Bố rẽ cây cao lương, hướng về phía Tây bắc quê hương chúng tôi - mà luồn thật nhanh. Bò lên được con đường đất, không còn cao lương vướng chân, chạy nhanh như thỏ rừng, khẩu súng brô-ninh nặng trũi làm cho giây lưng bằng vải màu đỏ uốn thành trăng lưỡi liềm. Súng lục đập vào xương hông của ông, tuy đau đớn nhưng ông thấy mình đã trở thành chàng trai biết cưỡi ngựa, vung gươm rồi. Thôn trang còn ở xa xa, đầu thôn có cây cỏ trắng xum xuê um tùm đã sống hơn một trăm năm, đón chờ ông. Bố rút súng ra, cầm trong tay vừa chạy vừa ngắm nhìn bóng quạ đen đẹp đẽ chao đi chao lại trong không trung.
Trên đường phố không một bóng người, không biết con lừa lông lá, chân què, mắt mù của nhà ai buộc cạnh bức tường đất đã rụng vôi vữa, con lừa cúi đầu đứng bất động. Trên hai con lăn bằng đá để lộ thiên, có hai con quạ xanh thẫm đậu trên đó. Người trong thôn thường tụ tập trên bãi đất trống trước lò nấu rượu của nhà tôi ở đây từng đỏ trời đỏ đất, từng đống cao lương đỏ nhà tôi mua về. Lúc bấy giờ bà tôi thường cầm cái phất trần đuôi trắng, kéo lê đôi chân nhỏ xíu, đi coi những người say rượu của nhà tôi. Bà dùng đấu gỗ để mua cao lương, mặt bà hồng hào rực rỡ như ánh ban mai. Những người trên bãi đất hướng về phía đông nam, nghe ngóng tiếng súng vọng đến bất cứ lúc nào. Một số trẻ con tinh nghịch bằng tuổi bố tôi, tuy chân tay ngứa ngáy, nhưng cũng không dám nghịch quấy.
Bố tôi và Tôn Ngũ, người đã đùng dao bầu tróc da ông La Hắn, từ hai hướng khác nhau cùng đi đến bãi đất Sau khi bàn việc ấy, Tôn Ngũ thần kinh hoảng loạn, khoa chân múa tay, mắt nhìn trừng trừng, mồm thường lắp bắp, ăn nói lung tung, miệng nhổ nước bọt trắng, quỳ xuống đất, hét:
- Anh ơi, anh, anh ơi, quan trên bắt tôi làm, tôi không thể không làm. Anh chết rồi lên thiên đàng, cưỡi ngựa bạch, ngồi yên gấm, mặc long bào, cầm roi vàng...
Người trong thôn thấy anh ta thế, cũng bớt giận anh ta. Sau khi điên mấy tháng Tôn Ngũ lại thêm chứng bệnh nữa. Sau khi gào thét một hồi bỗng mồm anh ta méo xệch, nước mũi nước miệng cứ chảy ra, nói không nghe rõ nữa. Người trong thôn bảo đó là trời phạt.
Bố tôi tay xách khẩu brô-ninh, thở hồng hộc, trên đầu đầy phấn trắng, bụi đỏ của cây cao lương. Tôn Ngũ quần áo rách bươm, nhầu nát, chân trái cứng đơ, chân phải mềm nhũn; đi cà nhắc vào trong bãi đất, không ai thèm quở hắn. Mọi người đều nhìn bố hiên ngang khí khái.
Bà đi đến trước mặt bố. Bà mới hơn ba mươi tuổi, tóc búi tó, phía trước trán mấy sợi tóc uốn cong rũ xuống như chiếc mành thưa che ánh sáng mặt trời. Mắt bà vẫn long lanh như nước mùa thu, có người . nói rượu cao lương nhuộm nền đấy. Mười năm gió mưa quay cuồng, bà tôi từ một người con gái trinh tiết đã trở thành một thiếu phụ phóng đãng.
