Câu 4:Tồn tại XH là gì?Ptích mối qhệ biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH?
Câu 4: Tồn tại xã hội là gì? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó có các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
− Vai trò của tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
• Mác cho rằng: “Đời sống tinh thần của xã hội được hình thành và dựa trên cơ sở của đời sống vật
chất.
• Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng: họ xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi xã hội. Họ trình bày lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội tách rời cơ sở xã hội.
• Còn chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng: “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự
phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội”.
− Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội.
• Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí là mất đi rất lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây:
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những
hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể
không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp
nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã
hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
• Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.
• Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế hiện tại và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao.
• Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý
thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
• Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cảm trở sự phát triển của tồn tại xã hội.
Ví dụ : Nhưng ý thức xã hội có tác động trở lại tồn tại xã hội. Đó là cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ cái cũ (XH đương thời) xây dựng cái mới (xã hội mới). Khi con người ý thức được quy luật phát triển của xã hội loài người, ý thức được chính mình....Nên đã vùng dậy phá bỏ xiềng xích.....Đấu tranh giải phóng bản thân cũng như đấu tranh giải phóng toàn xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ
ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ví dụ : Trong chế độ CXNT do lực lượng sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất quá thô sơ (gậy gộc, hòn đá, cung tên) nên người nguyên thủy buộc phải thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (rừng cây, con suối), phải sống tập đoàn mới có thể kiếm được thức ăn, chống thú dữ, tất cả của cải làm ra được chia đều, dùng hết không còn dư thừa, nên không thể có sự chiếm hữu làm của riêng, không có tình trạng người bóc lột người.
Nhưng khi công cụ bằng kim loại xuất hiện, lực lượng sản xuất có bước phát triển mới. Sản phẩm làm ra đủ mức sống tối thiểu và có dư ra đôi chút, đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện chế độ tư hữu, mà hình thức đầu tiên là chế độ chiếm hữu nô lệ, tù binh và các thành viên nghèo đói trong xã hội biến thành nô lệ.
Người nắm tư liệu sản xuất, trở thành chủ nô.
Thời kỳ đầu, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ rất thích hợp, nó phá vỡ sự trói buộc con người trong các thị tộc, bộ lạc, tạo điều kiện cho sự phân công lao động (chăn nuôi, trồng trọt và sau này là thủ công nghiệp). Chính sự hợp tác giản đơn này của lao động nô lệ đã cho phép tạo ra những công trình đồ sộ (Kênh đào, nhà hát, sân vận động..) lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thúc đẩy sự phát triển rực rỡ của thi ca, điêu khắc, khoa học, triết học thời cổ đại.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip