cau 3 thuthi

Dân tộc nào cũng có những truyền thống riêng của dân tộc đó. Chính những truyền thống đã phân biệt dân tộc này và dân tộc khác.

Người Việt Nam đã lập quốc trên 4000 năm, có một nền văn hóa cao, lâu đời, cho nên cũng có những truyền thống lâu đời.

Truyền thống là việc làm, hay tinh thần lập đi lập lại truyền đến nhiều đời vẫn không dứt.

Truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta: là những giá trị tinh thần ( Những tư tưởng, đức tính, lối sống, cách ứng xử tốt đẹp...) hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

I - Truyền thống yêu nước

Lịch sử Việt Namlà một lịch sử chiến tranh triền miên.

Về địa lý, Việt tộc ngày xưa là một vùng đất rộng lớn nằm từ phía nam núi Ngũ Lĩnh, sông Dương Tử xuống tới tận bình nguyên sông Hồng Hà và sông Thái Bình, tức là hơn nửa nước tàu bây giờ.

Ðây là thời kỳ rất bộ tộc Việt sống chung với nhau, mà sử sách gọi là Bách Việt. Dân Bách Việt sống bằng nghề nông. Người Bách Việt được gọi là Việt tộc phương nam, sống hiền hòa, khác với Hán tộc phương bắc, sống trên lưng ngựa, hiếu chiến.

Dần dần, Bách Việt bị Hán tộc thôn tính, chỉ còn sót lại Việt tộc ở bình nguyên sông Hồng. Dĩ nhiên, Hán tộc không ngưng tham vọng của họ ở đó. Họ muốn diệt luôn dòng Việt cuối cùng này.

Việt tộc vừa phải chiến đấu để giữ lại vùng đất dừng chân cuối cùng, vừa phải mở mang cho vùng đất rộng thêm, đáp ứng với sự gia tăng của dân số.

Vì đó là lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến tranh.

Từ ý niệm giữ lấy vùng đất cuối cùng để bảo tồn nòi giống, người Việt rất yêu đất nước. Tinh thần yêu nước đã được nhìn thấy qua biết bao ngiêu cuộc khởi nghĩa dưới 1000 năm Bắc thuộc. Từ hai bà Trưng, bà Triệu, đến Bố Cái Ðại Vương Phùng Hưng, Mai Hắc Ðế, xuống tới Ngô Vương Quyền, tất cả các cuộc khởi nghĩa đều phát sinh từ lòng yêu nước.

Cuộc khởi nghĩa của Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, hàng trăm, có thể nói là hàng ngàn cuộc khởi nghĩa thời Pháp thuộc, phần lớn đều phát xuất từ lòng yêu nước.

Câu "giặc tới nhà đàn bà phải đánh", nói lên lòng yêu nước thâm sâu này.

Ngày nay, những người cộng sản kiêu hãnh cho rằng ngày trước, người Việt Nam chỉ biết trung thành với vua, chứ không biết yêu nước, chủ nghĩa yêu nước chỉ có tại Việt Nam kể từ khi có đảng cộng sản. Ðây là một quan niệm hết sức sai lầm.

Trước hết, yêu nước, đối với người Việt Nam không phải là một chủ nghĩa, mà là một truyền thống ngàn đời.

Thứ hai, người Việt Nam đánh giặc vì muốn gìn giữ đất nước, muốn mở mang lãnh thổ, chứ không phải vì muốn bảo vệ ngai vàng của một ông vua.

Bà Trưng, bà Triệu hay Lê Lợi không có một ông vua nào để trung thành hết.

Tinh thần này thấy rõ trong bài hịch kêu gọi đánh Tây của ông tú tài Nguyễn Ðình Chiểu:

"Bớ các làng ơi,

Chớ thấy chín tầng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi pha; Chớ rằng ba tỉnh trọn vong mà cái việc cừu thù đành gạt bỏ"

Vua Tự Ðức đã hòa với Pháp rồi, mà cụ Ðồ Chiểu còn kêu dân đánh giặc, thì rõ ràng đâu có phải vì trung thành với một ông vua.

Vì yêu nước nên tất cả toàn dân, từ đồng bằng lên tới thượng du đã hăng hái tham gia

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên do các vua quan nhà Trần lãnh đạo. Mỗi làng thành ra một pháo đài. Tài sản ai mà không quí, thóc lúa hoa lợi, ai mà không quý, vậy mà người Việt Nam thời đó đã đốt bỏ hết, tạo ra cảnh vườn không nhà trống, rồi trốn vào rừng, mỗi khi giặc dữ đi

qua. Nguyên trong ba cuộc xâm lăng của nhà Nguyên chỉ có hai làng đầu giặc thôi.

Như vậy mới biết lòng yêu nước của Việt tộc cao cả tới cỡ nào.

Yêu nước, đối với người Việt Nam là truyền thống, cho nên tất cả các cuộc xâm lăng đều bị chận đứng, hoặc đánh tan.

Cứ nhìn các nước xung quanh Trung Hoa trước kia thì thì biết. Nào là Ðại Liêu, Tây Hạ, Ðại Lý, Bắc Ðịch vv... bây giờ có nước nào còn đâu, chỉ còn một mảnh đất con con hình cong chữ S nằm bên nằm bên ven Thái Bình Dương, là Việt Nam.

Nếu không có truyền thống yêu nước, người Việt Nam đã không giữ như vậy.

II- Truyền thống bất khuất

Bất khuất là không chịu khuất phục.

Hồi thời nhà Triệu, nước ta là Nam Việt. Nhà Hán cử Lục Giả qua dụ hàng, khi về lại triều đình, Lục Giả đã đưa ra nhận xét:

Giống dân Việt ấy không thể khuất phục được.

Tinh thần bất khuất của dân Việt Nam được nhìn thấy qua câu của Bà Triệu:

Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch cõi bờ, cứu muôn dân ra khỏi cơn đắm đuối, chớ không bắt chước người đời, cúi đầu khom lưng làm tì thiếp người ta.

Tinh thần bất khuất cũng được nhìn thấy qua câu tuyên bố của Lê Lợi, Bình Ðịnh Vương:

Làm trai sinh ở trên đời, cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao chịu bo bo làm đầy tớ người.

Tinh thần bất khuất của người Việt còn thấy ở khắp nhân gian qua việc vạt áo cài luôn bên phía trái, gọi là tả nhậm, ngược lại với người Tàu vạt áo cài bên phía phải, gọi là hữu nhậm.

Người Việt Nam phát biểu vòng ngũ hành theo chiều nghịch, theo lẽ tương khắc (kim, mộc, thổ, thủy, hỏa), người Tàu phát biểu theo chiều thuận, theo lẽ tương sinh (kim, thủy mộc, hỏa, thổ). Trong triết lý cao siêu nhất của đông phương là dịch lý, người Việt lấy quẻ Khôn (đất) làm quẻ chính, trong khi người Tàu lấy quẻ Càn (trời) làm quẻ chính...

Tinh thần bất khuất đó cũng ăn sâu vào lòng mỗi người dân Việt, để trở thành truyền thống muôn

đời.

Bởi vậy, khi người Việt bị các giống dân khác đô hộ, nếu mình yếu thế thì tinh thần bất khuất biểu lộ bằng lới nói, bằng sự châm chọc, bằng những mẩu chuyện tiếu lâm. Ðến khi mình mạnh thì vùng lên giết giặc...

III- Truyền thống tự chủ

Tự chủ là tự dân tộc mìnhlàm chủ đất nước của mình.

Tinh thần tự chủ của Việt tộc biểu lộ qua bài thơ của Lý Thường Kiệt đời nhà Lý:

Nam quốc sơn hà Nam Ðế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Ðược dịch:

Nước Namvốn thuộc vua Nam ở Rành rành định phận bởi sách trời Cớ sao lũ giặc bay xâm phạm

Lũ bay rồi chết hết cho coi.

Trong bài Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi, tinh thần tự chủ cũng được nhắc lại trong

đoạn mở đầu:

Như nước Việt ta thuở trước Vốn xưng văn hiến đã lâu Sơn hà cương vực đã chia

Phong tục bắc nam cũng khác

Từ Ðinh Lê Lý Trần độc lập

Cùng Hán Ðường Tống Nguyên hùng cứ một phương

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

Tinh thần tự chủ lên cao độ trong bài hịch đánh quân Thanh của Quang Trung Hoàng đế

Nguyễn Huệ:

Ðánh cho để dài tóc

Ðánh cho để răng đen

Ðánh cho nó chích luân bất phản

Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Ðánh cho nó sở tri Nam quốc anh hùng duy hữu chủ

Tinh thần tự chủ của Việt tộc cao đến như vậy. Nhờ vào tinh thần này, người Việt trên đất Việt ngày nay còn giữ được tiếng nói, trong khi các giống Việt khác trong dòng Bách Việt, như Ðiền Việt ở Vân Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Việt Ðông ở Thượng Hải, Ðông Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây, đều mất hết tiếng nói.

Ðọc lịch sử, chúng ta thấy có rất nhiều giai đoạn nước Việt phải xưng thần, phải triều cống, phải nhận sắc phong của nước Tàu. Ðây không phải là sự mất tự chủ, mà là một phương cách ngoại giao khéo léo để giữ nước. Trong các giai đoạn đó, người Việt vẫn làm chủ nước Việt, chớ không để mất nền tự chủ.

Tinh thần tự chủ, truyền từ đời nọ đến đời kia, trở thành truyền thống của dân tộc Việt

Nam.

Ba truyền thống yêu nước, bất khuất và tự chủ có liên hệ tương quan với nhau, xen kẽ nhau, không có rời, đúc kết lại như là một ý chí sắc đá của dân tộc, nhờ vậy mà dân tộc, nhờ vậy mà đất nước chúng ta còn hoài.

IV- Truyền thống hiếu học

Một bà mẹ Việt Nam đã khuyên con:

Con ơi, nghe lấy lời này

Muốn khôn thì phải tìm thầy học khôn

Sao cho nghĩa trả ơn đền

Ðể yên việc nước kẻo phiền mẹ cha

Làm trai vì nước quên nhà

Nước kia có vẹn thì nhà mới yên

Nhớ câu tạo thế anh hùng

Văn minh hai chữ đọ cùng năm châu

Lòng mẹ luống những âu sầu Sầu vì một nỗi bấy lâu ngu hèn Mẹ có tham, mẹ chẳng tham tiền Tham vì một nỗi đua chen với đời Khuyên con có bấy nhiêu lời...

Dân tộc Việt Namcó một tinh thần hiếu học rất cao. Và, bài ca dao trên đây đã cho thấy tinh thần hiếu học và mục đích của sự học. Muốn khôn thì phải học và học để phục vụ đất nước.

Việt Nam cho tới cuối thời Pháp thuộc vẫn theo chế độ quân chủ, nhưng việc tuyển chọn những người tài năng, đạo dức để ra làm việc nước, hoàn toàn theo tinh thần dân chủ. Kể từ thời nhà Trần, bắt đầu có tổ chức những khoa thi. Từ những khoa thi này, mọi người dân đều có cơ

hội tham gia việc nước, miễn là có đủ tư cách và đức độ để cho làng xã chứng nhận cho đi thi và

đủ tài năng để thi đậu.

Con đường thi cử không phải là con đường duy nhất để cho người dân tiến thân, ra giúp nước, cứu đời, nhưng là một con đường rất quan trọng.

Xã hội Việt Nam không có giai cấp, chỉ có bực thang giá trị. Trong bực thang giá trị nầy, người có học được xếp hàng đầu; Sĩ, Nông, Công, Thương.

Trong tổ chức làng xã, người có học được nhiều quyền lợi ưu tiên như được miễn tạp

dịch có tính cách lao động, được tham dự vào ban tế lễ, tệ nhất cũng là lễ sinh hay còn gọi là học trò lễ...

Người có học mà thi đậu, được cờ quạt, võng lọng, chiêng trống đón rước về làng, không những tự bản thân được vinh dự, mà còn đem vinh dự về cho ông bà, cha mẹ, và cả cho họ hàng làng nước.

Ðó là những lý do tạo nên tinh thần hiếu học cho con người Việt Nam.

Hiếu học không phải chỉ để được vinh thân phì gia. Hiếu học là để có cơ hội tham gia vào việc nước. Người có học được gọi là Sĩ. Chữ Sĩ (viết theo Hán tự) được diễn tả như một người đứng bằng chân trên mặt đất, đầu đội trời, dang rộng hai tay, gánh vác việc nước, việc đời.