Bà hỏi:
- Thế nào? Bố thở hổn hển, giắt khẩu brô-ninh vào thắt lưng.
- Bọn giặc không đến à? - Bà hỏi.
- Chi đội Lãnh, đồ chó chết, chúng ta không tha cho nó đâu ! – Bố nói.
- Có chuyện gì thế ? - Bà hỏi.
- Tráng bánh tráng. – Bố nói.
- Không nghe nói phải làm. - Bà nói.
- Tráng bánh tráng, cho nhiều trứng gà và hành vào.
- Bọn giặc không đến à? - Bà hỏi.
- Tư lệnh Từ bảo tráng bánh tráng và bảo bà đưa bánh đi.
Bà nói:
- Bà con ơi, về nhào bột tráng bánh đi.
Bố quay người định chạy, bị bà giơ tay kéo lại, bà nói:
- Đậu Quan nói cho mẹ biết, chi đội Lãnh làm sao?
Bố rút buột khỏi tay bà, giận dữ nói:
- Chi đội Lãnh chẳng thấy bóng vía đâu, cả Tư lệnh Từ không tha cho họ đâu !
Bố chạy đi. Bà dõi theo bóng nhỏ gầy bé của bố, thở dài. Trên mảnh đất rộng lớn, Tôn Ngũ đứng nghiêng nghiêng, ngó bà trân trân, hắn giơ tay chỉ chỏ, nước giãi chảy vòng quanh miệng.
Bà không để ý đến Tôn Ngũ đi về phía cô gái mặt trái xoan đang dựa vào tường. Cô gái mặt trái xoan cười sằng sặc với bà. Khi bà đi đến trước mặt cô gái, cô ta bỗng ngồi thụp xuống, hai tay túm chặt lấy cạp quần và kêu ré lên. Đôi mắt cô ta sâu như vực thẳm, ánh lên một ánh sáng điên dại. Bà vuốt mặt cô ta, nói:
- Linh Tử, cháu ngoan đừng sợ.
Cô Linh Tử mười bảy tuổi, là cô gái đẹp nhất thôn chúng tôi lúc bấy giờ. Hồi đầu Tư lệnh Từ phất cờ chiêu binh tập mã, tổ chức lên đội quân hơn năm mươi người. Trong đội quân có một chàng trai mảnh khảnh, mặc bộ đồ đen, đi đôi giầy da trắng, mặt trắng xanh, để bộ tóc dài đen. Nghe nói Linh Tử yêu người thanh niên ấy. Anh ta nói giọng Bắc Kinh rất hay, chưa bao giờ cười lông mày co rúm lại, giữa hai lông mày có ba vết nhăn nằm dọc. Mọi người đều gọi anh ta là phó chỉ huy Nhiệm. Qua vẻ bề ngoài lạnh lùng của phó chỉ huy Nhiệm, Linh Tử thấy có ngọn lửa nóng ghê người, nung đốt, khiến cô đứng ngồi không yên. Lúc bấy giờ, đội quân của Tư lệnh Từ sáng nào cũng đến sân nhà tôi nơi mua cao lương, để tập luyện, lính thổi kèn của Tư lệnh Từ là Lưu Tứ Sơn. Mỗi lần trước khi tập, Lưu Tứ Sơn thổi kèn tập hợp đội ngũ. Hễ nghe thấy tiếng kèn, Linh Tử từ trong nhà chạy vội ra bãi tập, trèo lên tường đất trông đợi phó chỉ huy Nhiệm. Phó chỉ huy Nhiệm là sĩ quan huấn luyện, anh ta thắt dây da bò rộng bản, khẩu súng ngắn brô-ninh đeo lủng lẳng trên thắt lưng da.
Phó chỉ huy Nhiệm ưỡn ngực thót bụng, đi đến trước hàng quân, hô nghiêm, hai gót chân dập đánh bốp một cái. Phó chỉ huy Nhiệm nói:
- Khi đứng nghiêm, hai chân phải thẳng, bụng thót, ngực ưỡn về phía trước, mắt mở tròn như con báo ăn thịt người vậy. Hãy trông dáng của thằng cha này ! - Phó chỉ huy Nhiệm đá Vương Văn Nghĩa một cái, nói, - Sao cứ dạng ra như lừa ngựa đứng đái vậy, đứng nghiêm thôi mà tập cũng không ra hồn.
Linh Tử thích xem phó chỉ huy Nhiệm đánh người thích nghe phó chỉ huy Nhiệm quát mắng người. Tác phong lanh lợi của phó chỉ huy Nhiệm khiến cô nhìn đến mê người. Khi không có việc gì, anh thường đến sân nhà tôi, chắp tay sau lưng đi dạo, Linh Tử nấp sau tường nhìn trộm anh ta. Phó chỉ huy Nhiệm hỏi:
- Cô tên gì?
- Linh Tử.
- Cô nấp sau tường xem cái gì?
- Xem anh.
- Cô biết chữ không ?
- Không biết
- Cô muốn đi lính không?
- Ủa, không muốn.
Về sau Linh Tử hối hận, cô ta nói với bố tôi rằng, nếu như phó chỉ huy Nhiệm hỏi lại cô, thì cô sẽ nói muốn đi lính. Nhưng phó chỉ huy Nhiệm không hỏi lại nữa. Linh Tử và bố tôi đứng ở đầu tường, xem phó chỉ huy Nhiệm đang dạy hát từng bài hát cách mạng ở trên bãi. Bố người thấp, dưới chân phải kê đến ba hòn gạch mới có thể nhìn thấy cảnh vật ở trong sân. Còn Linh Tử thì gác cằm xinh xắn lên bờ tường, dán mắt nhìn phó chỉ huy Nhiệm đang tắm ánh ban mai. Anh dạy đội ngũ hát:
Cao lương đỏ,
Cao lương đỏ,
Bọn giặc Nhật đến rồi !
Bọn giặc Nhật đến rồi !
Nước mất, nhà tan.
Đồng bào ơi mau, đứng dậy
Cầm dao, cầm súng,
Đánh giặc bảo vệ quê hương..
Những người trong hàng quân lưỡi cứng vụng về, hát mãi chẳng thành câu điệu. Còn lũ trẻ đứng bên ngoài tường, hát theo đã thuộc làu làu. Khi bố tôi còn sống người vẫn còn nhớ rất rõ bài hát ấy.
Một hôm, cô gái Linh Tử bạo dạn đi tìm phó chỉ huy Nhiệm, nhưng lại đi nhầm vào phòng của trưởng phòng quân nhu. Trưởng phòng quân nhu là Từ Đại Nha, chú ruột của Tư lệnh Từ, hơn bốn mươi tuổi, uống rượu như uống nước, tham tài hiếu sắc. Hôm ấy lão ta uống đã ngà ngà say, Linh Tử xông vào, chẳng khác gì con thiêu thân lao vào lửa, con dê chui vào hang hổ.
Phó chỉ huy Nhiệm lệnh cho mấy đội viên, bắt trói Từ Đại Nha vừa làm nhục cô gái Linh Tử.
Lúc bấy giờ, Tư lệnh Từ đang ở nhà tôi khi phó chỉ huy Nhiệm đi báo cáo thì Tư lệnh Từ đang ngủ trên giường lò* của bà tôi. Bà đã dọn dẹp xong, đang chuẩn bị rán mấy con cá liễu để nhắm rượu, thì phó chỉ huy Nhiệm xồng xộc đi vào, khiến bà tôi giật mình đánh thót một cái.
*Ở miền bắc Trung Quốc, người ta làm giường bằng đất hoặc xây bằng gạch, trên trải chiếu để ngủ, dưới có đường ống thông với ống dẫn khói mùa đông có thể đốt lửa cho ấm
Phó chỉ huy Nhiệm hỏi bà:
- Tư lệnh đâu?
- Đang ngủ trên giường lò - Bà nói.
- Gọi ông ấy dậy!
Bà gọi Tư lệnh Từ. Tư lệnh Từ mãi nhắm mắt mở đi ra, vươn vai, ngáp một cái, nói:
- Có chuyện gì thế ?
- Thưa Tư lệnh, nếu như người Nhật Bản hiếp dâm chị em của tôi, có nên giết không? Phó chỉ huy Nhiệm hỏi.
- Giết ! - Tư lệnh Từ trả lời .
- Thưa Tư lệnh, nếu như người Trung Quốc hiếp dâm chị em của mình, có nên giết không?
- Giết !
- Hay lắm, tôi chỉ chờ câu nói đó của Tư lệnh. - Phó chỉ huy Nhiệm nói - Từ Đại Nha hiếp dâm Tào Linh Tử, con gái nhà dân, tôi đã bảo anh em gọi trói lại rồi.
- Có chuyện ấy à? - Tư lệnh Từ hỏi.
- Thưa Tư lệnh, khi nào thì hành lệnh bắn?
Tư lệnh Từ nấc lên một cái, nói:
- Ngủ với một đứa con gái, hệ trọng gì?
- Thưa Tư lệnh, đến con vua mà phạm pháp cũng đều là phạm tội tất?
- Anh xem nên xử hắn ta tội gì . Tư lệnh Từ hỏi một cách nặng nề.
- Xử bắn? - Phó chỉ huy nói một cách dứt khoát.
Tư lệnh Từ hừ một tiếng, mặt hằm hằm, đi đi lại lại tỏ vẻ khó chịu. Sau đó, mặt ông nở nụ cười nói:
- Đồng chí Nhiệm, đánh cho hắn ta năm mươi roi trước mặt mọi người, đền cho gia đình cô ta hai mươi đồng, có được không?
Phó chỉ huy Nhiệm hỏi chua chát:
- Chỉ vì hắn ta là chú ruột Tư lệnh?
- Đánh tám mươi roi, bắt phải lấy Linh Tử. Tôi cũng đành lòng gọi là thím trẻ vậy.
Phó chỉ huy Nhiệm bèn cởi giây lưng kèm cả khẩu súng brô-ninh quăng vào lòng Tư lệnh Từ. Anh ta chắp hai tay nói:
- Tư lệnh, thế là tiện cả đôi đường. - Đoạn xoạc cùng bước ra ngoài sân.
Tư lệnh Từ cầm súng, nhìn theo lưng phó chỉ huy Nhiệm, nghiến răng nói:
- Cút mẹ mày đi, một thằng học trò ranh ma dám chỉ huy cả lão! Lão đây đã làm thổ phỉ mười năm, chưa một đứa nào dám làm phách như thế bao giờ.
Bà tôi nói:
- Chiếm Ngao, anh không được để phó chỉ huy Nhiệm bỏ đi. Nghìn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm.
- Đàn bà con gái biết cái gì - Tư lệnh Từ ngao ngán nói.
- Tưởng rằng anh là anh hùng hảo hán, té ra chỉ là đồ hèn? - Bà nói.
Tư lệnh Từ lên cò súng, nói:
- Chán sống rồi ha?
Bà tôi bèn xé ngực áo ra, lộ ra bộ ngực trắng tròn, nói:
- Bắn đi !
Bố tôi thét gọi mẹ, lao đến trước ngực bà tôi. Từ Chiếm Ngao nhìn đầu ngay ngắn của bố tôi, nhìn khuôn mặt xinh xắn của bà tôi, bất giác nhớ lại những chuyện ngày xưa ông thở dài, hạ súng xuống, nói:
- Sửa lại áo sống đi!
Đoạn ông xách roi ngựa, chạy ra ngoài sân, cởi thừng lấy con ngựa vàng, nhỏ, nhưng là giống ngựa hay, không thắng yên, cưỡi thẳng ra bãi tập.
Các đội viên đang ngồi tựa vào tường nghỉ, thấy Tư lệnh đến, vội đứng nghiêm, không ai dám thở mạnh.
Từ Đại Nha bị trói hai tay, cột dưới gốc cây.
Tư lệnh Từ xuống ngựa, đi đến trước mặt Từ Đại Nha nói:
- Chú làm thế thật à?
Từ Đại Nha nói:
- Cháu Chiếm Ngao, hãy cởi trói cho chú. Thôi từ nay chú không làm thế nữa.
Các đội viên đều trố mắt nhìn Tư lệnh Từ. Tư lệnh Từ nói:
- Chú, tôi sẽ bắn chú.
Từ Đại Nha gào lên:
- Đồ bất hiếu, mày lại dám bắn chú mày à? Hãy nhớ lại ân huệ chú đã ban cho mày. Bố mày chết sớm, chú phải đi làm nuôi hai mẹ con mày. Nếu không có chú thì xác mày đã bị chó ăn rồi!
Tư lệnh Từ vung roi, quất vào mặt Từ Đại Nha, chửi:
- Đồ chó ghẻ !
Đoạn quỳ hai đầu gối xuống, nói:
- Chú ơi, Chiếm Ngao không bao giờ quên ơn nuôi dưỡng của chú. Chú chết rồi, cháu sẽ đội mũ gai tang chú, ngày tết, ngày giỗ, cháu sẽ ra mộ cúng chú.
Tư lệnh Từ quay người, nhảy phắt lên lưng ngựa, vút một roi vào mông ngựa, phi về hướng phó chỉ huy Nhiệm, tiếng vó ngựa lộp cộp lộp cộp, chấn động cả thế giới này.
Khi bắn Từ Đại Nha, bố tôi cũng ở đấy. Từ Đại Nha bị anh câm và hai đội viên khác điệu đến đầu phía tây thôn. Nới hành hình ở cạnh cái đầm nước hình bán nguyệt, nước tù đen ngòm thối hoắc, đầy ếch nhái và sâu bọ. Cạnh đầm có một cây nhỏ lá vàng héo, đứng cô độc.Trong đầm cóc nhái nhảy tứ tung, trên đám rác đầy tóc rối là một chiếc giày phụ nữ.
Hai đội viên giải Từ Đại Nha đến bên đầm buông tay, nhìn anh câm. Anh câm tháo khẩu súng trường khoác trên vai xuống, lên cò bấm, đưa đạn vào ổ đạn. Từ Đại Nha quay người lại, nhìn thẳng vào anh câm, cười cười. Bố tôi phát hiện ra cái cười của ông ta sao mà hiền lành thế, trông giống như mặt trời chiều sắp lặn.
- Anh câm ơi, hãy cởi trói cho tôi, tôi không thể chết mà còn đeo cả dây!
Anh câm nghĩ ngợi một lát, xách súng đi.lên, từ trong thắt lưng rút ra một lưỡi lê, soẹt soẹt vài ba cái, cắt đứt giây trói. Từ Đại Nha ruổi cánh tay, quay người lại, hét lớn :
- Bắn đi, hỡi người anh em câm ơi, bắn trúng vào trán đây, đừng để ta phải đau đớn!
Bố nghĩ rằng con người ta lúc trước khi chết sẽ run sợ biết chừng nào, nhưng Từ Đại Nha là hạt giống của quê hương Đông bắc Cao Mật, ông phạm tội lớn, chết cũng chưa hết tội, thế mà trước khi chết ông lại tỏ ra khí khái anh hùng .
Nhìn Từ Đại Nha, bố tôi vô cùng xúc động, bàn chân cứ như nóng ran lên, muốn nhảy lên mà không được.
Từ Đại Nha quay về phía đầm, nhìn dòng nước sâm sấp dưới chân, nhiều sen đại màu lục có một bông hoa trắng toát gầy gò, rồi lại nhìn cánh đồng cao lương sáng loáng trước mặt hồ bỗng bật lên hét thật to:
Cao lương đỏ,
Cao lương đỏ,
Bọn giặc Nhật đến rồi !
Bọn giặc Nhật đến rồi !
Nước mất, nhà tan...
Khẩu súng của anh câm gương lên lại hạ xuống, hạ xuống rồi lại gương lên.
Hai đội viên nói :
- Anh câm ơi, hãy nể mặt Tư lệnh, tha cho anh ta đi !
Anh chống súng xuống, lắng nghe Từ Đại Nha hét lộn xộn.
Từ Đại Nha quay lại, mắt trợn trừng hét lớn:
- Bắn đi! Hai người anh em chẳng lẽ tao phải tự bắn tao à?
Anh câm nâng súng lên, nhắm vuông trán như viên ngói của Từ Đại Nha, bóp cò.
Bố tôi nhìn thấy vầng trán của Từ Đại Nha vỡ ra như viên ngói vụn liền với tiếng súng chói tai. Anh câm cúi đầu, một luồng khôi trắng từ họng súng bốc ra. Chỉ trong nháy mắt thân Từ Đại Nha bất động như một khúc gỗ, lăn nhanh xuống đầm.
Anh câm xách súng đi, hai đội viên đi theo sau.
Bố tôi cùng lũ trẻ, hoảng sợ đi đến bên đầm, từ trên cao ngó xuống nhìn Từ Đại Nha nằm ngửa ở dưới đầm. Mặt ông ta chỉ còn lại cái mồm là lành lặn, mảng sọ đầu bay mất; óc chảy xuống hai tai, một con ngươi bật ra ngoài, như quả nho to đeo lủng lẳng bên tai. Khi thân ông ta đổ xuống, bùn loãng bị đè bắn tứ tung, bông hoa sen trắng gầy gò bị đứt cuống, vẫn còn mấy sợi tơ vương vấn bên tay ông ta. Bố ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng của bông sen.
Sau đó, phó chỉ huy Nhiệm cho mang đến một quan tài gỗ bách, trong lót lụa vàng, ngoài sơn lớp sơn màu vàng thau, đặt Từ Đại Nha vào quan tài. đem chôn ở dưới gốc liễu cạnh đầm một cách khá chu đáo. Hôm đưa tang, phó chỉ huy Nhiệm cũng mặc áo tang đen, trên cánh tay trái còn đeo một băng lụa đỏ. Tư lệnh Từ đội mũ gai để tang, khóc thảm thiết vừa đi ra đầu thôn, ông cầm một cái chậu sành mới quăng mạnh vào đầu hòn gạch.
Hôm ấy, bà đội cho bố tôi một khăn tang trắng - bà cũng đội khăn gai để tang - bố tôi tay cầm gậy liễu còn tươi đi theo sau Tư lệnh Từ và bà. Bố nhìn thấy mảnh chậu vỡ trên đầu hòn gạch, lại nghĩ đến sọ Từ Đại Nha cũng vỡ ra như ngói vụn. Ông lờ mờ cảm thấy hai cảnh vỡ vụn ấy có một mối liên lạc nội tại, tất yếu. Việc kia gặp việc này, rồi sẽ xảy ra một việc thứ ba nữa.
Bố không rơi một giọt lệ nào, ông chỉ lạnh lùng nhìn đám người đến đưa ma. Nhưng người đưa ma đứng vòng tròn vây quanh dưới gốc cây liễu. Mười sáu tràng trai lực lưỡng, cầm tám sợi giây dòng chiếc quan tài nặng kia xuống cái huyệt khá sâu. Tư lệnh Từ bốc một nắm đất, lạnh lùng ném lên chiếc quan tài, gây nên tiếng động làm cho mọi người rùng mình. Mấy người cầm xẻng xúc từng mảng đất đen to hất xuống mộ, chiếc quan tài kêu lên một cách tức tối, rồi dần chìm sâu vào trong đất đen. Đất đen đầy dần, ngang với miệng huyệt, rồi nhô lên khỏi mặt đất và thành một cái ụ to hình dáng giống như chiếc bánh bao.Tư lệnh Từ rút súng ra, ngẩng lên, hướng về bầu trời trên đầu ngọn liễu, bắn liền ba phát.Đạn xuyên qua lùm lá, làm rơi mấy chiếc lá hình lông mày màu vàng, rồi bay vút trong tầng không. Ba. chiếc vỏ đạn rơi xuống dưới đầm hôi thối, một chú bé bèn nhảy xuống đầm, dẫm bóp bép xuống bùn xanh, nhặt lấy vỏ đạn. Phó chỉ huy Nhiệm cũng giơ khẩu brô- ninh ra bắn liền ba phát. Đạn bay như tiếng gà kêu, lao vào bầu trời trên ruộng cao lương. Tư lệnh Từ và phó chỉ huy Nhiệm tay cầm súng còn bốc khói, bốn mắt nhìn nhau. Phó chỉ huy Nhiệm, nói: "Đúng là đại anh hùng" đoạn giắt súng vào lưng rảo. cùng đi về trong xóm.
Bố tôi phát hiện ra tay cầm súng của Tư lệnh Từ từ từ nâng lên, hướng họng súng về phía lưng của phó chỉ huy Nhiệm. Mọi người hết sức kinh sợ, nhưng không ai dám lên tiếng. Phó chỉ huy Nhiệm tuyệt nhiên không biết, vẫn cao đầu bước đi đều đều ngẩng nhìn về hướng vầng mặt trời như chiếc bánh, rồi đi vào trong xóm. Bố tôi thấy khẩu súng lục trong tay Tư lệnh Từ rung lên. Bố hầu như không nghe thấy tiếng viên đạn nổ, nó nổ bẻ quá và ở xa nữa. Nhưng bố nhìn thấy viên đạn bay liệng trên không trung, rồi lướt qua tóc đen ánh của phó chỉ huy Nhiệm. Phó chỉ huy Nhiệm không quay lại, ông vẫn bước đều đều, nhịp nhàng tiếp tục đi về phía trước. Từ phía phó chỉ huy Nhiệm bố nghe thấy tiếng huýt sáo thổi từ môi người ra, làn điệu tất là quen thuộc: "Cao lương đỏ, cao lương đỏ!" bố tôi nước mắt lưng tròng. Phó chỉ huy Nhiệm càng đi càng xa, bóng ông càng to lớn. Tư lệnh Từ lại bắn phát nữa. Tiếng súng lần này vang động đất trời, bố tôi đều cảm nhận được cả đường đạn bay và tiếng súng cùng một lúc. Đạn bắn vào đầu một cây cao lương, cây cao lương đổ xuống đất. Khi bông cao lương đang từ từ ngã xuống đất, thì một viên đạn nữa bắn nó tan tành. Bố hoảng hốt. Phó chỉ huy Nhiệm cúi xuống bên đường ngắt bông hoa rau đắng màu vàng đưa lên mũi ngửi.
Bố từng nói với tôi rằng, phó chỉ huy Nhiệm đúng là đảng Cộng sản. Ngoài đảng Cộng sản ra, thì khó tìm được một tay hảo hán thuần chủng đến như thế. Chỉ đáng tiếc là người anh hùng đó mệnh đoản. Sau lần ông cao đầu rảo bước, tỏ ra khí khái anh hùng ấy, thì ba tháng sau, trong khi lau chùi khẩu súng brô-ninh, bị cướp cò giết chết. Đạn xuyên từ mắt trái ra tai phải, một nửa mặt dính đầy khói thuốc súng, tai phải rỉ ra năm ba giọt máu đen. Mọi người nghe thấy tiếng súng đều lao đến, thì ông đã ngã vật ra chết.
Tư lệnh Từ nhặt lấy khẩu súng brô-ninh, hồi lâu không nói.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip