi nào leo được. Oanh nghĩ nhất định mình sẽ leo lên ít nhất cũng khỏi mái nhà, điều quan trọng nhất là đừng có cho bọn giặc thấy để chúng hạ mình như một chú chim bất hạnh.
Những đôi mắt cú vọ của chúng đang tập trung hướng vào trận địa. Oanh quan sát địch một lần nữa rồi ôm thân cây thoăn thoắt leo lên. Cô nhìn xuống thấy đồng đội đang khuyến khích mình nên càng vững tâm hơn. "chíu chíu chíu...". Những luồng đạn bất thần rít qua đầu, qua vai, dưới chân... Oanh giật mình ghì chặt vào thân cây dừng lại trên không. Bọn lính ở phía nhà tầng bên kia đã phát hiện ra cô gái. Chúng la lên:
- Vi xi, vi xi
Oanh chịu trận chờ cho ngớt chặp mưa đạn của chúng lại tiếp tục leo lên cao hơn, đảo mắt tìm kiếm mục tiêu. Toàn nhà cửa lô xô chen lẫn cây cối, xa hơn là những chiếc xe bọc thép, tháp canh đen trùi trũi trong nắng. Cô nén lại hơi thở dồn dập. Bỗng "bằm bằm bằm...". Kia rồi! Trên sân thượng, hai khẩu đại liên như hai con bọ ngựa sắt khổng lồ đang thi nhau khạc đạn, lửa tóe đầu nòng súng.
Oanh tụt xuống cái "rột", báo cáo với cụm trưởng vị trí hai khẩu đại liên địch. Ba Phong lệnh ngay cho phân đội của Ba Tâm thanh toán cụm hỏa lực. Sau ba tiếng nổ liên tiếp của B40, chúng im bặt .
Nhưng liền ngay đó, địch mở đợt phản kích dữ dội vào khu vực đơn vị vừa chiếm lĩnh bằng hai mũi từ cổng Phi Long, sân bay Tân Sơn Nhất và từ bãi xe Tân Bình. Sau lưng bộ binh có xe tăng hộ tống. Tiếng xích sắt khua loảng xoảng trong tiếng máy nổ ầm ầm như sấm. Cũng như những lần trước, chúng dàn hàng ngang hùng hổ càn tới. Không phải là chiến thuật "tinh thần" như bọn phát xít Đức trong đại chiến thứ hai mà là sự chủ quan không đánh giá đúng khả năng đối phương.
Cự ly giữa những tên lính Mỹ ngông nghênh với đội hình phòng ngự của cụm biệt động rút ngắn dần, năm mươi mét rồi ba mươi mét... Cho đến lúc sự căng thẳng ngột ngạt bị phá vỡ, khẩu tiêu liên trong tay Oanh giật nảy lên giữa tiếng súng nổ giòn của đồng dội.
Trên cả hai hướng, địch dội ngược chạy tháo thân. Đội hình chúng rối loạn bởi bị vỗ mặt ở cự ly quá gần. Trên mặt đường lở lói, xác những tên lính Mỹ bị bỏ lại, những tên bị thương không lết đi được đau đớn quằn quại. Một chiếc xe tăng bốc cháy khói đen cuộn lên mù mịt. Bên cạnh đó một chiến sĩ biệt động hy sinh.
Sau khi hạ chiếc xe tăng, xạ thủ B40 bị thương nặng. Lại một lần nữa Oanh được lệnh thay thế vào chỗ khuyết của đồng đội, tiếp tục giữ vị trí xung yếu của trận địa. Cô gái liên lạc luôn ở bên cán bộ chỉ huy, truyền đạt mọi mệnh lệnh nhưng vẫn xuất sắc trong vai trò một chiến đấu viên.
Cụm biệt động (6-7-9) nổ súng tấn công vào cổng số 4 Bộ tham mưu ngụy được một lúc thì Tiểu đoàn Quyết Thắng 2 cũng đã xuyên thủng cổng số 8 của mục tiêu này ở hướng ngã ba Chú ÍA (nay là ngã năm Nguyễn Thái Sơn). Đơn vị đã đánh được vào bên trong cổng gác bắt được tù binh và một bộ phận chiếm được trường Sinh Ngữ ở đường Võ Di Nguy (nay là Nguyễn Kiệm).
Tiếng súng nổ ran vọng lại mạnh mẽ hơn tất cả mọi lời động viên. Sự chia lửa gần gũi khiến Oanh có cảm tưởng như sắp nối liền đội hình chiến dịch. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam vẫn diễn tiến cực kỳ sôi động. Nơi đây, mặt trận Sài Gòn - Gia Định nóng bỏng quyết liệt nhất, tập trụng sự chú ý của cả nước và thế giới.
Tại trung tâm thành phố, các đơn vị biệt động dã thực hiện đúng kế hoạch giáng đòn bất ngờ khủng khiếp vào các mục tiêu đầu não số một của Mỹ, ngụy như Đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập. Đài phát thanh, Bộ tư lệnh hải quân ngụy. Các đơn vị khác đã đánh vào khu vực cầu chữ Y, trường đua Phú Thọ, Phú Lâm, Khánh Hội.... sân bay Tân Sơn Nhất, căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng....
Lực lượng quần chúng nội thành nhiều nơi nổi dậy diệt ác trừ gian, giành quyền làm chủ. Sài Gòn đang cùng với cả miền Nam thực hiên trận tập kích chiến lược kỳ diệu làm rung chuyển đến tận Lâu Năm Góc và Nhà Trắng nước Mỹ, một tràn Oatéclô làm choáng váng kinh hoàng tên trùm hiếu chiến Nixơn. Một mùa xuân hừng hực khí thế quyết chiến quyết thắng. Cả nước thực hiện lời thơ chúc Tết của Bác Hồ:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà .
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên. Toàn thắng ắt về ta.
Oanh nghe lòng mình náo nức, xốn xang như đang sống trong không khí của ngày hội của những người chiến thắng, nơi mặt trận đầy gay go ác liệt, mặt giáp mặt với quân thù từng giờ từng phút, lòng cô bừng lên niềm tự hào được chiến đấu giữa lòng thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu. Đó cũng là ước mơ của người chiến sĩ trải qua những tháng ngày chiến đấu gian khổ hy sinh. Trong bão táp làm ngả nghiêng thành trì của tớ thầy Mỹ, ngụy hôm nay có chiến công nhỏ bé của cô gái giao liên biệt động.
Chiếc máy bay chiêu hồi lại dẫn xác lên. Tiếng gọi loa lải nhải trên cao lặp lại cái giọng điệu chiêu hồi cũ rích nghe đến nhàm chán. Và dường như công việc vô vọng đó là phận sự. Không thấy một phản ứng nào của đối phương, nó lảng dần khỏi bầu trời trận địa. Khi những tiếng lải nhải còn vọng lại trên khoảng không thì tiếng pháo đã rú lên cấp tập dọn đường chuẩn bị cho một đợt xung phong. Bọn trực thăng võ trang cũng lạnh phạch bas lên phóng rốc kết vào những nơi chúng nghi ngờ đối phương ẩn nấp. Từng cụm khói trắng cuộn lên từ mặt đất trận địa.
Tạm yên ắng. Trước mắt Oanh vẫn là Sài Gòn với những ngôi nhà cao tầng đồ sộ và những con đường tráng nhựa in vạch trắng vạch vàng. Những con đường lặng yên căm giận trong náo loạn ồn ào của các loại xe tân kỳ và xe nhà binh mang nhãn hiệu USA. Những con đường đó nối dài qua các nút giao liên, các căn cứ bản lề, các cửa khẩu rồi xuyên suốt Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu, Tây Ninh lên tận biên giới Việt Nam - Campuchia.
Trên những con đường giao liên, được các gia đình cơ sở chở che đùm bọc, những cán bộ dày dạn chỉ bảo tận tình, Oanh đã bao lần đưa rước cán bộ từ ngoài chiến khu vào nội thành và từ nội thành trở ra chiến khu. Trong đó có những chuyến đi, Oanh đem được cả vũ khí vào thành phố dự trữ cho trận đánh hôm nay.
Từ những đầu mối đường giao liên công khai và bí mật, Oanh đã ra đi trên đường dây vô hình không cột mốc, không mang tên số hiệu, như một chiếc bóng lặng thầm. Không đếm được đã bao lần Oanh băng qua lưới kiểm soát nghiêm ngặt, gắt gao của địch với những đồn bót nhan nhản trên tuyến hành lang, Oanh đã nghĩ ra bao nhiêu mưu kế, những câu đối đáp linh hoạt, thông minh để qua mặt bọn cảnh sát, công an... Cũng có khi Oanh chuẩn bị cả phương án mạo hiểm, chấp nhận một mất một còn với kẻ thù để đem qua trót lọt một tài liệu chỉ thị, một ki-lô-gam thuốc nổ vào nội thành...
Đường dây công khai ngày càng trở nên ác liệt. Phần ngoại vi nằm trong địa bàn đánh phá, càn quét, chà đi xát lại hết đợt này đến đợt khác của các sắc lính trên vành đai phòng thủ hay những vùng giáp ranh với mật độ địch kiểm soát dày đặc. Những ngày ấy, Oanh thường đi qua những "tọa độ lửa" của các cụm pháo trong các chốt lớn và máy bay phản lực cắt "bom trộm", hằng đêm.
Đường giao liên cũng đầy rẫy bọn biệt kích, thám báo khắp bụi rậm, đường mòn... sự rủi ro và cả cái chết luôn rình lập làm căng thẳng thần kinh. Nhiệm vụ nặng nề như dồn lên đôi vai bé nhỏ của cô gái mười tám tuổi. Tuy nhiên, vất vả, lo toan đã thành thói quen chịu đựng của những chiến sĩ hoạt động kiểu như Oanh.
Có lần đồng chí chỉ huy "trắc nghiệm" tinh thần cô gái:
- Nhiệm vụ nguy hiểm thường xuyên như vậy, có khi nào cháu thấy ngán ngại không?
Oanh trả lời rắn rỏi:
- Là đảng viên, cháu luôn nghĩ mình phải làm tròn bất cứ việc gì tổ chức phân công. Vả lại hàng ngày các đồng chí ở trong thành nóng lòng chờ từng viên đạn, từng bánh thuốc nổ, từng trang nghị quyết. Ở ngoài cứ, các chú chỉ huy mong nhận được những hồ sơ đồn bốt, những mục tiêu chiến lược, những phương án quyết tâm của các đội biệt động... lẽ nào cháu lại ngại vất vả khó khăn.
Oanh trả lời và hiểu tất cả những cái đó đều chuẩn bị cho những ý đồ quan trọng của cấp trên trong từng chiến dịch hoặc các cao điểm hoạt động. Những tình huống hiểm nghèo mà bản thân trải qua đã cho cô những bài học quý. Do thế sự hy sinh có thể xảy ra, nhưng tuyệt nhiên không làm có sờn lòng.