Học, thi đậu, làm quan hay không làm quan, mà không giúp được gì cho nước thì chưa

đạt được mục đích của sự học. "Làm trai vì nước quên nhà, nước kia có vẹn thì nhà mới yên." Bà mẹ Việt Nam, thấm nhuần đạo sống của dân tộc Việt Nam, đã dạy cho con như vậy.

Tinh thần hiếu học của người Việt Nam đã biến thành truyền thống. Và truyền thống này vẫn còn tiếp nối ở trong nước, cũng như tại hải ngoại.

Mặc dù thiếu thốn phương tiện, trẻ em, thanh niên Việt Nam, phần lớn đều ham học. Các bậc cha mẹ vẫn muốn cho con học hành đàng hoàng. Có nhiều cha mẹ không xấu hổ vì nghèo, mà xấu hổ vì con cái học hành thua kém con cái cho người khác. Chỉ tiếc rằng chế độ cộng sản không tạo đủ những điều kiện để thỏa mãn tinh thần hiếu học cho tầng lớp trẻ và nhất là không tạo được điều kiện để cho những người có học góp phần xây dựng xã hội một cách xứng đáng.

Ở hải ngoại, con số sinh viên, học sinh tốt nghiệp hàng năm vẫn là niềm tự hào của các cộng đồng người Việt. Học sinh Việt Nam chẳng những học giỏi mà còn lễ độ với giáo chức, giữ trật tự trong lớp học.

Truyền thống hiếu học còn được giữ tới ngày nay. Vấn đề còn lại là học để làm gì, tức là mục đích của sự học.

Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.[1]

Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của còn người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kì thời tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kì lao động của con người

Việt Nam là đất nước có lịch sử hào hùng và là cái nôi văn hóa nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trải qua nhiều biến động về chính trị, xã hội, các thế hệ tổ tiên chúng ta với bản lĩnh kiên cường vẫn quyết tâm gìn giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay không những bị ảnh hưởng quá nhiều của các luồng văn hóa nước ngoài, mà còn thiếu hiểu biết và xem thường dẫn đến nguy cơ biến mất của những loại hình văn hóa ông cha để lại.

May thay, việc Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO đứng ra công nhận và bảo tồn các di sản văn hóa thế giới đã mở ra cơ hội giúp chúng ta có thể bảo tồn và khôi phục lại các loại hình văn hóa nghệ thuật này. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số loại hình văn hóa phi vật thế nhân loại của Việt Nam đã và sắp được UNESCO công nhận, giúp bạn thêm hiểu biết và yêu quý các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Đặc điểm của các di sản văn hóa phi vật thể nhân loại

Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách "Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại" phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử tới UNESCO trước khi được đưa ra xem xét bởi một ủy ban chuyên biệt. Những di sản được công nhận phải có những đặc điểm và giá trị sau:

·                                 Kiệt tác có giá trị đặc biệt do nhân loại sáng tạo nên.

·                                 Có sức ảnh hưởng lan tỏa trong cộng đồng và sự độc đáo của bản sắc văn hóa.

·                                 Tính ứng dụng, các chất lượng kỹ thuật và các khả năng mang lại hiệu quả.

·                                 Mang giá trị như một chứng nhân độc đáo cho truyền thống văn hóa;

·                                 Có nguy cơ biến mất do thiếu phương tiện bảo vệ và do quá trình đô thị hóa hay do tiếp biến văn hóa. Vấn đề này phải được các quốc gia thể hiện trong các biện pháp quản lý và chương trình hành động.

Nhã nhạc cung đình Huế

Ngày 7/11/2003, lần đầu tiên một di sản phi vật thể của Việt Nam đã được công nhận là di sản nhân loại với mục "Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại". Đó là Nhã nhạc Huế, kiệt tác âm nhạc cung đình, cô đọng những tinh hoa của âm nhạc chính thống Việt Nam và có nguy cơ biến mất.

Cồng chiêng Tây Nguyên

Ngày 25-11-2005, văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam, di sản thứ hai sau Nhã Nhạc Huế, được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại". Đây là loại hình văn hóa âm nhạc đặc sắc, gắn bó mật thiết với cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #hưng