BTN LUẬT THƯƠNG MẠI - KT32C2 - NHÓM 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI - MODULE 2

NHÓM 1 - KT32C2

ĐỀ BÀI

Công ty TNHH gạch Đồng Tâm (Công ty Đồng Tâm) có trụ sở chính tại thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là sản xuất các loại gạch men. Công ty có chi nhánh tại Hà Nội, do ông Trần Văn Công làm giám đốc. Trong quy chế hoạt động của chi nhánh do Công ty Đồng Tâm ban hành ghi nhận: "Chi nhánh được chủ động tiến hành các hoạt động kinh doanh phù hợp với ngành nghề kinh doanh của công ty, trưởng chi nhánh được chủ động ký kết các hợp đồng có giá trị dưới 150 triệu đồng và được tham gia tố tụng tại tòa án để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do mình ký kết."

Để phát triển hoạt động kinh doanh ở thành phố Hà Nội, chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội muốn ký hợp đồng tiêu thụ gạch chịu lửa và gạch men với các doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh.

Ngày 15/05/2007, Công ty Đồng Tâm đã gửi qua fax dự thảo hợp đồng đại lý với các nội dung chi tiết cho Công ty cổ phần X (có trụ sở chính tại đường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội; với ngành nghề kinh doanh ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là: mua bán vật liệu xây dựng, đại lý mua bán, ký gửi hành tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng).

Trong dự thảo hợp đồng ghi: Bên giao đại lý: Công ty gạch Đồng Tâm; Bên đại lý: Công ty cổ phần X. Dự thảo hợp đồng do giám đốc công ty Đồng Tâm ký.

Ngay sau khi nhận được dự thảo hợp đồng, giám đốc công ty cổ phần X (đại diện theo pháp luật của công ty) gửi công văn qua fax chấp nhận các điều khoản trong dự thảo hợp đồng trừ điều khoản quy định về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng. Công ty X muốn mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết thay vì tại TAND tỉnh Ninh Bình như quy định trong dự thảo. Công ty Đồng Tâm nhận được công văn của Công ty X nhưng không trả lời.

Hỏi:

1. Quan hệ hợp đồng đại lý giữa các bên đã hình thành chưa? Vì sao?

2. Giả sử người kí bản dự thảo hợp đồng đại lý nói trên là trưởng chi nhánh của Công ty Đồng Tâm tại Hà Nội, và Công ty cổ phần X khi nhận được dự thảo đó thì gửi công văn chấp nhận toàn bộ nội dung không có bổ sung gì thì hợp đồng đại lý giữa công ty Đồng Tâm và công ty X đã hình thành chưa và có hiệu lực pháp luật không?

Tình tiết bổ sung:

Sau khi được các luật sư tư vấn, ngày 25/08/2007, trưởng chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội trực tiếp bàn bạc và thống nhất ký hợp đồng đại lý số 20/HĐĐL với giám đốc công ty X. Hợp đồng đại lý giữa hai bên có nhiều điều khoản trong đó có các nội dung sau:

- Công ty Đồng Tâm chi nhánh tại Hà Nội giao cho công ty X làm đại lý tiêu thụ gạch men theo giá công ty Đồng Tâm ấn định và được hưởng hoa hồng 2% trên doanh số hàng tiêu thụ được.

- Công ty X có nghĩa vụ tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng và bảo đảm hàng tháng tiêu thụ được tối thiểu lượng hàng tương đương 80 triệu đồng.

- Hợp đồng có thời hạn từ 1/10/2007 - 1/10/2008.

- Tiền hàng đã tiêu thụ được thanh toán vào ngày 15 hàng tháng.

1. Giá trị của hợp đồng số 20/HĐĐL được tính như thế nào? Trưởng chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội có thẩm quyền kí kết hợp đồng này không? Vì sao?

2. Ngày 15/12/2007, công ty xây dựng Z mua 50 hộp gạch men của công ty X - đại lý của công ty Đồng Tâm. Vì đã nhiều lần mua hàng của đại lý này nên Công ty Z không kiểm tra hàng khi nhận. Sau đó, khi sử dụng mới phát hiện một nửa số gạch bị sứt, mẻ. Công ty Z yêu cầu trả lại toàn bộ số hàng đã mua và lấy lại tiền nhưng công ty X không đồng ý với lý do công ty chỉ làm đại lý bán hàng cho công ty Đồng Tâm nên công ty Z phải khiếu nại công ty Đồng Tâm.

Hãy giải quyết vấn đề này để bảo vệ quyền lợi cho các bên? ./.

BÀI LÀM

1. Quan hệ hợp đồng đại lý giữa các bên.

1.1 Sự hình thành quan hệ hợp đồng đại lý giữa Công ty Đồng Tâm và công ty X.

Về quan hệ hợp đồng đại lý thương mại:

Quan hệ hợp đồng đại lý thương mại (HĐĐLTM) được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là HĐĐLTM. HĐĐLTM được hiểu là sự thỏa thuận của bên giao đại lý và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.[3; Đ166]

Những điều kiện để hình thành quan hệ đại lý thương mại: [4; tr.25-29]

Do quan hệ HĐĐLTM được xác lập thông qua hình thức pháp lý là HĐĐLTM, cho nên khi hợp đồng được giao kết thì quan hệ mới được hình thành. Theo nguyên tắc chung, hợp đồng được giao kết vào thời điểm hai bên đạt được sự thỏa thuận.

Để giao kết hợp đồng thì cần phải thông qua hai giai đoạn: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.

Đề nghị giao kết hợp đồng được bắt đầu bằng việc một bên đề nghị với bên kia giao kết hợp đồng, và đồng thời thường kèm theo ngay nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời. Đề nghị giao kết hợp đồng phải thỏa mãn 5 tiêu chí:

- phải có các nội dung chủ yếu của hợp đồng;

- ý định giao kết hợp đồng phải có thật;

- bên được đề nghị phải được xác định cụ thể;

- bên đề nghị phải truyền đạt nội dung của lời đề nghị đến bên được đề nghị, tức là bên được đề nghị phải biết đến lời đề nghị;

- bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc về lời đề nghị này.[6; tr.87,88]

Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường được bên đề nghị ấn định. Nếu không, thì thời điểm có hiệu lực của lời đề nghị được tính kể từ khi bên được đề nghị nhận được lời đề nghị đó.

Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc có chấp nhận giao kết hợp đồng hay không. Trong những trường hợp cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời phải trong khoảng thời gian đã ấn định. Nếu quá thời hạn trả lời mà bên được đề nghị mới trả lời thì sự trả lời đó được xem là một lời đề nghị mới đối với bên đề nghị ban đầu.[5; tr.111]

Trong thời hạn trả lời, nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, tức là đồng ý với toàn bộ nội dung của lời đề nghị thì hợp đồng được coi là giao kết. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Điều này có nghĩa là bên nhận được đề nghị chỉ trả lời chấp nhận để giao kết hợp đồng, không cần thêm bất cứ điều kiện bổ sung hay một cuộc trao đổi nào nữa. Chấp nhận giao kết hợp đồng chính là giai đoạn sau cùng của quá trình giao kết hợp đồng - được coi là sự ràng buộc chính thức về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng.

Nếu bên được đề nghị bổ sung, sửa đổi một điều khoản nào đó trong nội dung mà bên đề nghị đưa ra thì sự bổ sung, sửa đổi đó trở thành một lời đề nghị mới. Các bên sẽ phải thỏa thuận với nhau để đi đến sự thống nhất cuối cùng về những nội dung mà hai bên thương lượng. Khi đạt được sự nhất trí lẫn nhau thì hợp đồng mới được giao kết.

HĐĐLTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, cho nên, thời điểm giao kết HĐĐLTM được xác định theo 1 trong 2 trường hợp:

- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.

- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định theo thuyết "tiếp nhận", theo đó, hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.

Theo quy định của BLDS thì sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết hạn trả lời cũng có thể coi là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng [2; k2, Đ404]

Đối chiếu tình huống bài tập với những điều kiện hình thành quan hệ hợp đồng đại lý:

- Ngày 15/05/2007, công ty Đồng Tâm đã gửi qua fax dự thảo HĐĐLTM với các nội dung chi tiết cho công ty cổ phần X. Đây chính là một lời đề nghị giao kết hợp đồng với nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng theo những điều kiện xác định của công ty Đồng Tâm với công ty X.

- Ngay sau khi nhận được dự thảo hợp đồng, giám đốc công ty X gửi công văn qua fax chấp nhận các điều khoản trong dự thảo hợp đồng, trừ điều khoản quy định về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (công ty X muốn mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đều do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết thay vì TAND tỉnh Ninh Bình như trong dự thảo).

Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có sửa đổi đề nghị thì bên được đề nghị đã đưa ra đề nghị mới đối với bên kia [2; Đ.395]. Nghĩa là, công ty Đồng Tâm phải trả lời về việc có hay không chấp nhận đề nghị mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà công ty X đưa ra.

- Công ty Đồng Tâm nhận được công văn của công ty X nhưng không trả lời.

Trong trường hợp này, quan hệ HĐĐLTM của hai bên được xác định như sau:

- Vì đề nghị giao kết hợp đồng của công ty Đồng Tâm đã được công ty X chấp nhận một phần chứ không phải toàn bộ nội dung, và công ty X đã đề nghị lại với công ty Đồng Tâm về một vấn đề có trong nội dung hợp đồng, nên quan hệ hợp đồng được hình thành hay không phụ thuộc vào lời chấp nhận hay không chấp nhận của công ty Đồng Tâm về đề nghị mới.

- Điều đó có nghĩa là, chúng ta phải xem xét liệu rằng sự im lặng của công ty Đồng Tâm trong tình huống trên có được coi là sự chấp nhận giao kết hợp đồng hay không.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 404 BLDS đã nêu, thì:

+ TH1: Trong công văn của công ty X gửi qua fax cho công ty Đồng Tâm có điều khoản quy định rõ: "nếu hết thời hạn ...ngày mà công ty Đồng Tâm không trả lời thì có nghĩa là công ty Đồng Tâm đã chấp nhận giao kết hợp đồng với những nội dung đã thỏa thuận" - thì quan hệ HĐĐLTM giữa hai bên được hình thành khi hết thời hạn mà công ty X đưa ra.

+ TH2: Nếu trong công văn của công ty X không có điều khoản trên thì quan hệ HĐĐLTM giữa hai bên chưa hình thành.

Về vấn đề này, có thể bình luận thêm như sau:

Trong tình huống trên, điều khoản về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp có thể coi là một điều không quan trọng vì không phải là nội dung cơ bản của hợp đồng đại lý, tuy nhiên nếu xét về khía cạnh so sánh hiệu lực thi hành giữa phán quyết của tòa án và quyết định trọng tài thì không phải là vấn đề đơn giản.

Vấn đề im lặng nếu không được xác định rõ ràng có phải là lời chấp nhận giao kết hay không trong nhiều trường hợp sẽ làm phát sinh tranh chấp, hoặc làm quyền lợi hợp pháp của một bên bị ảnh hưởng. Theo nguyên tắc chung thì khi được đề nghị giao kết, bên được đề nghị cần phải trả lời trong thời gian hợp lý, và bằng hình thức tương đương với hình thức bên đề nghị đã sử dụng để gửi lời đề nghị đến mình (đàm phán trực tiếp - đàm phán trực tiếp; thư - thư; fax - fax...). Quy định hiện hành về một điều khoản về sự im lặng mà bên đề nghị đưa ra cho bên được đề nghị có thể làm cho sự im lặng của họ trở thành chấp nhận giao kết dường như có tính chất áp đặt so với bên được đề nghị. Ngoài ra, đối với những điều khoản quan trọng thể hiện bản chất của loại hợp đồng thì không nên áp dụng quy định này để có được sự chấp thuận giao kết hợp đồng. Mặc dù bên được đề nghị nếu không đồng ý giao kết có thể trả lời không đồng ý giao kết, nhưng quy định với tính chất áp đặt như vậy sẽ làm mất tính bình đẳng của quan hệ hợp đồng.

Tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới mà cụ thể là luật của Anh và Mỹ thì sự im lặng không được coi là một sự chấp thuận giao kết hợp đồng, bởi vì rất không công bằng khi một ai đó áp đặt một hợp đồng đối với một người khác. Khi một người nào đó đưa ra một lời đề nghị cho bạn và bạn không trả lời lại, thì thường là bạn sẽ không bị ràng buộc với hợp đồng, vì sự im lặng của bạn thường không được xem là một lời chấp thuận nếu bạn thực sự không có ý định đồng ý. Điều này thường đúng cho dù người đưa ra lời đề nghị đã nói rõ rằng sự im lặng của bạn được xem là sự chấp thuận. [8]

Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định thì sự im lặng vẫn được coi là chấp thuận giao kết hợp đồng, như: - có một số giao dịch trước đó giữa hai bên và có thói quen hoạt động thương mại giữa hai bên xem xét sự im lặng như là sự chấp nhận; - cả hai bên đồng ý rằng sự im lặng được coi là chấp thuận[8], nghĩa là những thương lượng trước đó của các bên đã thỏa thuận với nhau là sẽ coi im lặng là đồng ý.

Pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện chưa có quy định nào tương tự như trên đây. Theo ý kiến của nhóm, với cách quy định cụ thể, hợp lý và mang tính bình đẳng như pháp luật Anh, Mỹ đã dẫn sẽ tạo ra được những quan hệ hợp đồng phát sinh theo đúng với ý chí và sự tự nguyện của các bên.

Nếu thử áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài vào tình huống trên thì có thể thấy: giữa công ty Đồng Tâm và công ty X trước đây chưa có giao dịch nào, cho nên hai bên không có một tiền lệ nào hay một thói quen thương mại nào để căn cứ vào đó có thể khẳng định sự im lặng của công ty Đồng Tâm là sự chấp nhận giao kết hợp đồng. Đồng thời, sự trao đổi của hai bên chỉ là hai lần gửi fax cho nhau với nội dung cụ thể như đề bài đã nêu, chứ chưa có thêm một sự thỏa thuận nào khác để có thể tồn tại giữa hai bên một sự nhất trí rằng im lặng nghĩa là đồng ý. Xem xét vấn đề theo hướng này sẽ giải quyết được triệt để việc có hay không quan hệ hợp đồng giữa hai bên trong tình huống này.

1.2 Thẩm quyền kí kết hợp đồng đại lý và hiệu lực hợp đồng

1.2.1 Hợp đồng đại lý giữa công ty Đồng Tâm và công ty X đã được giao kết

Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương(như điện báo, telex, fax,...) [3; Đ.168]

Theo đề bài, chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội đã gửi bản dự thảo hợp đồng đại lý qua fax cho công ty X. Công ty X khi nhận được bản dự thảo hợp đồng đại lý có chữ ký của trưởng chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội, đã gửi công văn chấp nhận toàn bộ nội dung mà không có bổ sung gì. Như vậy công ty X đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của công ty Đồng Tâm. Về mặt hình thức của hợp đồng trong cả hai lần trao đổi giữa các bên đều là hợp lệ.

Theo khoản 1, điều 404 BLDS 2005: "Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết."

Như vậy hợp đồng đại lý giữa công ty Đồng Tâm và công ty X đã được giao kết.

1.2.2 Hiệu lực của hợp đồng.

Hợp đồng có hiệu lực khi đáp ứng đủ các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng dân sự, gồm: - Các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải có năng lực chủ thể, với các chủ thể là thương nhân thì phải có đăng kí kinh doanh hợp pháp; - Đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền; - Mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; - Hợp đồng được giao kết đảm bảo các nguyên tắc khi giao kết; - Hình thức hợp đồng theo đúng quy định pháp luật. [2; Đ.122; 4; tr.29-32]

Đề bài đã cho thấy công ty Đồng Tâm có ngành nghề kinh doanh chính của theo GCN ĐKKD là sản xuất các loại gạch men. Và công ty X có ngành nghề kinh doanh theo GCN ĐKKD là: mua bán vật liệu xây dựng, đại lý mua bán, ký gửi hành tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng. Do vậy, hai thương nhân này thỏa mãn yêu cầu về năng lực chủ thể. Mục đích của hợp đồng là nhằm phát triển hoạt động kinh doanh ở thành phố Hà Nội, và nội dung cơ bản là về việc xác lập quan hệ đại lý giữa hai bên. Đây là mục đích và nội dung hợp pháp, không trái đạo đức xã hội. Viêc đảm bảo nguyên tắc giao kết và hình thức hợp đồng cũng không có vấn đề gì. Điều cần quan tâm duy nhất ở đây chính là thẩm quyền đại diện của trưởng chi nhánh công ty tại Hà Nội.

Theo Quy chế hoạt động của Chi nhánh công ty Đồng Tâm: "...trưởng chi nhánh được chủ động ký kết các hợp đồng có giá trị dưới 150 triệu đồng..."

Như vậy nếu hợp đồng đại lý giữa công ty Đồng Tâm và công ty X có giá trị dưới 150 triệu đồng thì hợp đồng có hiệu lực.

Nếu hợp đồng đại lý giữa công ty Đồng Tâm và công ty X có giá trị trên 150 triệu đồng thì hợp đồng không có hiệu lực do người đại diện không có thẩm quyền.

2. Giao kết và thực hiện hợp đồng

2.1 Giá trị hợp đồng và thẩm quyền ký kết hợp đồng.

Pháp luật hiện nay không quy định rõ cách xác định giá trị hợp đồng.

Phân tích dữ kiện đề bài, ta có:

- Công ty X được hưởng hoa hồng 2% trên doanh số hàng tiêu thụ được. 2% thông thường được chiết khấu khi thanh toán tiền hàng đã tiêu thụ được hàng tháng cho Công ty Đồng Tâm. (Công ty X giữ lại 2% giá trị tiền hàng).

- Mỗi tháng tiêu thụ được ít nhất 80 triệu tiền hàng. Đây được coi là con số xác định để tính giá trị hợp đồng.

- Hợp đồng có thời hạn 12 tháng (từ 1/10/2007 - 1/10/2008) và tiền hàng được thanh toán vào ngày 15 hàng tháng. Như vậy, tiền hàng được thanh toán vào các ngày 15 tháng 10, 11, 12 năm 2007 và ngày 15 tháng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 năm 2008. Tiền hàng thu được từ 16/9/2008 - 1/10/2008 sẽ được thanh toán cho công ty Đồng Tâm vào ngày 1/10/2008 hoặc ngày khác do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, trong vòng 15 ngày đó thì công ty X vẫn được hưởng 2% tiền hàng mà họ bán được. Do vậy, điều chúng ta cần quan tâm ở đây là thời hạn hợp đồng là 12 tháng.

Căn cứ vào bản chất của HĐĐLTM và những dữ kiện trên, ta có một số cách tính giá trị hợp đồng như sau:

- Cách 1: Giá trị HĐĐLTM là số tiền thù lao mà bên đại lý được nhận khi thực hiện công việc mà bên đại lý giao.

Trong hợp đồng này, giá trị hợp đồng là:

80 triệu x 12 tháng x 2% = 19, 2 triệu.

Cách tính này xuất phát từ quan điểm cho rằng vì đối tượng của hợp đồng đại lý này là nội dung công việc bán hàng đại lý, do vậy, trong quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý, điều cơ bản nhất là việc bên đại lý thực hiện dịch vụ cho bên giao đại lý. Mặt khác, hàng hóa mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý bán vẫn là tài sản của bên giao đại lý, quyền sở hữu không hề chuyển sang cho bên đại lý giống như trong hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp đồng phân phối (mua sỉ bán lẻ). Hàng hóa và ngay cả tiền hàng thu được sau khi bán đều thuộc về bên giao đại lý. Có thể xem nó như một phương tiện để thực hiện hợp đồng đại lý giữa hai bên, chứ không phải là mục đích của hợp đồng đại lý. Mục đích của hợp đồng đại lý chính là số tiền thù lao mà bên giao đại lý trả cho bên đại lý.

- Cách 2: Giá trị HĐĐLTM là số tiền thù lao mà bên đại lý được nhận khi thực hiện công việc mà bên đại lý giao và giá trị hàng hóa mà bên giao đại lý chuyển cho bên đại lý.

Giá trị hợp đồng là:

80 triệu x 12 tháng x 2% + 80 triệu x 12 tháng = 979,2 triệu.

Cách này được tính trên cơ sở cho rằng giá trị hợp đồng bao gồm tiền thù lao mà bên đại lý được hưởng và giá trị hàng hóa mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý để bán. Hàng hóa mặc dù không được chuyển quyền sở hữu sang cho bên đại lý nhưng bên đại lý có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa, liên đới chịu trách nhiệm đối với chất lượng hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra; mặt khác, còn có thể phải dùng tài sản bảo đảm để bên giao đại lý giao hàng hóa cho mình. Hàng hóa mặc dù là phương tiện để thực hiện hợp đồng đại lý giữa hai bên, nhưng cả hai đều phải có nghĩa vụ đối với việc đảm bảo chất lượng và bảo quản hàng hóa đó, và nếu không có hàng hóa đó thì cũng không thể hình thành quan hệ hợp đồng đại lý bán hàng hóa. Do vậy, không thể tách giá trị hàng hóa ra khỏi giá trị hợp đồng.

- Cách 3: Giá trị HĐĐLTM là số tiền thù lao mà bên đại lý được nhận khi thực hiện công việc mà bên đại lý giao và số tiền mà bên đại lý phải trả lại cho bên giao đại lý sau khi bán hàng.

Giá trị hợp đồng là:

(80 triệu x 12 tháng x 2%) +

[(80 triệu x 12 tháng) - (80 triệu x 12 tháng x 2%)] = 960 triệu.

Cách tính này cũng cùng quan điểm với cách tính thứ hai về việc không tách giá trị hàng hóa ra khỏi giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, cách này lại tính theo hướng: vì cả bên giao đại lý và bên đại lý đều phải có nghĩa vụ đối với hàng hóa cho đến khi nào toàn bộ hàng hóa tương đương ít nhất 80 triệu được bán; giá trị hàng hóa mà bên đại lý bán được sẽ là cơ sở để tính thù lao cho bên đại lý, và thù lao mà bên đại lý nhận được là một phần trong số tiền bán hàng, chứ không phải là một khoản độc lập được trích ra từ ngân quỹ của bên giao đại lý, số tiền mà bên giao đại lý thu về cũng trên cơ sở tiền hàng mà bên đại lý bán được. Khi đảm bảo tiêu thụ được tối thiểu 80 triệu tiền hàng mỗi tháng thì bên đại lý mới được hưởng thù lao, và tiền thù lao vì vậy được quyết định vào cuối mỗi đợt giao tiền hàng chứ không phải ngay lúc đầu bắt đầu thực hiện việc nhận hàng để bán. Do vậy, giá trị hợp đồng chính là tổng số tiền thực chất mà mỗi bên thu được sau khi bên đại lý bán hàng mỗi tháng.

Đánh giá 3 cách tính nêu trên, nhóm chúng em nghiêng về cách tính thứ 3 vì cách tính này đảm bảo được khía cạnh quyền và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện hợp đồng đại lý, đồng thời lại thể hiện sự hợp lý khi tính doanh thu cho mỗi thương nhân.

Với việc xác định giá trị hợp đồng như ý kiến của nhóm em thì trưởng chi nhánh công ty Đồng Tâm tại Hà Nội không đủ thẩm quyền để kí kết hợp đồng đại lý với công ty X. Nếu để trưởng chi nhánh kí (sau khi được luật sư tư vấn) thì có thể ngầm định rằng trong trường hợp này giám đốc công ty Đồng Tâm đã ủy quyền cho trưởng chi nhánh kí kết hợp đồng, trên cơ sở những nội dung mà bản dự thảo hợp đồng đã gửi qua fax cho công ty X do giám đốc công ty Đồng Tâm kí như đầu bài đã đề cập.

(đáp án của câu này là cách tính thứ nhất - nhưng thực tế thì có nhiều quan điểm như trên và về cơ bản thì người ta cũng không quan tâm lắm đến vấn đề này ^^)

2.2 Quyền lợi của các bên trong tranh chấp

Thực tế đã cho thấy nhiều khách hàng khi mua phải hàng hóa kém chất lượng... thường không biết kiện ai để đòi lại quyền lợi hợp pháp cho mình. Tình huống mà đề bài đã cho là một ví dụ điển hình cho trường hợp này.

Trong tình huống trên thì chúng ta có một số điểm cần lưu ý, đó là:

- Hàng hóa mà bên thứ ba đã mua là gạch men. Theo tìm hiểu của nhóm thì gạch men thường được đóng gói trong hộp giấy với số lượng từ 4 - 6 viên tùy theo kích thước. Gạch men là loại gạch có một số đặc tính của gốm và men sứ nên có thể bể hoặc mẻ nếu va chạm mạnh với vật liệu cứng hơn. Khi chưa được đem ra ốp lát, gạch men có khuynh hướng dễ bị bể hoặc mẻ hơn là sau khi được đem ốp lát. Do vậy, lưu ý khi bốc vác, vận chuyển gạch cần tuân thủ khuyến cáo của nhà sản xuất. [9]

- Lập luận của các bên trong tranh chấp là: - công ty Z cho rằng họ có quyền trả lại số hàng đã mua và lấy lại tiền hàng; - công ty X cho rằng họ không có trách nhiệm trong trường hợp này, mà chủ thể có trách nhiệm là công ty Đồng Tâm - bên giao đại lý của họ.

Để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên trong tranh chấp này, chúng ta sẽ xem xét lần lượt các yếu tố liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên.

Thứ nhất, đối với bên mua hàng là công ty Z:

- Về quyền:

+ Trước hết, cũng như mọi đối tượng khi đi mua bán hàng hóa, công ty Z khi đi mua hàng cũng mong muốn mua được hàng có chất lượng đảm bảo. Công ty Z đã lựa chọn công ty X để mua hàng bởi vì giữa công ty Z và công X đã có nhiều lần mua bán hàng hóa với nhau. Do các lần mua bán trước không có tranh chấp gì xẩy ra, điều đó cho thấy công ty Z và công ty X đã có một quy tắc xử sự rõ ràng là công ty Z mua hàng thì công ty X giao hàng theo đúng chất lượng và chuẩn mực thông thường như hai bên đã thực hiện lâu nay. Áp dụng khoản 3 Điều 3 của LTM, có thể coi giữa hai bên đã hình thành thói quen thương mại.

Trên cơ sở thói quen đó, vào ngày 15/12/2007 khi công ty Z mua 50 hộp gạch của công ty X, công ty Z nhận hàng mà không kiểm tra. Công ty X, theo thói quen, cũng cần phải bảo đảm đúng chất lượng hàng hóa như đã giao dịch trước đó để đảm bảo giữ chữ tín với khách hàng "ruột".

+ Đối với sản phẩm là gạch men có đóng gói bao bì quy chuẩn, được mua hàng theo từng hộp đã đóng gói, không phải mua lẻ từng phần, nên theo khoản 2 Điều 444 của BLDS về nghĩa vụ bảo đảm chất lượng vật mua bán thì công ty X phải bảo đảm chất lượng gạch phù hợp với mô tả trên bao bì. Tuy nhiên khi nhận lô hàng về sử dụng công ty Z phát hiện hơn nửa số gạch bị sứt mẻ không phù hợp với mẫu mã mô tả bên ngoài hộp gạch cũng như chất lượng trung bình có thể sử dụng của mặt hàng gạch men. Do vậy theo khoản 1 Điều 444 BLDS thì công ty X đã vi phạm những nghĩa vụ cơ bản theo pháp luật của bên bán hàng hóa, gây thiệt hại đến lợi ích trực tiếp và chính đáng của công ty Z.

- Về nghĩa vụ:

Công ty Z khi mua hàng hóa theo nguyên tắc thông thường phải kiểm tra hàng hóa trước khi nhận. Theo khoản 1 Điều 40 LTM: Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khiếm khuyết đó. Để xác định chất lượng hàng hóa là gạch men có đặc tính dễ bể, mẻ thì Z phải tiến hành kiểm tra hàng cho mỗi lần nhận hàng. Theo lời văn đề bài thì có thể hiểu trước đây công ty Z khi nhận hàng đã tiến hành kiểm tra, và những lần đó hàng hóa đều đảm bảo chất lượng nên lần này công ty Z đã bỏ qua khâu này. Đây chính là thiếu sót của công ty Z và gây cho Z bất lợi khi khiếu nại.

Thứ hai, đối với bên đại lý là công ty X:

Trong quan hệ với bên mua hàng là công ty Z, cần xem xét: - thời điểm chuyển giao hàng hóa; - công ty X nhân danh chính mình thực hiện việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Quyền và nghĩa vụ các bên được xác định như sau:

- Về quyền:

+ Vì công ty Z đã không tiến hàng việc kiểm tra hàng hóa trước khi nhận hàng như những lần trước đó nên theo khoản 3 Điều 44 LTM thì công ty X có quyền giao hàng theo hợp đồng.

+ Công ty Z đã nhận hàng, cho nên rủi ro đối với hàng hóa đã được chuyển giao cho công ty Z. Công ty X không có trách nhiệm trong việc bảo quản hàng hóa đã giao. Nếu thời điểm chuyển giao hàng hóa là khi công ty Z bốc hàng thì công ty X không phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản giá trị hàng hóa trong quá trình vận chuyển và xếp kho.

+ Công ty X không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hóa mà công ty Z đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hóa [LTM; k4 Đ44]. Trong trường hợp này, công ty Z khi đem ra sử dụng mới phát hiện ra lỗi sản phẩm chứ không tiến hành kiểm tra. Nếu khoảng thời gian từ khi nhận hàng đến khi đưa hàng vào sử dụng quá lâu, không được coi là "thời hạn hợp lý" thì công ty X ít khả năng phải chịu trách nhiệm.

- Về nghĩa vụ:

+ Công ty X phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc các đặc tính của vật mua bán [BLDS; k1 Đ444]. Nếu hàng hóa có khiếm khuyết trước khi công ty X giao cho công ty Z thì họ cũng phải chịu trách nhiệm.

+ Nếu thời điểm chuyển giao rủi ro là lúc công ty X cho hàng vào kho của công ty Z thì công ty X phải chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng hàng hóa trong quá trình vận chuyển và xếp kho.

+ Khi đưa vào sử dụng và phát hiện ra hàng hóa khiếm khuyết, công ty Z đã thông báo cho công ty X thông qua yêu cầu trả lại hàng và hoàn lại tiền. Có thể coi công ty Z đã báo ngay cho công ty Z để đòi lại quyền lợi của mình. Nếu việc thông báo diễn ra trong khoảng "thời hạn hợp lý" như trên thì công ty X có thể phải thực hiện nghĩa vụ theo khoản 1 Đ.444 BLDS.

Đối với quan hệ giữa công ty X và công ty Đồng Tâm, trong trường hợp công ty Z đảm bảo cho mình khả năng giành ưu thế trong tranh chấp này thì cần lưu ý:

- Quyền sở hữu đối với số hàng hóa mà công ty Đồng Tâm giao cho công ty X bán theo hợp đồng đại lý giữa hai bên vẫn thuộc về công ty Đồng Tâm. Theo k.2 Đ.173 LTM, công ty Đồng Tâm phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa(...)trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

- Hàng hóa mặc dù vẫn thuộc quyền sở hữu của công ty Đồng Tâm nhưng việc chịu trách nhiệm bảo quản hàng hóa được chuyển giao cho công ty X khi công ty X nhận hàng của công ty Đồng Tâm. Nếu hàng có khuyết tật trước thời điểm nhận hàng thì công ty Đồng Tâm phải chịu trách nhiệm, còn nếu hàng có lỗi do công ty X gây ra thì công ty X phải liên đới chịu trách nhiệm. Nghĩa là, nếu công ty X không có lỗi trong việc gây ra khiếm khuyết cho sản phẩm thì công ty Đồng Tâm phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nếu có, thì hai công ty phải liên đới chịu trách nhiệm đối với khách hàng. Điều 298 của BLDS về trách nhiệm liên đới, nên công ty Z có quyền được yêu cầu bất kỳ ai trong hai công ty X và công ty Đồng Tâm thực hiện nghĩa vụ đối với mình.

Như vậy, tổng hợp tất cả các lý lẽ trên đây, nhóm em xác định:

- Đối tượng để công ty Z khiếu nại là công ty Đồng Tâm.

- Nếu thỏa mãn những điều kiện để đạt được yêu cầu (công ty X vận chuyển và xếp hàng vào kho, thời điểm nhận hàng và thời điểm đưa hàng ra sử dụng không cách nhau quá xa - "thời hạn hợp lý", chứng minh được không có lỗi trong quá trình bảo quản hàng) thì theo k1 Đ.444 BLDS, công ty Z có thể được công ty Đồng Tâm đổi số hàng có khuyết tật, giảm giá và bồi thường thiệt hại, nếu không có thỏa thuận khác. Nếu không đảm bảo được những điều kiện trên thì công ty Z phải chịu rủi ro đối với số hàng hóa đó.

- Công ty Đồng Tâm có trách nhiệm tự mình (trong trường hợp họ có lỗi) hoặc cùng với công ty X (trong trường hợp công ty này có lỗi) thực hiện việc đổi hàng, giảm giá, bồi thường thiệt hại cho công ty Z khi công ty Z có đủ chứng cứ nêu trên. Nếu công ty Z không có đủ chứng cứ hợp lý thì công ty Đồng Tâm không phải chịu trách nhiệm.

Vấn đề này, về lý luận, xin được bàn thêm như sau: cơ sở để quy trách nhiệm cũng như xác định mức độ trách nhiệm đối với khách hàng trong mối quan hệ đại lý chính là yếu tố lỗi của các chủ thể. Vì pháp luật hiện hành không còn quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng nữa nên các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc gánh chịu rủi ro đối với hàng hóa. [7; 129,136]Tùy đặc trưng từng loại hàng hóa, các bên có thể thỏa thuận theo cách riêng.

(Hướng giải quyết này đã chỉ ra khá kỹ các lập luận có thể có của các bên.

nhưng để giải quyết một cách cụ thể và rõ ràng thì nên chia thành 2 trường hợp:

- hợp đồng có điều khoản quy định về việc kiểm tra hàng

- hợp đồng không có điều khoản này)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý - Từ điển Luật học - NXB TĐBK, NXB TP - 2006.

2. Bộ luật Dân sự 2005.

3. Luật Thương mại 2005.

4. Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Thương mại - tập 2 - NXB CAND -2008

5. Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Dân sự - tập 2 - NXB CAND - 2007

6. TS. Lê Đình Nghị (chủ biên) - Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - tập 2 -NXBGDVN - 2009.

7. TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên) - Pháp luật về Hợp đồng trong thương mại và đầu tư , những vấn đề pháp lý cơ bản - NXBCTQG - 2009.

8. http://www.legalmatch.com/law-library/article/silence-as-acceptance-in-contracts.html

http://public.findlaw.com/abaflg/flg-9-1a-26.html

9. http://www.ceramiclonghau.com.vn/Main.aspx?MNU=1275&Style=10

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #kt32c2#nhom