Một loạt pháo dựng lên những cột khói phía trước. Oanh thầm nghĩ "dàn nhạc Tân Tây Lan" (tiếng lóng chỉ các dàn pháo binh của địch trong các căn cứ lớn) bắt đầu lên tiếng. Qua màn không gian mờ ảo, những ngày đi xây dựng cơ sở trong vùng địch hiện lên. Công việc bám trụ các đầu mối đường dây, nối liền mạch máu giao thông liên lạc gian khổ bao nhiêu thì công tác tìm "điểm" bắt mối quần chúng truân chuyên, phức tạp bấy nhiêu.
Trẻ tuổi đời, kinh nghiệm bản thân còn ít ỏi, lại hoạt động trong vòng vây lính tráng, đồn bót; đồng bào bị kìm kẹp, rún ép, đầu độc nặng nề... mỗi bước đi vào quần chúng là đi vào chông gai thử thách. Có những đêm Oanh suy nghĩ lao lung và băn khoăn, sức vóc mình không thể vượt qua những khó khăn nguy hiểm trong nhiệm vụ được giao. Lúc đó cô thấy mình như hạt muối giữa dại dương. Công việc thật mênh mông mà mình thì đơn độc quá. Giá như được có chị em đông vui như ở ngoài chiến khu! Nhưng rồi cô lại nghĩ quần chúng đang chờ cách mạng như ruộng hạn đợi mưa. Lòng yêu nước và lòng căm thù giặc đang nung nấu, âm ỉ trong lòng mỗi người dân, tại sao mình lại rụt rè, lo ngại? mình phải dấn bước đi lên như bao nhiêu đồng chí khác đã đi. Bài học dân vận vỡ lòng là làm cho dân tin và hiểu cách mạng.
Tự vấn như thế, Oanh thấy lòng mình thêm can đảm và dồi dào nghị lực có thể vượt qua những trở lực phía trước. Cô nhớ lại cẩm nang của người chiến sĩ biệt động khi đi dân phải thực hành "ba hoá": quần chúng hóa, nghề nghiệp hóa, hợp pháp hóa. Phải rồi, lòng dũng cảm và chí kiên nhẫn chưa đủ mà cần phải trang bị vững vàng "ba hóa". Oanh soát lại và thấy khó khăn nhất vẫn là nghề nghiệp hóa. Cô tự dặn mình đi đến đâu cũng phải cố gắng học nghề của dân để nhanh chóng tạo bình phong ngụy trang các hoạt động. Trên thực tế, không biết nghề ngỗng gì thì khó mà xáp vào dân.
Lúc đầu Oanh sắm vai học trò đến ở trọ nhà anh Võ Văn Mậu ngụ tại Gò Vấp. Gia đình này là lao động nghèo nhưng nhiệt tình với cách mạng. Oanh cũng là "học trò nghèo", tài sản chẳng có gì đáng kể. Điều đó làm cho cô mau hoà hợp với mọi người trong gia đình. Hàng ngày đi học về, Oanh tranh thủ thời gian giúp việc cho gia đình. Ai cũng cảm cũng mến tính cần mẫn, hiền lành của cô gái.
Thời gian dân vận đã chín mùi, Oanh mạnh dạn nhờ vợ chồng anh Mậu giúp những việc nhỏ đầu tiên. Oanh nhớ lúc đó anh Mậu tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên và sợ hãi:
- Thế cô là người của cách mạng?
Oanh mỉm cười giây lát rồi nghiêm giọng nói:
- Gia đình hiểu em như vậy là đủ rồi. Em chỉ muốn một điều là anh chị an tâm trong thời gian em ngụ ở đây. Những việc gia đình giúp em là giúp cách mạng.
Từ e dè sợ sệt ban đầu, anh Mậu trở nên tự nguyện và can đảm trong việc cung cấp tin, nắm địch và mua sắm những hàng cần thiết cho tổ chức. Những điều Oanh tuyên truyền vận động đã có tác dụng cụ thể. Oanh càng tâm đắc bài học "quần chúng hóa" như một thứ vũ khí sắc bén không thể thiếu đối với những người độc lập tác chiến như cô.
Sự giáo dục, giác ngộ đã phát huy tối đa khả năng của một cơ sở bình thường. Gia đình anh Mậu đã bí mật đào hầm cất giấu 14 khẩu K54, 40 ki-lô-gam thuốc nổ mạnh và hai triệu đồng bạc ngụy ở trong nhà. Số vũ khí, ngân phí này chuẩn bị cho đơn vị thực hiện tác chiến một mục tiêu quan trọng nội thành.
Oanh được lệnh di chuyển đến chỗ ở mới với nhiệm vụ "cấy" thêm một "điểm" chiến lược. Đó là nhà bác sĩ Đính ở Tân Thới Nhất, Hóc Môn. Cô xin tạm nghỉ trong gia đình để "buôn bán". Sau tấm màn ngụy trang đó, suốt thời gian hoạt động, Oanh đã vận dộng gia đình bác Đính trở thành một cơ sở tốt của cách mạng. Bác Đính hoàn toàn không nghi ngờ gì về lòng tốt và việc làm đầy thiện chí của Oanh. Khác với cơ sở Gò Vấp, khu vực nhà bác Đính bọn công an chìm, nổi hoạt động mạnh hơn nên không thể khinh suất. Tuy thế, những hành vi của địch không ngăn được quyết tâm của Oanh.
Đối tượng đã được thử thách chu đáo, Oanh quyết định trao nhiệm vụ sau khi tiếp nhận một "chuyến hàng". Một hôm khi xóm làng đã im vắng về khuya. Oanh đem bọc lớn trong đó gồm súng AK và lựu đạn nhờ bác Đính cất dùm. Bác khẽ hỏi Oanh:
- Biếu bác cái gì đó con?
Oanh nghĩ bác lầm cũng đúng thôi bởi lâu nay gia đình hết lòng giúp đỡ cô. Nhưng không nên giấu giếm bác, cô nói giọng bộc trực tin cẩn:
- Con nhờ gia đình ta giấu dùm số vũ khí này để cách mạng trừng trị bọn ác ôn, phá thế kìm kẹp cho đồng bào.
Bác Đính trố mắt nhìn Oanh không nói được lời nào. Bất ngờ quá, bác ngẩn cả người. Đọc được ý nghĩ của bác, Oanh điềm tĩnh nói:
- Cháu biết bác e ngại việc súng đạn, nhưng cũng như việc bác đã làm, đây cũng là việc của cách mạng. Hơn nữa khi đã tin tưởng trao trách nhiệm cho gia đình, cháu đã có cách bảo đảm an toàn.
Mấy tiếng "cách mạng", "diệt ác ôn" khiến bác Đính yên lòng. Trước nay, bác chưa bao giờ nhận một công việc hệ trọng như vậy. Việc này thật đột ngột, bác lượng sượng trong mình nhưng không từ chối khi cách mạng yêu cầu. Dẫu sao, trong sự lo lắng, bác cũng thấy niềm vinh dự tự hào.
Sau này, khi rời đến một cơ sở khác, Oanh được tin gia đình bác Đính bị lộ do một tên chiêu hồi chỉ điểm. Vợ chồng bác bị địch bắt, đánh đập dã man, nhưng không một ai khai báo điều gì. Số vũ khí vẫn nằm im trong hầm cbo đến ngày đơn vị lấy lên chiến đấu. Oanh cảm động và khâm phục bác vô cùng. Với Oanh, lòng kiên cường của bác Đính là tấm gương để cô soi mình trong những ngày bám trụ nội thành có nhiều cam go tai biến.
Những gia đình cơ sở cách mạng Oanh gầy dựng được ngày một nhiều thêm, đã "đóng đinh" vững chắc trong quần chúng. Đó là những đốm lửa nhỏ âm ỉ cháy suốt ngày đêm, chỉ chờ gặp ngọn gió thời cơ thổi tới là bắt bén bùng cháy, góp vào cơn bão lửa thiêu đốt quân thù từ trong hang ổ của chúng. Và hôm nay những đốm lửa đó đang hòa vào cơn bão táp của cách mạng.
Tiếng súng vẫn nổ đâu đó, lúc dồn dập lúc thưa thớt. Địch vẫn trong cơn bối rối co kéo lực lượng đối phó với quân giải phóng ở nhiều nơi trong thành phố. Từng tốp phi cơ đi ứng cứu các mặt trận ầm ầm lao vút qua. Ánh nắng chiều trải trên trận địa nham nhở, khét lẹt. Bóng những ngôi nhà méo mó đổ dài xuống mặt đất. Những chiến sĩ mặt hốc hác bám đầy cát bụi vẫn ôm ghì súng chờ đợi.
Từ 2 giờ sáng chiếm lĩnh trận địa, mọi người đều căng thẳng trong những tình huống chiến đấu gay cấn tột độ. Lực lượng tiếp viện chắc là không đến được. Đơn vị không được tiếp tế vũ khí, cơm nước. Oanh nghe cồn cào trong bụng. Đói, khát bị lãng quên trong lúc giao chiến, bây giờ có dịp hồi lại, Oanh bất giác cười thầm ở giữa Sài Gòn mà đói khát đến nhão người. Bỗng có người gọi:
- Oanh, bánh mì!
Oanh chưa kịp nhìn ra ai thì chiếc bánh mì rơi dưới chân. Sau đó mọi người đều có ăn. Thật kỳ lạ. Oanh và đồng đội phát hiện thấy bánh mì, bánh chưng, bánh tét, bánh ít ở các ngạch cửa và lỗ thủng trên tường. Có khi còn kèm theo cả ly cà phê thơm phức. Hiểu ra sự việc, ai nấy đều cảm động trước tấm lòng cưu mang, ưu ái của bà con cô bác trong khu phố. Người Sài Gòn vẫn ở bên cạnh các chiến sĩ, kể cả những giờ phút gay go nhất.
Ăn những miếng bánh nghĩa tình, Oanh lại nhớ trận đánh đầu tiên trong đời mình. Trước khi đi trận, Oanh cũng ăn bánh mì của má Năm cho. Trận đánh hiện ra rõ ràng từng chi tiết mới đây thôi. Đó là một ngày mùa thu năm 1967, Oanh được đơn vị giao nhiệm vụ đánh trạm biến thế Hàng Xanh, cùng đi với Oanh còn có Dung, một nữ chiến sĩ có nhiều kinh nghiệm tác chiến ở nội thành.
Chưa bao giờ Oanh lại thấy mình hồi hộp như thế. Đánh thì được, nhưng tiếng nổ phát lên thì thoát đi bằng cách nào? Rủi để địch bắt là vô cùng tai hại. Trong chiến đấu, Oanh ngán nhất là để địch bắt. Đã có lúc Oanh tâm sự với bạn bè: thà chết còn hơn. Mặc dù vậy, một niềm vui thầm lặng bừng lên trong tâm trí, Đảng tin tưởng, tổ chức tín nhiệm mới giao nhiệm vụ cho mình. Những lúc khó khăn, người đảng viên phải thể hiện được lòng trung thành. Giặc Mỹ tàn bạo và bọn tay sai là nguyên nhân của mọi tội ác và đau thương trên mảnh đất này. Mình được trực tiếp trừng trị chúng, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ như thế còn gì sung sướng bằng.
Oanh và Dung ngụy trang khối thuốc nổ kỹ lưỡng bên trong đã gắn kíp hẹn giờ, cho vào túi xách. Hai cô gái chưng diện lịch sự lần lượt đi qua các trạm kiểm soát, tiếp cận mục tiêu, đôi khi còn bông đùa vài câu với bọn lính, khiến chúng quên cả việc kiểm tra. Thế nhưng đằng sau vẻ điềm tĩnh đó, ruột gan Oanh như dâng lên, chân bước đi nghe sao nhẹ hẫng.
Qua khỏi một ngã ba, trạm biến thế điện hiện ra với những đường dây lằng nhằng in lên nền trời. Sự hiệp đồng ăn ý đã được vạch sẵn. Dung đứng phía ngoài cảnh giới, lựu đạn thủ trong tay sẵn sàng chi viện. Oanh lẹ làng đem khối thuốc nổ áp vào tường nhà. Tiếng máy chạy rù rù nghe gai gai trong mình. Nhưng chỉ sau một động tác nhanh và kín, Oanh đã rời khỏi khối mìn rồi cùng Dung ra khỏi khu vực mục tiêu.
Khi cả hai chị em đã lẫn vào giữa phố xá đông đúc thì một tiếng nổ vang rền. Oanh không nhớ rõ cảm giác của mình vì xe cộ trên đường như dồn cục lại. Người ta ngơ ngác hỏi nhau, hỏi cả cô và Dung nữa. Sau đó thì cô trông cho mau về đến nhà để được thảnh thơi vui sướng với chính mình.
Trạm biến thế điện Hàng Xanh bị hư hại nặng, các đầu mối dây điện bứt tung, một vùng rộng lớn mất điện, gây hoang mang bối rối cho địch ở khu vực này trong mấy ngày liền.
Tuy thế, trận đánh gây nhiều hứng thú nhất đối với Oanh trong thời kỳ này là trận pháo kích cối 82 ly vào tổng hành dinh tên tướng Mỹ bốn sao Westmoreland, mà cô được may mắn tham gia. Dạo đó đầu năm 1967, giặc Mỹ mở cuộc càn lớn vào vùng giải phóng Củ Chi với tham vọng "làm cỏ" các đơn vị bộ đội và du kích, những đối thủ chính đã làm chúng thất điên bát đảo trong các cuộc hành quân và cả khi rút về co cụm lại trong căn cứ.
Thế nhưng kẻ ăn đòn nhừ tử là những tên "lính cậu" được trang bị tận răng. Mấy ngàn tên chết và bị thương. Gần một ngàn xe tăng và thiết giáp, máy bay bỏ xác hoặc cẩu về đại tu hay bán ve chai đồng nát trong căn cứ Đồng Dù, Lai Khê... vậy mà tên cáo già xâm lược Westmoreland lại huênh hoang tuyên bố là đồng minh đã triệt hạ các mật khu của Việt cộng. Cuộc hành quân "bóc vỏ trái đất" thành công lớn. Luận diệu này làm bà con ở Sài Gòn có con em tham gia kháng chiến hoang mang.
Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định lập tức chỉ thị cho biệt động "xuất kỳ bất ý" từ một căn nhà ở đường Vườn Chuối, quận 3 vả ngay vào miệng tên tướng Mỹ khoác lác. Khẩu cối 82 ly được đưa từ dưới hầm bí mật lên sân thượng ngôi nhà cơ sở, bất thần cấp tập rót đạn trúng mục tiêu, khiến các vị khách tai to mặt lớn phải bỏ giở bàn tiệc chui xuống hầm ngầm. Nhiều trái đạn khác trúng vào đoàn xe đậu gần dinh Độc Lập khiến hàng chục tên Mỹ bỏ mạng và bị thương. Những cái loa chiến tranh tâm lý của địch sau đó tỏ ra biết điều hơn, bớt đưa tin lếu láo.
Kỷ niệm của những trận đánh đưa Oanh ngược về những quá khứ xa hơn. Đó là vùng Đức Lập, Đức Hòa trù phú, ruộng đồng thẳng cánh cò bay. Nơi đó có ngôi nhà tranh nhỏ bé của gia đình Oanh suốt chín năm kháng chiến chống Pháp và cả bây giờ là chỗ nuôi giấu, bảo vệ nhiều cán bộ hoạt động cách mạng. Ngoài tình cảm ruột rà của người thân, Oanh còn lớn lên trong tình thương yêu của những người nằm gai nếm mật, nguyện cống hiến cả cuộc đời mình cho Tổ quốc, quê hương.
Những ngày ấy, cô bé hạt tiêu đã giúp các cô chú nhiều việc có ích như canh gác lúc hội họp, thông báo tin, đưa thư... Có chú Hai đêm nào cũng kể chuyện đánh giặc cho Oanh nghe. Những chuyện ấy không li kỳ nhưng Oanh nghe chẳng khi nào biết chán. Có khi Oanh ước mình trở thành người anh hùng như thế. Oanh cũng nghe ba má kể rằng Oanh còn có một quê hương xa lắm tận ngoài Thụy Anh, Thái Bình. Oanh chưa hình dung được miền quê thân yêu đó như thế nào nhưng chắc là đẹp lắm. Thái Bình nghĩa là không có súng bom, khói lửa, mọi người sống với nhau thân ái, thuận hòa. Cô ao ước một ngày nào đó, tất cả đất nước thái bình để được cùng ba má ra Bắc thăm quê cha đất tổ.
Mười bốn tuổi. Oanh đã thạo nghề cày cấy. Tuổi thơ của Oanh gắn liền với thửa ruộng, mảnh vườn và những công việc nghề nông vất vả. Oanh thương ba má, anh em nhưng vẫn khát khao một ngày nào đó được ra đi đánh giặc như các chú, các anh. Chỉ có chiến đấu giải phóng quê hương mới hết giặc giã, Oanh mới được về thăm quê Thái Bình.
Nhân dịp có mấy chú cán bộ ém trong nhà, Oanh xin đi theo. Chú Hai xoa đầu Oanh:
- Đi với các chú cực khổ lắm, con gái lại nhỏ con như cháu không chịu nổi đâu.
Oanh năn nỉ:
- Cháu theo học làm cách mạng thôi chớ có làm gì đâu mà cực khổ.
Ai cũng bật cười cô bé ngây thơ. Ba Oanh, vốn chiều con nhưng vẫn khuyên can:
- Con đừng làm phiền các chú. Lớn thêm ít tuổi nữa, ba má cho đi.
Nhưng rồi tất cả phải chiều theo cô bé Oanh theo chú Hai ra vùng căn cứ ở lều, ăn cơm dưới đất, uống nước lóng phèn vậy mà quên cả chuyện nhớ nhà. Nhưng đi "học làm cách mạng" chưa nóng chỗ. Oanh đã vỡ mộng. Cô bị tổ chức trả về nhà vì còn "đẹt" quá. Ở vùng căn cứ ăn nghỉ vất vả đã đành, đi ra một bước là sông nước, sình lầy, chẳng ai muốn khi chạy giặc càn lại phải cõng thêm một đứa bé trên lưng.
Oanh thất vọng buồn rầu nhưng chưa nguội chí. Một hôm có chú cán bộ về trú trong nhà, khi đi; Oanh "khăn gói" theo luôn, trong bụng chắc mẩm là lần này thì khó ai từ chối. Có người "bảo lãnh", Oanh đủ lý do để gia nhập quân giải phóng. Và đúng như thế, lần thứ hai cô gái toại nguyện, được đơn vị địa phương nhận vào làm đội viên đội vận tải hậu cần của Quân khu. Thế cũng được, còn hơn phải trở về, người ta cười cho chua mặt.
Nhưng vận tải đâu phải chuyện dễ ăn? ở chiến trường này có khi còn gian nan hơn cầm súng chiến đấu. Con gái loắt choắt sức vóc chẳng là bao, chỉ một thời gian ngắn, các chú lại phải chuyển cô sang trạm tiếp nhận tân binh, một nhiệm vụ tĩnh tại hơn và xem chừng vừa sức với Oanh. Và từ cái đầu dây mối nhợ này, Oanh trở thành người chiến sĩ của một đơn vị biệt động Sài Gòn. Lòng ham mê chiến đấu đã đưa cô gái vào bước đường mới mẻ đầy gian khó, đạn bom.
Giờ đây Oanh đứng giữa Sài Gôn thân yêu, mảnh đất thiêng liêng nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, cô đang cùng đồng đội vào tận hang ổ tiêu diệt kẻ thù, thực hiện lời thề "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh". Oanh thầm cảm ơn những ngày sôi bỏng và dữ dội đã trui rèn cho tuổi thanh xuân thêm tươi đẹp và dẫn dắt cô vào trận đánh rung trời chuyển đất hôm nay.
*
* *
Đợt phản kích của địch dằng dai non một tiếng đồng hồ khiến đơn vị lâm vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: đạn hầu như đã hết. Từ khi nổ súng chiến đấu, Ba Phong đã nghĩ tới chuyện này, nhưng không thể không tiêu hao vũ khí trong suốt thời gian bọn giặc như một lũ điên lăn xả vào trận địa, cố sống cố chết giải tỏa cổng 4. Đến bây giờ các chiến đấu viên đều báo cáo chỉ còn cơ số đạn cuối cùng trong khi địch đang chuẩn bị tổ chức những đợt xung phong quyết liệt hơn. Lúc này đạn là sinh mạng, là sự sống của đơn vị, là điều kiện quyết định để duy trì cuộc chiến đấu. Không có đạn coi như trận đánh đã đến hồi kết thúc, đơn vị phải tìm cách phân tán hoặc mở đường máu thoát ra khỏi nhiều lớp vòng vây của địch. Như thế có nghĩa cụm biệt động (6-7-9) không hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng
Tình hình căng thẳng tới đỉnh điểm. Ba Phong toát mồ hôi. Không tiếp đạn kể như vô phương! Một ý nghĩ bi đát, nhưng điều may mắn bỗng đến với đơn vị. Anh phát hiện có đạn tiếp tế của đơn vị bảo đảm ở phía ngoài, cách trận địa không xa lắm. Tuy nhiên không đơn giản mà đưa được đạn vào trận địa vì địch bắn rất dữ khó có thể vượt qua lưới lửa của chúng.
Tình huống hết sức ngặt nghèo. Địch có hiện tượng sắp mở đợt phản kích. Mọi người nhìn nhau lo lắng, chờ đợi sự xử trí quyết đoán của người chỉ huy cao nhất. Những phút giây nặng nề trôi qua. Bỗng Oanh nhẹ nhàng đến bên Ba Phong đề nghị:
- Chú Ba, cháu xin được đi làm nhiệm vụ tiếp đạn!
Ba Phong có vẻ thảng thốt. Nhưng khi ngắm cô gái mặt mày hốc hác, anh phân vân: Oanh đi thì ai làm liên lạc trong lúc khẩn thiết này. Làm sao nó có thể băng qua tầm hỏa lực như mưa của địch. Rủi nó hy sinh thì thật là rối. Thấy Ba Phong trầm ngâm, Oanh nắm tay anh, giục:
- Sao chú, đạn hết rồi!
Ba Phong như sực tỉnh nhận ra sự hợp lý trong đề nghị của Oanh. Con số thương vong của các tổ chiến đấu trở thành gánh nặng. Song điều quan trọng hơn thế, sự sống còn của đơn vị để duy trì trận đánh đến cùng. Anh tin tưởng cô gái được "thử lửa" luôn biết nhận khó khăn ác hệt về mình, sẽ làm tròn trọng trách. Ba Phong gật đầu thay cho một câu hạ mệnh lệnh.
Không ngờ hỏa lực địch chùng xuống, Oanh lao đi lẹ như một con thoi. Lúc chạy, lúc bò tránh những luồng đạn bắn cầm chừng, phải vất vả lắm cô mới vượt ra được phía ngoài.
Bỗng "kình kình kình... chát chát chát... chiu chiu chiu... ". Địch đã phát hiện ra cô gái và trút hỏa lực vào mục tiêu. Những tiếng vi xi, vi xi lại nổi lên từ phía đám lính Mỹ. Đạn như đan lưới gào rít quanh mình khiến cô không làm sao nhích lên được.
Thoáng chốc, cô nghĩ ra cách đánh lừa bọn mắt đục. Cô nhắm hướng những thùng đạn, bật dậy, lao chồm lên. Một loạt đạn nổ cày mặt đất. Cô nằm ngay đó, bất động. Từ xa trông thấy thế, bọn Mỹ hạ súng tưởng đâu cô gái đã chết. Oanh liếc nhìn thấy những thùng đạn ở phía trước, chỉ cách cô một quãng ngắn. Chớp thời cơ, cô lại bật dậy lao vút tới. Cô rạp người xuống và nghe quanh mình ào rối không phân biệt rõ âm thanh gì. Đã có lúc cô nghĩ mình sẽ trúng đạn, hy sinh: Nhưng ý nghĩ đó không hề tác động tư tưởng. Cô tập trung tâm lực vào mấy thùng đạn.
Địch bị mắc lừa cô gái một lần. Lần này thì chúng quyết tiêu diệt cô bé "Việt cộng". Lũ trực thăng như nhặng cũng đã liên tiếp ứng bắn đại liên và hỏa tiễn ì xèo chung quanh khu vực trận địa. Không gian như bị băm vụn. Tuy thế, sự bức bách của đơn vị làm cô quên đi mọi sự nguy hiểm. Vì thắng lợi của trận đánh, cô có thể hy sinh nhưng không thể để đơn vị hết đạn, rời bỏ nhiệm vụ chiến đấu trong giờ phút này.
Hỏa lực đày đặc của địch không còn đe dọa được Oanh. Cô lao qua, lao lại chuyển vào cho các tổ chiến đấu được ba thùng đạn, dưới sự yểm trợ bắn kiềm chế địch của đồng đội. Các đồng chí chỉ huy sốt ruột từng giây chỉ sợ Oanh ngã xuống, còn Oanh nghe lòng mình nhẹ bớt, sự căng thẳng chùng lại khi chuyển trót lọt một thùng đạn.
Các chiến đấu viên được tiếp đạn, khí thế trận địa sôi nổi hẳn lên. Tiếng súng lại nổ giòn rã, đánh trả quyết liệt các đợt phản kích của địch.
Khi đã băng qua quãng trống khó khăn nhất, Oanh ráng hết sức leo nhấc được một thùng đạn AK lên thì nghe một tiếng nổ bưng óc. Một trái rốc két từ trên trực thăng phóng xuống. Lửa khói bốc lên ngùn ngụt lan ra bao trùm một góc trận địa. Cơ may đã đến. Oanh lao nhanh thùng đạn vào phía trong trận địa rồi quay trở lại chuyển thùng lựu đạn. Cô trông thấy những toán địch bị đánh bật trớ lại.
Khói tan bớt, trận địa quang hẳn, là lúc Oanh đã trở về với khẩu B40 của mình. Nắng đã nhạt từ khi nào nhưng bầu trời Sài Gòn vẫn sôi rạo tiếng động cơ máy bay và tiếng bom pháo rung dội. Bản hòa tấu hỗn loạn khởi xướng từ sáng mùng 1 tết như không hề dứt. Điều đó gây thêm niềm phấn chấn cho các chiến sĩ biệt động. Ai cũng thấy rằng Mỹ, ngụy tại Sài Gòn đang tiếp tục ăn đòn của quân giải phóng. Sinh lực chiến đấu của các lực lượng vũ trang vẫn đồi dào.
Riêng Oanh, cô cảm thấy kỳ lạ, không ngờ con người có thể sống còn sau giờ phút ác liệt như vừa rồi. Sự gay go của trận đánh mà Oanh hình dung trước khi nhập cuộc khác xa với thực tế biết chừng nào. Những viễn ảnh trong không khí hừng hực xuống đường với thời cơ "ngàn năm có một", "vừa chạy vừa mặc áo"... đã không diễn ra. Thực tế mọi việc hầu như không còn suôn sẻ, ngoại trừ cuộc xâm nhập vào thành phố bằng các trục lộ hợp Pháp. Nhưng tinh thần và ý chí của mỗi cán bộ chiến sĩ đã chiến thắng sắt thép tàn bạo của quân thù. Sự dẻo dai, bền bỉ của các chiến đấu viên thật phi thường.
Trận địa trước cổng số 4 từ đổ nát đến hoang tàn sau những trận kịch chiến liên tiếp kéo dài trên mười giờ. Địch không chiếm lại được khu vực đã mất với lực lượng áp đảo đối phương. Chúng dồn lại từng cụm củng cố đội hình. Bọn chỉ huy đã nhận ra rằng dù có tăng cường binh hỏa lực cũng khó có thể đánh trốc đối phương ra khỏi một địa hình nhà cửa phức tạp, hơn nữa trời đã sắp tối.
Lúc này đơn vị chỉ còn hơn 10 tay súng, nhưng một số đã phân tán vào phố Trương Quốc Dung và mất liên lạc với đơn vị. Họ độc lập tác chiến, cầm cự với địch trong từng ngôi nhà, góc phố
Anh Ba Phong hội ý chớp nhoáng với một số cán bộ chủ chốt và đảng viên còn lại. Oanh thấy có cả Ba Tâm, Tám Cứ, Chính, Hợp... mà từ chiều đến giờ cô nghĩ là đã hy sinh. Không hề có cuộc bàn cãi rình rang. Ba Phong chấp nhận ý kiến của một vài cán bộ đề nghị anh rút ra bắt liên lạc với cấp trên xin chi viện và anh là người nắm nhiều bí mật giấu vũ khí và cơ sở nội thành thì tất cả biểu lộ quyết tâm hy sinh đến người cuối cùng để giữ vững trận địa. Ai nấy lại về vị trí chiến đấu sẵn sàng đánh trả các đợt xung phong cuối cùng của địch.
Vẫn đảm nhiệm một hướng chủ yếu, Oanh leo lên cao, nhắm khẩu B40 vào một cụm hỏa lực địch đang bắn cầm chừng. Cô nín thở, bóp cò. Một đám lửa phực lên từ khẩu đại liên, mấy tên xạ thủ lăn ra. Oanh lắp trái đạn thứ hai bắn thẳng vào căn nhà lầu lố nhố quân địch bên trong. Bọn Mỹ lại tru lên. Mười phút sau, một chiếc trực thăng mang dấu chữ thập đỏ đáp xuống đem bọn lính thương vong trong ngôi nhà ra khỏi vùng chiến sự.
Đã đến lúc phải đưa số thương binh của đơn vị ra khỏi trận địa. Trong số đó có Oanh bị thương ở đầu, chân và tay, nhất là đôi tay rát bỏng do lửa cháy khi chuyển đạn, nhiều chỗ đã đen xám lại nhức buốt. Không cần đấu tranh tư tưởng, Oanh quyết định xin đồng chí chỉ huy trưởng ở lại chiến đấu. Ba Phong không đồng ý, Oanh khẩn khoản đề nghị:
- Báo cáo chú Ba, tuy bị thương nhưng cháu vẫn còn đi lại được cháu không thể rời trận địa khi anh chị em còn tiếp tục chiến đấu. Lúc này thêm một tay súng là bớt được một phần khó khăn cho đơn vị.
Lần này Ba Phong chấp nhận yêu cầu của người chiến sĩ với thái độ cảm phục.
Ba Phong, rồi Oanh, Nhung rời khỏi trận địa. Số còn lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và sa vào tay giặc lúc 9 giờ ngày 3 Tết. Kết quả trận đánh: cụm biệt động 6-7-9 diệt gần 100 tên địch, bắn cháy 2 xe cơ giới, phá hủy 1 khẩu đại liên. Ta hy sinh 10, bị bắt 4 đồng chí.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chiến sĩ biệt động Phạm Thị Mỹ trở thành dũng sĩ ưu tú của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định. Năm 1973, Oanh ra hậu cứ ở Củ Chi học tập và chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Trong những ngày đó. một bức điện từ trên R đánh xuống Thành đội Sài Gòn. Nội dung: Thành đội thu xếp cho đồng chí Phạm Thị Mỹ về R gấp để cùng với đoàn đại biểu phụ nữ Việt Nam đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa.
Như một giấc mơ Oanh bàng hoàng sung sướng. Bạn bè cũng vui lây với Oanh và chúc mừng chuyến di vinh quang của người chiến sĩ. Song trong niềm vui, Oanh bần thần nhìn xuống đôi tay loang lổ những vết sẹo do bị bỏng trong trận đánh Bộ tổng tham mưu ngụy. Làn da nhăn nhíu lại. Biết Oanh mặc cảm về đôi tay mình, đồng chí Phó chu nhiệm chính trị và một số anh em động viên cô không nên băn khoăn nhiều. Cứ để tự nhiên như thế. nó là bằng chứng tố cáo tội ác giặc Mỹ. Người thật việc thật càng thuyết phục bạn bè nhiều hơn.
Oanh phấn khởi lên đường thực hiện chuyến đi lịch sử rất khó lặp lại trong đời mình. Từ những bước chân lặng lẽ âm thầm xuyên qua lòng địch, bao lần đạp lên cái chết, Oanh đã tới Matxcơva, thủ đô hòa bình, tới Lahabana của Cu Ba, hòn đảo ngọc anh hùng từ nửa bên kia trái đất, để nói thay cho Sài Gòn, cho những chiến sĩ của thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cho những người con gái Việt Nam kiên cường, bất khuất...
Và ngày 6 thảng 11 năm 1978, từ mảnh đất anh hùng, nơi đã nuôi những chiến công của người chiến sĩ biệt động, Oanh vinh dự đón nhận danh hiệu cao quý do Đảng và Nhà nước trao tặng: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip