THẦN KỲ HỌC

*Tác giả: Thiền sư THÍCH QUANG TÔNG

*Người dịch: Cư sĩ CHÁNH NGUYÊN

釋光宗 禪師 著

正源居士 越譯

THẦN KỲ HỌC

神奇學

NĂM 1995

MƯỜI ĐIỀU LỢI ÍCH TRONG VIỆC IN KINH SÁCH PHẬT

Tất cả những tội lỗi đã gây ra từ trước đến nay, tội nhẹ thì được tiêu, tội nặng được chuyển thành nhẹ.

2. Thường được chư thiện thần ủng hộ. Tất cả chứng ôn dịch, tai nạn nước lửa, trộm đạo, đao binh, tù ngục, đều được xa lìa.

Vĩnh viễn được miễn giảm cái khổ báo phục cừu thù, oán hận từ nhiều kiếp, được ích lợi của giáo pháp, đến chỗ giải thoát.

Có thể vì tất cả chúng sanh, gieo trồng nhiều căn lành, theo tâm của chúng sanh mà tạo phước điền lớn, được vô lượng quả lành.

Tâm được an ổn, ban ngày không có việc nguy hiểm, ban đêm không có ác mộng, nhan sắc tươi tốt, sức khỏe đầy đủ, làm được nhiều điều tốt lành.

Hết lòng phụng pháp, dù không có tâm mong cầu, vẫn tự nhiên được dư dả cơm ăn áo mặc, gia đình hòa thuận, phước thọ lâu dài.

Lời nói cùng việc làm, trời người đều hoan hỉ, đi đến nơi nào, đều được nhiều người cung kính, thương mến.

Ngu chuyển thành trí, bệnh chuyển thành mạnh khỏe, khó khăn chuyển tành thuận lợi. Nếu là thân nữ, khi mãn báo thân này, được chuyển thành thân nam mau chóng.

Vĩnh viễn xa lìa đường ác, sinh vào cõi lành, tướng mạo đoan chính, trí tuệ hơn người, phước lộc thù thắng.

Sanh ra nơi nào, cũng đều thấy Phật nghe pháp, mãi cho đến khi tam huệ mở rộng, thân chứng lục thông, thành tựu Phật đạo.

MỤC LỤC

NHỮNG ĐIỀU QUAN TRỌNG TRONG SÁCH NÀY.. 4

LỜI NÓI ĐẦU.. 5

PHÁT HIỆN RA SỰ THẦN KỲ.. 8

TỔNG CƠ QUAN CỦA VŨ TRỤ.. 11

THẢM HỌA CỦA VŨ KHÍ HẠT NHN.. 13

NẠN NHN MÃN.. 15

ĐI VÀO THỰC HIỆN: 8 MỤC TIÊU CÔNG TÁC TỐI CẦN HIỆN NAY.. 16

1. CHẾ TẠO HẤP NĂNG THÁP (Hoặc hấp năng cầu: Tháp hoặc cầu hút năng lượng hạt nhân). 17

2. BẦU KHÍ ĐẶC THÙ.. 19

3. BÁNH MÌ LÀM BẰNG CÁT. 19

4. NƯỚC UỐNG ĐIỀU CHẾ TỪ CÁT VÀNG.. 22

5. BIẾN SA MẠC THÀNH RỪNG CY TRÁI NGÚT TRỜI. 24

a) NGƯỜI HÓA RA CHÓ.. 26

b) CÚ ĐIỆN THOẠI GIẾT NGƯỜI. 28

6. DẦU XĂNG VÀ MỌI THỨ CÓ THỂ ĐIỀU CHẾ TỪ NƯỚC BIỂN.. 29

7. CHẾ TẠO VÀNG VÀ GANG, SẮT TỪ NƯỚC. 31

8. TRẺ MÃI KHÔNG GIÀ.. 32

CHẲNG TIN GIÓ XUN GỌI KHÔNG TRỞ LẠI. 38

NGUỒN GỐC MUÔN VẬT. 40

TRƯỜNG QUI PHẠM (QUANTUM FIELD) 42

QUAN HỆ GIỮA TM VÀ VẬT. 44

TM TM DẪN NHAU – CON NGƯỜI. 45

ĐỘNG VẬT. 47

THỰC VẬT. 49

QUỶ THẦN.. 52

a) TRĂM VẬT PHÁT SÁNG.. 52

b) SÓI ÔM ĐẦU.. 54

c) UFO (VẬT THỂ BAY KHÔNG XÁC ĐỊNH) TRÊN BẦU TRỜI. 55

d) QUỶ LỘNG Ở HONGKONG: 58

e) SỰ ANH LINH XẢY RA Ở BẠCH CUNG (White house - USA) 62

HÌNH THÁI CỦA TM LINH.. 64

PHƯƠNG PHÁP TU HỌC.. 68

a) PHÉP NHIẾP NIỆM (Nhiếp niệm pháp): 68

b) PHÉP HÓA NIỆM (Hóa niệm pháp) 69

TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC CÙNG NGUỒN GỐC.. 73

TẨU HỎA NHẬP MA.. 76

HUYỄN GIÁC.. 78

THÁC GIÁC.. 80

KẾT LUẬN.. 82

PHỤC LỤC.. 83

1. PHỤ BẢN 1: Cuộc Đối Thoại Giữa Hai Nhân Vật BÁ BẢO và QUANG MINH.. 83

2. PHỤ BẢN 2. ĐẠO.. 94

NHỮNG ĐIỀU QUAN TRỌNG TRONG SÁCH NÀY

1. Mở ra sự bí ẩn, thông suốt lẫn nhau giữa vật này và vật khác. Báo cho bạn biết bốn phía trước sau, trái phải quanh bạn đều được bao vây bằng những vật quí báu như vàng. Chỉ cần ông đủ sức phát huy được trí năng sẵn có trong tâm linh, là có thể biến mọi thứ bụi bậm thành ra bật báu, muôn vạt đều là vàng.

2. Biết rằng chính những thư tạp niệm lăng xăng trong tâm linh chúng ta là trở ngại lớn nhất ngăn ta vào vũ trụ tri giác. Một khi bạn dùng phương pháp nào đó để dừng lặng được tất cả những “tự ngôn tự ngữ” không hơi không tiếng trong bụng, vĩnh viễn bặt dừng, là bạn sẽ thu đạt được thần lực tự tại, biến mọi thứ mục nát thành vật giá trị to lớn. Sách này đề ra một phương pháp hữu hiệu, giúp quí vị siêu phàm nhập thánh, muôn biết ngàn thông.

3. Sách này nêu lên tám công tác mà giới khoa học hiện nay “chỉ mới nghe được tiếng sấm mà chưa thấy mưa rơi”, làm chỗ nhắm tới cho các vị đệ tử Phật cố gắng thực hành. Khi công phu đạt đến vào vũ trụ tri giác, tâm có thể chuyển được vật, khiến cho bất cứ nơi nào trong ba ngàn thế giới đều được hào quang an lạc tỏa rộng rực rỡ, an vui.

LỜI NÓI ĐẦU

Thế giới hiện nay có rất nhiều vấn đề mà ta khó thể hiểu nổi, như vấn đề ai nấy đều biết là nhiều tôn giáo nêu lên mục tiêu “Tu Tâm”, vậy mà ít thấy ai đem đến vấn đề tâm ra bàn. Chỉ phổ biến những lời rát tai như là: lên thiên đàng, vãng sanh Tây phương, thành Phật, làm Tổ…Nhưng lý do tại sao lại Tu Tâm, nó ở đâu, tu cái gì trong tâm, tu như thế nào, tu thành công sẽ được gì…thì ít ai đem ra nghiên cứu, thảo luận. Muốn tu tâm thì không thể không biết những chi tiết đó, ngay cả học sinh tiểu học cũng hiểu tầm quan trọng của việc này, thế mà chưa thấy ai đem ra bàn bạc, thử hỏi có lạ lùng không?

Hiện nay, phương pháp tu hành của các tôn giáo trên thế giới không ngòai các động tác lễ bái, cúng tế, cầu nguyện, khiến cho cứu cánh của tín ngưỡng chỉ mong thỏa mãn những nhu cầu của mình, nhờ vào các động tác đó làm cho các đấng ấy vui lòng, ban phát cho những ân sủng.

Điều mang tính thuyết phục nhất trong các tôn giáo hiện nay là những kỳ tích thần bí: bệnh nặng được khỏi, gặp nạn được qua, lâm nguy được cứu…Tất cả đều đồng ý đó là kết quả của sự tín ngưỡng lớn lao. Cho nên, không ít người chỉ biết rằng tu để khi chết được Phật, Chúa tiếp đón vào chốn “trời xanh mây trắng”, đến những thế giới diễm lệ như kinh điển diễn tả. Còn đối với việc Tu Tâm, họ có rảnh thì giờ đâu mà nghĩ đến!

Nguyên nhân của việc theo con đường bỏ gốc lấy ngọn, là do những phương pháp Tu Tâm lệch lạc, phổ biến từ lâu, khiến cho nhiều người thành tâm lao vào tu, chẳng quản khó khăn, vất vả, hết sức lao nhọc mà đến ngày thi thì lại “nộp giấy trắng”! Lại thêm tình trạng tích lũy tiếp nối những lối dạy tu sai lầm qua nhiều đời, cùng những sách vỡ vô giá trị tràn ngập, khiến cho người tu đầu óc mờ mịt, không biết đường nào mà lần !

Đạo Phật trên thế giới hiện nay chẳng những có đầy đủ những hình thức cầu xin, tán tụng hoa mỹ, tương tự các tôn giáo khác, mà còn có phương pháp hết sức cao quí về mặt tu hành mà các tôn giáo khác không có. Đáng tiếc thay những phương pháp tu Phật thần diệu đã bị ô nhiễm nặng nề, chìm đắm trong chuỗi thời gian quá dài bởi những lời dạy đạo không chút liên quan giá trị gì đến Tu Tâm, tràn ngập trong Phật giáo hiện gây biết bao tai nạn, khiến cho ánh sáng rực rỡ, thánh thiện của Phật giáo không phát ra được!

Nếu quí vị cho là tôi nói quá đáng, thì xin vui lòng mở những sách dạy tu Phật ra xem, đâu đâu cũng toàn những câu tối tăm khó hiểu, chẳng có chút tác dụng gì cho người tu. Đại loại như:

A bảo: Tôi là một con lừa

B đáp: Tôi là cái mông đít con lừa

A đáp: Tôi là phân trong cái đít đó

B đáp: Tôi con dòi trong phân này

A đáp: Anh ở trong phân đó làm gì

B đáp: Tôi ở đó để tránh nắng, nghỉ mát!

Đó là một Tắc quan trọng của công án thiền. Hai nhân vật A và B đều là những nhân vật có tiếng tăm trong thiền tông.

Qua lời đối đáp trong tắc này, ai nhận ra được có sự “quan hệ mật thiết” giữa nó và việc tu tâm, thì vị ấy quả là “Đạo Hảo Hán”! Đành là có người bảo “Có thể THAM công án này, phát hiện ra ý thú độc đáo của nó”, nhưng theo tôi thì, tốt nhất là chẳng nên THAM nó làm gì, để dành thì giờ mà ngắm kiến xây tổ, chuồn chuồn giỡn nước, có lẽ thú vị hơn nhiều!!!

Đặc biệt, có một vị thiền sư cận đại mang tầm cỡ quốc tế, đã giảng giải về hai chữ Khai Ngộ như sau: “Chữ Khai Ngộ nhà Phật nói là ở chỗ, từ trạng thái vô ý thức chuyển sang trạng thái ý thức, nhận ra tức khắc chủ và khách, ngay trong sát na (Ksana) bừng tỉnh đó, ta đã được Khai Ngộ!”

Lại nói thêm: “Trong lúc ý thức tỉnh giác, chỉ có một trạng thái hồn nhiên, lấy cái hồn nhiên đó tự phân hai ra chủ khách, tuy là Hai mà vẫn giữ được cái Một, đó là Ngộ”

Hai kiểu “khai ngộ” trên, tôi tin rằng dù là Đạt Ma Tổ Sư cũng không hiểu nổi! Có lẽ vị đại thiền sư này, khi cầm bút viết những câu trên, đã quên mất trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói rất đơn giản:

“Cuồng tâm đình yết, yết tức bồ đề.

Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền”

(Tâm cuồng ngừng lặng, lặng tức bồ đề

Sanh diệt đã hết, tịch diệt hiện ra)

Lại có một thiền sư nổi danh một thời khác, đã dạy người học một phương pháp dụng công như sau:

“Nơi có Phật chẳng được trụ, nơi không Phật gấp chạy qua”, lại thêm “Chỗ dấn thân chẳng tông tích, chỗ không tông tích đừng dấn thân”

(Hữu Phật xứ bất đắc trụ, vô Phật xứ cấp tẩu quá. Tàng thân xứ mạc tung tích, một tung tích xứ mạc tàng thân.)

Những câu dạy tu kiểu trên, cho dù chúng ta đem soi vào kính hiển vi điện tử hiện đại nhất, một cách kiên nhẫn lâu dài, cũng không thể nào tìm thấy nó dính líu gì đến pháp trị tâm bệnh!

Chính vì những lối dạy tu “rác rưởi” sai lầm như thế quá phổ biến, người nghe đàu óc tối đen, không biết đâu mà theo, một đời cực khổ tu hành, kết quả trống rỗng, chẳng lợi ích gì cho người đọc.

THẦN KỲ HỌC sẽ giúp cho Tâm quí vị đạt đến chỗ nghỉ ngơi, dừng hẳn không tái phát những thứ tự ngôn tự ngữ, lăng xăng rối rít cả ngày lẫn đêm liên tục không ngừng. Từ đó, quí vị sẽ sinh ra được hàng loạt những linh cảm, để có thể chính trong thế giới vật chất sum la vạn tương này, biến mọi thứ mục nát vô dùng thành thứ quí giá, đốt phá công kích thẳng vào những vấn đề thực tiễn trong cuộc sống, biến quả địa cầu đầy rẫy bốn phương tai ách này thành một nơi giàu có, an ổn vui hòa ở ngày mai!

PHÁT HIỆN RA SỰ THẦN KỲ

Trong vũ trụ đầy rẫy những bí ảo, nếu như bạn có trí năng (sức hiểu biết đầy đủ), thì ngay ở bốn xung quanh ta, dù là hạt bụi nhỏ cũng là vật quí báu, mọi vật đều là vàng. Chẳng ít người luôn mơ tưởng đến VƯỜN ĐỊA ĐÀNG hay THẾ GIỚI CỰC LẠC cực kỳ giàu đẹp, đường hoàng như mô tả trong kinh sách, như là dây chăng hai bên đường đều bằng vàng, châu ngọc đầy ngập đường đi…, lại chẳng phải khổ tâm lo việc cơm áo hay bị khinh rẻ, phụ bạc…nhưng điều kiện để đến đó phải có cặp cánh thần kỳ, thẻ hỏi từ xưa đến nay, trên thế gian này đã có mấy ai thực sự đến được nơi đó? Chưa có ai nêu được bằng cơ đích xác, chỉ nhờ giấy trắng mực đen trong kinh sách miêu tả, hay những việc thấy trong mộng mị để truyền ba mà thôi. Đối với con người hiện tại, thật khó hấp dẫn lôi cuốn được.

Theo sự giải thích trong TƯƠNG ĐỐI LUẬN của nhà bác học Einstein thì “Chỉ cần 1/3g vật chất bị tiêu diệt, toàn bộ biến thành năng lượng, thì đủ sức làm bốc hơi 1000 tấn nước. Còn nếu 1g vật chất biến thành năng lượng thì có đủ sức đưa 1 vật nặng 1 triệu tấn từ mặt biển lên đến đỉnh núi Everest.”

Dựa vào lời giải thích này, thì rõ ràng phải trái trước sau chúng ta cũng đều đầy ắp vàng bao vây nặng nề, chẳng khác gì cảnh tượng ở Tây phương tịnh độ cả. Rất tiếc, Einstein chỉ nói cho chúng ta biết về nguyên lý, còn phương pháp cụ thể thế nào để biến vật chất thành năng lượng thì chưa đề cập đến. Đó không phải vì tiếc lời mà vì trí năng của ông chưa đạt đến.

Trí Năng làm ra tất cả, biến cải mọi vật, đó là chân lý hiển hiện khắp năm châu bốn biển hiện nay. Ta có thể lấy chứng minh ở chỗ, những sự việc kể trong chuyện thần thoại do ngòi bút tưởng tượng của người xưa, đã được các nhà khoa học hiện nay làm thành sự thật. Thí dị như:

- Bay trên mây, thời xưa chỉ là chuyện của thần tiên hay loài chim mới làm được, còn phàm phu tục tử nào dám mơ tưởng đến dù chỉ nhấc bổng một chân. Thế mà ngày nay, một đứa bé sơ sinh cũng có thể được bay lục địa khác, chẳng hao phí chút sức lực nào.

- Còn việc hô phong hoán vũ, hiện nay các nhà khoa học giải quyết bước đầu. Họ không cần phải xỏa tóc chống kiếm, đạp bộ Cương Đẩu, miệng niệm thần chú lâm râm…mà các nhà khoa học cũng có thể làm cho khoảng trời xanh kia đổ xuống mưa rào! Tuy nhiên hiện nay việc làm mưa nhân tạo chưa hoàn toàn đủ sức thỏa mãn như ý cho những nơi khô hạn, giúp cho nông dân hả hê vui cười, nhưng chắc chắn trong tương lai điều đó sẽ được toại nguyện.

- Việc dời non lấp biển như trong tiểu thuyết nói là thuộc về hành vi của những bậc thần thông lão bối, chứ người tầm thường đừng hòng. Nhờ sự phát triển cao độ của cơ giới, những con người phàm phu tục này cũng có thể sanh bằng ngọn núi lớn. Mấy năm gần đây, hai chính phủ Hong Kong và Singapore đã đề ra kế hoạch dời non lấp biển, biến biển cả thành lục địa để xây dựng lâu đài, đường sá.

- Chuyện sái đậu thành binh thì chưa có tư liệu nào của khoa học nói về việc lấy đậu nành, đậu xanh để biến thành quân nhân xung phong hãm trận, phá tan quân địch. Nhưng mới đây, có nguồn tin rất thú vị là dùng sắt thay cho đậu, đem những miếng sắt sợi thép kết cấu thành một hệ thống chằng chịt làm một người máy Robot rất là hiên ngang, oai hùng, trang bị súng đạn bảo vệ đất nước. Quí vị chưa tin, xin xem trên “Tinh đảo nhật báo” ngày 13/7/1987 một tin sau đây:

“ Trên thế giời vừa xuất hiện một quân nhân người máy, phục vụ trong quân đội nước Mỹ. Người lính máy này có tên là Prolab, hệ thống não là bộ vi địên tử có tính năng hoạt động rất cao, có bộ thu hình điện tử ở hai mắt, có cảm giác và biết suy nghĩ, lại còn có thể dùng cặp chân kiểu dây nịt giày của nó, hoạt động tự do khắp chỗ.

Prolab có thể thay thế được binh sĩ trong công tác hàng ngày, biết nghe mệnh lệnh, biết đi tuần tra canh gác hoặc tấn công nơi trận tiền. Khi thi hành nhiệm vụ công tác, gặp chướng ngại vật, biết né tránh, chọn lối đi thích hợp. Trường hợp đang canh gác, nếu phát hiện ra vật di động khả nghi, nó biết hô to ra lệnh cho vật ấy dừng lại, nếu vật ấy không tuân thủ mệnh lệnh, nó tức khắc nổ súng chính xác vào đối tượng.

Phụ ghi: Bức ảnh trang 11 chụp hình một cô gái người máy, mặc quốc phục Trung Hoa, biết nói tiếng phổ thông và khiêu vũ. Sản phẩm của Học viện công trình bưu điện Tây Bắc, thuộc thành phố Tây An.

Nói chung những mơ tưởng có tính thần thoại của người xưa, thì đến nay các nhà khoa học đã lần lượt thực hiện tốt đẹp. Câu danh ngôn: “Tâm sinh chủng chủng pháp sinh” (Tâm sinh thì bao nhiêu pháp cũng sinh) đã được chứng cứ đích xác.

Trí năng chính là chủ nguồn phát minh khuếch đại lực năng, theo lý luận của Einstein thì bất cứ mọi vật gì trên thế giới này, dù là đất, cát, gạch, ngói, vách đổ tường xiêu đều có giá trị liên thành (rất quí giá). Chỉ tiếc “Mọi việc đã đầy đủ, chỉ còn thiếu gió đông”, đó chính là thiếu đi cái trí năng tương xứng để biến lý luận thành thực tiễn.

Đang lúc chúng ta còn phân vân ở ngã tư đường đối với những vật báu còn nằm trong lý luận, chưa tìm ra được phương pháp thực hiện, thì may mắn thay, trong kinh Duy Ma Cật đưa ra một luồn sáng rực rỡ, giúp ta thấy được giải pháp đúng đắn rõ ràng, để biến địa cầu đầy những thiếu sót bực dọc này thành Tây phương tịnh độ, tràn ngập đài vàng cây ngọc, châu báu đầy cả mặt đất, chẳng cần phải dùng đến máy gia tốc nguyên tử và lò phản ứng hạt nhân để làm cái công việc tổng hợp và phân tích kia nữa, mà chỉ cần làm sao cho tâm thanh tịnh, sinh ra trí năng đáp ứng nhu cầu mong mỏi thì sẽ toại nguyện thôi!

Câu “Duy kỳ tâm tịnh tức quốc độ tịnh” (chỉ tâm có tịnh tức cả cõi nước đều tịnh) mới nghe có vẻ huyền hoặc, nhưng quả đó là chân lý. Muốn biến cải trái đất đau thương, đói rách này thành tịnh độ giàu đẹp, đường hoàng thì không thể nào làm những công tác ở ngọn ngành, hoặc từng phần từng điểm, mà phải giải quyết ngay tận cội nguồn gốc rễ, như muốn nước hết sôi phải rút củi ở đáy lò ra vậy.

Nhận thức này phải chăng là có sự trùng hợp khít khao với quan điểm muốn mở tung áo bí của Tổng Cơ Quan Vũ Trụ của các nhà khoa học đã nêu. Đó chẳng phải là điều thú vị lắm sao?

TỔNG CƠ QUAN CỦA VŨ TRỤ

Vài mươi năn gần đây, mục tiêu phấn đấu của nhóm nhà khoa học giỏi dắn là khám phá ra tổng cơ quan (bộ máy chủ chốt) của vũ trụ áo bí. Đối với cặp mặt tầm thường của chúng ta thì mục tiêu đó gần như là huyền thoại. Tổng cơ quan ấy ở đâu? Hình dáng nó ra sao? Làm cách nào để tiếp cận với nó? Bất cứ người nào cũng không thể có câu trả lời cụ thể, chính xác được, nó còn mang tính hư huyền hơn cả chuyện Bàn Cổ khai thiên lập địa ngày xưa. Tuy chúng ta không thấy được tôn nhan của cụ Bàn, nhưng còn có thể thấy được trời và đất, miễn cưỡng mà nói thì cũng còn có vài chứng cớ liên quan đến việc mở mang trời đất này. Quả thật, trong khoảng vũ trụ mênh mông vô cùng vô tận này có quá nhiều việc tuy không thể chứng minh đích xác bằng sự hay lý, nhưng trình độ trí tuệ loài người hiện nay cũng chưa có thể dám phủ định sự tồn tại của nó.

Loài người có tham vọng tìm ra bộ máy chủ chốt áo bí của vũ trụ, không chỉ trong thời đại gần đây mà từ hơn ba ngàn năm về trước, các kinh sách của tôn giáo đã đề cập rất nhiều, nhưng thiếu phương pháp chứng minh cụ thể nên thành ra lời nói suông. Do vậy, các luận điểm của tôn giáo và triết học chưa thật thỏa đáng, ít được người trí chú ý. Mấy chục năm gần đây, các nhà khoa học có nhiều hứng thú trong việc phát hiện bí ẩn của vũ trụ. Từ nhiều khía cạnh, họ âm thầm, cô đơn quan sát cái lĩnh vực hình nhi thượng này, kết quả của những động tác thận trọng này giúp họ khẳng định là có. Vấn đề hết sức quan yếu này đang ngày đêm được chú tâm giải quyết. Thế nên, việc tham gia vào đội ngủ này của chúng ta, cũng chỉ là “theo đuổi” bọn họ mà thôi. Thành tựu khoa học hiện nay, dưới con mắt chúng ta là đã được xem là “xuất thần nhập hóa”. Nhưng thành thực mà nói, đúng như nhận xét hết sức khách quan của Newton là thành quả đó rất ít ỏi, chỉ như giọt nước trong đại dương mênh mông. Ông nói: “Chúng ta như những đứa trẻ đi lượm vỏ sò ở bờ biển, ngước mắt nhìn nước biển mênh mang, không biết chừng nào mới thấy được bờ bên kia”

Những bí áo trong vũ trụ có vô lượng vô biên, bất cứ nhà khoa học nào cũng biết điều đó. Vì họ là những người người đã đặt chân đến bờ bến, đã thấy được sự lớn lao của biển cả, mênh mông không bờ bến, trời nước tiếp nối nhau. Và cũng chính nhờ sự nhìn xa thấy rộng mà họ đã sớm phát hiện những tai họa con người đang gánh chịu hiện nay cũng do khoa học đồng thời mang đến cùng lúc với thành quả lợi ích. Việc phát triển tiến bộ muôn hình ngàn vẽ hiện nay có tính tự phân hóa, không được đặt trên cơ sở thống nhất của một trí năng toàn vẹn, nên kết quả sẽ không thể nào đạt đến cứu cánh được. Biện pháp rút củi để tránh thảm họa nước sôi hiện nay là phải mở tung ra được Tổng Cơ Quan Vũ Trụ, đó là cái trí năng mang tính vạn hữu, có thể nhanh chóng và triệt để giải quyết vấn đề.

Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những cống hiến của khoa học trong vài trăm năm gần đây. Những phát minh ấy có cái lợi mà cũng có hại, nhất là về nguyên tử năng hạt nhân. Mặt có lợi của nó là, nhờ vận dụng được năng lượng nguyên tử vào hạt nhân thì nhân loại đỡ tốn củi, than đá, dầu hỏa mà cũng có thể giúp cho hàng ngàn muôn nhà máy hoạt động ngày đêm, làm ra nhiều sản phẩn, đồng thời mang lại ánh sáng như ban ngày cho các thành thị đông dân cư trong lúc đêm tối. Mặt có hại của nó là, 40 năm trước, Hiroshima và Nagasaki (1) ở Nhật, chỉ trong một chiều, hàng trăm ngàn sanh linh đã bị hủy diệt dưới đám mây nguyên tử hình nấm do hai quả bom nguyên tử của Mỹ tạo ra. Qua đó, những bậc trí hiện nay, hiểu rằng, nếu khoa học chỉ phát triển theo hướng như vậy, thì quả là không phải “cái phước” cho loài người. Hậu quả của nó không chỉ chừng ấy, mà còn có thể diệt cả nền văn minh nhân loại tích lũy ngàn đời đi trong khoảnh khắc. Đáng tiếc là trí tuệ của các chuyên gia khoa học chỉ có thể phát huy năng lực phá hoại của bom hạt nhân mà không đủ sức vô hiệu hóa sức phá hoại của nó. Nếu một khi chiến tranh nguyên tử xảy ra bốn phương tám hướng trên quả đất đều chịu sự chi phối những bức xạ hạt nhân, chẳng những muôn triệu sinh linh đều bị tiêu diệt mà ngay cả bản thân của những phát minh ra nó cũng không thể an ổn được. Kiểu phát minh “tự đào mồ chôn mình” này có thật là một trí tuệ sáng suốt chăng? Thực ra thì ai cũng nhận thức được điều này, nhưng với mức độ trí tuệ hiện nay thì họ chỉ có một bản lĩnh phóng ra lực hạt nhân này. Không phải họ không muốn làm chuyện đó, mà thực là vì trí tuệ họ chưa đủ sức làm thôi. Hơn ai hết, chính các nhà khoa học là những người ý thức rõ tệt nhất về thảm họa của nhân loại có thể gánh chịu này, nhưng cách giải quyết tận gốc rễ thì còn nhiều khó khăn mới làm được. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học ưu việt đang hết sức tìm ra cho được tổng cơ quan vũ trụ, mới là thứ trí năng để tạo phước cho loài người!

Ngày 20/3/1983, tiến sĩ Lý Chính Đạo đã trả lời cho ký giả tại phi trường NARITA (Thành Điền – Nhật Bản) rằng: “Mục tiêu của chúng tôi là tìm cho ra tổng cơ quan ảo diệu của vũ trụ. Nếu tìm ra nó, sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề bí ẩn…giống như muốn trừ lụt lội của Hoàng Hà hay Trường Giang, chúng ta không thể trị ngọn ở nơi bị nạn, mà phải theo dòng sông tìm đến nơi phát nguyên ở Thanh Hải mới được”

Bởi hiểu rõ sức tàn phá khủng khiếp của vũ khí nguyên tử vô cùng quan hệ đến sự tồn vong của nhân loại, nên Tiến sĩ Lý Chính Đạo đã phát biểu như thế.

Đó chính là tia sáng giúp chúng ta có quyền hy vọng:

“Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,

Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn”.

Dịch:

“Non cùng nước tận, lo không lối,

Hoa sáng liễu mờ, xóm hiện ra.”

THẢM HỌA CỦA VŨ KHÍ HẠT NHN

Thảm học khủng khiếp trước mắt của loài người là vũ khí hạt nhân. Nếu như trong thời gian ngắn mà không tìm cách giải quyết dứt điểm thì tất cả sinh vật trên thế giới này chỉ trong một sớm một chiều là bị hủy diệt.

Theo một nguồn tin bán chính thức, trên thế giới đã có nhiều nước trang bị các bom khinh khí, bom hạt nhân, bom Neutron (trung hòa tử), chỉ cần sử dụng một nửa số bom đạn này cũng đủ biến quả địa cầu thành lửa. Chúng ta có quyền hy vọng rằng, những tin tức rợn người nói trên sẽ lần lượt được quốc tế quan tâm giải quyết, hoặc đó chỉ là “tin vịt”, nhưng không thể không nêu ra, vì cứ nhìn kỹ vào sự quan hệ phức tạp trong bang giao quốc tế, áp lực hủy diệt sinh tồn con người ngày một gia tăng, không phải là không quan trọng

Ngay khi quả bom nguyên tử đầu tiên được chế tạo thành công, ông Tiến sĩ Khâu Cát Nhĩ (tên phiên âm) đã than rằng: “Thế giới đã đến ngày tàn!” Có thể có người cho rằng ông Khâu đã bi quan, vì chẳng lẽ con người là tối linh của vạn vật, lại trố mắt ngồi đó mà chết sao? Hiện nay hai nước Mỹ và Liên Xô đã kết hiệp ước “hạn chế vũ khí” rồi kia mà? Bộ quốc phòng Mỹ đang thực hiện kế hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao”, để ứng phó với các đột biến từ bên ngoài kia mà?

Dẫu rằng hai nước Mỹ, Nga đều nhiệt tâm trong cuộc đàm phán hạn chế vũ khí, ngay đến cứ cho rằng kết quả đàm phán tốt đẹp đến đâu đi nữa, thì có gì bảo đảm lâu dài cho việc thi hành hiệp ước hay không? Vì sự chuyển biến trên trường quốc tế thay đổi không lường, huống nữa là việc chế tạo đầu đạn nguyên tử, bom hạt nhân đã không còn là một bí mật tuyệt đối nữa. Đâu phải chỉ có một vài cường quốc nắm, mà tương lai đây, khối thứ ba cũng có khả năng thực hiện việc chế tạo, không có gì là khó khăn lắm.

Tháng 4/1987, Trường Đại Học Lục Quân Mỹ ở NewJersey khi nghiên cứu vấn đề chiến lược, đã công bố:

“Đến năm 2010, trên thế giới, các nước có vũ khí hạt nhân sẽ có đến 23 quốc gia, là: Mỹ, Nga, Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Nam Bắc Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Pakistan, Việt Nam, Libie, Irak, Nam Phi, Argentina, Chile, Ai Cập, Iran, Israel, Syrie, Brazil. Trong đó Đài Loan, Nhật Bản, Nam Bắc Hàn Quốc có trên 500 trái bom hạt nhân, còn Ấn, Pakistan, Israel, Nam Phi có trên 1000 trái”.

Tin này quả thật làm chấn động mọi người. Một ngày nào đó, nếu khối vũ khí nói trên nổ tung trong chiến cuộc thì thật là “ngọc đá đều tan”.

Còn nói về chiến tranh giữa các vì sao, những thành quả của nó cũng đáng nghi ngờ. Đâu phải dễ dàng dùng phi đạn đất đối không, không đối không để bắn rơi những vật thể từ không trung xâm nhập vào không phận của mình sao? Nếu địch thủ phóng đến hàng loạt đạn bay ào ạt như châu chấu, dù cho có giăng la địa võng bảo vệ, chỉ cần một khe hở nhỏ cho một trong muôn trái lọt vào, thì cũng có thể tạo nên ngày tận thế.

*Chú thích: Các nhà bác học đã tham gia chế tạo bom nguyên tử đầu tiên ở Mỹ: Enrico Femi, Leo Szilard, Robert Oppenheimer, Niels Bohr.

NẠN NHN MÃN

Thảm họa thứ hai của loài người là nạn nhân mãn (áp lực nhân khẩu). Khoảng một trăm năm về trước, nước nào trên thế giới cũng mong mỏi trong nước họ dân số phát triển nhanh chóng, gia đình nào cũng có con đàn cháu lũ, để nâng cao sản xuất và sức chiến đấu của nước mình. Sở dĩ hồi đó cần phát triển dân số là vì đất rộng người thưa, vườn ruộng hoang vu. Còn hiện nay tình trạng việc làm khó kiếm, miếng ăn chẳng đủ. Theo Thomas Robert Malthus trong quyển “bàn về nhân khẩu” đã phân tích ra rằng, lương thực loài người chỉ tăng theo cấp số cộng, còn con người lại tăng theo cấp số nhân. Trong vài mươi năm gần đây, ở các nước thứ ba, các chuyên gia về nông nghiệp dù đã nặn óc moi tim ra tìm tòi những phát minh mới nhất để phục vụ sản xuất, nâng cao sản lượng đến mấy đi nữa, cũng chỉ đủ trám dạ dày những người trong nước họ.

Hiện nay, tính đến tháng 7/1986, dân số cả thế giới là 5 tỉ người (Do hội Nhân khẩu học Mỹ công bố). Trong vòng 12 năm gần đây nhất là tăng 1 tỉ người, thật là tin tức rợn người. vậy dự kiến qua mười năm sau, dân số thế giới vượt hơn 6 tỉ.

Thảm trạng dân số gia tăng vùn vụt đã gây ra trước nhất là thiếu gạo, bột mì để ăn. “Dân lấy ăn làm trời”, vấn đề lương thực không có phương pháp giải quyết chính đáng, sẽ gây hậu quả nhỏ là mất trật tự trị an xã hội, lớn thì ảnh hưởng đến an ninh quốc tế. Hiện này có một số nước có được chế độ phúc lợi xã hội tương đối tốt, nhờ đó người dân được tiêu chuẩn no ấm dưới cây dù phúc lợi. Còn một số nước Á Phi và Nam Mỹ vẫn còn rất nhiều người đói khát, đang hết sức mong chờ sự trợ giúp của các nước khác. Một ngày nào đó, dân số thế giới tăng đến 10 tỉ, thì chắc chỉ còn cách ăn rễ cỏ vỏ cây. Đến lúc đó, thì vì tranh ăn mà giết hại lẫn nhau, thảm cảnh không sao đoán nổi!

ĐI VÀO THỰC HIỆN: 8 MỤC TIÊU CÔNG TÁC TỐI CẦN HIỆN NAY

Những ngày sắp đến, những thảm học của loài người nhiều tợ lông trâu, ở trên chỉ mới nêu lên hai điểm lớn mà mọi người ai cũng biết. Chỉ cần hai điểm này cũng đủ nói lên sức uy hiếp đối với loài người đã đáng sợ rồi, chưa cần bàn đến nhiều cái khác.

Các nhà khoa học biết rằng sự phát minh nhỏ giọt của họ chẳng gây tác dụng lớn lai gì, bèn suy tưởng đến cơ quan áo bí của vũ trụ. Đây mới là kho báu của tất cả trí năng, nếu phát hiện ra nó thì những khó khăn và tai nạn vũ trụ đều giải quyết được rốt ráo.

Mở tổng cơ quan áo bí của vũ trụ là công việc cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết đến sự sinh tồn của loài người. Vậy thì, tại sao chúng ta chỉ gieo cái nhiệm vụ thần thánh ấy cho một số ít nhà khoa học đảm nhiệm, mà không phải là tất cả con người đều không thể từ chối việc tham gia vào hàng ngũ cao quí này?

Có người bảo, công việc lớn lao khó khăn như thế, làm sao chúng ta có thê dự vào được, trong khi bộ não chúng ta hoàn toàn thiếu sót những định luật, nguyên lý và phương pháp khoa học? Thật ra những thiếu sót trên chẳng trở ngại gì đến việc phát hiện ra nguyên lý của vũ trụ. Vạn vật trong vũ trụ đều từ tổng cơ quan này mà ra. Vậy thì, về mặt lý luận, dù non xa nước biếc, trúc tía hoa vàng…đều có thể đạt đến cơ quan này, nên bảo rằng “Con đường nào cũng về La Mã”. Chúng ta không nhất thiết phải thâm cứu vào đường khoa học để tìm tòi nó, mà có thể với một phương pháp khác, truy ngược lại để biết. Chỉ cần chúng ta chẳng tự coi rẻ mình, phải đủ lòng tin, không yếu đuối bỏ cuộc một cách phi thường cao cả vậy!

Chúng ta không có một mảnh tri thức khoa học nào vậy phải nương vào điều kiện gì để nối gót các nhà khoa học tìm tới tổng cơ quan áo bí của vũ trụ này? Các nhà khoa học hiện nay đã cho chúng ta biết rằng: Trong vũ trụ này nếu nói một cách khái quát thì chính là một cái “Tâm Linh” vô cùng lớn lao. Dựa vào câu nói trên phải chăng họ đã gián tiếp bảo cho chúng ta rằng, bất kỳ người nào cũng có thể đủ điều kiện để mở ra được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ này. Chỉ cần lấy cái tâm linh con người, biến đổi cho nó sạch đi, thì tâm lượng tự động được khuếch đại đến vô cùng vô biên, đồng với vũ trụ hoàn chỉnh không hề sai khác. Chính lúc đó, bạn liền có đủ muôn vàn trí năng và lực lượng vũ trụ để tha hồ làm gì thì làm.

Phương pháp để mở tổng cơ quan áo bí của vũ trụ như sau:

1. Đầy đủ lòng tin, bởi vì tổng cơ quan của vũ trụ nằm ngay ở trong Tâm chúng ta, chẳng cần tìm cầu ngoài. Từ lòng tin sẽ sinh ra sức mạnh đạt đến mong muốn

2. Xây dựng được những mục tiêu quan trọng, từ những mục tiêu này tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ.

3. Làm trong sạch hết những tạp niệm trong tâm, trở thành sáng suốt không ngăn ngại, rộng lớn vô biên, tiếp cận với vũ trụ hoàn chỉnh không hở cách.

Đối với việc xây dựng nên những mục tiêu trọng yếu này, có người cho là xây lầu trên cát trên không, chưa có thể đạt được. Hơn nữa, cách nói pháp truyền thống trong tôn giáo là, một ngjười có tâm linh trong sạch thì chẳng nên hy vọng mong muốn gì nữa, tránh dẫn đến huyễn giác, làm trở ngại cho sự tiến bộ của việc tu học.

Chúng ta đều biết, Đoàn quân Dân quốc cách mạng Trung Hoa ngày trước, sở dĩ nhanh chóng hoàn thành công cuộc bắc phạt, thống nhất đất nước (Trung Hoa), là nhờ vào sự hỗ trợ vô cùng to lớn của các sách “Tam dân chủ nghĩa”, “Kiến quốc phương lược” và “Kiến quốc đại cương” của ông Tôn Trung Sơn viết ra. Lúc bấy giờ, đất nước Trung Hoa bị các xứ chia năm xẻ bảy, quân Phiệt chiếm cứ mỗi người một vùng, cả nước vô cùng hỗn loạn, chưa ai dám dự kiến ai là người thắng cuộc. Ông Tôn Trung Sơn hoàn thành ba bộ sách quí trên giúp cho chí sĩ cách mạng luôn phấn đấu đạt chỉ tiêu này, thành đạo quân có chính nghĩa đi dẹp loạn nên đã nhanh chóng thống nhất đất nước.

Trong cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc ở Mỹ, trong khi chưa phân thắng bại, ông Abrham Lincoln đã công bố bản “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ da đen”, khiến cho cả thế giới đều biết và ủng hộ mục đích quí ấy, khiến được trời phù người giúp, thành công trong việc thống nhất đất nước, làm rạng rỡ lá cờ sao Hợp chủng tung bay giữa bầu trời đẹp đẽ!

Trong việc học Phật, có nhiều việc minh chứng tính quan yếu của việc xác định mục tiêu trước khi việc xảy ra, cho dù đó là việc vô cùng to lớn. Như đức Phật A Di Đà, khi phát lên 48 đại nguyện lúc ấy chỉ là một vị tỳ kheo tầm thường, trên bề mặt mà nhìn thì những mục tiêu đề ra đó quả thật là thần thoại không hơn không kém. Nhưng Ngài đã y cứ vào niềm tin sâu dày và phương pháp tốt mà đạt thành sở nguyện mở tung cái áo bí vô cùng cảu vũ trụ, hóa ra một bậc Thánh toàn năng, toàn tri.

Chúng ta vì muốn tránh việc nói suông mà không thực hành, thấy người hiền thì mình cũng suy nghĩ, bắt chước, nay xin nêu ra tám mục tiêu công tác sau đây, để mọi người cố gắng đạt đến:

1. CHẾ TẠO HẤP NĂNG THÁP (Hoặc hấp năng cầu: Tháp hoặc cầu hút năng lượng hạt nhân).

Mục tiêu công tác thứ nhất của chúng ta là làm thế nào để xây dựng trên thế giới này, nhiều cái tháp (hoặc quả cầu) dẻ hấp thụ mọi nguồn năng lượng hạt nhân phát ra. Mọi người đều biết, sự cống hiến của nguyên tử năng đối với loài người hiện nay, nửa có lợi mà nửa có hại. Nhờ vào sức hút của tháp hoặc cầu nói trên để chuyển sức phá hoại của hạt nhân thành sức xây dựng, kiến thiết. Nhưng mọi người có thể cho đó là chuyện thần thoại, bởi vì xưa nay, trong cũng như ngoài nước, mọi vật trên đời hễ có lợi thì cũng kèm theo cái hại, thí như nước có thể nâng thuyền nhưng cũng có thể làm đắm thuyền. Trong lịch sử, chưa bao giờ cái gì chỉ thuần có ích mà không hại. Thế nên, việc này không phải là hoàn toàn bế tắc, bởi vì với trí năng loài người hiện nay chỉ dừng lại ở những hoàn cảnh tương đối của vũ trụ. Hễ nhân nào thì quả nấy, cho nên, cái trí năng tương đối chỉ có thể phát minh được những việc cũng có lợi có hại của vòng tương đối. Nếu như trí năng của chúng ta có thể nâng cao thêm một tầng nữa, vượt qua khỏi các giới tuyến của tương đối để vào cảnh giới tuyệt đối, đạt đến vũ trụ tri giác, nhất định sẽ làm ra được nhiều thứ, so với ngày nay chẳng thể nào bàn.

Vào thời thượng cổ, một dải lưu vẹc Hoàng Hà chỉ cần vài hôm mưa lớn, là nước có thể dâng lên ngập tới chân núi, nước cuồn cuộn tràn lan phá đê trôi nhà, nhưng tổ tiên chúng ta đã bó tay đầu hàng, chỉ còn có cách là dắt dìu người già trẻ con tìm nơi đất cao trú ẩn, đành cùng sống chung đụng với rắn độc thú dữ. Nhiều người tuy may mắn thoát được nạn hồng thủy, nhưng bị bầy thú, rắn bao vậy tấn công khiến cho họ phải táng đởm. Cho nên nếu có có ai nhắc đến nạn hồng thủy và thú dữ rắn độc khi đó, mặt họ không còn chút máy, tay chân rụng rời. Mức độ sợ hãi ấy sánh tương tợ nỗi lo sợ về sức phá hoại của vũ khí hạt nhân hiện nay chúng ta.

thuở bấy giờ, nếu có ai bàn đến việc “trị hồng thủy” bằng cách làm sao biến đổi sức phá hoại của nó thành ra sức xây dựng, thì chắc chắn bị mọi người cười cợt cho là chuyện thần thoại hoặc chuyện vá trời! Thế nhưng do trí năng loài người từng bước nâng cao, nên hiện nay con người tuy chưa trừ được 100% cái nạn lụt lội này nhưng cũng khống chế và lợi dụng được nó đến mức cao, bắt nó chẳng những phục vụ cho sinh hoạt đời sống hàng ngày của con người mà cả những ngành nghề công nông thương khác cũng lợi dụng được nó (thủy điện). Sự thật hiển nhiên của ngày nay, tổ tiên xưa dù có nằm mơ cũng không thể nào tưởng tượng ra nổi!

Nguyên tử năng và dòng nước có thể có thể tính chất khác nhau, nhưng nguyên tử năng và dòng điện thì có tính tương đồng, đều có tính chất nhiệt năng, dù xa đến đâu cũng đến được. Trước thế kỷ 18, loài người vô cùng hãi sợ trước sấm sét, người ở phương Tâycũng cho đó là uy lực của thần (Chúa), không thể chế ngự được. Lúc ấy nếu như có người bảo, có thể khống chế hoặc lợi sấm sét, chắc người sẽ cho là bị ma nhập, nói phét…Thế nhưng, từ khi ông Benjamin Franklin (Mỹ) chế ra được cột thu lôi, rồi thì các dụng cụ về điện lần lượt xuất hiện, mới chứng minh rằng dòng điện trên không ấy có thể tạo phước cho con người!

Nguyên tử năng và điện năng, bản thân nó là vô tri, chúng hoàn toàn không có thiện ý phục vụ con người, cũng không có ác ý tiêu diệt thế giới, lợi hay hại do con người sử dụng nó. Có điều đáng tiếc là hiện nay, nguyên tử năng chưa được dùng nhiều vào việc lợi ích như điện năng, nhưng chỉ cần một chút sơ xuất, là trở thành họa lớn. Sự kiện nổ lò nguyên tử ở TrimilesIsland (Mỹ) và Tchesnobuwl (Liên Xô) đã làm cho loài người đến nay vẫn còn hú hồn hú vía!

Nếu có tầm nhìn xa, ta có thể thấy rõ khả năng của nguyên tử năng cao hơn điện năng nhiều, vì nó có thể đục núi, đào sông, trấn biển, đắp đường… Nghĩa là, nguyên tử năng đều có thể làm được những gì điện năng có thể làm, mà còn nhiều việc nó vượt xa điện năng nữa.

Trước mắt, các thiết bị khống chế dòng điện và dòng nước xuất hiện rất nhiều, mà chưa có một khí cụ nào để hấp thu sức phá hoại của nguyên tử năng. Chúng ta rõ ràng có thể chế tọa ra những hấp năng tháp hay hấp năng cầu để thu hút năng lực tương tự như cột thu lôi vậy. Chúng ta sẽ được thả trên không hoặc đặt ngầm dưới đất để khi các loại bom P (hạt nhân), bom H ( khinh khí), bom N (trung hòa tử - Neutron) hoạt động thì liền bị chúng thu hút hết các phóng xạ, vô hiệu hóa các loại bom này. Kế đó, là tập trung được tất cả năng lực thu hút ấy để điều khiển, sử dụng nó, giống như điều khiển dòng điện vậy, để phát triển sản xuất, giúp đỡ công tác xây dựng và phục vụ đời sống con người được vậy!

2. BẦU KHÍ ĐẶC THÙ

Mục tiêu công tác thứ hai của chúng ta là làm sao tạo ra được một bầu khí đặc thù bao quanh chung với bầu khí quyển trái đất. Khi có một vật bay lạ như máy bay, phi đạn, tên lửa, dĩa bay, vệ tinh nhân tạo…xuất hiện với ý đồ không tốt, thì bấu khí đặc thù này sẽ làm chúng sai lạc phương hướng, đi vào không gian bậc hai. Nếu như chúng không có ý phá hoại thì để chúng tự do bay, lên xuống tùy ý.

Có lẽ quý vị sẽ cho đó là chuyện thần thoại chăng, vì làm sao có thể thực hiện công việc quá sức này. Nhưng xin quý vị hãy lưu ý cho, thành Tam Giác ngoài biển Baltimore (tức Tam giác quỉ) và vùng Biển ma quỉ ở Nhật, có những vùng không khí đầy thần bí này. Từ khi chiến tranh thế giới lần hai kết thúc, những nơi có bầu khí thần bí này, lớp khí càng ngày càng đậm đặc thêm, rất nhiều máy bay và tàu thuyền bị mất tích vô cớ ở các vùng nói trên. Nhưng lại cũng có lúc, thuyền bè đi ngang qua đây bình an vô sự. Hiện các nhà khoa học trên thế giới đang hết sức tìm tòi nghiên cứu nguyên nhân và hiện tượng lạ lùng này mà vẫn chưa có câu trả lời đích xác, không biết có phải do rối loạn từ trường hay điện trường gây ra hay không?

Nếu chúng ta có đủ năng lực trí tuệ có thể tạo ra được một bầu khí đặc thù như trên, thì còn sợ gì đến bom hạt nhân các nước tàng trữ kia nữa!

3. BÁNH MÌ LÀM BẰNG CÁT

Mục tiêu công tác thứ ba là làm sao dùng những hột cát để điều chế thành bánh mì.

Gần đây, đài truyền hình số 9 ở thành phố Sydney (Úc) đã phát chương trình “Con đường tơ lụa”. Ai đi ngang qua CƯ DONG QUAN (ải Cư Dong) , ngẩng nhìn thấy cả một sa mạc cát vàng mênh mông, không có một ngọn cỏ. Khi có trận gió lớm thổi đến, thì trời đất mù mịt, ánh sáng lờ mờ vì mặt trời mọc bị che, cả dải non sông tốt đẹp bỗng biến thành địa ngục sắc sàng. Biết đâu, dưới những lớp cát vàng rơi phủ dày cộm ấy, trước đây chẳng là dòng sông, thành thị, ruộng nương, nhà cửa…Thêm vào đó, sa mạc này mỗi năm lại bành trướng lớn thêm, những hột cát từ vùng Hàn Hải (Yumen) và Gobi theo hướng gió mùa, liên tục bay về phía Nam. Hiện nay, một dải lưu vực Hoàng Hà đã chịu sự uy hiếp nặng nề. Dòng sông bằng phẳng, rộng rãi cứ cao lên hàng năm, hai bờ phía Nam và phía Bắc có những đụn cát ngày càng lớn dần. Nếu chúng ta không quan tâm tìm biện pháp xử lý thì trong tương lai, cát sẽ chôn vùi kể cả hai tỉnh Quảng Châu và Hạ Môn (phía Nam Trung Quốc). Đây chẳng phải là lời báo động dông dài đâu!

Tôi không phải là nhà địa lí chuyên môn nên không biết được chắc chắn diện tích sa mạc trên trái đất là bao nhiêu. Nhưng hầu như mỗi châu trên địa cầu đều có dải sa mạc. Những khu này không phải giữ nguyên hiện trạng, mà cứ liên tục phát triển dần ra bốn phía. Nghe nói, diện tích tăng trưởng hàng năm của toàn thể sa mạc trên thế giới, bằng với diện tích bang Michigan của Mỹ, 2000ha ruộng đất bị sa mạc nuốt trọn. Quả là một tin tức khiến cho người nghe nhức đầu. Với năng lực trí tuệ loài người nếu dừng lại ở mức độ hiện nay, không tìm được cách giải quyết nhanh chóng, thì sau mấy ngàn năm nữa, màu xanh phì nhiêu của đất đai thế giới sẽ nhường chỗ cho màu vàng nghèo đói của chiếc áo cát bao phủ.

Ngày 23/6/1987, tờ báo hàng ngày tại Tinh Đảo có đăng hai bản tin liên quan đến vấn đề sa mạc như sau:

a. Tin điện của AFP (Pháp tấn xã) ngày 21 phát đi từ Le Havre cho biết, theo báo cáo của chính phủ Australia và bản “Phương án hoàn cảnh” của Liên Hợp quốc, thì hiện nay 1/3 diện tích trái đất có khuynh hướng hoang hóa, ảnh hưởng đến sinh mạng và đời sống của 850 triệu người.

b. Một báo cáo từ thủ đô Kansas cũng đã phân tích đến những vùng bị bỏ hoang, mỗi năm tổn thất kinh tế khoảng 26 tỉ USD. Và họ còn cho biết thêm “Chỉ cần mỗi năm bỏ ra số vốn đầu từ bằng 1/5 tổn thất là có thể ngăn chặn diện tích hoang hóa nói trên, cứu ngàn muôn người khỏi chết đói”. Báo cáo còn nói rõ “Mỗi năm có 210.0000km2 đất đai không còn thích nghi cho việc trồng trọt, ngoài ra còn có 60.000 km2 đất bị sa mạc hóa. Còn theo phương án hoàn cảnh của liên hợp quốc” thống kê thì có 35 triệu km2 đất đai bỏ hoang, bằng tổng diện tích của Bắc và Nam Châu Mỹ cộng lại.

c. Somaliand là một nước ở Đông Phi, có hình thể giống như cái sừng chĩa ra Ấn Độ Dương, sát bờ biển Hồng Hải (Lamer rouge), có số dân khoảng 5 triệu người, 90% người dân theo đạo Hồi, bởi địa thế bất lợi nói trên mà nhiều năm gần đây, dân chúng sống rất khổ sở. Somaliand cũng có vài nơi xây dựng thành phố trên bờ biển đã bị cát vàng lấp phủ. Vì những bãi cát dọc hai bờ biển ngày càng lớn, khiến người dân địa phương phải bỏ dần đi đến nơi khác. Như thế, qua một thời gian sau, những thành phố này dù không bị sóng to nuốt chững thì cũng bị cát vàng trùm che. Cho nên, các ngành công thướng nghiệp của họ hiện nay không có cách gì phát triển nổi. Dời vào sâu trong đất liền thì có nhiều nơi bị hạn hán triền miên, không thể trồng trọt được. Cư dân ở đây muốn sinh sống được phải tìm biện pháp khác để kiếm tiền. Có lẽ tốt nhất là họ nên nuôi lạc đà để bán cho nước khác!

Hai tin tức “báo động đỏ” về sa mạc nói trên, đáng để cho loài người quan tâm đối phó. Nếu như, bằng cách nào đó, có thể điều chế cát thành ra bấnh mì, thì chúng ta sẽ không còn lo lắng gì đến việc di động của cát vàng như nói trên, cũng không phải ưu tư về nạn phát triển dân số quá nhanh như hiện nay nữa.

Dùng cát để tạo ra bánh mì, nhìn ở một góc độ khác, không phải hoàn toàn là chuyện thần thoại, không có cơ sở lý luận khoa học đâu! Theo các nhà khoa học, thì hạt cơ bản của cát vàng với hạt cơ bản của bánh mì, bản chất không có gì khác nhau. Cho nên, mặc dù có kẻ ôm bụng cười khi nghe nói làm bánh mì từ cát, nhưng trên mặt lý luận, cũng có chỗ thông suốt được.

Ba mươi năm về trước, các nhà khoa học ở Đài Loan, đã đề xuất phương án, biến chế những đống rác hôi hám trong thành phố thành ra “bánh khô” bán ra thị trường. Lúc đó, người dân nào ở Đài Loan cũng hết sức mong chờ. Nếu lý thuyết này trở thành hịên thực, thì chỉ riêng số rác ở thành phố Đài Bắc, làm thành bánh khô đủ để cung cấp thừa thải “thức ăn” cho dân chúng toàn tỉnh. Ngoài ra, còn rác ở những huyện, thị trấn khác, làm thành bánh khô rồi xuất khẩu ra các nước trên thế giới, có thê cạnh tranh với món “marmalade” (mứt cam nhừ) nổi tiếng của Mỹ, thu vào không ít ngoại tệ. Đến lúc hòn đảo Đài Loan từ nam chí bắc dài 400 km há chẳng phải là “tấc đất tấc vàng” sao!

Hồi ấy, các báo ở Đài Loan đều rầm rồ thảo luận về vấn đề trên, không một báo nào cho đó là không tưởng. Tất cả đều cùng ý kiến là, nếu như khi thành tựu được công trình này, phải làm sao khắc phục được tâm lý ngại sợ sệt của quần chúng. Tôi thì cho đó là việc nhỏ, chỉ phải làm thế nào chế tạo thành bánh khô có màu sắc hương vị, phẩm chất đẹp ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, thì sợ gì chẳng có người dành nhau mua! Rất tiếc là cho đến nay, rác rến ở đó chưa nghe nói có gì thay đổi để đi vào “siêu thị trường”, nó vẫn còn là đồ bỏ đi, làm nhức đầu Sở vệ sinh. Còn tiến độ chế tạo ra sao, thì thuộc về bí mật công nghiệp, không thể tiết lộ ra ngoài. Có lẽ già thành quá cao, nghe đâu một hộp “bánh khô” điều chế từ rác ở Đài Loan này, đắt gấm trăm lần một hộp marmalade của Mỹ, chẳng những không thể buôn bán được mà còn phi kinh tế, tốt hơn cả là tạm khoan sản xuất nó đã. Đến nay, chưa có biện pháp kỹ thuật mới nào ra đời để khai thông bế tắc này, nhưng chúng ta vẫn tin một cách chắc chắn rằng, lời thanh minh của giới khoa học Đài Loan chẳng là muốn cho đồng bào mừng hụt. Biết đâu, ngày nào đó, từ những đống rác đầy nhặng xanh bay quanh đó, sẽ chế thành những món mỹ vị nổi tiếng như “vịt khô Bắc Kinh” hay “Jambon Kim Hoa” chăng?

Trong đống rác có những gì? Chẳng có chút gì bí mật cả, nào là: đồng cháy, sắt vụn, mảnh chai… xen lẫn với đất, cát. Đất, cát trong đống rác nếu có thể làm thành ra bánh khô, thì sao lại hạt cát ở sa mạc Hồng Hải, Gobi, Sahara không thể làm thành ra bánh mì, ai phủ nhận được điều này?

Sau vụ “bánh khô” của các nhà khoa học ở Đài Loan lặng đi, lại nổi lên ý kiến của các nhà khoa học khác trên thế giới là, tất cả các thức như: phân bò, rác rên, nước dơ, vỏ ruột xe, mái chèo gãy bằng gỗ, dầu mỡ phế thải, giấy báo, là cây rụng…đềucó thể chế thành thực phẩm cả. Quá trình biến chế của các nhà khoa học này, nói vắn tắt là, cho các vi khuẩn tiêu thụ thế các phế vật đó, kế lấy các men vi sinh này điều chế thành thực phẩm, vì trong loại men này, có chứa rất nhiều Protein và Vitamin.

Tóm lại, dù cho ý kiến dùng những phế vật để chế thành thực phẩm, chỗ này nổi lên, chỗ kia lắng xuống, chỉ “mới nghe tiếng sấm mà chưa thấy mưa rơi”, nhưng rác rến có thể chế thành bánh mì thì chỗ khẳng định của giới khoa học. Chỉ có điều là quí vị ấy chưa vượt qua được “cửa ải kỹ thuật”. Nói cách khác, vì trí năng ở giai đoạn hiện nay của loài người chưa thể thăng hoa tới mức đủ sức biến đổi những thứ mục nát thành ra thứ có lợi ích được.

Về việc điều chế thực phẩm từ cát hiện nay chưa làm được, nhưng việc điều chế đá thành tơ sợi để may y phục, làm đồ dùng, là việc đã bắt đầu xuất hiện. Theo tin tức đăng trong “Dân gian tạp chí”, các nhà khoa học Bulgary đã dùng đá điều chế thành tơ sợi nhân tạo, dệt ra thành vải và làm đồ vật. Hiện nay ở nước này đã có những món như áo quần, mền nệm, khăn lông, thuộc lọat sản phẩm gốc đá này. Nhưng công việc ấy còn dừng ở đây, chưa phổ biến sản phẩm này rộng rãi ra khắp thị trường, có lẽ chưa đạt đến mức tiêu thụ ra ngoài.

Tôi tin rằng tương lai gần đây, các kiểu thời trang “sản phẩm từ đá” sẽ khoát lên thân hình nõn nà, ẻo lả của các cô người mẫu, hoặc tung bay trong snack bar, vũ trường ở các đô thị lớn trên thế giới.

4. NƯỚC UỐNG ĐIỀU CHẾ TỪ CÁT VÀNG

Mục tiêu công tác thứ tư là điều chế nước uống từ cát vàng.

Đi ngang qua các sa mạc, nỗi nguy hiểm và sự lo sợ bậc nhất không phải là sư tử, chim ưng dữ, ăn cướp hay bão cát, mà chính là vấn đề NƯỚC UỐNG. Từ xưa đến nay, rất nhiều lữ khách, kể cả những đội quân bách chiến bách thắng, khi đi qua sa mạc, do không tìm được nước uống mà đành phải chết khát giữa đường, không biết bao nhiêu mà kể.

Cho nên, nếu có người nào phát minh ra được phương pháp biến chế cát thành nước uống, thì đáng tôn xưng là Phật sống muôn nhà vậy. Cũng có người hoài nghi việc biến chế cát thành bánh mì đã là quá khó rồi, nay lại còn đem vật rắn biến thành thể lỏng, lại càng khó khăn gấp bội! Đồng ý rằng việc này vô cùng khó, nhưng nếu khăng khăng xác định là cát không thể nào hóa thành nước được, thì e rằng không đúng. Bởi vì, theo nguyên lý hóa học, hạt cơ bản của chất rắn cũng không khác gì với hạt cơ bản của chất lỏng hay chất khí. Cho nên, có bao nhiêu vật thể rắn thì đều có thể chuyển hóa thành bấy nhiêu vật thể lỏng hay khí và ngược lại. Nếu chúng ta chưa làm được công việc ấy, không phải do vật thể phát sinh vấn đề mà chính là vì năng lực trí tuệ con người hiện nay chưa đạt đến mức đó mà thôi.

Chúng ta đều biết, bột mì có thể làm thành các thứ như: bánh bao, noodle (nuôi), mì sợi, bánh nướng, bánh xếp, mì hoành thánh…đối với con người thì việc ấy không có gì là khó cả. Nhưng nếu đưa bột mì cho loài khỉ để làm những thứ trên thì chúng không thể làm thay đổi tính chất, mà chỉ vì khỉ chưa có trí năng để làlm nên việc thôi!

Người Hòa Lan (Holland) thường nói: “Trời sinh ra biển, người Hòa Lan tạo thành đất” vậy tại sao chúng ta không có gan nói “Trời sinh ra cát, người Trung Hoa tạo thành nước” để cho đám con cháu của Huỳnh Đế lại chẳng thể làm rạng danh tổ tiên, biến đổi cả những khu vực Tân Cương, Mông Cổ và một dải miền Trung Đông có nước trong chảy dài, cá bơi vô số hay sao?

Có người cãi lại rằng, người Hòa Lan có thể tạo thành đất, là vì chỉ cần đẩy lùi nước biển ra xa thì có đất hiện ra thôi. Chứ còn cát vàng làm thành nước là từ cái không làm thành cái có, ngoại trừ có ma thuật mới làm được. Thế nhưng, đâu phải từ không làm có, chỉ những nhà ma thuật làm nổi. Chúng ta nhớ lại xem, các thứ đèn điện, điện thoại co đến vệ tinh nhân tạo, trong quá khứ làm gì có sẵn? Trí năng sáng tạo hết thảy, thay đổi hết thảy. Vậy thì, việc điều chế nước từ cát đâu phải là tuyệt đối không thể làm được, chỉ cần tâmlinh chúng ta có lúc mở hoát ra thì lúc lúc đó Mông Cổ, Tân Cương chắc chắn sẽ có nước ngọt, noi theo những dòng sông chằng chịt nhau như lưới nhện, ngày đêm chẳng ngừng chảy ra bốn phương tám hướng.

Chúng ta đã có cơ sở vững chắ là hiện nay các nhà khoa học đang nghiên cứu cần cù ngày đêm để làm nên kỳ tích ngay trên mặt trăng, là chế tạo ra nước uống giải quyết tình trạng không có nước trên mặt trăng. Họ đã phân chất đất trên mặt trăng, gồm 80% là silic dioxid (SiO2) (Cát nguyên chất), 20% là oxid calci (CaO) và số ít Titan (Ti), Sắt. Đem nung SiO2 và 2 CaO đến 8000F (1) ta sẽ thu được khí oxy (O2), sau đó chỉ cần cho tác dụng thêm với khí Hydro (H2) là ta có thể được nước.

2H2 + O2 à 2 H2O (nước)

Nghe nói, chủ trương việc này là một nhà khoa học người Mỹ gốc Hoa.

Phương pháp chế tạo nước này là phải chở Hydro từ trái đất lên mặt trăng, nên rất tốn kém. Thực ra, Hydro cũng có thể điều chế ngay tại mặt trăng bằng các phân tích các chât có sẵn trên đó thành ra các hạt cơ bản, dùng hạt đó để chế ra nguyên tử Hydro. Hiện tại, các nhà khoa học chưa đủ khả năng để thực hiện công tác kỳ diệu này, nhưng chắc chắn trong tương lai nhất định sẽ làm được.

Chẳng những có thể lấy cát, đá để điều chế thành nước, mà cả gỗ cũng có thể làm thành nước được. Nếu bạn chưa tin, hãy đọc bài viết trên nhật báo Tinh Đảo ngày 20/5/1987 như sau:

“ Tin điện ngày 18 của Assiociele Press, từ Đan Phật đánh đi: Xe hơi ở tương lai được sử dụng nhiên liệu lỏng có giá trị cao để hoạt động, nhiên liệu này được điều chế từ rác. Máy bay phản lực cũng có khả năng dùng nhiên liệu cao cấp, tạo ra sức đẩy so với nhiên liệu đang dùng, mạnh hơn nhiều. Loại nhiên liệu này từ than đá chế ra.

Các nhà khoa học đã và đang hết sức cố gắng để tìm ra hai thứ nhiên liệu mới này, hầu có thể thay thế xăng dầu hiện nay đang ngày càng đắt hiếm, không đủ cung cấp cho con người sử dụng ở ngày mai.

Tuy nhiên, hai thứ nhiên liệu này dù đã làm ra được, nhưng giá thành theo phương pháp hiện tại còn quá cao, nếu sản xuất quí mô lớn thì không có lợi về kinh tế.

Ông Đái Bảo ( ) ở Học hội nghiên cứu năng lượng mặt trời Fort Collins ở Colorado, đã bỏ ra 45 năm để nghiên cứu về việc này, kể từ khi khối Arabie có lệnh ngưng bán dầu. Ông đã điều chế gỗ thành loại nhiên liệu có hàm lượng CnH2n – 2 là hydrocarbon không no (adien hay diolefin). Theo lời ông cho biết, phương pháp điều chế này không chỉ áp dụng riêng cho gỗ mà có thê làm với bất cứ phế vật hay rác rến nào khác. Kỹ thuật chủ yếu của ông là thổi một khối nhiệt lượng lớn vào gỗ trong thời gian rất ngắn, gỗ sẽ không bị cháy mà lập tức thăng hoa thành một loại khí, từ khí này sẽ biến thành dầu mỏ. quá trình này sẽ đông thời phát sinh thêm khí oxy O2, khí carbonic CO2, oxyd carbon CO, và nước.

Trong kỳ hội nghị chuyên ngành hóa học vừa qua tại Mỹ, ông Đái Bảo tuyên bố “phải gấp rút thành công trong việc nghiên cứu chế tạo loại dầu mỏ này để đáp ứng kịp thời về kinh tế và thị trường. có lẽ cũng mất khoảng 5 năm nữa mới có thể sản xuất đại trà với giá thành hạ được”.

Tin này đã làm mọi người vô cùng phấn khởi vì nếu gỗ tăng nhiệt cao có thể sinh ra phó phẩm là nước thì không lý do gì không thể áp dụng tương tự đối với cát, đá, để thu hút được các khí O, H và He (helium) sao?

Nếu trên mặt trăng có thể tạo ra những hồ Động Đình, những sông Amazone, thì các bãi sa mạc Gobi, Hồng Hải và Sahara cũng có thể chế tạo ra cả trăm ngàn dòng nguồn nước lớn giống như phía nam phía bắc núi balkash. Điều đó, chắc không ai chối cãi được!

5. BIẾN SA MẠC THÀNH RỪNG CY TRÁI NGÚT TRỜI.

Công tác thứ năm là biến cải sa mạc thành những rừng cây trái ngút trời.

Từ những sa mạc không có ngọn cỏ mọc, biến thành những vườn cây trái ngút trời, là việc mọi người có thể chấp nhận không đến nỗi hư huyền lắm.

Trong nông nghiệp học có phương pháp cải tạo lại đất. Từ sa mạc trở thành bãi xanh, những năm gần đây có số chuyên gia nông nghiệp đã thực nghiệm rồi. Trong những vùng đất đầy cát sỏi không chút màu mỡ, cải tạo thành ra đất phì nhiêu, thu hoạch đạt năng suất cao. Thành tích mới nhất là ở những sa mạc của hai nước Isarel và Arabie, nhưng vì vốn bỏ ra khá cao, nên diện tích đất phục hóa bị hạn chế.

Nếu như, trí năng con người có thể đạt đến mức thăng hoa, vận dụng được “năng lực phóng xạ vũ trụ”, thì chỉ trong ít hôm là có thể biến những dải sa mạc trên địa cầu thành những vùng đất màu mỡ, trông cây ăn trái, đào mương xẻ rãnh, xây dựng lâu đài, thiết lập nhà máy…để từ những chỗ không có chút khói của sự sống, trở thành những vườn địa đàng cõi nhân gian, điều đó chắc không khó khăn lắm. Lời nói này, nghe qua có vẻ hơi thầnh bí, khó thể nghĩ bàn. Việc biến sa mạc thành đất màu mỡ, căn cứ vào định luật hoàn nguyên của hóa học, về mặt lý luận có thể chấp nhận. Vì cát và đá đều từ đất, bùn ngưng kết lâu ngày mà thành, bây giờ bắt cát hoàn nguyên, khôi phục lại bộ mặt vốn có của đất bùn, ngay đến không cần nhờ vào sự hỗ trợ củ năng lực phóng xạ vũ trụ, cũng có ngày làm được.

Về phóng xạ vũ trụ, thì hiện nay hai nhà khoa học đứng đầu trong ngành là Mã Khắc Luyện Xiển (tên dịch) và La Sách Phúc Đắc (tên dịch), tiếp nối việc phát hiện ra quang tuyến X. Theo thuyết này thì, nó có thể biến đồ vật A thành đồ vật B, biến động vật C thành động vật D. Phóng xạ vũ trụ còn nằm trong bóng tối, hiện nay chưa có phương pháp nào để vận dụng được nó.

Loại tin tức này đầy sắc thái thần bí, trong vũ trụ thực có phóng xạ vũ trụ thần bí này không, nhiều người vẫn còn bán tín bán nghi. Sự thực, chỉ cần chúng ta lắng tâm bình tĩnh một chút là có thể phát hiện ra nó ngay.

Thơ Đường có câu “Quân bất kiến cao đường minh, Kính bi bạch phát, triêu như thanh ti, mộ như tuyết” (Bạn thấy chăng, cha mẹ già soi gương buồn tóc bạc, sáng như tơ xanh, chiều như tuyết). Câu thơ đó của Lý Bạch là biết phát huy năng lực của phóng xạ vũ trụ rồi vậy!

Sức mạnh của phóng xạ vũ trụ, ở bất cứ đâu cũng có thể tác dụng đến, dù chôn dưới đất hoặc chìm dưới đáy biển sâu, cũng chịu sự chi phối của sức mạnh này. Than đá thành ra kim cương, hột cát bùn thành hạt ngọc, nếu như không sức mạnh phóng xạ này thì than đá và hột cát không thể thay đổi hình chất được, để chuyển hóa từ một vật đáng giá một xu thành vật có giá trị cao.

Hai nhà khoa học Mã, La cũng đã cho biết về sức biến cải của phóng xạ vũ trụ không phải dần dần mà là “ngay lập tức”. Trong chớp mắt, có thể biến cải một vật thể, thực tế trong vũ trụ này có hay không? Nhà khoa học nói như thế có thể đúng không? Nếu quí vị còn hoài nghi, xin vui lòng đọc bản tin ở tờ báo Tin Đảo tháng 8 năm 1987 như sau:

“Đột nhiên, trong khoảnh khắc sấm sét đầy trời, có người bị sét đánh chết. Thế mà, một người đàn bào Tây Đức, 35 tuổi, tên Sa Tỉ Nhã Cơ Lộ Ti Thoát, đã gặp một việc phi thường là, sau khi bị hôn mê bởi sét đánh mà không chết, lúc tỉnh lại đã biến thành phái nam, vì luồng điện cực cao của sét đã có sức biến cải tính chất hormone trong thân thể bà, từ kích thích tố nữ thành ra ích thích tố nam. Bà ta là thư ký, trên đương từ sở làm về nhà đã bị tai nạn sấm sét trên. Sau một lúc mê man, tỉnh dậy thấy trong người không ổn, bà tự đến bệnh viện để chữa bệnh. Vào buổi chiều tối, bà xuất viện, sức khỏe bình thường. nhưng ngay sau đó, các sự kiện lạ xảy ra liên tiếp: cằm mọc đầy râu, lông tay và chân mọc rất nhiều, vú teo lại, tiếng nói cũng thay đổi…nói chung là các bộ phận nữ đều thành nam, ngoại trừ bộ phận sinh dục thôi.

Các bác sĩ Tây Đức đã quan tâm nghiên cứu trường hợp đặc biệt này, đã nhất trí là, khi cô bị điện trường của sét làm hôn mê, nên thể chất sinh ra sự biến đổi dữ dội, lần lần biến thành phái nam. Có thể có ngày không xa lắm, sinh thực khí của bà cũng sẽ trở thành bộ phận của nam giới. Sự thay đổi khác biệt đến ngay cả chông và hai con của bà cũng không thể nhận ra. Gia đình bà không ngờ bà biến thành thân nam, hạnh phúc gia đình đã bị mất, nên đến các bệnh viện xin cứu giúp. Các bác sĩ Tây Đức cho biết: Chỉ có một biện pháp duy nhất trong việc trị liệu này là tiêm loại hormone nữ nhiều vào cho bà, hy vọng thân thể bà sẽ trở lại giống như cũ, trước khi chưa hoàn toàn biến thành đàn ông. Đây là một cuộc thi đua của y học, chúng tôi hết sức tranh thủ, nhưng kết quả ra thể nào thì chưa chắc chắn lắm!”

Thứ năng lực biến cải sự vật quá đột ngột này, hiện nay loài người còn bó tay, chưa có cách gì cứu vãn được.

a) NGƯỜI HÓA RA CHÓ

Lại cũng có một thứ năng lực tương tự trên, nhưng bị số người không hiểu sự thần diệu của nó, đem vận dụng cách khác. Mời quí vị xem lại bài đăng ở Tân Báo ngày 13/4/1987 như sau:

“Các nhà khoa học đã kinh ngạc vô cùng khi chứng kiến một nhà pháp thuật ở bộ lạc Tân Ky Nội Á, thi triển pháp lực không thể nghĩ bàn, đem những người hung ác gây ra những việc xấy xa trong thôn xóm của ông, biến thành ra chó.

Những nhà khoa học về nhân loại của Thụy Điển mục kích sự viện trên, kể lại: Trong nghi thức dài bốn giờ, nhà pháp thuật này đã biến một tên tội phạm giết người thành một con chó lai giống hiền lành. Chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy một sự kiện hết sức phản khoa học, như rõ ràng là không thể có sự kiện giả tạo, dối trá nào hết.

Hai tiến sĩ Doanh Phu và Bối Cách Sĩ Đốn, trong một hội nghị khoa học ở Tây Đức đã tuyên bố: Chúng tôi rất hoan nghênh việc có ai điều tra sâu về sự việc trên. Toán ba nhà khoa hịc do ông Bối Cách Sĩ Đốn lãnh đạo, đến Tân Cơ Nội Á để nghiên cứu sinh hoạt của các bộ lạc, không ngờ chứng kiến được pháp lực thần kỳ của nhà pháp thuật Vương Biện Đạt Hoa ở đây.

Buổi chiều, chúng tôi đến làm khách của một tù trưởng, có nhóm người đến báo cáo là bị trộm lấy hết tài vật, xin tù trưởng bắt hết những tên trộm này, nhờ nhà pháp thuật Vương Biện Đạt Hoa biến chúng thành chó.

Ông Bối Cách Sĩ Đốn nói: Những câu nói ấy hấp dẫn chúng tôi vô cùng. Họ cho chúng tôi biết thêm kế bên có nhà pháp thuật Vương Biện Đạt Hoa, quả có phép thuật cao cường trên thế giới. Đến nỗi, dân trong bộ lạc này đều sợ ông, chẳng dám làm điều gì phạm pháp.

Khi nhóm tiến sĩ Bối đến xóm của ông Vương, thì được các vị thổ hào tiếp đón rất nồng hậu. Gặp ông Vương, ông xác định việc biến kẻ có tội thành ra chó là việc ông có thể làm được thật, nhưng không chịu nói rõ là biến cách nào. Tiến sĩ tiếp: Ông ấy cho biết, biện pháp này chỉ dành cho những tên cùng hung cực ác, mang tội giết người hoặc hiếp dâm.

Ba ngày sau, may mắn là ba nhà khoa học có dịp thấy tận mắt ông Vương thi thố pháp lực. Có một thanh niên can tội giết người anh ruột, bị dân chúng lột hết quần áo, trói dẫn tới căn nhà bằng gỗ của nhà pháp thuật này.

Chúng tôi không được phép vào trong nhà để xem ông ta tiến hành nghi thức như thế nào, nhưng đứng bên ngoài, chúng tôi vẫn gnhe rõ được những tiếng tụng kinh và câu hát của ông, xen vào có những tiếng kêu gào thảm thiết khiến người nghe rợn gáy.

Hai giờ sau, trong nhà đột nhiên im lặng. ông Vương mở cửa ra và ra hiệu cho chúng tôi nhìn qua cửa sổ để quan sát. Vừa nhìn vào trong, chúng tôi muốn đứng tim khi thấy tên thành niên đã biến thành nửa người nửa thú, tứ chi chống xuống đất, toàn thân đã mọc lông lá, móng tay chân đã thành vuốt. Rõ ràng, không phải chuyện hóa trang, mà là sự thực hoàn toàn.

Nhìn được khoảng 5 phút, ông bảo chúng tôi hãy đi ra xa để ông hoàn tất công việc. Sau khoảng hai giờ tiếp tục tụng kinh và ca hát, khi cửa mở, một con chó xồm xoàm lông lá xông ra ngoài, theo một con đường nhỏ chạy tuốt vào trong rừng.

Ba nhà khoa học này đã viết thành bản báo cáo, in ra để phổ biến cho hội khoa học các nước. Có số người làm công tác pháp luật biết việc này, có ý đến tận nơi làm thẩm tra. Một viên chức cảnh sát ở Paris đã phát biểu “Chúng tâ không mong mỏi bất cứ ai sẽ trở thành chó. Nhưng nếu pháp lực của ông này có thể khiến cho chúng ta giảm bớt gây tội, thì cũng nên thực hiện lắm.” Xưa nay, không có sự quan hệ nào giữa phù chú tà thuật biến hóa con người và khoa học, nhưng qua sự thực kể trên chúng ta không thể nào phủ nhận cái pháp lực của ông này đã thi triển giống như năng lực của phóng xạ vũ trụ mà các nhà khoa học đã tuyên bố.

Dĩ nhiên rất nhiều người không tin chút nào vào sự kiện kể trên, vì với khả năng phương tiện của khoa học hiện nay, còn chưa có cách gì nắm bắt được phóng xạ vũ trụ thay, huống gì chỉ có những tiếng chú, tiếng kinh từ miệng của nhà pháp thuật lại có thể huy động được năng lực phóng xạ vũ trụ, để làm theo ý muốn ông sao? Lẽ nào lực lượng của tiếng kinh chú lại mang hơn lực lượng của máy móc sao?

Chúng ta đều biết, tiếng nói là sức mạnh trưc tiếp của tâm linh, máy móc là sức mạnh gián tiếp của tâm linh. Trong diều kiện bình thường, dĩ nhiên chúng ta không lưu ý đến sức mạnh của tiếng nói, vì ai nấy hàng ngày cũng phát ra biết bao lời nói, mà có thấy gì đặc biệt đâu. Có lẽ những lời nói của chúng ta không chứa đựng nội dung phát sinh tác dụng, còn nếu có được nội dung đặc biệt nào đó, thì không thể không gây ảnh hưởng to lớn lạ thường cho người nghe. Hằng ngày, nhà pháp thuật cũng nói nang như chúng ta, nhưng tại sao không phát ra tác dụng gì, chỉ khi nào ông bắt đầu tụng những kinh văn và ca hát đặc biệt thì đối tượng mới chịu thảm họa. Như vậy, rõ ràng do nội dung kinh văn và bài hát tạo ra sức mạnh siêu phàm này!

b) CÚ ĐIỆN THOẠI GIẾT NGƯỜI

Cũng có người cho rằng, vì nhà pháp thuật này đã luyện tập nên âm thanh ông ta phát ra, mới có sức mạnh kinh người như trên, còn chúng ta dù nói suốt ngày cũng không ăn thua gì, vì không được luyện tập. Sự thực, không phải vậy, vấn đề là lời nói của chúng ta chứa đựng nội dung như thế nào, có khi một người thường cũng có thể gay ra tia họa lớn lao cho kẻ khác. Nếu bạn chưa tin, xin đọc bản tin ngày 9/9/1987 đăng ở Tân Báo:

“Tin riêng của Tân Báo: Một cô gái, ba tháng trước đây đã đăng ký kết hôn với người yêu, chờ ngày về nhà chồng. Trưa hôm qua, ở sở làm cô nghe điện thoại, trở về nhà tự tử chét. Lúc 6g chiều, em trai cô đi học về mới phát hiện ra cô treo cổ trong phòng tự vẫn. Người nhà đưa cô xuống đất và bảo cảnh sát đến, đưa vào bệnh viện thì xác nhận cô đã chết, không còn cứu chữa được nữa. tại hiện trường còn để lại hai bức thư, một gởi cho mẹ, một gởi cho chồng sắp cưới.

Nạn nhân tên Dư X. Khanh, 24 tuổi, người ở Tân Hội (Quảng Đông), sống chung với cha mẹ và 6 anh chị em khác ở hai phòng gần nhau số 1048 và 1242 trong một chung cư. Lúc ba giờ chiều, cô đang làm việc ở xưởng may áo quần tại Quan Đường, vừa tiếp được một cú điện thoại thì vội vàng bỏ sở làm, về nhà. Đến 6g chiều, đứa em trai 13 tuổi đi học về, thấy cửa nhà khóa chặt, không vào được, liền đến nhà hàng gần đó để báo cho cha đang làm việc nơi đây, cùng trở về nhà. Đến nhà, thì mẹ cô cũng về. Ông cha cũng không thể mở cửa ngòai được, sau liền từ cửa sổ nhìn vào trong nhà, thấy con gái đã dùng vải trắng treo ở góc tường. Ông chạy qua nhà bên cạnh, mượn được cây xà beng cạy bung cửa ra và gọi điện thoại báo cảnh sát. Lúc cảnh sát và nhân viên sở vệ sinh đến nơi, người nhà hạ thây cô xuống, liền đưa đến bệnh việncấp cứu tiếc rằng không còn kịp, đành để ngọc nát hương tiêu.

Cảnh sát đã tìm thấy hai bức thư trong phòng, một gởi cho mẹ và một gởi cho chồng sắp cưới. Nội dung thư gởi mẹ, chỉ có lời tha thiết xin lỗi mẹ và biếu lại mẹ những nữ trang ngày cưới để làm vật kỷ niệm. Còn trong bức thư gởi chồng sắp cưới, chỉ mong mỏi chồng đừng quá thương tâm. Lý do nào cô bỏ sở làm về nhà tự tử và ai đã gọi điện thoại cho cô? Cảnh sát còn đang điều tra.

Nạn nhân là con thứ hai trong số 6 anh em. Chị lớn đã dời chỗ khác ở riêng, người chết sống cùng mẹ và em trai tại căn hộ số 1048, ông cha và các em khác thì ở căn hộ 1242. người chết đã tốt nghiệp trung học, đi làm công nhân, hiện là thợ may trong xưởng may áo quần ở Quan Đường, do người anh rể làm chủ. Lương hơn 3000 đồng tháng. Ba năm trước có quen người bạn trai họ Lý, làm thợ sửa máng cho một công ty hàng không. Hai người đã đăng ký kết hôn trước đây ba tháng và dự kiến đến ngày 10/12 năm nay sẽ tổ chức tiệc cưới tại nhà hàng Vượng Giác, chính thức thành hôn. Đối với việc cô tự tử, người nhà đều thấy ngoài ý tưởng của họ.

Người chết mặc áo trắng, quần đen, không mang giày, dùng vải trắng treo cổ tự tử ở góc phòng. Gia đình đứng ra lo liệu việc chôn cất cô.

Một viên đạn có thể kết liễu cuộc đời ngang dọc của anh hùng cái thế, nhưng một cú điện thoại cũng có thể làm cho người đẹp bỏ mạng.

Việ bi thảm tương tự, thường được nghe qua. Số người thuộc diện này trước nay không thể thống kê được. Cũng có những người, tuy chưa đến nỗi tìm cái chết, nhưng qua một cuộc nói chuyện hay đọc bức thư, cũng khiến họ đau khổ suốt đời.

Cho nên, chúng ta không nên đánh giá thấp sức mạnh của nó. Đó là một thứ năng lực hình nhi thượng vào thẳng tâm linh. Nó có thể khôi phục sự suy sụp hay ngăn ngừa được tai hại khiến người đối diện sinh phấn khởi yêu đời, mà cũng có thể làmcho kẻ ấy thân chết nhà tan. Qua câu chuyện thương tâm trên, đã khải thị cho chúng ta phải biết thận trọng lời nói, đừng đem chuyện riêng tư của anh A chị B ra kể lể cho sướng miệng làm gì!

6. DẦU XĂNG VÀ MỌI THỨ CÓ THỂ ĐIỀU CHẾ TỪ NƯỚC BIỂN

Mục tiêu của công tác thứ sáu là, vận dụng khối nước mênh mông trên địa cầu, dùng nó để điều chế dầu xăng, vàng, gang, sắt.

Hôm trước, có hai người bạn mang đến mấy bình dầu đậu, được chế biến từ các thứ như củ cải, mướp, cà chua, cải trắng, trái chanh…bao gồm các loại ngũ cốc chế thành, so với dầu đậu nành, đậu phọng không mấy gì khác.

Chúng ta đều biết, trong cải hay dưa mướp đều chứa nước, chứ đâu có chất dầu nào. Vậy mà cũng có thể làm ra dầu được. Vậy thì biết đâu cũng có một ngày chúng ta chỉ cần mở vòi nước là có thể chảy ra nước trái cây và sữa bò tươi được.

Theo lịch sử ghi chép, ngày xưa Đỗ Khang làm rượu từ gạo nếp ủ men mà thành. Người sau trí óc mở mang thêm, biết cách dùng lúa mạch, cao lương, đường, khoai lang đỏ, đậu, trái cây…làm ra thành vô số lọai rượu.

Hiện nay, những “Lý Bạch”, “Lưu Linh” thời đại, ở những khu vực lạc hậu, muốn có rượu uống nhanh chóng chỉ cần máy lít nước trong, nhỏ tửu linh (alcohol) vào liền có thể thay cho rượu ngon như rượu Cao Lương ở Thiên Tân, rượu Mao Đài ở Quí Châu, đem ra thị trường tiêu thụ.

Lấy nước biển điều chế thành dầu mỏ, không phải tác giả bịa đặt, mà tính khả thi của nó rất cao. Bởi vì dầu mỏ là hóa hợp của carbon và hydro mà thành hydratcarbon (CH), C sẽ thành khí carbonic (CO2). Theo đúng nguyên lý hóa học E= m C2, nếu ta cho nước (H2O) tác dụng với carbonic (Co2) với một phương pháp và kỹ thuật thích đáng, thì không khó gì đẻ khôi phục mày mặt vốn có của nó, là loại dầu mỏ cao cấp.

Theo các giới khao học công bố, khối lượng khí Neon (ne) phana tích ra từ 1l nước, có thể cho năng lượng đến 1,2 x 1010 calori (12 tỉ calori), nhiều hơn năng lượng tạo ra khí đốt 300 tấn dầu mỏ. Toàn bộ khí Neon trong tất cả nước biển, có thể sinh ra 7.6 x 1030 calori (7600 tỉ tỉ calori), đủ để cung cấp cho nhu cầu sử dụng của loài người đến muôn năm sau.

Lý luận trên, chính do các nhà khoa học uy tín nêu lên, nhưng đến nay vẫn chưa có các thực hiện được, khiến cho vua dầu hỏa vẫn còn là đứa con cưng của trời.

Đang lục tìm xem những tư liệu hiện nay, có nhà kha học nào nhanh chân bước tới chưa, dùng nước biển chế ra dầu. Bỗng đọc được tin của UPI ngày 22/4/1986, khiến tôi quá đỗi vui mừng.

“Tin điện UPI từ Tokyo đánh đi – Nhà khoa học Đô Biên Kiển Thứ của Nhật Bản vừa phát minh ra loại dầu máy xe lửa chạy bằng Hydro, để thay thế cho loại chạy bằng gasoil trước đây. Đó là hỗn hợp nước và khí hydro, tạo thành áp lực cho động cơ. Ưu điểm của loại đầu máy này là không gây ô nhiễm môi trường nghiên trọng, như các loại đang sử dụng gây ra trên thế giới hiện nay.

Đầu xe lửa chạy bằng Hydro này đã tiết kiệm được rất nhiều nhiên liệu, lại có thể tận dụng rất nhiều vật để điều chế Hydro. Các loại đầu máy xe lửa cũ chạy bằng thanh đá hay gasoil đều có thể cải chế lại dễ dàng, thành loại đầu máy xe lửa chạy bằng Hydro này.

Công ty liên hợp đường sắt Thái Bình Dương của Mỹ (là công ty đường sắt lớn nhất của Mỹ hiện nay), từ ngày 1/4 năm nay đã ký khế ước, để bắt đầu thay các đầu máy xe lửa của công ty thành loại mới này, số lượng đầu máy cũ có khoảng 1700 miles đường sắt. Dự kiến, ngày đầu năm mới, sẽ có 1 đầu máy xe lửa chạy bằng hydro chính thức hoạt động. theo hợp đồng, công ty này sẽ còn làm nơi phân phối tiêu thụ loại đầu máy xe lửa mới này.

Khí Hydro này là phó phẩm của các xưởng luyện dầu, trong quá trình phân lý nước biển. Từ năm 1960 ông Độ Biên Kiến Thứ đã bắt đầu nghiên cứu để chế tạo ra đầu máy loại này, vận tốc đạt đến 210 km/g rất ổn định. Cũng đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, sử dụng hydro tương tự, nhưng chỉ có một mình ông Độ áp dụng thứ hỗn hợp nói trên thôi. Phát minh này đã thu lợi tại các nước Mỹ, Canada, Tây Ban Nha, Nhật, và 37 nước khác cũng đang khảo sát để cấp bằng sáng chế loại này.

Lại có một tin khác cho biết, một nhóm nhà khóa học đã tìm ra được những đột phá lớn từ trong nước biển. Tin này của Trung Hoa xã ra ngày 4/7/1987 phát ra:

“Tin điện của Trung ương xã Luân Đôn ngày 4. người phát ngôn của Phòng Thực nghiệm công trình quốc gia của nước Anh, hôm thứ tư đã tuyên bố, phòng này vừa phát minh ra loại Cylindre dịch áp, dùng nước biển thay thế dầu để tạo ra sức đẩy Piston. Kết quả trên do sự phối hợp của phòng này với hai công ty Shell và Standard của Mỹ hợp tác, qua 5 năm nghiên cứu. Từ trước đến nay, người ta chỉ dùng dầu để tạo sức đẩy cho động cơ, vì dầu có tính làm trơn các bộ phận, nên có thể làm việc trong điều kiện áp suất cao. Nhưng nhiều năn qua, nhân viên của phòng công trình vẫn muốn dùng nước để thay thế cho dầu, vì nước giá rẻ, mà lại không gây ô nhiễm.

Ba cơ quan trên đã chi ra số tiền 400.000 anh kim cho việc nghiên cứu thành công lại cylindre dịch áp dùng nước biển tạo sức đẩy này.

Với phát minh này, có thể thu lợi ngay cho các công ty trên, nhưng Shell và Standard vẫn đưa phát minh cho công ty công trình Hanis tiếp tục phát huy thêm cho thật hoàn hảo.

Ngòai ra, cũng có tin số nhà khoa học đã thành công trong việc khống chế “Hạch tụ biến”, kỹ thuật này thực tế có thể giúp cho loài người tạo ra nguồn năng lượng hạt nhân to lớn dùng không hết, mà giá thành rất rẻ, vì nguyên liệu chính để chế tạo là nước.

Qua những tư liệu kể trên, chứng tỏ việc thực hiện mục tiêu công tác thứ 6 đề ra, là có thể đạt được sự thực, tuyệt nhiên chẳng phải là huyễn tưởng vậy.

7. CHẾ TẠO VÀNG VÀ GANG, SẮT TỪ NƯỚC.

Mục tiêu của công tác thứ bảy là dùng nước để điều chế thành vàng, gang, sắt.

Nếu như con người đã có thể dùng nước biển để thay thế dầu hỏa, thì việc lấy nước biển để điều chế ra vàng hay gang, thép ít có ý kiến chống đối hơn.

Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nhà khoa học Đức đã sớm nghiên cứu thực nghiệm về nước biển và nghe nói đã có thể chế ra vàng rồi, nhưng về sau không nghe nói nữa, lý do tại sao thì người ngoài không biết được.

Nước biển có thể điều chế ra vàng được hay không ta hãy xem các số liệu tính chất nước biển như sau:

“Nước biển trên địa cầu chúng ta có khoảng 300 triệu mét khối, trong đó có chứa 200 tấn Uranium (U), 15 tỉ tấn gang (Mn), 500 triệu tấn bạc (Ag), 10 triệu tấn vàng (Au), 5,5 tỉ tấn muối, nước nguyên chất chiếm 96.5%.

Theo tuyên bố của công ty Đổ Bang của Mỹ, trong 1 mile khối nước biển, có chứa đến 175 triệu tấn hóa chất, nếu tách lấy chúng ra được, có giá trị đến 5 tỉ dollars. Lượng nước còn lại, dùng kỹ thuật “Hạch tụ biến” để tạo ra nguồn năng lượng lớn, đủ cho loài người sử dụng hàng triệu năm không hết. Đây quả thật là: HÓA NƯỚC THÀNH VÀNG vậy.

Những việc nêu trên đã hoàn chỉnh về mặt lý luận, còn về mặt kỹ thuật còn đang cố gắng hướng tới. Ngày nào, tìm được kỹ thuật này, thì quả địa cầu đầy người đau khổ này, chỉ trong một ngày sẽ biến ra thế giới cực lạc, vàng son rực rỡ, không phải là lời khoa trương.

Công tác của các nhà khoa học Đức là, hoặc lọc vàng trong nước biển, hoặc trực tiếp dùng nước biển điều chế vàng. Ở điều kiện trí năng của nhân loại hiện nya, vẫn còn dừng ở giai đoạn lọc nước biển lấy ra vàng.

Phương pháp lấy vàng trong nước biển, nghe nói có đến hơn 30 phương pháp khác nhau, vì kỹ thuật phức tạp, tốn kém quá nhiều, được chưa bù với mất, nên chưa đem áp dụng được. Cho đến nay, vẫn chưa có một báo cáo nào về việc trực tiếp điều chế nước biển thành vàng. Vấn đề này, xét về mặt nguyên tử học thì tỉ lệ thành công đạt hiệu suất 100%. Nếu chúng ta có thể nắm giữ được tổng cơ quan của vũ trụ, thì việc đem thứ nước biển xanh thẩm kia chế tạo thành những thỏi vàng óng ả, không phải là chuyện khó khăn lắm.

Nếu thành công trong việc lấy nước biển chế thành vàng, thì lúc đó những thứ nước khác trên mặt đất, dưỡi mặt đất, nước thải ra từ các công xưởng, nước rống rãnh của thành thị…đều có thể luyện thành gang, thép, làm ra xe hơi, tàu thuyền, máy bay…sẽ không còn việc lạ lùng nữa!

8. TRẺ MÃI KHÔNG GIÀ

Mục tiêu công tác thứ tám là làm cho mọi người trẻ trung, đẹp đẽ, trí tuệ sáng suốt, thân, tâm yên vui, không còn già, bệnh, chết nữa.

Trên trái đất vĩnh viễn không còn những cảnh bi thảm của những người dân nghèo, đói khát, hèn hạ, tai họa liên miên nữa.

Khoảng 30 năm trước tôi, đứng ở ga xe lửa Đài Bắc, mua quyển tạp chí “Nhân gian thế” (Đời người). Trong đó có hơn mười trang đăng những tấm hình của cùng một cô gái. Tấm thứ nhất là hình cô lúc mới 16 tuổi, thật là xinh như hoa, diễm lệ tuyệt với. Tấm chót chụp lúc đã thành bà lão 80 tuổi, tóc bạc, da nhăn nheo vô cùng xấu xí. Xem hai tấm hình đầu và chót này, không ai dám tin là thuộc về một người.

Thưo các nhà sinh vật học cho biết, thân thể con người luôn luôn biến đổi, mỗi ngày có hàng triệu tế bào chết đi, theo các cơ quan bài tiết ra ngoài và hàng triệu tế bào mới sinh ra thay thế. Trong chu ký bảy năm rưỡi, toàn bộ tế bào của thân người đởi mới hoàn toàn. Do sự thay đổi một cách thầm lặng bên trong đó, mà con người đi từ chỗ hoa nở trăng tròn đến chỗ tàn phai theo thời gian mà bản thân không hay biết.

Dùng đất, cát để chế biến ra bánh mì, lấy nước biển điều chế ra vàng, thép, về phương diện lý luận có khả năng thông qua, đạt hiệu suất 100%. Nhưng về mặt kỹ thuật vẫn còn nhiều khó khăn, phải chờ một thời gian khá dài nữa mới làm được. Như vậy, việc làm cho con người trẻ mãi không già, bệnh, chết, chống lại qui luật của tự nhiên, thì quả thật khó càng thêm khó!

Loài người muốn chống lạicái chết từ lúc nào, thì thiếu sự ghi chép rõ ràng. Nhưng xem lại lịch sử, vào thế kỷ thứ ba ở Trung Quốc, đã có hai vị vua kiệt xuất, nhân tài là Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế. Do ở hai vị này luyến tiếc sự nghiệp của mình tạo ra một cách khó khăn, nên mong muốn sống lâu không già, tuổi thọ ngang với trời đất. Do đó, ra lệnh trong khắp thiên hạ, tìm ra người nào có thể giúp cho họ đạt được ước vọng ấy, nhưng rồi chẳng được kết quả gì, lần lượt chui vào phần mộ cả.

Người u Tây cũng có sự sỡ hãi về cái chết tương tự ngưới Á Đông. Chỉ vì văn hóa không giống nhau, nên họ ham thích sự “sự sống trở lại”. Những xác ướp hay ngôi mộ có lớp chân không là bằng chứng về tư tưởng hy vọng có ngày “sống lại”. Sống mãi và sống lại, về hình thức thì khác nhau, nhưng xét về mặt sợ chết, thì quả không khác mấy.

Bài thưo của Tào Mạnh Đức (Tào Tháo) đã viết:

“Đối tửu đương ca, nhan sinh kỹ hà?

Thí như triêu lộ, khứ nhật khổ đa.

Khải đương dĩ khảng, ưu tư nang vong,

Hà dĩ giải ưu, thùy hữu Đổ Khang”.

Dịch:

“Đời người có bao lâu, hãy vui hát uống rượu

Nhanh như sương buổi sớm, ngày qua khổ càng nhiều

Kể cả lúc khảng khái, nỗi lo cũng khó quên

Lấy gì giải nỗi lo, chỉ có rượu làm bạn”.

Đây là lời kêu gào thảm thiết không còn cách nào đối phó với cái chết nữa.

Làm cho mọi người đều được trẻ trung mãi, thoát khỏi già chết, không phải là cái nút chặt cứng không thể cởi mở ra được. Mấu chốt của vấn đề vẫn là liên quan đến trí năng của loài người. Định luật của tự nhiên không còn là bất di bất dịch nữa, mà câu “nhân định thắng thiên” mới là đạo lý chân chính muôn đời. Nếu bạn chưa tin, xin mời đọc một tin của tạp chía Áo Mẫu Ni, ngày 17/3/1986 như sau:

“Do yêu cầu của chủ nhiệm tạp chí, Bà Biện Phỉ Cơ Đốn, tác giả quyển “Phụ Nữ Ngày mai” sẽ viết về người phụ nữ ở thế kỷ sau, bằng một sự quan sát kỳ diệu. Tác giả quyển sách trên nói:

Phụ nữ ở thế kỷ 21, không có việc phát phì, họ sẽ khỏe mạnh hơn, chẳng cần những vận động phí sức với ngày nay, họ sẽ có tinh thần và sức lực nhiều hơn làm việc có sức dẻo dai hơn. Nhất là có chi tiết quan trọng là, đến 60 tuổi có thể sinh con, chứ không cần tuổi 20 đã vội vã sinh nở.

Phụ nữ thế kỷ sau tham dự vào các môn thể dục và các thứ vận động khá đều là những động tác nhẹ nhàng, mềm dẻo. Những vận động ấy không phải quá gắng sức, chỉ cần đủ cho sự co dãng của cơ bắp làm kích thích hệ tuần hòan hoạt động tốt thôi. Lúc ấy, phụ nữ không còn xấu xí, bụng to phinh phính nữa. Họ hoàn toàn không phải nhịn ăn cho bớt mập nữa. Không còn những thực đơn làm bớt mập hay các chuyên gia trị liệu về béo phệ nữa. Những sách dạy về cách giảm phì đều trở thành đồ cổ, những thứ thuốc ngăn mập cũng không còn cần thiết. Ngoài ra, đã có những máy tính điện tử, tính toán từng khẩu phần riêng biệt, đủ dinh dưỡng, tùy theo thể trạng khác nhau của mỗi phụ nữ. Kế hoạch ăn uống này dựa trên cơ sở tính toán mức tiêu thụ calori cần thiết của cá nhân đó, khiến họ luôn khỏe mạnh, gia tăng sức lực cơ thể mà không tăng trọng lượng của nó”.

Bà Biện Phỉ Cơ Đốn lại nói:

“Nhờ vào sự tiến bộ vượt bậc của thủ thuật chỉnh hình nên có thể làm cho hình dạng bên ngoài của con người thay đổi gương mặt lúc mới sinh, nên lúc ấy không còn cô gái nào xấu xí cả. Thêm vào đó, do chế độ ăn uống thích hợp như trên, nên người phụ nữ 70 tuổi lúc ấy có bề ngoài tương tự như người 30 tuổi hiện nay, hoàn toàn không có nếp nhăn ở mặt hay da mặt xệ xuống, hoặc da dẻ thô kệch nữa, luôn luôn giữ được bộ mặt trẻ trung trong một thời gian dài.

Đồng thời, hướng nghiên cứu có kết quả của ngành này là, phục hồi lại những bộ phận bị hư hỏng của người phụ nữ bằng những thủ thuật tuyệt diệu. Những bệnh nguy hiểm như ung thư, tim mạch, lây nhiễm…đều giảm đến mức tối đa. Mỗi lứa tuổi, đều có loại thuốc tương xứng để dùng, duy trì nét trẻ đẹp. Với những tiến bộ đó, sẽ giúp cho người phụ nữ đạt tuổi thọ rất cao, có thể đến 150 tuổi là chuyện thường!

Phụ nữ thế kỷ 21, đến 50 hay 60 tuổi, mới có nghĩa vụ “làm mẹ”, bằng với số tuổi “làm bà” hiện nay. Lúc đó, con người phát minh ra “tử cung nhân tạo”, nên người nữ khỏi phải chịu khổ sở phiền phức về nạn “chín tháng cưu mang” như hiện nay. Việc muốn sanh trai hay gái và nuôi con hết sức dễ dàng. Do đó, người đàn bà sẽ tích cực tham gia vào công tác, nhất là khoa học và kỹ thuật, nên họ can đảm và tự tin hơn, có tinh thần tự lập, ít ỷ lại vào nam giới, không sợ hãi nguy hiểm”.

Bà Cơ Đốn nói thêm:

“Trong nhà, người đàn bà sẽ đích thân giải quyết tất cả mọi việc, nhờ vào những robot và máy tính điện tử sẽ thay thế họ trong những công việc “thường nhật khủng khiếp” (quotidien terrible). Máy tính điện tử sẽ thay thế họ có nhiều thì giờ nhàn rỗi, sắp xếpcông việc đều do nó lo như là thực đơn thích hợp, khoái khẩu chi tiêu hàng ngày…Máy tính điện nghiên cứu tính toán một cách hợp lý về bố trí thời gian, sử dụng các công tác vệ sinh, tẩy rửa, giặt giũ quần áo, cả tả lót trẻ con.

Bà còn nói:

Về hôn nhân chia làm 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: gọi là hôn nhân cá biệt, tuổi tác do pháp luật qui định cho phép sống chung nhau. Lúc ấy vợ chồng không cần phải sinh con vội, nên việc kết hôn rất dễ giải quyết.

- Giai đoạn 2: là giai đoạn làm cha làm mẹ khi vợ chồng muốn có đứa con. Thời kỳ này, tính gắn bó của hôn nhân sẽ cao hơn, muốn cởi bỏ quan hệ với nhau rất khó, vì cha mẹ đều có bổn phận, trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Tuy nhiên, việc nuôi nấng cũng chẳng khó khăn vất vả gì như hiện nay.

Tóm lại, đời sống của người phụ nữ ở thế kỷ 21 sẽ an ổn, nhẹ nhàng còn hạnh phúc hơn ở thế kỷ này.

Đó là những tín hiệu thắng lợi đầu tiên cho thấy sự thành công trong việc khai chiến với tự nhiên, nhờ vào sự thăng hoa của trí tuệ con người. Thân thể máu thịt này sẽ tồn tại trong một thời gian khá dài, trẻ trung lâu, nhan sắc đẹp đẽ không đổi. Theo một số tin tức chưa chính xác lắm, hiện nay giới khoa học đang nghiên cứu một thứ thuốc tiên “phản lão hoàn đồng”, đem cái thanh xuân đã mất đi, kéo xoay nó trở lại. nghe nói, loại thuốc trên này có thể ra đời trước thế kỷ 21.

Nếu bạn chưa tin, xin đọc bài đăng trong Tinh Đảo nhật báo, số ra ngày 19/5/1987

- Tin đặc biệt của bổn báo: Trong lúc nằm trên bãi biển rộng lớn, nhìn thấy thân thể các thanh niên với nước da bóng như đồng đen đi qua, bạn có khen ngợi và ham thích màu da đó chăng? Hoặc nhìn thấy mái tóc đen bóng mượt mà của các cô gái trên đường phố, bạn có thích thú nhìn không? Rồi nhìn vào thân thể mình, bạn có thể thấy kém sút chăng? Nào là mặt đầy tàn nhang, nếp nhăn mỗi năm một sâu thêm, tóc ngày càng bạc…Như vậy, vấn đề mỹ dung (dung mạo đẹp) quả là điều đáng quan tâm cho con người.

Nhưng các nhà khoa học đã giúp chúng ta bớt lo lắng về cách duy trì sắc đẹp, vì trong 10 năm nữa, những thứ thuốc mỹ dung sẽ được tung ra thị trường rất nhiều, giúp các bạn tha hồ muốn chọn màu da đồng đen cỡ nào cũng được, còn biến da da mồi tóc bạc thành da nõn thịt trơn, tóc đen láng…không khó khăn gì. Những chuyện phản lão này không phải là thần thoại, mà có chứng cứ y học rõ ràng.

Gần đây, y học đã nghiên cứu về một số loại thuốc mà, nếu như biến cải chút ít, có thể dùng vào việc duy trì nhan sắc con người một cách có hiệu quả. Bà Đới Vĩ Thù, quản lý công ty hóa học I.C.I, dẫn chứng một loại thuốc nổi danh, có thể làm cho đầu tóc láng đen mượt trở lại, tên là Monoxidil. Nguyên nó là thuốc đặc chứng huết áp thấp, nhưng bộ phận nghiên cứu lại thấy có thêm đặc tính làm cho tóc mọc dài ra. Các nhà bán thuốc trên thế giới tin rằng, nếu thay đổi chút ít thành phần, để thành loại dùng ngoài da (externe usago), thoa ngay trên da đầu, thì những chỗ tóc đã rụng đi, có thể mọc lại đầy đủ như cũ.

Từ kết quả nói trên, gợi cho chúng ta ý niệm về việc giải quyết vấn đề sắc đẹp, đưa các nhà khoa học thâm nhập vào lĩnh vực mới, phát triển rầm rộ về mặt này Công ty ICI đã chịu đầu tư số tiền rất lớn cho các nhà khoa học và y học đi sâu tìm tòi về lĩnh vực sắc đẹp này.

Có người phê bình rằng việc nhà khoa học chú tâm nghiên cứu về phưng dịen này, là vì tư tưởng kinh doanh quá lớn. Bà Đới Vĩ Thù thì cho rằng, chuộng sắc đẹp là thiên tính của con người. nhiệm vụ cao đẹp của công ty sản phảm hóa học cho sức khỏe, là gắng sức cải thiện sức khỏe cho dân chúng, khiến cho cuộc sống họ được an vui lâu dài. Bà cũng tiết lộ rằng, công ty đang nghiên cứu một loại thuốc chuyên trị các nếp nhăn sắp thành công. Thuốc này đã thực nghiệm trị liệu phần da thịt của vết thương và vết phỏng, có khả năng giúp da thịt phục hồi sự mịn màng như lúc còn trẻ của nó.

Có điều, hiện nay nhà nước đang quản chế về phương diện theo dõi tác dụng phụ và di chứng nếu có, nên phải đợi từ hai đến 10 năm sau, mới được phép tiêu thụ chính thức trên thị trường.

Những thành tựu của các khoa học gia trong những năm gần đây, làm cơ sở giúp chúng ta tin chắc rằng, đầu thế kỷ 21, các thứ các loại về vấn đề mỹ dung, từ màu da, vóc dáng…nói chung là phần ngoại hình đều giải quyết tốt đẹp được theo sở thích cá nhân.

Bà Đới bày tỏ rằng, vấn đề quan trọng hiện nay, không phải kỷ thuật mà là lòng tin của người sử dụng mới là mối lo ngại lớn. Trong tương lai, thị trường tiêu thụ loại thuốc mỹ dung này, chỉ mở rộng được khi đã củng cố đủ niềm tin, đánh bạt hết những nghi ngờ do các loại thuốc đầu môi chót lưỡi lâu nay gây ra.

Mặt khác, bà Đới tin rằng, quan điểm tương lai của mọi người có vẻ hướng về dùng thuốc để khống chế phát triển hay hồi phục chức năng của các bộ phận, cơ quan trong thân thể nhiều hơn. Vậy thì, đến lúc đó các bác sĩ và chuyên viên giải phẩu thẩm mỹ, nghề làm tóc giả…đều “dẹp tiệm hết”.

Việc dùng thuốc để giữ mãi nét thanh xuân, kéo dài tuổi thọ, cũng có giới hạn nhất định của nó. Giả dụ, bình quân tuổi thọ của con người hiện nay là 70 tuổi, nhờ vào sức mạnh của thuốc, sự trẻ trung có thê kứo dài đến 1000 hoặc 1 vạn năm. Nhưng thân thể máu thịt dù sao chăng nữa, cũng không thể bền bĩ chịu đựng như gang thép. Mà dù là thép gang đi nữa, cũng có cái mức độ nhất định, chứ đâu phải vĩnh cửu. Cho nên, chúng ta phải nghĩ rằng, việc làm cho thân thể đạt đến “vạn cổ trường xuân” (tươi đẹp mãi mãi), chắc chắn không thể chỉ hoàn toàn trông cậy vào sức thuốc được.

Mục tiêu của chúng ta về việc giữ mãi tuổi thanh xuân, có tính vĩnh hăng và tự tại, không thể chỉ thuần dùng thuốc mà còn phải có phương pháp riêng khác, sao cho đánh bại được lực vô thường của giới tự nhiên, để nó không thể chi phối chúng ta được nữa.

Chúng ta đều biết, tự nhiên có hai thứ lực lượng, một là thường lực, hai và vô thường lực. Trong đó vô thương lực có hai thuộc tính đối lập nhau, là tính xây dựng và tính phá hoại. thí dụ như một cái cây, từ khi nứt mầm, đâm chồi, nảy lá, nở ra hoa. Kết quả là phát huy tính xây dựng của lực này. Đến khi hết thời kỳ cao điểm của nó, thì bắt đầu đi xuống, lá vàng, cành khô gãy đổ mục nát trên đất, là phát huy tính phá hoại của lực vô thường.

Thân thể con người cũng theo qui luật ây mà vận động, phát triển đến 25 tuổi thì tính xây dựng đã bão hòa, tính phá hoại bắt đầu xuất hiện, dần dần đến lúc già, rồi đến lúc chui vào phần mộ. nhưng chúng ta cũng phải biết, trong thời kỳ chịu ảnh hưởng của tính xấy dựng, cũng có phần tham dự của tính phá hoại và ngược lại, như việc tế bào thân thể mới, cũ thay đổi mới hằng ngày đã nói, hay thực vật mỗi năm hoa nở, hoa rụng…đều là tác dụng hỗn hợp, chi phối của hai tính chất lực vô thường.

CHẲNG TIN GIÓ XUN GỌI KHÔNG TRỞ LẠI

Quỹ tích vận động của năng lực đại tự nhiên nếu biểu diễn bằng đồ thị, thì ta có vô số những vòng tròn lớn, nhỏ, tiếp xúc trong, ngoài, hoặc cắt nhau. Nó giống như mặt trăng quay quanh trái đất, trái đất quay quanh mặt trời, mặt trời xoay quanh trong dải ngân hà.

Thí dụ, sự thay đổi mới mỗi ngày biểu thị bằng một cung nhỏ. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già biểu thị bằng nửa vòng tròn 1800, cả đời người là một vòng trong bậc trung. Theo định luật hoàn nguyên, cũng có một nửa vòng tròn phản diện từ già đến nhỏ, trong cuộc đời chúng ta. Tiếc rằng, trí năng chúng ta chưa đủ trình độ để phát hiện ra, huống nữa là vận dụng nó. Nếu bằng cách nào đó, chúng ta có thê đào xới ra loại trí năng ưu việt, thì tôi tin là “chẳng tin gió xuân gọi không trở lại”.

Nếu quí vị cho rằng lý luận này là hư huyền, xin xem một tin ở Tinh Đảo nhật báo ngày 29/4/1987 sau đây:

“Bảy tháng về trước, có một ngư dân đi đánh cá trong vùng biển tam giác quỷ, gặp nạn đắm thuyền. Sau đó, may được ghe thuyền khác cứu sống. theo lời người vợ kể, từ khi anh thoát nạn trở về nhà, dáng bên ngoài bắt đầu thay đổi lạ lùng. Chỉ vài tuần lễ sau đó, gương mặt bắt đầu trẻ trở lại giống như “phản lão hoàn đồng” vậy.

Trong sự việc kỳ lạ này, chắc rằng khu vực biển Tam giác quỷ có liên quan mật thiết đến sự biến đổi trên. Nhân vật biến đổi này 45 tuổi, tạm giấu tên, ở tiểu bang Florida (Mỹ), trước đây hai má đã nhăn, nhưng nay đã biến mất nếp nhăn. Hơn nữa, những chiếc răng và mớ tóc đã rụng, nay cũng bắt đầu mọc lại và phát triển dần. Hiện nay, anh này đang được mọt bệnh viện nổi tiếng kiểm nghiệm để tìm nguyên nhân phản lão hoàn đồng này.

“Trước khi làm nghề đánh cá, anh là một kỹ sư công trình xây dựng, thường xuyên làm việc ngoài trời, nên mưa năng đã làm cho gương mặt anh già trước tuổi nhiều”. Vợ anh, qua những lần gạn hỏi anh mới đây, đã cho một tác giả nổi danh chuyên viết về y học là La Phạt Bá n biết:

“Ông nhà tôi năm nay mới 45 tuổi, nhưng nhười ngoài nhìn tưởng hơn 50. Sức khỏe ảnh rất tốt, thường đi đánh cá ngoài biển, nên có vẻ già hơn trang lứa. Nhưng hiện nay, anh ta trẻ như mới 30, làm tôi lo quá. Bác sỉ kiểm nghiệm cơ thể anh không biết tại sao như thế nhưng tôi và Trimmy lại tin chắc là nguyên nhân có liên quan đến vùng biển Tam giác quỷ”. Bà yêu cầu đừng tiết lộ lý lịch vợ chồng bà và kể chi tiết sự việc xảy ra.

“Chồng tôi hồi tháng 9 năm ngoái, như thường lệ, ra biển đánh cá. Chẳng may, khi thuyền ra xa 100 miles ở Đại Tây Dương, vùng tam giác quỷ, thì gặp nạn bị chìm. May là anh thả kịp chiếc xuồng cao su nên không chết, chỉ lênh đênh trên biển suốt hai tuần lễ, mới được thuyền đánh cá khác đi ngang cứu, lúc đó, anh đã thiêm thiếp.”

Ban đầu, thân thê anh yếu đuối mềm nhão như ông già ngoài 60. Nhưng chỉ sau một tuần lễ tĩnh dưỡng, ông bắt đầu khỏe mạnh, trẻ trung, cảm thấy trong cơ thể có một sức mạnh vô hình nào đó điều khiển tinh thần bộc phát lên vậy.

Chẳng bao lâu sau đó, gương mặt ông ta bỗng biến đổi nhanh chóng lạ lùng, những vết nhăn trên má ông đã hoàn toàn biến mất, đầu gối ông ta trước đây có một vết thẹo do lúc còn bé bị thương để lại, bây giờ cũng biến mất luôn, kể cả bộ phận dưới mắt bị sưng, nay cũng bình thường trở lại. Trên đầu anh ta trước có chỗ hói tóc, rụng hết phân nửa, lại lần lần mọc đầy tóc đen. Mấy chiếc răng đã rụng trước đây cũng mọc trở lại. Nói chung, toàn thể các bộ phạn của thân thể anh, đều lần lượt hoàn chỉnh lại tốt đẹp hơn trước.

Tình trạng kỳ lạ của anh, giống như chuyện trong phim Thiên Kiển, có ông già phản lão hoàn đồng như vậy. Nếu bạn không chứng kiến tận mắt, thì khó thể nào tin được là có thật.

Sức vận động tập thể của đại tự nhiên, sinh ra năng lực do tính tương đối và vô thường, nhưng bản thể của tự nhiên là vĩnh hằng bất động, to lớn hơn biển cả, trong đó phần chiếm chỗ của vô thường, như là một bọt nước trong biển cả Thái Bình Dương ấy. Chúng ta bất hạnh, hiện nay đang là bọt nước bé nhỏ đó, nên mới thấy trong vũ trụ thì bị qui luật thành, trụ, hoại, không chi phối; thân người thì bị sinh, lão, bệnh, tử; tâm linh thì sinh, trụ, dị, diệt. Chúng ta, nếu không tìm ra phương cách nào để thoát ra khỏi sức mạnh lớn lao chi phối cái hòn bọt bé nhỏ đó, thì dù vua chúa, tổng thống, tể tướng, tài tử, giai nhân, thảy đều là khói mây bay qua trước mắt.

Vũ trụ vạn hữu, không ngừng thay đổi từng lúc, nhưng bản thể của nó là thường hằng, tuyệt đối đồng nhất. Bản thể ấy tùy duyên mà bất biến, tuy bất biến mà lại tùy duyên. Ngay trong lúc tùy duyên, nó đã sinh ra ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ… và sum la vạn tượng. Tất cả đều thay đổi không ngừng, nhưng bản thể thì vĩnh hằng bất động. Nếu như tâm linh chúng ta có cách nào thể nhập vào cái bản thể bất động ấy, nắm bắt được tổng cơ quan vũ trụ, hiểu rành rẽ tất cả những áo bí của vũ trụ, có thể từ lý sự vô ngại thăng hoa đến sự vô hại. Đến lúc đó, thì chứa thế giới vào trong hạt thóc còn không có gì khó khăn, huống là mong muốn thanh xuân còn mãi, thân tâm vững mạnh, chỉ là những việc nhỏ nhoi không đáng kể!

NGUỒN GỐC MUÔN VẬT

Vũ trụ có tổng cơ quan hay không, như cách nói của nhóm các nhà khoa học? Cũng có thể là bạn bán tín bán nghi. Theo thống kê kết quả những thành tựu vài trăm năm nay, chúng ta không có lý do gì chẳng bội phục sự nhìn thấy rộng của nhóm các nhà khoa học. Họ thấy cái mọi người chưa thấy, biết cái mọi người chưa biết. Lý luận của họ không phải như nhà tiên tri dự đoán chỉ nhờ cảm tính, mà luận đàm cao rộng, tuyên bố này khác, mà nhà khoa học dùng trí tuệ cao độ, quan sát bình tĩnh, kiên nhẫn, kết luận có cơ sở.

Tôi xin được trích dẫn một số dữ kiện từ các tạp chí khoa học để các bạn tham khảo. Có thể số người cho đó là chuyện hư huyền, khó thể nghĩ bàn, nhưng thực ra có giá trị rất lớn. Như:

Một pound (453g) vật chất có thê chứa số năng lượng bằng với khi gây nổ cùng một lúc 16 triệu tấn bom. Vật chất ở đây, không cần phải là Plutonium (Pu) hay Uranium (U), mà là nói chung cho tất cả vật thể. Thí dụ như chiếc giày hư hay miếng giẻ rách trong đống rác cũng được, yêu cầu đủ trọng lượng 1 pound là được,khi đưa vào trong lò luyện nguyên tử đặc biệt, là có thể cho ra một năng lượng có thể hủy diệt một thành phố lớn đến mấy triệu dân.

Một giọt nước có chứa 2.7 triệu vi sinh vật, như vậy, thì một chén nước có thê chứa số vi sinh vật, nhiều bằng gấp trăm lần so với con người trên trái đất hiện nay.

Vận tốc ánh sáng là 300.000km/s, nếu là trong điều kiện chân không, mỗi giây ánh sánh đi quanh trái đất bảy vòng rưởi.

Thời gian (tâm) tức là không gian (vật).

Trọng khối của trái đất, mặt trăng, mặt trời, vận tốc xoay, vận tốc và quỹ đạo vòng quanh của mỗi thứ, nhà khoa học đều có thê tính toán ra một cách rõ ràng, chính xác.

Những tư liệu về thành quả khoa học đã được báo cáo, khoảng 1 trăm năm trở lại đây đã vượt qua khỏi sức tưởng tượng của chúng ta, bài viết có hạn, tôi không thể kể hết.

Về việc xác lập tổng cơ quan của vũ trụ, nhà khoa học căn cứ vào những hiện tượng thấy nghe hàng ngày, quan sát lâu dài rồi ghi nhận kết quả. Có lẽ mọi người muốn biết nhóm nhà khoa học này căn cứ vào những gì đẻ suy luận ra vũ trụ có tổng cơ quan áo bí, chi phối sự biến hóa muôn vật trong vũ trụ. Theo tôi được biết, các nhà khoa học đã quan sát sự di động của mặt trời, mặt tăng, các ngôi sao; sự thay đổi của bốn mùa, hiện tượng di trú của các loài chim, nước ròng nước lớn, động vật, thay lông, thực vật rụng lá…

Tôi tin rằng các bạn sẽ hết sức lạ lùng, những việc dẫn ra ở trên, đều là những việc thường lệ rất phổ biến. Vậy làm sao từ chỗ quan sát những thứ đó, lại suy luận ra tổng cơ quan áo bí của vũ trụ được? Đã đành, với trình độ chúng ta có xem xứt thì không thấy gì lạ, nhưng với con mắt các nhà khoa học sẽ thấy những cái đặc biệt trong đó.

Trước thế kỷ 15, mọi người ở bờ biển xem thấy tàu thuyên vào bến, trước thấy cột buồm, sau mới thấy thân tàu, không ai cho đó là lạ lùng. Sau này, các nhà khoa học khám phá ra cho biết, mảnh đất lớn bằng phẳng không bờ bến dưới chân chúng ta, không phải như tương truyền trời tròn đất vuông, mà trái đất là một khối cầu lớn. Lúc ấy, cả ngfn muôn người nghe, may ra mới được một người tin điều đó thôi. Có người lại cho rằng, đó là lời lẽ của bọn yêu quái, phá hoại quan niệm truyền thống.

Từ khi trí tuệ loài người ngày càng tiến bộ thêm, thuyết trái đất tròn được số người tin nhiều hơn, mà là những người có học thức cao. Cho đến khi Magellan đi được một vòng quanh trái đất, thì giả thiết gan dạ này mới được nhận là chân lý.

Mặt trời mọc ở phương đông và lặn ở phương tây, muôn ngàn cặp mắt đều thấy như thế, nên ai cũng tin chắc mặt trời xoay quanh trái đất mỗi ngày một lần là chân lý. Đến cuối thế kỷ 16, hai nhà khoa học Copernic và Galilée (1) nêu lên thuyết mới, trái đất quay quanh mặt trời. Lúc ấy, dư luận ồn ào công kích, cho hai ông là hóa thân của ma quỷ, đến nỗi bạn bè cũng xa lánh, khiến hai ông hết sức đau khổ. Dần dần về sau mới chứng thực ý kiến của họ. Thế mới biết, chân lý có khi nằm về phe thiểu số, còn cả đám người lúc nhúc kia đều mắc bệnh thác giác nghiêm trọng.

Chúng ta tin rằng, vấn đề mà các nhà khoa học nêu lên là rất nghiêm túc, không bao giờ hứng chí nói bừa. Vậy thì, tổng cơ quan áo bí của vũ trụ là có thật 100%. Nhưng làm thế nào để nắm bắt, khai mở nó ra?

Đã biết tổng cơ quan là nguồn gốc của vạn hữu, vậy chỉ cần hiểu biết sâu ngay ngay những sự vật mặt thấy tai nghe hàng ngày, cũng có thể nhận ra nó không khó.

Sự vật trong vũ trụ nhiều vô số, nhưng nói gộp lại thì không ngoài hai thứ Tâm và Vật. Noi theo một trong hai con đường này để dò tìm, thì có thể phăng ra đầu mối. Nhưng nếu ta cứ ôm đồm đi tìm căn nguyên của mỗi loại vật thể trong tất cả vô số vật, chỉ là phí công vô ích. Vì tổng cơ quan này không thuộc vào có hình tướng ngắn dài, vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng, dò tìm hết tinh cầu trong không gian cũng không thể thấy được.

Đến đây, ta có thể kết luận, đề ra nguyên tắc cơ bản của việc tìm cầu bộ máy chủ chốt (tổng cơ quan) của vũ trụ là:

- Tìm cái chung nhất, không tìm cái riêng lẻ.

- Hướng vào trong chứ không hướng ra ngoài.

Như theo con đường Vật, thì phải bỏ “hình thể của vật” đi, mà tìm “cấu chất của vật”, thì mới có thể được như ý muốn.

TRƯỜNG QUI PHẠM ( QUANTUM FIELD )

Nguyên nhân thành hình của vật chất là Trường Qui Phạm (Trường Lượng Tử) nghiên cứu của các nhà Vật Lý Học hiện đại. sau đây, là tư liệu liên quan đến vấn đề trên, để hỗ trợ thêm vào việc nghiên cứu nó.

“ Tháng 1/1987, tại Trường Đại Học Trung Văn (Hongkong). Tiến sĩ Dương Chấn Ninh đã trả lời cho Trương Văn Đạt, ký giả báo Phúc Minh, như sau:

- Ký giả: Các nhà vật lý học như Planck, Einstein, ông bà Curie, Rutherford và Bohr, những thành quả nghiên cứu của họ đã làm thay đổi quan niệm từ trước nay trong ngành.

- Thưa giáo sư Dương: Ông tham gia vào công tác quan trọng là nghiên cứu về Trường Qui Phạm xin ông có thể nêu một thí dụ so sánh dễ hiểu để giải thích vấn đề này?

- Tiến sĩ Dương: về vấn đề Trường Qui Phạm, tôi xin đưa ra một hình thức đơn giản để diễn tả nó như thế này: Trong việc nghiên cứu về cấu tạo vật chất của ngành vật lý, trước hết là những vật gần gũi quanh ta như khúc gỗ, miếng sắt, pho tượng…đem phân tích chúng một cách kỹ lưỡng, ta sẽ thấy cúng do các phân tử và nguyên tử hợp thành. Đem phân tử và nguyên tử phân tích nữa, thấy trong đó có hạt nhân và electron. Phân tích hạt nhân thì có Proton và neutron. Vậy cơ bản của ngành vật lý là nghiên cứu phân tích để tìm cái nhỏ nhất trong cấu tạo vật chất là gì, cách cấu tạo thành nguyên tử, phân tử ra sao phối hợp thế nào để thành vật chất. Tóm lại, việc nghiên cứu có hai công tác, một là tìm xem cái cực nhỏ đó là gì, hai là nó liên kết ra sao? Hiện nay, hai mặt này là xem hạt tối cơ bản là gì, năng lực cơ bản là gì? Đó chính là nội dung nghiên cứu chủ yếu của vật lý học hiện tại.

Vấn đề năng lực cơ bản đã phát sinh ra vấn đề cốt lõi Trường Qui Phạm. Theo nhận thức hiện nay đã được phổ biến năng lực này trong tạo thành vật chất gồm 4 loại. Xét kết cấu của 4 loại lực này, gọi là Trường Qui Phạm.

- Ký giả: Có phải nói cách khác, Trường Qui Phạm là quan niệm nền tảng hết sức trọng yếu của vật lý học hiện nay?

- Tiến sĩ Dương: Đúng thế. Năm 1916, ông Einstein đưa ra Tương đối luận nghĩa rộng, đây là Trường Qui Phạm thứ nhất (tức là lực hút hấp dẫn). Ngoài ra, còn có ba thứ lực khác cũng đều là Trường Qui Phạm (trường lượng tử).

§ Một là lực điện từ trường (Electromagnetic)

§ Hai là lực tương tác mạnh (như năng lực nguyên tử là do phản ứng hạt nhận, giữa hạt meson, giữa hạt quark)

§ Ba là lực tương tác yếu biểu hiện ở sự phân rã Neutron như Cobalt sáu mươi, (Co60), đồng vị phóng xạ thuộc về lực tương tác yếu.

Con đường nghiên cứu của các nhà khoa học thật vô cùng chính xác. Để tìm ra nguồn gốc chung của vạn hữu, không thể trái với hai nguyên tắc chính:

• Một là tìm cái đồng (chung) chứ không tìm cái dị riêng khác.

• Hai là hướng vào bên trong chứ không hướng ra ngoài. Thí dụ như đi theo con đường Vật (đường thứ hai là Tâm) nếu chỉ chú ý “hình thể của vật” mà bỏ quên cầu chất của vật đi, thì vật ngày càng vô số, trăm màu ngàn vẽ, chỉ rối rắm hoa mắt mà không thể đạt hiệu quả cứu cánh được.

Vũ trụ có sum la vạn tượng, chẳng kể đó là khối sắt, khúc gỗ, hạt cát, giọt nước… đều có một “Chất” chung nhất là “Hạt”. Không thể có hạt của sắt khác với hạt của gỗ, của cát hay của nước được. Cho nên, hạt là giao điểm, là chất tối sơ của muôn vật. Nhưng, bản thân hạt là thuần vật chất, không thể tự động biến ra vật được, tất yếu phải có một hoặc nhiều lực nào đó, khiến cho các hạt liên kết, cô đọng lại thành các vật thể vuông, tròn, dài ngắn, đỏ trắng xanh vàng khác nhau. Lực đó, chính là cái mà Tiến sĩ Dương gọi là: lực hấp dẫn, lực điện từ, lực tương tác mạnh và lực tác yếu.

Đi sâu hơn một chút vào bên trong trường qui phạm của bốn loại lực kể trên, tìm xem bản thân nó là chủ động hay bị động, là hữu tri hay vô tri. Các nhà khoa học từ trước đến nay không khẳng định cúng là hữu tri. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ định hoàn toàn, vì ít nhất trong vũ trụ cũng phải có một cái là “Tri Lực” (sức biết). Nếu thật không có cái tri lực này, thì bốn loại lực kể trên cho dù có vận động đến đâu, cũng không thể ngẫu nhiên thành ra vạn vật đầy diễm lệ diệu kỳ, giống như kiểu “Mọt gỗ gậm đục cây, tình cờ thành nét chữ”. Cho dù có tình cờ, thì củng chỉ thành được một vài chữ, chứ không thể nào thành cả bộ sách được. Thế mà vạn tượng sum la trong vũ trụ lại là một bộ “Bách khoa đại toàn thư”, không thể nào lấy cái vô tri của 4 lực trên mà làm nền được!

Chúng ta đều biết, vạn vật trong vũ trụ, do từ chỗ mười mấy tính chất khác nhau của nguyên tử như: kích thước, cấu trúc, liên kết cộng hóa trị, ocbital, các lớp điện tử…mà thành ra kim, mộc, thủy, hỏa, âm thanh, ánh sáng, điện, từ trường…mọi thứ. Giống như ta dùng 26 chữ cái, do ở sự liên quan về chữ và câu, ngữ pháp mà diễn tả được tất cả việc trong vũ trụ này. Hay thành quả của sách chẳng hạn, trừ những công sức về xếp chữ, in ra, đóng tập…thì Trí lực là thành tố chủ chốt để làm sách.

Hạt tối cơ bản tạo thành vũ trụ vạn hữu chí là một thứ. Cho dù sắt cứng, bông mềm, gang thép, bông hoa, đá hay nước… hình thể hoàn toàn chẳng giống nhau nhưng hạt cơ bản để cấu thành CHỈ MỘT KHÔNG CÓ HAI.

Cho nên hạt cơ bản vật chất là nguồn gốc muôn vật, viên thông tất cả:

Ta có thể tóm gọn bằng hai công thức sau:

KIM LOẠI + GỖ + NƯỚC + ĐẤT CÁT + LỬA +…= VẠN VẬT = LỰC NĂNG (1)

CHẤT RẮN + CHẤT LỎNG + CHẤT KHÍ +…= VẠN VẬT = LỰC NĂNG

QUAN HỆ GIỮA TM VÀ VẬT

Tính quan hệ giữa tâm và vật như thế nào? Theo lý mà nói thì tâm và vật đều từ tổng cơ quan của vũ trụ mà ra, là hai quả dưa mọc ra từ một sợi dây dưa. Soi lên nữa, thì tâm và vật đều cùng một thể, không cách gì phân biệt chia sẻ.

Tìm sâu bên trong nguyên tử của vạn vật thì thấy mỗi nguyên tử có Proton, Neutron và Electron. Mỗi Proton lại có những hạt nhẹ hạt mạnh, lượng tử, điện tử, vi tử, phái giới tử. Vài năm gần đây, giới khoa học phát hiện, trong một nguyên tử có chứa hơn 100 hạt cơ bản nhỏ, hạt nhỏ nhất (tối cơ bản) có tên Quark. Không biết sau này có tìm thấy thân nữa không, chưa cần bàn đến. Riêng hạt Quark, với khả năng của những kính hiển vi điện tử lớn nhất hiện nay, cũng chẳng nhìn thấy được. Nó tồn tại như một Ý NIỆM của tâm, như một ký hiệu toán học. Thế nên, các nhà khoa học lớn mà đại biểu là Einstein đã nói “vật chất là một thứ kết hợp của lực năng”. Do đó, ta có thể kết luận không hàm hồ rằng, suy cho cùng, vạn vật trong vũ trụ là do lực năng cấu thành. Hay nói cách khác, nó là Tâm Linh, vì tâm linh là kết hợp của hai thứ trí năng và lực năng. Lực năng là “điểm giao chuẩn” của vật chất, cho nên cao tột như núi Côn Lôn, rộng bao la như Thái Bình Dương, nhỏ bé như đóa hoa, ngọn cỏ, côn trùng, cái kiến, biến hóa dời đổi, đều tương quan với các lực năng trong tâm chúng ta.

Tâm trum muôn pháp, muôn pháp duy tâm. Tâm chính là tổng cơ quan của vũ trụ. Ta có thể lập thành công thứ thứ ba:

TRÍ NĂNG x LỰC NĂNG = TM LINH

= TỔNG CƠ QUANG VŨ TRỤ

TM TM DẪN NHAU – CON NGƯỜI

Có thể, quí vị sẽ hỏi, nói tâm linh là tổng cơ quan của vũ trụ, mà tâm linh của chúng sinh thì nhiều vô kể, vì chúng sinh bao gồm con người, động vật, thực, quỉ thần. Còn khoáng vật có tâm linh hay không thì chứ cần bàn đến. Chỉ với bốn tâm linh của bốn loại kể trên chúng đã vô lượng vô biên rồi. Một giọt nước chứa 2.7 triệu tâm linh (vi sinh vật), vậy tổng cơ quan vũ trụ rốt ráo ở trong tâm linh của một chúng sinh nào? Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa trong việc nghiên cứu xem sao.

Trong việc nghiên cứu tìm kiếm tổng cơ quan của vũ trụ, trước hết chúng ta phải trang bị nhận thức đầu tiên như thế nào, để bỏ công ra ít mà lại đạt được kết quả nhiều. Tục ngữ có câu: “Lời nói là tiếng của tâm, việc làm là thái độ của tâm.” (Ngân vi tâm thanh, hành vi tâm thái) chúng ta nên hiểu sâu ý này. Cử chỉ nói cười, đi, đứng nằm ngồi hàng ngày của chúng ta, đều là tác dụng vận động của tâm linh, thân thể chẳng qua là một thứ công cụ bất động mà thôi. Thí dụ, như khi chúng ta thấy một chiếc xe hơi đang chjay trên đường, ai cũng biết, bảng chất của chiếc xe là bất động, phải có người điều khiển, nó mới có thể chạy bon bon trên đường. Nhưng nếu nói tấm thân bảy thước của chúng ta cũng tương tự như chiếc xe kia, nghĩa là nó cũng yên tĩnh bất động, thì rất nhiều người suy nghĩ nhiều lần vẫn không hiểu nổi, vì loài người đã phạm vào thứ thác giác nghiêm trọng này từ khi mới sanh ra đến giờ, nên tích chứa mê lầm quá sâu dày, khó giác ngộ.

Trong kinh Kim cang có đoạn kinh khai thị sau: “Nay Tu Bồ Đề, ông có thể nào lấy 32 tướng tốt để thấy Như Lai chăng? – Thưa không, bạch Thế Tôn, không thể lấy 32 tướng tốt để thấy Như Lai”.

Khi ấy, đức Thích Ca ngồi trên tòa thuyết pháp hỏi tôn giả Tu Bồ Đề “Ông có thể từ 32 tướng thân thể của ta để xem ta không?”. Tu bồ đề đáp: “Thưa không, chẳng thể từ 32 tướng trọng thân thể thấy rõ ràng thân thể của Như Lai, còn cái nó điều khiển thân thể của Như Lai thì chúng ta không sao thấy được.” Câu chuyện trên, mới nghe qua thì có vẻ hư huyền, nhưng đúng là 100%. Vì hàng ngày, chúng ta thấy thân của ông A vội cho đó là ông A, thấy thân ông B thì vội cho đó là ông B, đó đều là thác giác. Vì cái mà chúng ta thấy được chỉ là thân thể của ông A, ông B mà thôi. Còn A và B chân chính thì con mắt thịt làm sao thấy được. Khi chúng ta thấy ông A giương mày chớp mắt, đưa tay giở chân thì đó chỉ là những hình thái hoạt động tâm linh của ông A, còn cái tấm thân máu thịt bảy thước kia, chỉ là một cái “thây còn sống” mà thôi. Nếu chúng ta hiểu rõ ràng, không chút hồ nghi về chân lí này, lại nghiên cứu thêm sự liên quan lẫn nhau của côn người với con người, con người và loài vật, thì ta có được sự hỗ trợ lớn lao trong việc tìm ra tổng cơ quan vũ trụ.

Giả sử chúng ta đang nói chuyện: chuyên đề về tự do, bình đẳng, bác ai, trên truyền hình, thí dụ người xem ti vi là 5 tỉ người, mà mỗi người đều có thể nghe hiểu, tôi tin rằng tâm linh của những người này sẽ sinh ra những phản ứng khác nhau, bao gồm cả khen chê, vui mừng hay tức giận, quan tâm hay chẳng để ý…lúc ta đang nói đó, thì tâm linh ta là chủ động, tâm linh người nghe là bị động, như vậy chứng minh là tâm linh của toàn thể nhân loại viên thông lẫn nhau, hay nói cách khác, tâm linh của một người chúng ta là tổng cơ quan của tâm linh loài người.

ĐỘNG VẬT

Trong thời kỳ đã qua, con người thường tự hào là “vạn vật chi linh” (linh hơn muôn loài). Sự hiểu biết về động vật của chúng ta rất ít ỏi, ngay cả khi thấy chúng có những nỗi mừng, vui buồn, giận nhưng vẫn không công nhận chúng có tánh linh, mà chỉ cho là tánh cảm giác.

Hơn 20 năm về trước, có lần tôi đã tranh luận với vị mục sự họ Cung ( ) về vấn đề này. Ông ta quả quyết là động vật hoàn toàn không có tánh linh mà chỉ có tánh cảm giác, ông cương quyết bảo vệ quan điểm này một cách mạnh mẽ. Tôi còn nhớ, đó là ngày 22/10/1965, vì trên báo Liên hiệp ở Đài Loan có đăng một tin thú vị “ Trâu linh cứu chủ”, như sau:

“ Tin ở Giai Lý – Vào buổi chiều ngày 21/10/1965, ở trấn Giai Lý Huyện Đài Nam, có xảy ra một chuyện lạ, khiến mói người hết sức chú ý. Đó là chuyện một con trâu tuy đã bị thương nặng, nhưng nhờ tánh linh trời sanh, đã cứu được chủ mình thoát chết.

Người chủ này tên Tăng Bào, ở số nhà 267 ấp Lễ Hóa, trấn Giai Lý, Đài Nam, đã nuôi con trâu nhiều năm rồi. Khuya sáng hôm qua, lúc gần 2 giờ, con ông tên Tăng Kim Điền, 29 tuổi, chất hoa màu đã thu hoạch trong ruộng lên xe trâu, rồi đánh xe theo lộ chính đến chợ Giải Lý để bán.

Khi cách nhà độ 1 km, chẳng may bị một chiếc xe hơi cùng chiều từ sau đụng tới xe trâu, khiến cậu Điền bị thương nặng ở đầu, máu ra nhiều, hôn mê bất tỉnh trên đường. Chiếc xe bi hư hại nặng. Con trâu thì bị sức tống đẩy va mạnh vào một cây to bên đường, là gãy sừng và hư hết một con mắt.

Tai nạn xảy ra vào khoảng 2 giờ khuya, trên đường không ai cấp cứu, còn chiếc xe hơi đã bỏ chạy mất. Ngay khi ấy, con trâu mặc dầu bị thương nặng, nhưng cũng rán sức chạy cả cây số về nhà chủ, rống lên thảm thiết. Lúc ấy, cha mẹ cậu Điền còn ngủ, nghe tiếng trâu rống, giật mình thức dậy, chạy ra xem. Thấy trâu bị thương đầm đìa máu ở đầu, biết có việc chẳng lành. Lập tức, cả nhà chjay theo lộ chính, đến ấp Hưng Hóa trấn Giai Lý, tìm được cậu Điền tánh mạng gần nguy, tức khắc đưa vào bệnh viện Đài Nam cập cứu nên sau đó cậu thoát chết. Các bác sĩ ở đây cho biết, nếu trễ 1 giờ nữa là khó cứu.

Gia đình ông Bào hết sức biết ơn con trâu có tánh linh này, đã mời bác sĩ thú y đến trị vết thương cho nó.

Theo sự điều tra của cảnh sát thì đây là loại xe tải lớn chở hàng hóa gây tai nạn, tài xế đã xuống xe xem xét, tưởng Tăng Kim Điền đã chết, nên đem cậu đặt trên một túi vải trải sẵn, rồi đắp thêm lên thân một tấm nylon, sau đó mới lên xe chạy trốn. Cảnh sát đã căn cứ dò theo con đường này đẻ tìm thủ phạm”.

Tôi cắt mảnh báo có đăng tin trên, gởi mục sư Cung, từ đó về sau, ông này không nhắc đến việc trên nữa!

Trước khi nghiên cứu tâm linh loài người có liên quan đến tâm linh loài vật, ta hãy xem sự liên quan lẫn nhau giữa các loài động vật.

Tôi đã xem một cảnh tượng chiếu trên màn ảnh truyền hình, khi một con mãnh hổ xuất hiện ra khỏi rừng sâu thì cả đám dã thú khác rần rần chạy trốn. Một bấy hạc trắng đậy trên cành cây cũng sợ hãi bay vút lên không. Bầy cá nơi rạch nhỏ cũng tức khắc trốn sâu dưới đáy. Như vậy, việc xuất hiện củ mãnh hổ và việc thú chạy, chim bay, cá lặn, là phản ánh tâm linh hoạt động của chúng nó. Tâm linh của mãnh hổ đã gây ảnh hưởng đến tâm linh của chim muông. Những hình ảnh trên truyền hình này đã là một thuyết minh hùng về sự hỗ thông (thông cảm qua lại) giữa tâm linh loài động vật.

Khi chúng ta len vào rừng sâu, chỗ chim muôn họp lại đông đúc, bắn lên không vài phái súng thì chim thú hỗn loạn bỏ trốn. Việc bắn súng lên không là hoạt động tâm linh của chúng ta, chim thú bỏ trốn là phản ứng tâm linh của giới động vật. Như vậy, tổng cơ quan của tâm linh chim muông nằm trong tâm linh của chúng ta.

THỰC VẬT

Tính liên quan giữa tâm linh con người và tâm linh thực vật ra sao? Theo các sách xưa, đều cho cây cỏ là loài vô tình. Ngay cả khi thấy cây mắc cỡ (hàm tu thảo) và hoa ăn người (thực nhân hoa), loài người vẫn không thừa nhận là thực vật cũng có tánh linh như động vật.

Gần đây, các nhà khoa học đã làm nhiều cuộc thí nghiệm thú vị. Họ thiết trí máy điện tử đo điện não vào mình mèo hoặc chó, dùng roi đánh vào thân chúng, khiến chúng đau đớn chạy trốn. Sau đó, chụp hình đường biểu diễn điện não của mèo, chó này. Kế tiếp họ cũng làm tương tự đối với cây chuối, tuy không nghe tiếng kêu la, nhưng trên máy vẫn xuất hiện đường biểu diễn hoạt động não của cây chuối. Đem so sánh, thấy hai đường biểu diễn này giống nhau.

Các nhà khoa học còn tiến hành những cuộc thí nghiệm khác, như mang hai cây con cùng loại, cỡ, đem trồng cùng địa điểm. Sau đó chăm sóc, bón phân, tưới nước, ánh sáng…hai cây như nhau. Duy có điều khác nhau là, đối với cây thứ nhất thì thường xuyên tỏ thái độ ôn hòa vui vẻ, còn với cây thứ hai thì ngược lại, mặt giận mày hờn, dùng lời dữ ác mắng nhiếc. Vài tháng sau, sự phát triển của hai cây hoàn toàn khác nhau: Cây thứ nhất thì tươi tốt, cao lớn, còn cây thứ hai thì héo rủ, cành khô là vàng. Làm nhiều lần thí nghiệm, kết quả cũng như vậy. Họ đi đến kết luận là thái độ của con người có tác động rất lớn đến cây cối. điều đó, há chẳng phải do tâm linh con người có thể ảnh hưởng đến thực, làm tổng cơ quan của tâm linh thế giới thực vật sao?

Trước ngày tôi viết xong bài này, trên Tinh Đảo nhật báo, có đăng số tư liệu liên quan đến thực vật, nay tôi sao lục ra dưới đây, để các độc giả tham khảo:

“Thói quen nghiên cứu thực vật là tìm ra phương thức bảo hộ thực vật và hiểu rõ thực vật. Một nhà thực vật học ở Hungary đã dày công quan sát, nghien cứu về đời sống thực vật, đã nêu lên một số kết luận vô cùng giá trị, giúp chúng ta đi sâu vào thế giới thực vật để hiểu biết về chúng hơn:

I.

a. Phản ứng của thực vật rất nhạy bén và kịp thời. thí dụ, cây cối cần hấp thụ ánh sáng mặt trời để tạo ra diệp lục tố, nhưng lại có sức đề kháng làm cho cây tránh khỏi sự khô héo, không để cho mặt trời làm hại chúng.

b. m nhạc có tác dụng rất lớn đến vấn đề sinh trưởng của cây. Những khúc nhạc vui tươi sống động hay nhẹ nhàng êm dịu, sẽ giúp cho cây cối phát triển nhanh, cìn nếu phát nhạc buồn rầu, ảm đạm thê lương thì cây cối sẽ chậm lớn.

c. Cây cối có hệ thống tự vệ rất tốt, nhờ đó nó có thể chiến thắng các tật bệnh để sinh trưởng mạnh mẽ. trong suốt cuộc đời của cây cối, không giây phút nào mà chúng không liên tục chế luyện loại “kháng khuẩn tố” (thuốc kháng sinh), để giết chết các vi sinh vật trong không khí quanh cây, đồng thời cũng tiết ra những nước dịch, gọi là “dịch trấp kháng khuẩn”, để tiêu diệt các vi khuẩn làm hại trong thân cây.

d. Cây cối có thể phân biệt được ngày và đêm, cũng như biết trước được khí hậu lạnh hay gió to bão lớn sắp đến. Ngay khi sắp bị ngoại giới làm hại, không phải chúng bó tay chịu chết, mà luôn luôn có sự đấu tranh, phản kháng một cách rất tích cực.

e. Thực vật cũng có một hệ thống thần kinh của nó. Nhà khoa học trên, đã chế tạo ra được chiếc máy “Đo định đời sống thực vật” (Thực vật sinh mệnh trắc định nghi). Đem máy này gắn vào thân cây, có thể ghi và thu nhận được những tiếng than khóc, lực đối kháng của nó khi cây bị chặt gãy. Thí dụ như, khi ta đưa tay ra vò nát chiếc lá của một bông hoa trên cây, thì lập tức, hệ thần kinh của nó truyền tín hiệu báo động đến các hoa khác trên cây. Đồng thời, ta cũng thu nhận được những âm thanh vô cùng thống khổ của nó một cách thật mãnh liệt.

II.

Thực vật cũng có ba đặc trưng của loài người: loại máu, ngôn ngữ và tính tính.

a. Ở Nhật Bản, các nhân viên điều tra nghiên cứu về loại máu, tình cờ phát hiện ra thực vật cũng có loại máy, rõ nét nhất là trong hạt giống và trái cây, kể cả rau, cũng có loại máu. Đa số thực vật đều có loại máu O, kế đến là loại B hoặc AB. Riêng loại A thì vẫn chưa phát hiện ra.

Thực ra, cái gọi là máu của thực vật, là chất dịch trấp trong cây, dùng các hình thức phản ứng khi kiểm tra để phân định loại máu này. Tuy nhiên, cũng có thể dùng phương pháp phân tích loại máu của con người để xác định cho thực vật.

Việc tìm ra thực vật có loại máu, có thể giúp cho các cuộc điều tra hình sự sớm có kết quả, vì trên mẫu thuốc lá của thủ phạm đã hút còn giữ lại nước miếng, căn cứ vào đó mà suy ra trước khi gây án, thủ phạm đã ăn những món gì…Thêm vào đó, những đồ ăn trong bao tử nạn nhân cũng có thể nhờ loại máu của các món ra cỏ thực vật mà suy đoán.

b. Thực vật cũng có tiếng nói. Đó là kết quả của sự quan sát công phu của nhà khoa học. Họ nhận thấy rằng nếu trò chuyện với cây bằng những lời lẽ ôn tồn, dịu dàng thì chúng sẽ tươi tốt, mau tăng trưởng. Có một số nhà thực vật học lại nhận là cây cối có tánh linh, có thể nghe tiếng nói của loài người, đặc biệt là những lời nói nhẹ nhàng, êm dịu.

Theo các nhà sinh thái học ở Trường đại học Washington cho biết: Khi cây liễu bị sự tấn công của loài sâu có lông và loài sâu mùa thu là kén, liền tiết ra một hóa chất có mùi, truyền đến những cây gần nó, bóa động để các bạn phòng vệ. Đây là chỗ phát hiện của khoa học rằng thực vật biết nói chuyện với nhau, nhờ gió truyền đi “lời nói” này.

c. Cái gọi là tính tình của thực vật, là phương pháp ghép cây của loài người, sáng tạo ra những sắc thái thực vật có hình dáng, tính chất khác nhau, phô bày ra trong tồn tại tại thiên nhiên, chứng mình thực vật có thất tình như đã nói trên.

III.

Trên thế giới có những cây ăn động vật, vào khoảng 500 loại. phần lớn, chúng chỉ ăn những côn trùng bé nhỏ. Nhưng ở Indonesia, có một loại cây tên là Điện Bá, có thể ăn được cả con người, thật là đáng sợ cho loại cây nguy hiểm nhất trên thế giới! Cây điện bá có rất nhiều cành mềm dẻo tỏa ra bốn phía, bên ngoài nhìn thấy rất dễ thương, khi có người nào vô tình đi đến mà không lưu ý, cành nó sẽ quấn chặt thân người, nếu càng dãy dụa thì nó càng siết chặt lấy, rồi từ từ tiêu hóa con người đi cho đến hết. Nhưng lạ lùng là, nhựa cây điện bá này lại là món thuốc quí báu hiếm có. Con người vì muốn lấy nhựa cây này nên nghĩ ra phương pháp khéo léo, đem cá đến cho nó ăn thật no, khiến cho nó lười biếng rã rời chẳng còn muốn động đậy, lúc đó tha hồ muốn lấy bao nhiêu nhựa của nó củng được.

Đọc qua tư liệu trên, còn ai dám khăng khăng bảo thủ ý “thảo mộc vô tình” nữa hay chăng?

QUỶ THẦN

Có quỷ thần hay không, rất nhiều người còn nửa tin nửa ngờ, vì trí tuệ con người nâng cao dần, phát minh ra được một số thành quả khoa học. Những sự kiện này trước cho là mờ mịt hư vô, nay đã liên tiếp trở thành hiện thực.

Tuy nhiên, vấn đề quỷ thần, củng là mục tiêu mà các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Năm 1984, khoa nghiên cứu tâm lý trường đại học Saint Louis ở Misouri (Mỹ) đã công bố trên báo một kết quả điều tra như sau:

“Khoa học ngày càng tiến bộ cao thêm, nhưng về việc ma quỷ huyền bí không phải vì thế mà biến mất đi, trái lại, nó càng bành trướng thêm nhiều, kể cả ở một số nước văn minh như Mỹ quốc, mà cũng còn tồn tại vấn đề này.

Theo kết quả điều tra của trường đại học Saint Louis (Missouri), khoa nghiên cứu tâm lý thì trong 5 người Mỹ có 1 người bảo là có thấy hồn của ma quỷ. Phân nửa số người đó bảo là hồn ma có hiện ra trên thực tế và rờ đụng vào họ.

Hơn 200 người thành niên đã được phỏng vấn, kết quả có 28% số người nói rằng, họ đã từng tiếp xúc với hồn ma quỷ. Những cuộc gặp gỡ ghê rợn này bao gồm mắt thấy, tai nghe hoặc rờ đụng. Có người nghe được tiếng nói của ma quỷ, có người chỉ nhìn thấy hoặc có cảm giác thấy. Số đông người bảo vừa thấy, vừa nghe, lại biết rõ hồn ma quỷ biến hiện ra vào.

Trong số người được phỏng vấn thì:

- 57% có thấy ma quỷ

- 53% có nghe tiếng ma quỷ

- 56% bị ma quỷ rờ mó

- 42% chợt thấy ma quỷ

Có phân nửa số người bảo: nhận biết rất rõ con ma, còn 44% nói đó là hồn những người quá cố trong gia đình, số còn lại nhận đó là những người hàng xóm đã qua đời.

Kết quả điều tra là như vậy, còn việc tin hay không là tùy bạn.

Nếu trường đại học tâm lí này đến phỏng vấn tôi thì tôi sẽ không do dự chút nào mà khẳng định là có. Tuy cho đến nay, tôi vẫn chưa tận mắt thấy ma quỷ xuất hiện, nhưng qua những chứng tích quá nhiều từ trước đến nay, tôi không thể nào không công nhận là có quỷ thần.

Quả thật, rất nhiều sự việc xung quanh đã chứng minh những hiện tượng huyền bí của tự nhiên không thể nghĩ bàn, đều là có quan hệ đến quỷ thần.

a) TRĂM VẬT PHÁT SÁNG

Vào khoảng gần cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở vùng dãi đất Triều Sơn, trong gia đình nọ, một số đồ vật thường dùng có thể phát ra ánh sáng vào ban đêm. Ban đầu từ nhà bên cạnh, người anh tôi phát hiện một đống củi để ở ngoài cửa ngỏ đã lâu, phát ra ánh sáng. Anh sợ quá, gọi tôi đến xem. Ánh sáng phát ra giống như ánh sáng của loại đom đóm, là loại ánh sáng xanh mờ (lumineux) chứ không tỏa sáng ra ngoài. Khi soi đèn vào thì ánh sáng biến mất, đem đèn đi chỗ khác thì ánh sáng hiện lên. Chỉ có 1/5 số củi trong đống phát quang mà thôi. Tôi ngờ là mình hoa mắt, dụi dụi mắt mấy lần, cũng thấy như vậy. Lúc bấy giờ, hàng xóm nghe ồn, đều đến xem, có đến hơn mười người. Mọi người bàn tán lung tung, người lớn tuổi đoán rằng củi sẽ lên giá. Lúc ấy đang có chiến tranh Trung – Nhật, đồng bạc giấy Trung Quốc bị mất giá, vật dụng thay đổi giá cả ngày mấy lần. Vài thanh niên có học thì không tin vào lời bàn thiếu cơ sở khoa học. Họ giải thích, số củi phát quang đó do có dính chất phosphore (lân tinh) nên tỏa sáng trong bóng tối như vậy. Nhưng chỉ ba, bốn hôm sau thì số củi ấy không còn tỏa sáng nữa, mà bình thường trở lại.

Nói rằng số củi cho là dính Phosphore đi nữa, thì sao trước đó ba bốn ngày sau lại không phát sáng? Những thanh niên này không tìm ra câu trả lời nào cho ổn.

Không bao lâu, nhiều món đồ khác ở nhiều gia đình gần đó củng phát sáng, khiến bà con chạy qua chạy lại tham quan lẫn nhau. Những thứ như: củi, gạo, muối, trứng gà, thịt heo sống, chính tôi thấy phát quang. Tình trạng phát sáng này không kéo dài quá một tuần lệ, thường vào khoảng 3,4 hôm là hết.

Về sau, quả nhiên có đề tài cho những kẻ lắm chuyện bàn tán. Họ đoán trúng là sẽ có hạn hán hai năm, nhà nông mất mùa, sống cảnh củi quế gạo châu. Rất nhiều người dân phải ăn rễ cỏ vỏ cây để sống lây lất. Thậm chí, có người phải con đi để đổi lấy cái ăn. Bệnh dịch tả thừa cơ hoành hành, thật quả là “họa vô đơn chí”. Một dãi Triều Châu, Sơn Đầu biến thành địa ngục trần gian.

Ông Edison nói: “Đại tự nhiên chẳng phải vô tri”. Những món đồ ban đêm phát ra ánh sáng cũng có thể là đại tự nhiên khai thị cho chúng ta, nạn đói kém mất mùa lớn sắp đến rồi. Đáng tiếc, chúng ta đều là phàm phu tục tử, chẳng biết cách ứng phó. Tôi nghĩ, nếu chính quyền biết chuẩn bị đồ dự phòng, có phương cách đối phó thì cũng được gặp hung hóa kiết, chuyển họa thành lành vậy.

Khi tôi tới Đài Loan, kể lại chuyện phát quang này cho một số bạn bè nghe, thì họ trả lời bằng nụ cười chế giễu, cho là tôi đùa vui, vì từ nào tới giờ, Đài Loan chưa xảy ra chuyện tương tự. Cái đó cũng đúng thôi, nếu không phải chính mắt tôi trông thấy, thì dù có ai nói đến khô môi rát lưỡi, tôi cũng khó mà tin.

Độc giả quả ở Triều Châu, tuổi ngoài 50 đều có thể nghe thấy được, vì hiện tượng này lúc đó cả một dãi Triều Châu, Sơn Đầu nhà nào cũng đều thấy và hiểu rõ chuyện này, già trẻ đều biết. Còn các tỉnh khác, có xảy ra tương tự hay không, xin thứ lỗi cho tôi quá vụng về, hiểu biết không rộng, nên không dám đề cập đến!

b) SÓI ÔM ĐẦU

Vào khoảng năm 1944, đế quốc Nhật xâm phạm vào huyện Yết Dương tỉnh Quảng Đông (TQ). Lữ đoàn biệt lập số 20 của Trung Hoa Dân Quốc đã tử khu vực núi Dương Mai, giành chiến thắng vẻ vang sau trận đánh xáp lá cà với quân Nhật, khiến quan lính Nhật chết vô số, thay phơi đầy đồng. Những tổ chức từ thiện xung quanh đó không cách nào dọn dẹp chôn cất cho hết, mọi người rất lo sợ bệnh dịch hoành hành, nhưng không biết tính sao. Bỗng vào một buổi chiều tối nọ, một bầy chó sói rừng xuất hiện, đã ăn sách sẽ tất cả thây ma, mọi người mới yên tâm.

Ngờ đâu, bầy soi không chịu đi mà lại phân tán vào các vùng lân cận giết hại người và súc vật.

Loài dã lang (sói hoang) này nhỏ hơn loại sói thường, giảo hoạt như chồn, hành động nhanh như gió. Chúng thường bắt chước người, đi bằng hai chân sau, hai chân trước tréo dính lại phía sau đầu. Vì không có bàn chân nên đi đứng không vững, đi trên đường nghiêng qua lắc lại, mọi người đặt tên chúng là “bảo đầu lang” (sói ôm đầu).

Cách sát hại người của loài sói này như sau: len lén chạy đến phía sau người, đứng hai chân sau, một chân trước vịn vào vai sau của người, họ tưởng là bạn gọi, quay đầu lại nhìn. Lập tức, chúng há miệng thật to, ngoạm đức cuống họng, hút lấy máu tươi. Sau đó, xé bụng nạn nhân, moi lấy trái tim mà ăn, rồi bỏ thây ở đó mà đi. Cả bầy soi đều ăn người cùng một kiểu như vậy. Đa số nạn nhân đều là đàn bà, trẻ con, về sau, cả đến đàn ông làm việc một mình trong đồng ruộng, cũng bị chúng sát hại. Mọi người đều kinh hoảng, trẻ mục đồng hợp nhau cả đàn mới dám thả trâu ra đồng, giống như giàn quân ra trận. Nhiều bố cáo được chính quyền dán khắp nơi, kêu gọi mọi người khi đi ra ruộng phải mang theo vũ khí. Cấm khi ở ngoài đồng, gặp bạn mà không lên tiếng, chỉ vỗ tay hay vịnh phía sau vai…khoảng hai, ba năm sau, loài sói đặc biệt này bỗng dưng biếng mất tích không còn thấy tăm dạng đâu cả.

Sau khi việc trên xảy ra, có người nói rằng, việc bầy soi hoang xuất hiện này hết sức thần bí. Trước và sau đó không hề thấy hoặc nghe ai nói gặp ở đâu. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng là ăn sạch tử thi lính Nhật, còn việc làm hại dân chúng và súc vật chỉ là cái “dư ba” mà thôi. Có người cho rằng vì không tìm được thức ăn, nên chúng phải bỏ đi. Giả thuyết này không thuyết phục được mọi người, vì con người và súc vật xung quanh đó chẳng những không lo thiếu mà ngày càng tăng nhiều thêm. Thêm nữa, sau khi bầy soi đi mất, ngay cả dân cư sống trong núi cũng không còn thấy chúng xuất hiện trở lại.

Đặc trưng của loài này là bắt chước đi như người, chân trước ôm đầu. Đó có phải là đại tự nhiên thể hiện ra sự áo bí của chúng nó, để cho chúng ta biết đây không phải là loài sói thường, mà nó do “ứng thời” (yêu cầu của thời cuộc) sinh ra, không thể thấy lúc bình thường chăng? Nghi vấn ấy, cho đến nay vẫn chưa có ai trả lời dứt khoát nổi.

c) UFO ( VẬT THỂBAY KHÔNG XÁC ĐỊNH) TRÊN BẦU TRỜI

Tiếp theo chuyện sói ôm đầu, tôi liên tưởng đến vài năm gần đây, thường xuyên có những cái gọi là “Dĩa bay” xuất hiện trên không trung.

Mời các bạn đọc bản tin ngày 27/2/1987 của Tinh Đảo nhật báo:

“Gần đây, thế giới thường xuất hiện những vật thể bay không xác định trên bầu trời các nước, cho đến nay chưa có ai hoặc cơ quan nào giải thích chính xác đó là gì. Nhưng thực tế thì ngày càng nhiều tin tức báo cáo, chứng tỏ những vật thể bay không xác định này là có thật.

Không quân và một bộ phận hải quân Mỹ vừa mới công bố một tài liệu “tối mật”, là 40 năm về trước, UFO thường xuyên có mặt trên không phận nước Mỹ.

Theo các văn kiện tối mật này báo cáo một tin kinh người là, viên phi công cảnh vệ quốc dân trong lúc săn đuổi theo một vật thể bay bằng kim loại cực lớn đang bay (trên không) ngang qua, bị rớt máy bay chết. Nhân vật này tên Maltenis, phi công cảnh vệ quốc dân thuộc tiểu bang Kentucky, trước khi máy bay bị rơi, đã liên lạc vô tuyến với Trạm kiểm soát không lưu rằng:

Chú thích: UFO tiếng Anh Unknown Flying Objecht. Tiếng Pháp OVNI vật thể bay không xác định.

Tôi trông thấy một vật lạ đang bay, nó cực lớn hiện nay ở ngay trên đầu chúng tôi. Rồi sau báo tiếp: Tôi đang cố gắng bay tới gần nó để quan sát cho rõ.

Cũng theo tài liệu mật này cho biết, vào ngày 7/1/1948, ông Maltenis đã bay đến độ cao 30km đuổi theo vật bay lạ, máy bay ông bị rơi. Tài liệu này suốt mấy chục năm qua được chính phủ Mỹ xem là “tối mật”, gần đây để hỗ trợ cho công việc điều tra về UFO, họ mới chịu công bố.

Ông Soteross, chủ tịch của Mufon, là tổ chức điều tra về UFO lớn nhất trên thế giới, nói: Đó là một tài liệu vô cùng quan trọng từ trước đến nay, nhằm khẳng định sự hiện diện của UFO.

Cũng trong tài liệu này đã nêu lên một số người thật việc thật, đã tận mắt trông thấy UFO:

1) Ngày 29/6/1947 gần khu vực phóng tên lửa thử nghiệm El Paso, tiểu bang New Mexico, Mỹ, có ba người (trong đó có 2 khoa học Nga), đã báo cáo là họ trông thấy một khối cầu dẹp hình chiếc dĩa rất lớn, đang bay cực nhanh ở độ cao khoảng 10km, dĩa bay này không có cánh ló ra.

2) Ngày 4/8/1947, tại bang Alaska, viên phi công lái chiếc máy bay DC3 và viên phi công phụ báo cáo “Nhìn thấy một dĩa bay lớn hơn máy bay của họ, dĩa bay này bay vượt lên đường bay của học. Họ liền đuổi theo, nhưng dù đã rượt với tốc độ 170miles/h (300km/h), nhưng chỉ 4 phút sau là dĩa bay biến mất, không còn dầu vết gì.”

3) Ngày 25/7/1948, hai phi công của Công ty hàng không Orient nhìn thấy một vật thể bay đang ở tốc độ cao, bay vượt qua phi cơ của họ.

Tài liệu mật trên nói rõ, vật lạ mà hai viên phi công này thuật lại, cũng giống hệt như vật bay mà vào ngày 20/7, viên sĩ quan Hà Lan, và con gái ông đã thấy.

Báo cáo tối mật này do CIA, Phòng tình báo Bộ tự lệnh không quân và phông tình báo bộ tư lệnh Hải Quân, phối hợp vào ngày 10/12/1948. trong đó, đã ghi rõ con số tổng kết trong hai năm 1947, 1948 đã có 210 trường hợp xuất hiện của vật thể bay không xác định này.

Trong báo cáo này cũng nhấn mạnh rằng, phần lớn những người nhìn thấy UFO, bao gồm nhân viên khí tượng đã được huấn luyện, có khả năng phân biệt sự khác nhau của UFo và hiện tượng tự nhiên một cách chắc chắn, ngoài ra còn có các sĩ quan cao cấp của không quân Mỹ, các phi công hàng không dân dụng có kinh nghiệm, các kỹ sư đã từng tham dự nghiên cứu kế hoạch và các phi công do công ty mướn lái.

Như vậy, chắc chắn những báo cáo của họ đều có giá trị khoa học.

Nhà vật lý học Hải Quân cùng với tiến sĩ Mạch Biện Tỷ (tên dịch), chủ tịch hột cơ kim ( cũng nghiên cứu về vật thể bay không xác định) nói: Nhiều năm nay, mọi người nghi ngờ là có những văn kiện tuyệt mật liên quan đến UFo, nay thì, những văn kiện này đã được công bố, khẳng định đích xác là có UFo. Ông lại nói thêm: Qua tài liệu này, chúng ta đã biết rõ ràng là 40 năm về trước, phòng tình báo Không quân và Hải quân Mỹ đã kết luận chắc chắn là có sự hiện diện của UFO rồi.

UFO không chỉ xuất hiện trên bầu trời, mà có những trường hợp từ đáy biển bọt lên, khiến mọi người hết sức kinh ngạc. Ta hãy xem những bản tin ngày 4/8/1987 của Nhật báo Tinh Đảo:

“Một chiếc tàu hàng Nhật Bản đã trông thấy một vật thể bay không xác định, có hình dạng chiêc dĩa rất lớn, đã từ đáy biển vọt lên cạnh chiếc tàu này, vụt thẳng lên không, bay lượn 15 phút, rồi bỗng nhiên đâm xuống biển trở lại, mất tung tích.

Sự kiện này xảy ra ngày 17/4 năm nay, tại phía đông cảng Bản Châu Kim Thạch (Hakodate) khoảng cách 175 hải lý. Lúc ấy đang là ban ngày, việc quan sát rất tốt.

Trong lúc xảy ra hiện tượng này, chiếc tàu chở hàng Kinh Đằng Long dài 165 feet (49.5m) bị những làn sóng to lớn dữ dội, do khi UFO bay vọt lên và khi đâm xuống biển tạo ra, làm cho thân tàu hư nặng. Rất May, là không có nhân viên trên tàu này bị thương.

Ông Cửu Điền Tha Hỉ, thuyền trưởng tàu Kinh Đằng Long, 54 tuổi, đã tuyên bố với các ký giả khi đem tàu về Kim Trạch:

“Dĩa bay đó thật mười phần đáng sợ, ít ra nó cũng lớn gấp năm lần tàu chúng tôi, khi bay lại phát ra thứ ánh sáng xanh lè. Lúc đầu, nó từ dưới nước vọt lên, chúng tôi không tin vào mắt mình, cho đó là thứ quái vật gì trong biển”. Gương mặt ông vẫn còn vẻ sợ hãi khi kể lại điều này.

“Dĩa bay này tạo ra đợt sóng thật to lớn, ập vào sắp sửa nhận chìm chiếc tàu chở hàng của chúng tôi, tất cả đồng hồ báo tín hiệu, phương hướng trong buồng lái đều ngừng lại không chuyển động. Việc duy nhất tôi có thể làm là động viên mọi người trên tàu hãy bình tĩnh, giữ vững vị trí mà và nhiệm vụ công tác của mình. Những đàng em đắc lực của tôi lúc đó đều núp trong khoang tàu, họ giống như đàn bà và trẻ con, ôm mặt khóc nức nở”

Thuyền trưởng lại nói tiếp: “Sau khi vọt lên không, chiếc dĩa bay quá lớn này lượn qua lượn lại cách trước mũi tàu của chúng tôi khoảng 45 mét, trong mấy phút”.

Ông ta tiếp: “Nó thật là đáng sợ vô cùng” rồi nói tiếp: Sau đó, thật là kỳ lạ, nó đứng yên một chỗ lơ lửng trên không. Chúng tôi dùng máy vô tuyến điện gọi tin SOS, nhưng không hiểu sao lúc ấy tín hiệu bị giao thoa, không cách nào phát đi được.

Đột nhiên, nó vụt xuống, bay quanh tàu chúng tôi ít nhất là 15 phút, bằng một tốc độ cực nhanh mà có lẽ nằm mộng tôi cũng không tưởng tượng ra nổi, cơ hồ như là một luồng ánh sáng xanh chuyển động quanh trên chúng tôi mà thôi.”

Sau khi đãi bay lặn xuống biển, thuyền trưởng Cửu Điền tức khắc đánh điện cho giới chức thẩm quyền báo cáo mọi việc xảy ra này, nhưng khi họ dùng radar để dò tìm thì không phát hiện được gì.

Dựa vào chỗ chúng tôi hỏi kỹ thuyền trưởng, nhân viên trên tàu Kim Đằng Long, và dấu vết hư hỏng khác thường của thân tàu, chúng tôi đủ lý do để tin rằng họ đã gặp một cái gì đó khác thường. Người phát ngôn của Hải sự sảnh Nhật Bản nói: Trên phương diện chính phủ, thì chúng tôi cho rằng đó là vật thể bay không xác định (UFO), mà mọi người thường nói.”

UFO đã gây sự chú ý của rất nhiều người vì nguyên nhân chủ yếu là họ muốn biết thật sự có một nền văn mình ngoài địa cầu nào tồn tại hay không? Nếu quả thật có UFO, thì không cần nói cũng biết có sự tồn tại nền văn minh ngoài địa cầu này.

Sự quan tâm của loài người là tìm cách xác minh cụ thể nó. Con người có mặt trên trái đất này từ khi nào? Ý kiến của giới khoa học, triết học, truyền thuyết nêu lên khác nhau. Theo sự phân tích các hóa thạch mà con người thu được, thì ít nhất là 6 triệu năm. Tại sao trong một thời gian dài đăng đẳng như thế, không nghe ai đề cập đến UFO, mà đến năm 1947 trở đi mới xuất hiện liên tục? Phải chăng, những cái đó cũng giống như chó sói oom đầu, ứng với thời mà hiện ra?

Ý định đến trái đất này của UFO không rõ là gì, nhưng theo những nhận xét sơ bộ thì cũng chẳng thân thiện gì lắm, vì những phi cơ chiến đầu của cả ba nước Mỹ, Liên Xô, Nhật đều từng bị nó làm rơi. Căn cứ vào tốc độ thần xuất quỷ nhập của nó, nếu quả có ý uy hiếp chúng ta, thì sẽ đối phó với nó như thế nào đây?

Người lái UFO là thần thánh gì? Hiện chúng ta chưa biết được. Từ những tư liệu khác nhau phân tích giống như thuộc về động vật cao cấp như loài người, nhưng từ giác độ bản lĩnh xuất quỉ nhập thần của chúng nó mà xét, thì có điểm liên quan đến quỷ thần. Chúng rốt ráo thuộc về loài nào, tốt hơn hết là thời gian sẽ trả lời!

Những trích dẫn trên đều là những việc ai cũng biết mà không thể nghĩ bàn, không nghi ngờ gì có nhiều cái dính líu đế quỷ thần.

Tuy có đến 1/5 người thành niên ở Mỹ khẳng định là có quỷ thần tồn tại, nhưng số người trong bụng đầy hoài nghi trên thế giới còn rất nhiều. Từ một khía cạnh khác mà xem, đó cũng là tổn thất cho chúng ta. Nếu không làm sáng tỏ mối hoài nghi này, thì vĩnh viễn chúng ta không bao giờ có được cái trí tuệ của quỷ thần này.

d) QUỶ LỘNG Ở HONGKONG:

Chúng ta phải làm sao chứng minh được, trong vũ trụ này đích xác có một loại chúng sinh là ma quỷ tồn tại? Xin xem một việc quỷ lộng ở HongKong năm 1963, tại Sở Lương Thực, thì có thể hiểu:

(Bài đăng trên Nhật báo Tinh Đảo ngày 22/7/1986)

“Câu chuyện quỷ lộng này xảy ra năm 1963, này là năm 1986, mới trải qua 23 năm thôi. Do đó mà biết chuyện ma quỷ không phải đời xưa mới có, mà thời đại văn minh nguyên tử này nay, chuyện ma quỷ vẫn nghe thấy giống như xưa.

Một địa điểm ở đường Hoa Viên này, trước đây 23 năm có một căn nhà lầu cao ba tầng, cất theo lối xưa, tòa kiến trúc này xây từ năm 1845. Thời ấy, có rất nhiều tòa kiến trúc kiểu xưa như: Tòa án tối cao, sở Bưu điện Trụ sở Hội Hương Cảng nhưng cũng xây sau, chỉ có tòa nhà nói trên là xây trước nhất.

Tòa kiến trúc xưa từ năm 1845 này không phải do Sở lương thực xây lên, cũng không dùng làm Sở lương thực, vì hiển nhiên là lúc bấy giờ đâu có yêu cầu về hoạt động này. Vậy nó dùng để làm gì? Đây là trại lính Mari. Ngày trước một dãy đất này đều thuộc về Bộ Quân sự quả lí, con đường trước mặt, chỗ nhà hàng Hilton hiện nay, là chỗ huấn luyện cho lính Mari. Dãy đất này hồi đó được cơ quan quân sự sử dụng ra sao? Tòa kiến trúc ba tầng này, hồi đó là nhà ăn của sĩ quan, từ hơn 100 năm nay vẫn còn nguyên dạng. Khi cơ quan quân sự dời đi nơi khác, giao trả phần đất gần eo biển này cho chính quyền HongKong, trong đó có tòa nhà xưa 3 tầng nói trên. Chính quyền bán lại phần đất đó cho ông Hilton, nên ông xây dựng nhà hàng 20 tầng lầu ngày nay. Tòa kiến trúc cũ kỹ đổi tên là tòa nhà Mỹ Lê, cấp cho Sở Lương thực vật giá dùng làm văn phòng. Sở này trước ở tòa nhà Vạn Nghi mới xây, giờ chuyển đến tòa nhà xưa này.

Ngày sở lương thực dọn vào là 16/4/1963, dọn xong là bắt đầu làm việc ngay. Dè đâu, chưa ở được tuần lễ đã bị ma quỷ lộng hành, hiện ra liên tục, khiến cả người Hoa lẫn người Anh đều phải hoảng sợ. Người Trung Hoa xưa nay hay tin có có ma quỉ và xác nhận nơi này quả thực có ma. Người này nói họ đã thấy, người kia bảo họ cũng thấy. Vừa thấy vừa nghe được tiếng cười của ma quỷ, những viên chức cao cấp người Anh trong sở này cũng đều nghe thấy, tin đích xác có ma, lại liên tiếp bị ma quỷ quấy rầy. Dương như, nếu anh không tin có ma, thì cho anh thấy dữ dằn mà biết.

Đầu tiên, một nhân viên người Hoa đi làm sớm, phát hiện ra chuyện lạ này. Hôm đó, cách bốn ngày sau khi dời nhà, anh ta đi làm việc sớm, mới ngồi vào bàn thì chợt nghe một tràng cười quái đản từ phòng phía sau vọng ra, rồi lan dần đến phòng làm việc. Anh này nhìn trước nhìn sau thì tuyệt nhiên không có người nào ngoài anh cả, liền hoảng kinh bỏ chạy một mạch ra cổng chờ cho có đông người, rồi mới dàm vào phòng làm việc.

Hai ngày liên tiếp xảy ra như vậy, có người bạn đồng nghiệp thấy khác lạ, theo cật vấn anh ta, anh mới thật thà kể lại. Nhưng mọi người chẳng ai tin, cười bảo rằng thời đại nguyên tử, làm gì có ma quỷ!

Đến hôm thứ ba, họ mới chịu tin. Số là, trong phòng đang làm việc, mọi người đầy đủ, bỗng vang lên một tràng cười quái đản, khiến mọi người rởn tóc gáy. Tiếng cười khàn khàn giống tiếng của một ông già từ phòng sau vọng ra. Mọi người đổ xô vào tìm, nhưng không thấy ai cả. Không lẽ ma quỷ sao? May mà có đông người nên không đến nỗi có ai bỏ chạy.

Tiếp theo hai ngày, nhân viên quét dọn đều nói là, chẳng những nghe tiếng mà họ còn thấy quỷ thật sự nữa!

Một người kể là thấy người đàn bà bồng con, thực tế trong sở này không có viên chức nữ nào bồng con theo cả. Hơn nữa, khi đó có gió lạnh thổi từng cơn, bóng ma lướt qua rồi biến mất. Câu chuyện lan rộng khiến mọi người xôn xao sợ hãi không còn an tâm làm việc nữa, nên cử một số đại diện đến trình lại viên chức chỉ huy người Anh. Vị này cũng đã nghe thấy những tiếng cười quá dị đó, nghe được chuyện ma quỷ liên tiếp của nhân viên người Hoa đưa ra chứng cớ, nên mọi người đều công nhận đó là chuyện thật, báo cáo lên ông igám đốc sở này tên Thành Gia Sĩ. Ông giám đốc cho là chuyện ma quỷ khó tin, nên bỏ quan chẳng giải quyết.

Nhưng hai ngày sau, một chuyện quái lạ nhất hơn tất cả chuyện quái lạ trước, trừ phi do ma quỷ thì không còn cách gì giải thích được. Do chuyện này, ông giám đốc mới chịu tin.

Hôm đó, trong sở bỗng nhiên biến mất một cái máy đánh chữ, mọi người phải tìm cho ra, nếu không phải báo chính quyền biết. Ngờ đâu, một nhân viên kéo chiếc ngăn kéo của bàn đánh máy chữ ra, nhưng chỉ được một chút bị kẹt lại cứng ngắt. Nhìn sau vào trong ngăn kéo, rõ ràng chiếc máy đánh chữ nằm trong đó, nó cao hơn chiều cao của ngăn kéo nên không thể kéo ra được. Vậy làm sao lại đẩy nó vào trong được. Anh hoảng sợ kêu lớn “Ma!Ma!”

Việc này gây chấn động và sợ hãi cho toàn thể mọi người trong sở lương thực này. Họ vây xung quanh chiếc bàn đánh máy, bàn bạc, nghiên cứu, nhất trí cho rằng không thể nào sức người làm được, mà chắc chắn là ma quỷ gây ra. Sau đó, đành phải cho người phá mặt bàn đánh máy, đem ngăn kéo ra ngoài, mới lấy chiếc máy chữ ra được. Sự việc xảy ra trước mắt ông giám đốc, nên ông không thể nào không tin là có ma quỷ được. Nhưng đã có ma rồi, phải đối phó cách nào đây, chẳng lẽ lại dọn sở này trở về chỗ củ? Hẳn nhiên là không thể làm như thế. Lúc đó, ông giám đốc Thành Gia Sĩ này cảm thấy nhức đầu, không biết xử lý bằng cách nào?

Phần đất mà trại lính Mari giao lại cho chính quyền HongKong, ngoài tòa nhà lớn đã đổi tên Mỹ Lê này ra, còn có nhiều miếng đất khác đối diện, mà văn phòng làm việc của Đài vô tuyến điện HongKong ở đó.

Đồng lúc với việc xảy ra bên Sở lương thực, bên Đài vô tuyến cũng có chuyện kỳ quái xảy ra. Có một nhân viên, còn độc thân nên ở trong ký túc xá. Đêm đó, anh đang ngủ sau, thì như có người nắm áo lôi dậy, lúc mơ màng anh tưởng là bạn bè trêu ghẹo. Nhưng khi mở mắt lớn, thì có thấy ai đâu. Trong phòng chỉ có mình anh, mấy giường kia đâu có ai nằm. Anh đâm hoảng sợ, lại phát giác không khí trong phòng nặng nề, nghẹt thở, giống như là trong ký túc xá này có rất nhiều người đang ẩn núp ở một góc. Anh càng nghỉ càng sợ, vội bỏ chạy ra ngoài. Từ đó về sau, không dám ngủ ở đó nữa, đồng thời báo cáo sự việc lên cấp trên.

Những sự việc ma quỷ xảy ra ở hai cơ quan, đều là nơi do quân đội bàn giao cơ sở lại, khiến cho mọi người đều phải tin nơi này có ma.

Hai vị giám đốc hai cơ quan trên đều là người Anh bắt buộc phải tin việc này. Họ bàn bạc, tìm cách giải quyết, nếu không, nhân viên quá sợ hãi không an tâm làm việc. Chưa tìm được giải pháp, họ mời số nhân viên người Hoa lớn tuổi đến góp ý:

- Tại sao ở đây có ma quỷ?

- Tại sao lúc trước quân đội ở thì không có, mà nay lại có?

Kết quả họ tìm ra được câu trả lời, khiến cho hai vị giám đốc và viên chức người Anh cũng cảm thấy hợp lý.

Số là truy cứu nguồn gốc, trước khi dùng nơi đây làm nhà ăn binh lính, lúc Nhật chiếm đóng HongKong, đã đặt trụ sở cơ quan Hiến binh ở đây, còn tổng bộ thì đặt tại Tòa án tối cao (nay là Cục Lập pháp). Bởi là cơ quan Hiến binh nhật, tất nhiên có gây ra cái chết cho nhiều người, từ chỗ giam cầm, tra tấn đánh đạp. Chết vì bị cực hình có, mà chết do tự sát cũng có. Đó là nguyên nhân có oan hồn thành quỷ về sau.

Thứ hai, tiếp sau quân Nhật là trại lính Mari, thì cũng còn phô trương khí giới, uy thế mạnh mẽ, khiến ma quỷ không dám xuất hiện. Bây giờ, là cơ quan dân sự, nhân viên toàn là công chức, nho nhã thư sinh, chúng không còn sợ nữa nên hiện ra phá phách. Thêm vào đó, bãi tập lính ở phía đối diện, nay đang xây cất nhà hàng Hilton, ngày ngày nện xuống đất gây chấn động mạnh, chỗ trú ẩn, đành phải chạy ra ngoài thế gian, nên có sự lộng hành như thế.

Hai vị giám đốc nghe trình bày, cho là hợp lý, công nhận là đúng có ma quỷ. Nhưng giải quyết bằng cách nào?

Có hai giải pháp, một là tiêu diệt ma quỷ ở đây, hai là phải ký hiệp ước “hòa bình chúng sống” với chúng tôi. Ngoài hai cách đó, không còn biện pháp nào khác.

Nhưng hai giải pháp trê là ý tưởng nảy ra trong đầu thôi, chứ thực hiện nó bằng cách nào, ai làm …? Các báo Hoa Kỳ và Anh đều đăng tin này, gây chấn dộng lớn. Ngày nào cũng có rất đông người tụ họp xung quanh hy vọng thấy được ma quỷ. Bên trong, nhân viên xuống tinh thần, bỏ bê công việc. Phải cấp bách giải quyết! Hỏi thăm nhiều nơi, tiếp nhận nhiều ý kiến của nhiều người mới đi đến kết luận là phải làm Phật sự. Rút kinh nghiệm trước đó ở Hội đua ngựa, nài ngựa Smark té chết, oan hồn quậy phá, phải lập đàn cầu siêu mới yên. Ông giám đốc cũng không dám cho đó là mê tín, phải làm theo Liên hợp hội phật giáo Hương Cảng giúp đỡ, chọn ngày lành tháng tốt lập đàn cầu siêu.

Ngày 19/5/1963, pháp hội siêu tiến được tổ chức đúng một tháng bốn ngày từ khi Sở lương thực dọn đến. Hai giờ chiều, giám đốc Thành Gia Sĩ cùng các viên chức cao cấp người Anh hai cơ quan cùng đến trước đàn tràng thành kính niệm hương. Đó thật là cảnh tượng lạ lùng, nếu thật không có chuyện quỷ lộng thì không bao giờ người u Tây chịu tín phục như vậy.

Ngoài việc lạ kể về lễ bái đó, có một chi tiết khác cũng thú vị. Đó là bài văn tế rất hay, được đọc trong buổi cầu siêu này. Bài này không biết do ai soạn, nhưng lời lẽ rất thống thiết, văn chương khéo léo, tôn xưng những “Hồn anh hùng vô danh của đất nước” (vô danh anh hùng, quốc hồn). Nếu không phải là cao thủ, chắc không soạn nổi. Xin dẫn một đoạn:

“Than ôi! Lúc sống đã là anh, khi chết lại là lính, đâu phải mọi người ai cũng được như thế. Đất nước rối ren, bỏ thân nơi Hương Cảng, bởi giặc dữ gây nên. Cực hình tra tấn, nào chịu khuất thân dưới bạo quyền. Xé thây giữa chợ cũng không màng, roi quất dọc ngang trên đầu không la khóc. Thế nên ngày nay ứng hiện nơi Sở lương thực cho mọi người nghe thấy, chẳng hỗ là “Hồn anh hùng vô danh của đất nước”, còn ai dám nghi ngờ không súng bái”

Phần cuối bài văn, nói về pháp hội siêu tiến tổ chức trai đàn siêu độ, có những câu rất hay như: “Thị chư u hồn đích uổng thử, tự túc thiên thu. Nhi quan phủ chi oai nghiêm, khả an chung nhật. Khởi phi lưỡng toàn chi mỹ hồ?” (Hỡi những oan hồn uổng tử, hay an nghỉ ngàn năm. Nơi công sở oai nghiêm này, là chỗ an thân vĩnh viễn. Đó chẳng phải là tốt đẹp lưỡng toàn sao?)

Ngày lễ cầu siêu này đã làm kinh động khắp nơi, các ký giả báo đài cùng dân chúng tấp nập nô nức kéo đến xem, vây đông cứng chặt bốn phía. Chiều hôm đó, tất cả báo chí ở Hương Cảng, cả Hoa lẫn Anh, đều đăng tìn tức và hình ảnh về buổi lễ cầu siêu này. Quả thật, từ ngày khai sinh ra HongKong đến giờ, chưa bao giờ náo dộng cả thành phố như lần này. Trước đây, vụ nài ngựa Smark té chết, Hội đua ngựa cũng có tổ chức cầu siêu, nhưng tiếng tăm không bằng lần này, vì chính quyền của phía Trung Tây đều có tham dự, tạo thành sự kiện to lớn, chấn động đến “cùng làng cuối xóm” (nhai đầu hạng vĩ) đều biết.

Đây là một chuyệ lạ lùng trên thế giới

Từ ngày tổ chức pháp hội cầu siêu ở tòa kiến trúc xưa 3 tầng ấy đến nay, không ai còn nghe tiếng quỷ, thấy bóng quỷ hay không khí ma quái xảy ra ở đó nữa!

e) SỰ ANH LINH XẢY RA Ở BẠCH CUNG (White house - USA)

Dưới đây, lại thêm một tin tức gần nhất, kể chuyện lạ xảy ra ở Tòa Bạch Ốc (Mỹ), tin không tùy bạn.

“Tin điện của Pháp Tấn Xã AFP ngày 16/2/1987 từ Washington.

Tổng Thống Donald Reagan cho biết là ông ta dù chưa tận mắt thấy hồn ma xuất hiện ở Bạch cung, nhưng ông thừa nhận rất muốn thấy một lần, sẽ rất có ích.

Đã có nhiều vị tổng thống Abraham Lincoln, xuất hiện trong căn phòng ngủ cũ của ông trong Tòa Bạch Ốc. Và gần đây, có vài người cũng đã thấy như thế, như con gái ông Reagan tên Mouselin, Thủ tướng Anh Churchill và nữ vương Hòa Lan, bà Chilie Anna.

Mới đấy, TT Reagan đã nói với một số sinh viên như sau: Tôi chưa chính mắt trông thấy, nhưng con chó Củng “Lực sĩ” của tôi cứ hướng về dãy hành lang có phòng ngủ cũ của ông Lincoln mà nhìn trừng trừng, như đang chú ý một cái gì, rồi nó sủa vang mãi, sau nó chạy thẳng đến căn phòng ngủ đó thì dừng lại. Ông tiếp: Có lần một người mở cửa căn phòng ngủ này, nhưng con chó củng của tôi không chịu vào, vừa đính hơi vừa sủa, cuối cùng nó ra vẻ sợ sệt, chjay thối lui. Ông mỉm cười, nói tiếp: Nếu quả ông Lincoln có ở trong phòng này, tôi cũng không sợ chút nào, tôi rất muốn nói chuyện với ông ta một lần, điều đó thật là có ích!”

Ông Abraham Lincoln (1809-1865) là người cùng Đản Cộng Hòa với Reagan, đảng viên Cộng Hòa đầu tiên làm TT Mỹ thời kỳ chiến tranh Nam Bắc.

Mouselin Reagan cùng chồng là Danis Tovenissan nói: Trong lúc chúng tôi ngủ nơi phòng của ông Lincoln đã thấy hồn ma hiện ra. Đây là phòng duy nhất có chiếc giường lớn trong Tòa Bạch Ốc này, có thể cho anh Danis (cao 2m) nằm được, vì ông Lincoln cũng rất cao lớn. Cô kể: Tôi không đùa đâu, chúng tôi thấy thật mà. Đó là một người trong suốt, thực tế giống như một khối ánh sáng có nhiều màu sắc. Danis thấy nó là ánh sáng đỏ sậm, còn tôi thấy chỉ hồng hồng thôi. Danis thấy ông ta đứng cạnh lò sưởi, tôi thấy ông ta đứng bên cửa sổ.

Họ không phải là người duy nhất thấy hiện tượng này. Cố thủ tướng Anh Churchill, qua đời năm 1965 và nữ vương Hòa lan Chilie Anna cho biết, chính họ đã thấy tận mắt bóng ma của ông Lincoln như vậy.

Người (nữ) phát ngôn của Nancy, phu nhân TT Reagan, nói rằng: Ông bà Reagan có biết chuyện vợ chồng Mouselin ở trong phòng đó thấy hồn ma và ông bà cũng nhận nơi đó có thể có hồn ma, nếu có thật thì cũng là bóng ma hiền lành!”

Trong vũ trụ, quỉ thần thuộc về lĩnh vực bí ẩn cao sâu, trí người chưa lý giải nổi. Lịch sử ghi chép rất nhiều, nhưng loài người đây muốn đem xếp vào loại tư liệu “dù con cũng cũng không nói” (tử bất ngữ) để làm giảm bớt tính quan trọng của nó, cho đó là thứ không quan yếu mấy. Phải chăng, chúng ta chưa đặt đúng vị trí cho một loài chúng sinh tối linh hhơn muôn vật chăng?

Trên cuộc đời này, chúng ta luôn nghe được những chuyện hết sức xác thực về quỉ thần, nhưng dưới ngòi bút khéo léo vẽ vời của ký giả, có thói quen ghi câu “nghe láo mà chơi” hoặc “tin hay không là quyền của bạn”, làm cho sự thực bị méo mó.

Sự vật nếu là có thật, ta phải khẳng định là có, còn nếu quả là không, thì ta mạnh dạn bảo là không, đừng nên nói kiểu phân hai, đó mới đúng là thái độ học hỏi chân chính.

Việc hồn ma hiện ra ở Bạch Cung, nhất định phải có thật, người ta mới dám tung tin, vì đây là nơi mà cả thế giới đều chú ý đến, ai dại gì bịa đặt để chuốc lụy vào thân.

Bài này không cốt ý thảo luận vấn đề tồn tại của quỷ thần trong vũ trụ có vài loài chúng sinh như thế, cũng tồn tại như loài người chúng ta, điều đó là chắc chắn, không có gì ngờ vực. Nhưng cái chúng ta nghiên cứu là mối quan hệ tâm linh giữa người và quỷ thần để tìm ra tổng kho trí năng của vũ trụ vạn hữu.

Chuyện ma quỷ lộng ở Sở Lương thực HongKong xem từ đầu tới cuối, ta dễ dàng rút ra được kết luận sau:

Từ chỗ Sở lương thực này bị ma quỷ quậy phá sau khi được các vị sư lập trai đàn siêu độ, liền bình an vô sự. Đó là điều minh chứng rõ rệt nhất là có sự hỗ thông giữa tâm linh con người và tâm linh quỷ thần. Hay nói rõ hơn, tâm linh con người (có thể) làm tổng cơ quan của tâm linh quỷ thần.

HÌNH THÁI CỦA TM LINH

Tâm linh là tổng cơ quan của vạn vật trong vũ trụ.

Tâm linh chúng ta là tổng cơ quan của tất cả tâm linh: Con người, động vật, thực vật và quỷ thần.

Vậy tâm linh chúng ta là tổng cơ quan của vạn vật trong vũ trụ

Chúng ta đã tìm được tổng cơ quan rồi, không còn gì nghi ngờ nữa, nhưng phải làm cách nào mở nó ra để được trí năng và lực năng không gì sánh nổi?

Tâm linh có hai loại hình thái:

1. VỌNG TƯỞNG LĂNG XĂNG – Tức Loạn: tức là tâm lộn xộn hiện nay của chúng ta, nó rối ren như nước chảy trên sông Dương Tử, lượn sóng sau xô lượn sóng trước, bọt nổi bèo trôi, trong thân luôn có những thứ tự ngôn tự ngữ khó chế ngự. Từ đó, sinh ra nào tự tư, tự lợi, ích kỷ, ghét ghen, vui mừng lao vào tai họa (ghiền), cuối cùng là đến chỗ chết. Biết bao nhiêu tâm niệm quái ác, làm che mờ cái đại tri đại năng của tâm linh, không sao phát huy ra được. Từ đó, sinh ra bao thứ rầu buồn khổ đau, lúc nào cũng như sống trong biển khổ mênh mông, không sao thoát khỏi.

2. TM LINH VÔ NIỆM – Tức Định: Nói đến từ vô niệm này, không dễ gì được nhiều người hoan nghênh, vì học cho rằng, vô niệm là vô tri. Bất cư ai cũng đều mong có được trí tuệ hơn người, biết những việc người khác chưa biết, làm được những việc người khác khó làm. Nay nếu khiến cho họ thành vô tri, đó chẳng phải là điều đáng sợ ư? Sự thực, ta phải biết rằng tâm linh vô niệm tức là cái TM CHÍNH THƯỜNG, tục gọi là ĐẮC ĐẠO. Một người thành đạo, thì loài vật như gà, chó cũng đều sanh. Nhưng Đạo là gì?

Từ xưa đến nay, trong cung như ngoài nước, các nhà triết học và tôn giáo đã nói đến Đạo rất nhiều, nhưng chưa làm con người thỏa mản vì chưa ai nói ra ngoài những phạm trù khuôn mẫu của truyền thống, phương pháp và giáo lý của tôn giáo hay trường phái của họ.

Nho thì có “đạo” của Nho, Thiên Chúa Cơ Đốc có “đạo” của Thiên Chúa Cơ Đốc (KIto), phần lớn chỉ dạy về cách sử thế và cách làm người, cùng 1 số đạo đức thông thường khác. Cái “đạo” như thế, khó mà từ bản thân sinh ra được năng lực siêu việt, khó có thể đưa cả nhà kể cả gà, chó đến chỗ trời xanh mây trắng được.

“ĐẠO ĐỨC KINH” của Lão Tử, đã giải thích về đạo tạm gần gũi với tổng cơ quan vũ trụ như sau:

“Có vật hỗn độn thành ra, sanh trước trời đất, vắng lặng không hư hoại, đứng một mình mà chẳng mõi, đi vòng khắp mà chẳng nguy, có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm gọi là Đạo” lại nói, “Đạo sanh một, một sanh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.”

Lối giải thích này quá hư vô mờ ảo, khiến người nghe không sao hiểu nổi.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ Huệ Năng giải thích rõ ràng: “Tà chính tận đã khước, Bồ đề tính uyển thiên” (Bỏ hết cả cái tà lẫn cái chính, Tánh bồ đề hiện ra rõ ràng.), rất nhẹ nhàng dễ hiểu, người ngoài có thể nắm bắt được. Đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni còn nói rõ hơn một bước: Tất cả chúng sinh trong sơn hà đại địa, đều có phước đức trí tuệ của Như Lai, do vì vọng tưởng trói buôc, nên không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng, thì vô sư trí, các năng lực lớn sẽ có đầy đủ, mặc sức cho mình dùng.” Đại địa chúng sinh, giai cụ hữu Như Lai, trí huệ phước đức. Chỉ nhân vọng tưởng triền trước, bất năng chứng đắc. Nhược diệt vọng tưởng, vô sư trí, chúng đại năng, nhận dụng tự nhủ)

Chỉ mấy câu ngăn gọn trên, đủ giúp chúng ta biết được diệu pháp, để mở ra tổng cơ quan áo bí của vũ trụ. Đó là, chúng ta dùng ngay cái tâm loạn này, làm cho hết tạp niệm, ta sẽ được trí năng vô cùng, cũng vĩ đại giống như trí của Như Lai.

Vì sao gọi là Như Lai? Kinh nói: Tâm có thể chuyển được vật, liên giống với Như Lai (Tâm năng chuyển vật, tức đồng Như Lai). Vậy thì, nếu ta có thể lấy cát chế thành bánh mì, lấy nước biển làm ra vàng, tuy trên lý luận thông qua, nhưng trên thực tế biện pháp thực hiện chưa có, gọi là “lý sự vô ngại”. Ngày nào đó, nếu trở thành hiện thực, là phước lớn cho chúng sinh, đó gọi là “sự sự vô ngại”. Bất cứ người nào đều cũng có thể làm cho tâm linh mình vô niệm, khôi phục lại tình trạng chính thường của tâm, liền có thể mở ra được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ, thành vị thánh nhân toàn tri toàn năng vậy. Lúc ấy, việc vô hiệu hóa tất cả những vũ khí hạt nhân nguy hiểm, biến hóa những biển cát vàng sa mạc thành ra nước ngọt, không gì là khó khăn, chỉ trong một niệm của người này là có thể thành rồi, vì rằng nguồn gốc của vũ trụ vạn hữu đều ở trong tâm linh của họ. Những vị đó đã thao túng được tổng cơ quan của vũ trụ, hoàn toàn không có gì khó khăn.

Nói đến việc vô hiệu hóa vũ khí nguy hiểm, có người sẽ mỉm cười chế giễu, vì làm sao những vũ khí rất hiện đại tối tân này có thể mất công hiệu được? Điều này không phải là không có chứng cứ. Theo các tài liệu mới nhất được phổ biến, thì ngay khi đĩa bay xuất hiện trên không phận nơi nào, thì cả thành phố lớn đó đều bị mất điện, khắp chỗ tối om. Loại máy móc bí mật gì trong dĩa bay có khả năng làm cho toàn bộ hệ thống điện, điện thoại, đèn điện, cơ xưởng máy móc khổng lồ… đều vô hiệu hóa? Chắc là chưa ai tìm ra được câu trả lời chính xác.

Nếu bạn chưa tin là có một năng lực kỳ bí, có thể gây ra tác dụng làm mất công hiệu tất cả vũ khí, thì xin mời bạn đọc tư liệu sau đây, nói về việc làm mất tác dụng của các loại cơ giới, bạn sẽ tin lời tôi nói là sự thật:

“Tin điện riêng từ Thượng Hải ngày 1/9/1987 – lúc 8g tối ngày 27/8/1987 vừa qua, có một vật có thể bay không xác định (UFO) xuất hiện trên bầu trời Thượng Hải, tỏa ánh sáng rực rỡ, bay ngang rồi mất. Rất nhiều người đang đi dạo mát ngoài đường đã thấy rõ hiện tượng lạ lùng trên.

Một người ở phía đông Hoàng Phổ nói: Vào lúc 7g56 tối, trên vùng trời con kênh Bạch Liên, bổng xuất hiện một vật bay hình xoáy trôn ốc, nhìn ra bằng trái banh da, phát ra ánh sáng chớp nhoáng chói mắt, rồi xoay tròn hướng về phía đông nam bay đi.

Dân chúng vùng huyện Nam Hối cho biết, lúc 7g55 tối có một vật thê bay không xác định (UFO) xuất hiện trên không phận huyện này, quan sát bằng mắt thường nó ở độ cao khoảng 4-5000m, vật này có hình bầu dục, phía đuôi phát ra những tia lửa màu vàng, vòng sáng lớn như chậu rửa mặt. Cùng lúc đó, những ngư dân ở quần đảo Thặng Tứ tỉnh Triết Giang nhìn thấy nó lúc 7g57. Vật này có phần lớn hơn ngôi sao Khải Minh, có 3 vòng ánh sáng trắng nhạt, hình xoáy trôn ốc, bay đi xoay tít, tốc độ rất nhanh. Khi nó bay ngang không phận hải đảo thì tất cả đèn điện đều tắt, lúc qua khỏi, đèn điện mới cháy sáng trở lại, thời gian đèn tắt khoảng một phút. Nhân viên điện lực khẳng định ở thời điểm đó, không hề có trục trặc về việc phát điện.

Có tin ở Hàng Châu cũng thấy xuất hiện vật bay tương tự.”

Trong tin tức trên, có một điểm hết sức cần lưu ý là, tại sao việc phát điện của điện lực không bị sự cố, mà tất cả đèn điện trên đảo đều tắt, trong đó hẳn có điều gì bí ẩn, chúng ta sẽ bàn sau.

Nói rằng tâm có thể chuyển được vật, thoạt nghe có vẻ hư huyền, nhưng nghiên cứu kỹ những nhật ký của nhiều nhà khoa học, những phát minh của họ đều từ linh cảm trong tâm linh mà ra. Trong lúc họ cảm thấy đến chỗ sơn cùng thủy tận, thì ngay lúc ấy, trong tâm linh ra một thứ linh cảm, liền xoay chuyển phát hiện ra những cái mới lạ. Nếu lúc đó, không có hỗ trợ của linh cảm, thì làm gì ngày nay có những khối sắt bay trên bầu trời hay nổi trên mặt biển.

Hiện nay, sở dĩ chúng ta chưa có thể biến cải vũ trụ hoàn toàn theo ý muốn, là chỉ cho tâm linh chúng ta bị tạp niệm che lấp, không thể phát sáng, chưa có cách gì làm chủ được tâm niệm cả. Do đó, cái tổng kho trí năng của vũ trụ bị nhốt chặt vào trong căn nhà tối tăm (tức thân máu thịt), tự mang thêm một chiếc khóa lớn.

Thực ra, tâm linh chúng ta có thể sáng tạo muôn vật, chỉ vì hiện nay tâm lực chúng ta bị tán loạn, nên những sáng tạo ra chỉ là cái bóng của muôn vật. Nếu khi nào tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, chỉ trong một niệm ta có thể làm nên muôn vật, chẳng phí chút công sức nào!

Tâm linh vô niệm chia thành tính tạm thời và tính vĩnh cửu. Theo Kinh Lăng Nghiêm phân ra như sau:

1. ĐẠI ĐỊNH: Tâm ở trong trạng thái vô niệm từ nửa giờ đến 1 giờ.

2. DIỆU ĐỊNH: Tâm ở trong trạng thái vô niệm trên 1 giờ, nhưng còn khởi niệm trở lại.

3. VIÊN ĐỊNH: Tâm vĩnh viễn ở trạng thái vô niệm (chính thường) độ sâu và rộng của nó vô lượng vô biên, khởi tâm động niệm tất cả đều là linh cảm.

Khi chúng ta chứng được Viên Định, tổng cơ quan áo bí của vũ trụ vạn hữu nhất định sẽ được khai mở hoàn toàn.

PHƯƠNG PHÁP TU HỌC

Chúng ta làm thế nào để mở được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ, làm theo ý muốn, vận dụng được tất cả trí năng và lực năng to lớn không gì sánh nổi này?

Trong tâm ta lúc nào cũng lăng xăng những tạp niệm, nên tổng cơ quan ấy bị che lấp đi, phương pháp tốt nhất là phải tiêu diệt những tạp niệm tự ngôn tự ngữ đó, đình chỉ các tâm vọng cuông loạn này, bằng cách thu hút toàn bộn những tạp niệm trong tâ, rồi lần lượt tiêu diệt nó. Còn theo phương pháp cổ xưa, dùng cách quét trừ tạp niệm, là phjam vào sai lầm về kỹ thuật!

Điều này, các bạn có thể lấy làm lạ, tạp niệm đã làm sao có thể hấp thu nó được? Chính vì thế, nên trước giờ, biết bao người thực hiện công phu tiêu diệt tạp niệm này, đã không biết cách đi vào trọng tâm, chỉ lẩn quẩn bên ngoài tâm, nên tu mấy mươi năm rốt ráo không thành công.

Nay chúng tôi xin giới thiệu một phương pháp cụ thể, chính xác như sau:

Người mới bắt đầu, tốt nhất là dùng tư thế tĩnh tọa của Phật giáo (kiết hay bán già) rồi dùng phương tiện làm cho tâm an định. Đối với những người đã có công phu khá cao, không nhất thiết phải ngồi, mà trong bốn oai nghi đi, đứng nằm, ngồi đều có thể dụng công được.

Tư thế ngồi đầu phải ngay, vai phải bằng, thân phải thẳng, ngồi kiết già hay bán già cũng được, miễn có thể ngồi lâu một cách thoải mái thôi. Không mặc quần áo chật chội, gò bó thân thể. Không đeo đồng hồ, mắt kính dây chuyền cổ để thân tâm không còn bị câu thúc thì mới thuận lợi cho sự dụng công.

Hai mắt nhắm kín nhưng không quá khép chặt, thích hợp tự nhiên là được. Có truyền thuyết cho rằng nhắm mắt dễ hôn trầm, mở mắt dễ tán loạn, nên đề nghị chọn trung đạo là hai mắt hơi hé mở, nhìn xuống chót, mũi hướng nhìn vào trong tâm. Đây là phương pháp dạy SAI LẦM, vì một là mất sự thích hợp tự nhiên, hai là dễ bị phân tâm.

a) PHÉP NHIẾP NIỆM (Nhiếp niệm pháp):

Gom muôn niệm thành một niệm

Nếu là tín đồ Phật giáo, bạn có thể mặc niệm trong tâm “Quan thế âm bồ tát” hoặc danh hiệu Phật, Bồ Tát khác. Tốt hơn hết là không nên niệm quá 4 chữ, mỗi chữ từ một đến hai giây đồng hồ. Trong lúc chúng ta mặc niệm danh hiệu Phật để thay thế cái tự ngôn tự ngữ này gom lại. Đồng thời, chú ý xem cái “năng niệm” hay là “điểm niệm Phật” (chỗ phát ra câu niệm) này ở chỗ nào? Sức chú ý và cái năn niệm phải liên tục, rõ, tiếp xúc nhau, gọi là định huệ cân bằng. Không lâu, sẽ được “ý giải tâm khai” (tâm được mở, ý được cởi trói). Nếu như không phát hiện được cái năng niệm, thì cũng đừng quá quan tâm, vẫn cứ theo phương pháp này tu tập, dùng danh hiệu Phật rửa sạch tâm linh, chỉ một thời gian sau, tâm bớt loạn động, sẽ thấy được chỗ phát khởi ra cái năng niệm liền.

Lúc mới tập, tạp niệm như gió dữ mưa cuồng, mây mù giăng phủ trong tâm. Sau khi trải qua thời gian mặc niệm danh hiệu Phật, siêng năng rửa sạch cấu uế, khoảng một tháng, những tạp niệm này sẽ giống như khói nhẹ, sương mỏng, bầu trời tâm sáng tỏa dần ra.

Trong lúc mặc niệm bốn chữ Quán m Bồ Tát, không được nhớ tưởng sự vĩ đại (hay nhìn tướng) của Quán m, chỉ giữ gìn sự mặc niệm không gián đoạn, liên tục gột rửa, dù trong tâm linh còn lại rất nhiều tạp niệm, cũng mỗi ngày thấy bớt đi.

Khi mặc niệm, không nên quá nhanh, tốc đọo mỗi chữ chừng 2 giây là vừa, nếu niệm nhanh quá thì lực hấp dẫn sẽ không mạnh không đủ sức hấp thụ tạp niệm. Mỗi lần, mặc niệm không quá 30 phút, tổng cộng các lần trong ngày không quá 3 giờ, vì sợ thân thể chưa thích nghi được, nhưng cũng không ít hơn 2 giờ. Không cần câu chấp thời gian, không gian, ở trên xe, ở trong tàu, phòng làm việc đều có thể dụng công, đồng thời phải chú ý đến phản ứng của thân tâm. Chỉ cần không mau không chậm, có làm có nghĩ, phải giữ tính thường xuyên liên tục, đừng bỏ cách quảng, thế nào cũng sẽ thành công.

b) PHÉP HÓA NIỆM (Hóa niệm pháp)

Hóa một niệm thành vô niệm

Những người áp dụng phép nhiếp niệm qua một thời gian nào đó, mau chậm khác nhau, trong tâm không muốn niệm Phật nữa, hoặc khi niệm thấy vất vả, thì có thể chuyển sang phép hóa niệm

Phép nhiếp niệm đã dùng bốn chữ Quan m Bồ Tát để hấp thu hết tự ngôn tự ngữ, thống nhất lại, tẩy rửa sạch nó, biến những tạp niệm lăng xăng thành ra một niệm. Nhưng tâm linh như tròng mắt, không thể chấp nhận một thứ gì khác trong đó, dù là vàng hay ngọc quí, cũng phải loại bỏ, nó mới an ổn. Cho nên, một niệm Quan m Bồ Tát tuy rất quý, nhưng cũng phải bỏ, mới vào được cảnh giới tròn vắng vi diệu, nhà Phật gọi là chứng Niết Bàn (Nirvana). Một số người hiểu lầm, cho việc chứng Niết bàn là phải sau khi chết đi. Thực ra, con người bình thường khi chết, chỉ chấm dứt những họat động của thân thể, nhưng tâm linh vẫn còn những vọng tưởng lăng xăng, không cách gì thoát ra khỏi sự trói buộc của vọng niệm. Có phải khi thân này chết, là chấm dứt nghiệp lực, là vô minh, vì nó mà chúng ta bị trôi lăn trong biển khổ. Do sức mạnh của nghiệp lực phát sinh từ trong tâm còn vọng tưởng, lôi chúng ta đi đầu thai, không thể nào mình tự chủ được, cứ theo hướng của nghiệp lực đưa ta vào trong tử cung của bà mẹ, đủ gần 10 tháng, ra khỏi bụng mẹ, tiếp tục đời sống thứ kết tiếp.

Có thể, quí vị sẽ đặt câu hỏi, trong tâm linh có những tạp niệm, só với những tế bào sinh bệnh ung thư trong thân thể, cái nào nghiêm trọng hơn?

Theo cách nhìn thông thường, tâm linh có tạp niệm không quan hệ gì, là trạng thái bình thường. Chúng ta, chưa lìa khỏi bụng mẹ, trong tâm đã có tạp niệm rồi, cho tới ngày này nó chưa gián đoạn bao giờ, thế mà có thấy tai hại gì đâu. Còn chẳng may, tế bào bị ung thư ở trong thân thể thì không những bản thân sợ hãi mà người xung quanh cũng buồn sợ theo. Hậu quả tai hại, lầm lẫn đó là do chúng ta có những thác giác tạo thành từ khi mới ra đời cho đến giờ, không biết phân biệt chơn giả, nặng nhẹ lộn lạo.

Thực ra, cái Ta chân thật, chính là cái Tâm Linh mà mắt thịt không thấy được, còn tấm thân bảy thước này chỉ là thứ Công Cụ của ta. Trong vòng 200 năm, một con người tối thiểu có được ba cái thân thể. Trong chuỗi dài dòng sanh mạng của chúng ta, nó chỉ như một bọt nước nhỏ bé, quá nhỏ đến độ không đáng kể. Thứ mê muội này của loài người xưa nay chẳng thể năm ba câu đủ nói toạc ra được, bởi thác giác của loài người có gốc rễ quá sâu, chứa đựng mê làm quá lớn, khó mà khai ngộ được!

Nhưng trong thiên hạ, không hiếm gì những việc lạ. Trên thế giới đã không ít người có sự kinh nghiệm, hiểu biết rõ về cái chết, thể hội được đạo lý trên. Quí vị nếu cần nghiên cứu kỹ thêm, xin mời đọc quyển Life After Life (Thế Giới Sau Khi Chết) của Tiến sĩ Raymond A Moody. Người viết hết sức khách quan, cứ đúng sự thực kể lại. Vài hôm trước đây, có một thanh niên đến bảo tôi: “Nhiều người nhận định về bản thân rất thiếu chính xác”. Cậu này cũng có điểm tương tự với lời phát biểu của một thanh niên khác, vài năm trước đây tại Phật Học Xã Trung Hoa, thành phố Sydney ở Úc Châu: “Phật giáo chắc chắn có những phương pháp tốt nhưng đã bị thất truyền, rốt ráo chẳng phải chỉ như thế này mà thôi!”. Đây quả thật là hậu sinh khả úy!

Thân thể mang bệnh hiểm nghèo, nếu ở giai đoạn hiện tại mà xem thì thật là bất hạnh lớn, nhưng đứng ở giác độ cả dòng sinh mạng mà xem, thì cũng chưa phải là kết thúc vĩnh viễn. Hơn nữa, thân có bệnh dữ không phải vô cớ mà ra. Nguồn gốc sâu xa của nó là ở trong tâm linh, vì trong đó đã có chứa những chủng tử bệnh hoạn, nên xuất hiện ra thân thể mà thôi. Nếu như tâm linh khỏe mạnh, không còn tạp niệm, thì tất cả những bệnh lạ lùng, nan y trong cơ thể đều có thể trị lành được.

Muốn trừ hết tạp niệm trong tâm, thì điều kiện tối quan trọng là dùng một trong các cách sau:

1. Thứ Nhất: Phải nhớ chắc thân thể của chúng ta do máu thịt làm ra, trong thân này phải tuyệt đối tĩnh chỉ, vì nó toàn là vật chất cấu thành. Trong thân không thể có cái tự ngôn tự ngữ bất trị, cũng không thể sinh ra những hoạt động tinh thần cao cấp của con người được.

Nếu chúng ta thật thông suốt (và nhớ kỹ) đạo lý này, sẽ giúp cho việc tiêu trừ tạp niệm dễ dàng hơn. Ngay khi chúng ta nhắm mắt, chú ý vào bên trong thân, phát hiện cái thân máu thịt này lẽ ra phải hoàn toàn yên lặng, sao lại có những tự ngôn tự ngữ, liền cảm thấy kỳ quái. Những cái có đó chẳng kể là gì, đều là cái không nên có. Hiện nay rõ ràng có cái đó, thật chẳng thể nghĩ bàn nổi. trong lúc chúng ta thấy những tạp niệm này, liền sinh ra thú vị, ngay đó ta vào trạng thái vô niệm, dù vô niệm này chỉ có thể giữ được chừng một, hai phút cũng hết sức khó khăn đáng quí. Ta lại phải nối tiếp gắng sức để nối những điểm sao sáng vô niệm. Trong suốt bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi, tâm linh lặng trong như nước đứng, cho dù có khởi tâm động niệm, cũng đều là trong Định mà hành động. Khi ấy, bạn đã mở ra được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ rồi đó!

2. Thứ hai: Nhắm mắt lại, chú ý trong thân thể, xem những tạp niệm này nó rối ren những cái gì? Nó chửi mắng người khác, cứ theo nó chửi mắng, nó hát ca thì theo nó hát ca. Chỉ cần theo nó hai ba câu, thì tâm linh liền yên tỉnh lại, không còn lộn xộn nữa.

3. Thứ ba: Phải nhớ kỹ rằng, thân thể làm thành bằng máu thịt này, giống như khúc cây, cục đá, trong đó tĩnh lặng một cách tuyệt đối, không có khả năng bất cứ một cái gì có thể khuấy động.

Nhắm hai mắt lại, xem hiện giờ ở trong đó có cái gì? Như phát hiện ra có cái gì đó, liền cảm thấy kỳ quái, sao trong thân thể lại có những thứ này? Trong lúc chúng ta cảm thấy được những cái lẽ ra không có, mà lại có, bất ngờ sinh ra thú vị, tạp niệm tự động tiêu diệt đi.

4. Thứ tư: Nếu phát hiện tạp niệm trong tâm linh giống như khói nhạt, sương mỏng vẫn vơ chưa đi hết, ba phương pháp trước chưa thu được hiệu quả, thì sửa đổi lại dùng pháp nhiếp niệm: mặc niệm bốn chữ Quan m Bồ Tát, thu hút gột rửa nó, rồi sau sẽ dùng pháp hóa niệm.

5. Thứ năm: Nếu tâm linh không còn tạp niệm, chân thường hiện ra, thì bất cứ phương pháp nào cũng phải ngưng sử dụng, để tâm linh nghỉ ngơi.

Trong thời gian này, không cần mong mỏi được vô niệm lâu, vì công phu chưa đủ đạo đức, trong chốc lát tạp niệm lại nổi lên. Đừng khởi tâm chờ được vô niệm cứ gia công cày cấy tiếp, nhất định sẽ bội thu.

Thời gian cũng chính là trí năng, một phần cày bừa là một phần thu hoạch. Dây kéo gỗ phải đứt, nước chảy đá mòn. Phương pháp chính xác, thời gian mang tính quan trọng hàng đầu. Đây là cơ hội ngàn năm hoa nở, các vị nên tự mình thực hành cho tốt.

Có người bảo: “Để tâm linh hoàn toàn rỗng không mất hết những gì giữ gìn nó, tà ma sẽ thừa cơ mà vào”. Đây là luận điệu sai lầm hết sức. Tạp niệm khiến cho tâm linh quay cuồng, nay làm cho tâm linh “tỉnh tỉnh, tịch tịch, tịch tịch tỉnh tỉnh” (tỉnh tỉnh lặng lặng, lặng lặng tỉnh tỉnh), trong suốt như nước, tròn đầy như thái hư, thành một vị thánh nhân được muôn vị thần chầu lạy, còn sợ tà ma nổi gì? Tà ma chỉ áo thể, thừa “Loạn” mà nhập để phá tâm linh, vô niệm tức là “Định” tà mà thấy định chỉ còn cách ba chân bốn cẳng chạy trốn, không dám tới gần là khác.

Trong thiên TIÊU DAO DU của Trang Tử, có ghi đoạn ông Hồ Tử và vị tiên tri như thần, có thể mượn để làm chứng.

Vị tiên tri thần thông quảng đại này, có thể thấy biết được tâm niệm đang hoạt động của mỗi người, trong đó hiện ra những gì, đoán biết kiết hung họa phước của một đời người đó, chưa từng đoán sai lần nào. Học trò của Hồ Tử liền mời vị tiên tri này đến chỗ ông Hồ Tử. Công phu tu hành của ông đã đến chỗ tâm linh vô niệm, đồng với thái hư. Vị tiên tri như thần xem đi xem lại, rất lâu, nhưng không có chỗ dựa để phán đoán, nên chịu thua cuộc bỏ đi mất.

Khi trong tâm không còn tạp niệm, không đúng như người ta thường tưởng tượng là tà ma thừa cơ xâm nhập. Thi hào Tô Đông Pha đã từng giải thích về vô niệm như sau:

“Vô nhứt vật trung, vô tận tạng.

Hữu hoa, hữu nguyệt, hữu lâu đài”

(Trong không có vật gì mà chứa đựng vô tận, có hoa có trăng, có lâu đài)

Trong tâm nếu đầy ắp tạp niệm, quỷ trâu thần rắn đồng loạt sổ chuồng quậy phá. Khi tâm linh vô niệm, trí năng cuồn cuộn tuôn ra. Tâm linh là vũ trụ nhỏ, nếu không sáng thì phải tối. Khi đen tối giãm được một phần, cái sáng tỏ tăng thêm một phần, chừng nào tối đen mất hết, vũ trụ liền phóng ra ánh sáng lớn lao, soi thấu mười phương.

TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC CÙNG NGUỒN GỐC

Sách này nói về lĩnh vực khoa học, tại sao lại chuyển sang lĩnh vực tôn giáo?

Sự thực, cứu cánh cao nhất của tôn giáo, và khoa học không sai khác nhau. Tôn giáo chú trọng về tâm, khoa học chú trọng về vật, mà tâm và vật vốn cùng nguồn gốc. Nhà bác học Einstein đặt khoa học và tôn giáo ngang nhau. Ông nói:

“Khoa học mà không tôn giáo là người mù, tôn giáo mà không khoa học là người điếc”.

Có người xin ông dùng lối giải thích đơn giản để nói về thuyết tương đối, ông bảo: “Khi bạn ngồi bên cô gái tuyệt đẹp thì thời gian một năm chỉ lâu bằng 15 phút, còn khi ngồi trong phòng gần lò lửa hừng hực thì 15 phút lâu bằng một năm. Đó là thuyết tương đối”.

Tương đối luận có chia ra hai nghĩa rộng và hẹp, nhưng đều giải thích sự áo bí của không gian trong, không gian ngoài của vũ trụ và trong vật chất. Chiếu theo câu nói trên của Einstein cắt nghĩa tương đối luận, thì câu này hoàn toàn thuộc về tác dụng tâm lý, là thứ thuộc về vũ trụ cảm giác.

Tâm lực và vật lực, chúng tuy một mà hai, tuy hai mà là một năng lực, có lúc rất khó phân biệt. Sau đây, xin mời quí vị đọc một tư liệu trong Nhật báo Tinh Đảo ngày 14/5/1987 để nhận biết rõ hơn:

“Có một nhà ma thuật người Ba Lan đã chỉ dùng tâm lý mà có thể làm cho người hay vật bay lên trên không một cách dễ dàng. Nhóm khoa học gian Liên Xô đang trực tiếp nghiên cứu ông ta tại sao có được thứ năng lực siêu tự nhiên này?”

Tiến sĩ Trực n – Bá Liệp Tư Cơ (tên phiên âm) một người trong nhóm đó cho biết, nhà ma thuật có biểu “YOGI vĩ đại” này, khiến chúng tôi chú ý từ tháng 11 năm rồi, trong buổi tiếp tân quốc tế tại Warsaw (Varsava thủ đô Ba Lan), trước đám đông, đã biểu diễn màn đưa một nhà ngoại giao Liên Xô, từ mặt đất lên cao 6 yards (# 5.712m), vì vị này không tin vào năng lực kinh người của nhà ma thuật.

Hai tuần lễ sau, nhà ma thuật này được mời tới Moskva ( thủ đô Liên Xô) để tiếp tục nghiên cứu, Tiến Sĩ Bá cho biết: Được chứng kiến tận mắt, chúng tôi đều phải thừa nhận ông ta (nhà ma thuật) là một kỳ nhân, có thể đưa người ta bay lên trên không. Anh bạn đồng nghiệp của tôi cho biết, trong căn phòng thí nghiệm, đã thấy ông ta làm cho đồ vật bay lên không trung bằng tư tưởng.”

Nhóm khoa học gia Liên Xô đang tìm hiểu xem vì sao ông ta có năng lực như thế, năng lực này chỉ duy nhất ông có hay có thể dạy cho người khác tập luyện được?

Nhà ma thuật này tên thật là Tây Tiết Lạc – Sử Gia Nã (tên dịch), từ cuối năm 1960 đã bắt đầu biểu thứ tuyệt kỹ kinh người này, khắp nơi ở Ba Lan. Ông biểu diễn rất nhiều trò ảo thuật, nhưng chấn động và hấp dẫn nhất vẫn là màn dùng ý tưởng làm cho người và vật bay lên không. “Thông thưởng, ông bảo một người vất kỳ ai đó trong đám đông, lên sân khấu, kế tiếp ông ta liền nhập vào trạng thái thiền định, rồi đưa bàn tay úp lên đầu người này, từ từ nâng cả thân người đó bay lên, tùy sức nặng của người đó mà ông ta có thể nâng lên cao mấy thước hay mấy tấc.”

Theo tôi được biết, màn biểu diễn hút người hay vật bay lên này kéo dài khoảng hai phút, mà ông ta không hề mệt mỏi!

Trước khi được mời trình diễn ở Moskva, nhà đương cục Liên Xô từ chối việc chứng thực hay phủ nhận khả năng kỳ lạ của. Cho đến khi ông ta đến, câu trả lời đã rõ ràng. Các nhà khoa học Liên Xô có ý muốn phát hiện qua thân ông có cái gì đó đặc biệt, để vận dụng vào những hoạt động quân sự bí mật.

Liên Xô là nước đầu tiên chú ý nghiên cứu về phương diện tâm lực học (sức mạnh tâm lý) trên thế giới.

Tiến sĩ Bá kết luận: “Đối với loại lực lượng thần kỳ này, chúng ta đương nhiên không dám coi thường rồi”

Nhà ma thuật có thể đưa một người từ mặt đất lên đến 6 yards (5.712m) mà không dùng đến máy móc, không tốn xăng dầu, chỉ nhờ vào sức mạnh của bản tâm mà làm được việc ấy. Điều đó chứng minh rõ ràng là sức mạnh của tâm và sức mạnh của vật là như nhau vậy. Tuy thế, thứ biểu diễn này chỉ là “trò trẻ con”. Nếu nghiên cứu sâu thêm và phát triển sức vận dụng rộng ra, có thể đem được con người hay đồ vật từ trái đất lên tới Hải Vương tinh là đàng khác!

Mục đích của Phật giáo là chứng được Chân Như, tín đồ của Đạo giáo (Lão) thì mong Đắc Đạo, các tôn giáo ở phương Tây thì cầu xin được Về Với Chúa, còn các nhà khoa học thì đang chuẩn bị mở ra tổng cơ quan của vũ trụ. Chân như, Đạo, Chúa, Tổng cơ quan…tên gọi tuy khác, bản thể không hai, đều là chỉ cho nguồn gốc của vũ trụ vạn hữu. Trên mặt lý luận, từ phương tiện khoa học để tìm tòi, nếu có phương pháp chính xác, thì với thời gian của vũ trụ. Còn theo cách làm của tôn giáo, nếu như không áp dụng sai kỹ thuật, cũng đạt được mục đích, kết quả tương tự khoa học.

Tổng cơ quan chính là chỗ hội tụ của trí năng và lực năng của vũ trụ vạn hữu. Bất cứ tâm linh người nào đều đầy đủ hai thứ năng lực ấy, chỉ có điều là chưa đủ sức khai phát tâm linh để có thể khai quật cái kho tàng vô tận để dùng. Phương pháp đi tìm tổng cơ quan của khoa học, theo hương vật chất phăng tìm, theo sự tính toán của họ, có thể sau 100 năm nữa, là đạt ý nguyện.nhưng với tình trạng thế giới hiện nay, đầy rẫy những thứ vũ khí giết người ngày càng hiện đại thêm, sự biến đổi trên trường quốc tế không thể nào lường trước được, cái thời gian 100 năm để có thể cứu vãn họa kiếp tiêu diệt loài người này, vẫn còn là một sự hoài nghi của con người.

Tôi cổ vũ mọi người tham gia mở ta tổng cơ quan áo bí của vũ trụ, là để tự cứu mình và để cứu người.

Chúng ta tuy thiếu thốn những tư liệu và tri thức vật chất như các nhà khoa học, nhưng ta vẫn có thể theo con đường tâm linh để nghiên cứu, thắp lên ngọn đuốc tỏa sáng dẫn đầu cho việc mở ra tổng kho trí năng của vũ trụ, thu hoạch và vận dụng được trí năng và lực năng to lớn của vũ trụ vạn hữu.

TẨU HỎA NHẬP MA

Trên đây đã giới thiệu phương pháp làm cho tâm linh được trong sạch, là phép tu Định của Phật giáo. Làm cho tâm linh được an định rồi, chúng ta sẽ phát huy được trí năng nằm sâu trong tâm linh đó, thu hoạch được bản lĩnh Viên Thông.

Định nghĩa của Viễn Thông là không cái nào là chẳng biết, không cái gì làm chẳng được, như biến đổi vật A thành vật B, vật B thành vật C. Nếu chỉ lý luận thông suốt mà chưa làm được, chưa thể gọi là viên thông.

Viên thông là sản phẩm của sức định, cho nên nói: “Định lâu sinh huệ, huệ sinh thì phát được thông”. Nếu như tâm bạn rối bời, ngồi đứng chẳng yên, những tích lũy của hiểu biết xưa nay cũng bị hạ chế bớt. Thế nên, chúng ta phải nhận thức thật đúng mức tầm quan trọng của việc tu Định, vô cùng cần thiết đối với mỗi cá nhân, gia đình, quốc gia, xã hội, cho đến toàn cả thế giới. Vấn đề là ở chỗ, ai có thể thể hiểu rõ và thực hành được điều đó.

Lại cũng người nói, muốn tu Định cần phải có cao nhân dạy bảo nếu không, ắt là bị tẩu hỏa nhập ma, lợi bất cập hại. Vấn đề này, thường nghe nói đến rất nhiều dường như là chuyện có thật trong tôn giáo vậy.

Nhưng tôi đã ở trong Phật giáo mấy chục năm rồi, đã đi qua mười mấy nước trên thế giới, chưa hề gặp trường hợp tẩu hỏa nhập ma nào cả! Những tư liệu tẩu hỏa nhập ma này chỉ có trong các tiểu thuyết rẽ tiền và những vở kịch hạ cấp. Những kẻ đó, vì muốn hấp dẫn người đọc, người xem nên chẳng ngại dựng lên sự kiện trên, thêm mắm dặm muối vào để thêm phần rùng rợn vậy thôi. Chẳng ngờ, những chuyện vô căn cứ này, giống như loại “bệnh nám đen rồi chết” ở thế kỷ 17 (ở châu u), lan tràn thật mau chóng, xâm nhập vào lòng người. Quả vô cùng đáng tiếc!

Mấy năm trước đây, tôi hoằng pháp ở Thái Lan có một vị cư sĩ già học Phật đã nhiều năm, kể cho tôi nghe về quá trình tu Định của ông. Qua thời gian tọa thiền không bao lâu, thân thể ông bị “tự do dao động”, khiến ông vô cùng hoảng sợ, cho là bị rơi vào cảnh ma, không dám tiếp tục công phu nữa, đổi sang tu niệm Phật.

Trường hợp trên, gọi là “Bản Năng Hoạt Động” của thân thể. Bình thường, chúng ta sống trong cảnh sinh hoạt rối ren bận rộn, tâm có chỗ dính mắc, nên bản năng hoạt động không thể phát ra được. Trong khi tọa thiền, liền buông bỏ tất cả, bản năng hoạt động có dịp bung ra. Đây là một thứ hoạt động có ích lợi cho thân tâm, không dính dáng gì với ma cảnh cả. Có người thân thể mang bệnh nặng, thầy thuốc bó tay trị không được, nhờ vào bản năng hoạt động này mà hết bệnh. Rất nhiều trường hợp như thế xảy ra. Đã có nhiều người xem quyển “Nhân Thị Tử tĩnh tọa pháp” (Phép tọa thiền Yinshuru), tách giả là cư sĩ Tưởng Duy Kiều đã nêu kinh nghiệm quí báu của bản thân, đã trị dứt hẳn căn bệnh phối lâu năm của ông mang từ lúc trẻ.

Nhưng mục đích của chúng ta không phải chỉ đẻ trị thân bệnh, mà nó có giá trị muôn vạn lần nhiều hơn, là làm sao biến đổi thế giới đang bị nguy cơ bốn bên bao phủ này thành ra “Vườn địa đàng” tốt đẹp, giàu có, sung sướng.

Những hiểu biết này cũng như các phần kế tiếp đều rất cần cho người tu Định, vì chắc là người tu sẽ gặp nó trong quá trình công phu.

HUYỄN GIÁC

Người tu Định có lúc có thể thấy những huyễn giác, dù là nhắm mắt hay mở mắt, như: cả bầu trời xung quanh sáng rực, Tiên Phật xuất hiện hay nghe nhạc trời trổi trên không, mùi thơm lạ xông khắp đất, hễ những gì chẳng thể có lúc ấy mà lại có (bất đương hữu nhi hữu), đều là Huyễn Giác.

Làm sao để phân biệt cái có thực và huyễn giác? Cái gì mà từ 2 người trở lên, cùng lúc, cùng nơi, cùng thấy sự vật như nhau, thì đó là chân thực.

Nói đến huyễn giác, tôi xin đặc biệt giới thiệu một sự thực, để quí vị tham khảo:

“Khoảng 40 năm trước, tại thành phố Triều An tỉnh Quảng Đông (TQ) có vị chủ tiệm bách hóa (xin giấu tên), mới học tu Phật được vài tháng, liền thấy cảnh giới lạ. Ông ta được “Phật tổ” hiện đến cho biết vào ngày A tháng B, ma vương sẽ sai người họ Trương đến làm hại ông. Ông họ Trương này là khách hàng trong nhà, rồi lánh mặt đi. Đúng ngày giờ đó, quả nhiên ông Trương đến tiệm, mọi người trong nhà đối xử với ông hết sức lạnh nhạt. Thực ra, họ Trương đến với mục đích bàn bạc việc hùn hạp làm ăn, nhưng thấy thái độ mọi người trong nhà đối xử mình như thế rất lấy làm lạ, nên không còn nói chuyện làm ăn gì nữa, buồn bực từ giả ra về.

Qua mấy hôm sau, “Phật tổ” lại mách bảo ma vương sai ông họ Lý đến làm hại ông, người họ Lý sẽ mang theo một cái bao bằng da, trong đó có một khẩu súng lục, hiện giờ đã đến chỗ ga xe lửa X. Ông chủ tiệp họ Ngô liền lập tức chạy đến nhà người bạn trốn tránh. Không bao lâu, quả nhiên ông họ Lý mang theo cái bao da đi vào, sự thật trong bao đó chẳng có súng ống gì cả. Thế mà, người nhà chủ tiệm tỏ thái độ hết sức cảnh giác với ông Lý. Thực ra, ông họ Lý cũng đến bàn chuyện làm ăn mua bán, thấy thái độ khác thường của người trong tiệm, liền cấp tốc rút lui

Từ đó trở đi, cảnh giới càng xảy ra luôn. “Phật tổ” thường dặn dò có người này người kia tới làm hại, khiến ông Ngô lo sợ ăn ngủ không yên, hay trốn ẩn trong nhà này, mai trốn ẩn nhà khác. Người lối xóm cho là ông bị bệnh thần kinh, nhưng trừ việc trên ra, hết thảy đều vẫn bình thường. Về sau, người nhà ông hết sức thắc mắc lo lắng việc này, nhưng không biết giải quyết ra sao.

Thời gian sau, ông chủ tiệm gặp được một thiện tri thức, giảng giải đó gọi là “Cảnh giới”, và khuyên:

“Từ đây sắp sau, dù “Phật tổ” có mách bảo điều gì, cũng đừng thèm quan tâm tới, cứ lo việc buôn bán làm ăn mà thôi. Ông họ Trương, họ Lý hay bất cứ người nào cũng đều không có oán thù gì, sao lại hại ông?”

Ông chủ tiệm tin lời mách bảo này nên hoàn toàn chẳng lưu tâm gì đến những lời mách bảo của “Phật tổ” nữa. Dần dần, “Phật tổ” cĩmg không còn đến mách bảo này khác, tình trạng trở lại bình thường.”

Tình trạng như ông chủ họ Ngô này rất ít có, nhưng ông này không phải tu định, chỉ học Phật thông thường, sớm chiều lạy Phật tụng kinh, thành kính đặc biệt mà thôi.

Tình trạng trên, trong tôn giáo, về sau cũng có thể có người gặp phải, nên tôi chú ý đặc biệt giới thiệu, mong quí vị học Phật lưu tâm tham khảo.

THÁC GIÁC

Thác giác là do mắt hoa tai ngãng, nhận sai sự vật, như nhìn sợi dây thấy là con rắn, nhìn tảng đá thấy là con cọp; nghe giả gạo cho là tiếng chuông, nghe tiếng gió rít mà cho là quỉ thần kêu gào…

Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta ít nhiều thường bị huyễn giác và thác giác. Thí như hầu hết chúng ta, khi thấy mặt trời lên ở phía đông và lặn ở phía Tây, đều cho là mặt trừo đi chung quanh trái đất, cứ 24 giờ là một vòng. Đó tức là thác giác.

Chúng ta cũng thường vấp phải một thác giác vô cùng nguy hại, không có cách nào phân biệt thật rõ đúng về Cái Ta và Cái Của Ta. Tấm thân bảy thước này thực ra là “cái của ta”, nhưng cả chúng sinh đều nhận là “cái ta”. Bình thường, khi người khác nói sao thì mình cũng nói vậy, nói thân thể là đãy da thúi, cái túi da…nhưng người thực sự hiểu, thì chẳng được bao nhiêu. Có lẽ, mỗi người đều có cơ hội như vừa tỉnh giấc mơ, để cuối cùng, “Ta” lìa bỏ cái đãy da này thì chân tướng mới hiện rõ ràng. Nhưng lúc đó dầu có hiểu rõ, cũng đâu còn lợi ích gì cho chúng ta nữa!

Nếu như trong lúc còn sống đây, hàng ngày nếu chịu khó theo dõi những lời nói, cử chỉ, hành động, cái nhăn mặt, cái cười…biết tất cả chỉ là động dụng của tâm linh, thì thật là vô vạn lợi ích cho chúng ta. Vì biết được như thế, trái đất này giảm đi rất nhiều thảm cảnh tranh danh, đoạt lợi, đánh giết lẫn nhau.

Sau đây, là bản tin đăng ngày 31/7/1987 của Nhật báo Tinh Đảo, có thể giúp chúng ta vén lớp mây mờ mê muội.

“Nó phát sinh ra hết sức đột ngột, trước đó một phút, rõ ràng tôi còn bay bổng lên không trung, nhìn thấy rõ ràng các bác sĩ và y tá đang vây quanh thân thể đã mất hết tri giác của tôi để làm động tác cấp cứu.”

Một phụ nữ Mỹ đang bị lên cơn đau tim nguy kịch, ở trong phòng cấp cứu của bệnh viện, tự chứng kiến cảnh mình trút linh hồn một cách lạ lùng.

Bà Bá Cách Tốn (tên phiên âm) cư trú ở thành phố Cheyenne tiểu bang Wyoming (Mỹ) đã kể lại:

“Chuyện đó xảy ra vào đêm trước Lễ Giáng Sinh năm rồi. Tôi bị lên cơn đau tim nặng, chồng tôi, anh Pháp Địch (tên phiên âm), đã cấp tốc đưa tôi đi bệnh viện. Trong lúc các bác sĩ và y tá trong phòng cấp cứu đang tiến hành thủ thuật, tôi bỗng phát giác mình trở thành người thứ hai, bay lên trên không ở độ cao khoảng 6m. Tôi thấy rõ các vị này đang dùng đủ mọi cách làm cho thân thể tôi sống lại. Họ cắm một chiếc kim lớn vào bụng tôi, rút ít máu ở cánh tay tôi để xét nghiệm, đồng thời nhét vào mũi tôi thứ thuốc trắng như bột. Mặc dầu thân thể tôi bị cắm đầy các thứ dụng cụ nhưng tôi không có chút cảm giác gì và tôi cũng không nghe được lời nói của họ. Linh hồn tôi hoàn toàn tự do, đây quả thật là giây phút đẹp đẽ nhất từ khi tôi sanh ra đến giờ.”

Bà này ôn lại trí nhớ, nói thêm:

“Tôi đã biến thành người trên cao, không có vật gì trên thế giới này có thể đụng chạm đến tôi được. Trong lòng tôi không có chút lo sợ hay đau khổ gì, cơ hồ tôi như là một đứa hài nhi đang được mẹ bồng ẳm, che chở an ổn, và đầy ắp tình thương yêu.

Nếu như cho phép tôi nói lên sự lựa chọn lúc ấy, tôi xin được quyền không trở lại làm người nữa, chỉ mong mãi mãi được sống trong cảnh giới đó.

Thế nhưng, sự tình không giống như ý bà Bá Cách Tốn mong muốn, bà tiếp:

“Bỗng nhiên, linh hồn tôi trở lại nhập vào thân xác tôi. Sáng sớm sau, ông thầy thuốc trị bệnh tôi nói rằng: Lúc đó trái tim bà đã ngừng đập, nếu như các ông ấy không cứu chữa kịp thời có lẽ tôi đã chết. Chẳng kể ra sao, trải qua lần hồn lìa khỏi xác này, khiến cho tôi không còn sợ cái chết nữa. Nếu quả chết là như tôi trải qua, thi nó cũng là một việc hết sức kỳ diệu mà thôi!

Việc đó trải qua hơn một năm rồi, nhưng tôi vẫn cảm thấy trong khoảnh khắc tôi lìa bỏ xác thân, ánh sáng kỳ dịu hiện ra lúc đó, đến bây giờ vẫn còn rọi soi vào tôi. Hiện nay, ban đêm tôi ngủ an lành như đứa trẻ thơ, thật là sung sướng mười phần vì tất cả những lo sợ của thế gian đã hoàn toàn biến mất trong tôi!

KẾT LUẬN

Nếu như chúng ta có thể đạt được tâm linh vô niệm, là chúng ta đã mở ra được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ, (Nhà Phật gọi là Anoudala sammyu sambodhi – Vô thượng chánh đẳng chánh giác)

Có thể đa số quí vị tin sâu chẳng nghi ngờ gì. Nhưng lại cũng có người, sẽ hỏi: Muốn đạt đến tâm linh vô niệm mà nói sao nghe dễ dàng quá vậy? Nó còn khó khăn hơn việc cắp núi Thái Sơn nhảy qua biển Bắc. Sự thực thì không quá khó như điều tưởng tượng ấy đâu, muốn tâm linh vô niệm cũng giống như việc mở tủ sắt có khóa mật mã vậy thôi, nếu biết được mã số và cách mở, thì mở tủ một cách dễ dàng. Nếu không biết mà mù quáng mở, chắc chắn sẽ thất vọng vĩnh viễn.

PHÁP NHIẾP HÓA mà tôi đã giới thiệu phần trên, hiện nay là DIỆU PHÁP ĐỘC NHẤT để mở ra tổng cơ quan của vũ trụ. Bất cứ người nào cũng không thể phủ nhận câu: “Thập bộ chi nội, tất hữu phương thảo” (trong vòng mười bước, ắt có cỏ thơm).

Tôi hy vọng tương lại hết sức gần đây, có người phát hiện ra phương pháp mới mẻ, hiệu quả nhanh chóng hơn, để kịp thời cứu vãn ngày tận cùng của thế giới sắp đến nơi rồi và để sáng tạo phúc lợi vô cùng to lớn cho loài người!

*Thiền sư Thích Quang Tông.

PHỤ LỤC

1. PHỤ BẢN 1: Cuộc Đối Thoại Giữa Hai Nhân Vật BÁ BẢO và QUANG MINH

BÁ BẢO (BB). Tám mục tiêu công tác lớn ông đề ra vừa rồi, tuy có cơ sở lý luận hợp lý, theo cách nhìn của tôi, vẫn là cái gì quá mơ hồ, muốn hoàn thành được thật khó như lên trời!

QUANG MINH (QM): Lên trời đã không còn khó khăn nữa, hiện nay bất cứ ai cũng có thể lên trời du ngọan. Những mục tiêu nêu trên, thoạt nghe thì rất khó, nhưng nếu chúng ta vận dụng được “Năng Lực Phóng Xạ Vũ Trụ” (Cosmic Radiation), thì liền giải quyết được dễ dàng, chẳng những chỉ tám công tác ấy, dầu cả ngàn muôn việc khác cũng có thể hoàn thành.

BB: Gần đây, nhóm nhà khoa học Mã Khác Luyện Xiển và La Sách Phúc Đắc (tên dịch) đã cho biết, trong vũ trụ có cái gì gọi là “Phóng Xạ Vũ Trụ”, nghe nói là thần diệu vô cùng, sự việc ra sao, xin ông vui lòng nói rõ.

QM: sau khi thành tựu về X.quang, các nhà khoa học đã phát hiện ra “Phóng Xạ Vũ Trụ”. Nó rất là mờ ảo, khó khăn nắm bắt được, các nhà khoa học giỏi nhất hiện nay cũng chưa thể vận dụng được nó.

Nói chung, PXVT nếu phóng xạ trên thân thể loài động vật, thì có thể biến động vật A thành động vật B, động vật B thành động vật C. Nếu phóng xạ vào vật chất, thì có thể biến đổi hình dạng và bản thể của vật chất, từ chất đặc thành chất lỏng, chất lỏng thành chất khí, từ vô dụng thành hữu dụng.

BB: Nếu như ông đã nói, thì xin hỏi, phóng xạ vũ trụ nếu phóng xạ vào người nữ sẽ biến thành nam, vào ông già sẽ biến thành trẻ nhỏ thơ chăng?

QM: Theo giải thích của các nhà khoa học lớn, thì có thể làm được như vậy

BB: Vậy thì, tám công tác lớn của ông, quả là có cơ sở lý luận khoa học hỗ trợ, chẳng phải viễn vông.

QM: Trong vũ trụ có vô số vật quí và kỳ diệu. Mong rằng mọi người đừng tự coi khinh, gắng sức nghiên cứu tìm tòi, bất cứ ai cũng có đủ điều kiện thành công.

BB: Cha đẻ của “đầu đạn hạt nhân” nước Nga là Sakarov Andrey Dmitryevich, đã tuyên bố công khai vào năn 1967, ngoài vũ trụ vật chất còn có vũ trụ phi vật chất. Cái vũ trụ vật chất này do vũ trụ phi vật chất sinh ra. Vũ trụ phi vật chất là cái có trước, vũ trụ vật chất là cái có sau. Phóng xạ vũ trụ có phải là vật thuộc về vũ trụ phi vật chất không?

QM: Vũ trụ vật chất, các nhà khoa học gọi là vũ trụ hiện thực hay vũ trụ cảm giác, vũ trụ tương đối. còn vũ trụ phi vật chất là vũ trụ Chân Như, vũ trụ tuyệt đối, hay vũ trụ tri giác. Phóng xạ vũ trụ là thứ nằm trung gian giữa vũ trụ cảm giác và vũ trụ tri giác. Hiện nay, khả năng trí tuệ của nhà khoa học còn dừng ở lĩnh vực vũ trụ cảm giác, chưa thâm nhập vào vũ trụ tri giác. Tại sao vậy? Vì họ chưa có thể sáng tạo ra vạn vật, vã lại những việc tâm nghĩ tới mà sức lại vụng về, còn quá nhiều như lông trâu.

BB: Phi vật chất có phải là phản vật chất chăng?

QM: Phản vật chất cũng chỉ là vật chất. Có thể thí dụ, vật chất là chính, phản vật chất là phụ. Nếu như khối lượng bằng nhau, thì khi vật chất gặp phản vật chất, cả hai cùng biến mất. Giống như công thức:

1 + (-1) = 0

Phi vật chất và phản vật chất là hia thứ khác nhau, nếu như có gặp nhau, cũng không tăng hay bớt đi như:

Gà + Thỏ = Gà và Thỏ

Tóm lại, phi vật chất là tinh thần, phản vật chất là vật chất

BB: Vũ trụ tri giác phải chăng có những thứ thần diệu hơn phóng xạ vũ trụ?

QM: Vũ trụ tri giác giống như tòa hoàng cung, phóng xạ vũ trụ ví như bình hoa bằng pha lê. Trong cùng vua, còn có trăm ngàn bình hoa quí khác, lại còn có mão vàng, ấn ngọc, và biết ao kim cương châu báu khác.

BB: Hiện nay, những nhà khoa học ưu tú, tuyên bố vũ trụ là một tâm linh cực kỳ to lớn, dĩ nhiên bao gồm tất cả sum la vạn tượng của vũ trụ vật chất. Nếu đúng như thế, thì ta sẽ đặt Thái Bình Dương và núi Côn Lôn ở chỗ nào?

QM: Đây là một phát hiện kinh thiên động địa của giới khoa học. Núi Côn Lôn và biển Thái Bình, dưới mắt chúng ta, không có lý do gì để phủ nhận sự tồn tại của chúng. Nhưng chúng do vô số nguyên tử vật chất tạo nên, mà mỗi đơn vị của nguyên tử, lại do “lực năng” tụ lại dù cho kính hiển vi của nguyên tử hiện đại nhất cũng không phát hiện ra được. Năng lực là vật thuộc tâm linh, vì tâm linh là “năng hỗn hợp” của lực năng và trí năng. Cho nên, các nhà khoa học đã nêu lên kết luận hết sức đúng đắn là “vũ trụ hoàn chỉnh này chính là tâm linh vô cùng to lớn”.

BB: Nhà Phật có nói: “Tâm năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”. Đúng là tâm có thể chuyển được vật chăng?

QM: Những vật chất đầy rẫy trong vũ trụ, đều là vật ở trong tâm. Tâm linh chính là tổng cơ quan của vũ trụ, nên nó có thể chuyển được vật.

BB: Nhưng các nhà khoa học nói cái tâm linh vĩ đại kia, còn ông chỉ nói đến cái tâm linh nhỏ bé của chúng ta, tâm kia so với tâm này khác nhau một trời một vực.

QM: Tâm linh của chúng ta và tâm linh vĩ đại của vũ trụ, bản chất không có gì khác. Có sai biệt như ta có thể dùng phương pháp nào đó để lóng cho tâm ta được trong sạch, thì nó sẽ tự động khuếch đại, hết sức to lớn, bao trùm thái hư, trùm hằng sa thế giới, “giống in không hở” như tâm linh lớn của vũ trụ. Lúc ấy, tâm của ta có thể chuyển được vật, đồng với Như Lai.

BB: Nhưng tâm linh chúng ta thực quá bé nhỏ, làm cách nào mà “Giống in không hở” (vẫn hợp vô gián) với tâm linh vô cùng to lớn của vũ trụ?

QM: Nếu nhìn ở giác độ khoa học, tâm linh chúng ta một điểm cũng chẳng phải là nhỏ. Biết sử dụng những dụng cụ khoa học thích hợp, tâm linh chúng ta vẫn có thể nhìn thấy được đến khoảng không của vũ trụ cách chúng ta hàng 12 tỷ năm ánh sáng. Chúng ta đều biết, tốc độ ánh sáng là 300.000 km/s. Từ trái đất đến mặt trăng, nếu dùng tên lửa đạt vận tốc 20.000 km/h, cũng phải mất đến 19 giờ mới đến được. Còn ánh sáng chỉ mất 1 1/3s là đến rồi. Bởi thế, có thể biết phạm vi hiểu biết của tâm linh chúng ta, nó rộng lớn đến ngần nào!

Vã lại, cảm giới tối cao của tâm linh là Chân Như, chân tức còn mãi chẳng mất, như là chẳng đổi thay. Một là tất cả, tất cả là một. Thế nên, cái tâm linh đang có những tự ngôn tự ngữ trong đầu chúng ta cùng với tâm linh lớn của vũ trụ là “Đồng Một Thể” không sai khác.

BB: Theo lý vừa nêu, thì chúng ta có thể được tất cả trí năng của vũ trụ trụ chăng?

QM: Rất tiếc chỉ thiếu một điểm, nếu tiêu trừ được hết những tâm ngữ trong tâm linh của chúng ta, khiến nó vắng lặng không còn ồn náo, thì muốn gì lại chẳng được.

BB: Theo ông nói, thì chuyện chứa đựng thế giói trong một hạt thóc, đựng trời đất trong một bầu, chẳng còn là chuyện thần thoại nữa?

QM: Chứa đựng thế giới trong một hạt thóc, dưới con mắt chúng ta là một việc khó thể nghĩ bàn, còn đối với một bậc thánh đã chứng nhập vào vũ trụ tri giác mà nói, thì đó là trò trẻ con.

Bạn đã đọc chuyện quỷ lộng hành ở Sở Lương thực HongKong, trong hơn một tháng, từ 16/4/1963 đến 19/5/1963, ma quỷ quậy phá. Đặc biệt nhất là một cái máy đánh chữ của ông giám đốc Thành Gia Sĩ (tên phiên âm) lại bị ma quỷ dấu trong ngăn kéo nhỏ hơn của chiếc bàn đánh chữ. Các nhân viên không thể lấy ra phải phá mặt bàn, mới đem cái máy đánh chữ ra được. Ma quỷ còn làm nổi việc “vật lớn nhét trong vật nhỏ” được, huống là bậc thánh đã chứng chân lý vũ trụ!

BB: Vũ trụ vật chất là chỉ chung vạn vật, tinh cầu ở không gian bên trong, không gian bên ngoài (nội ngoại thái không). Vũ trụ phi vật chất phải chăng là ở ngoài không gian, tức là không gian bậc hai hay không gian bậc ba, như hiện nay các nhà khoa học nói?

QM: Từ không gian bậc một đến không gian bậc trăm đi nữa, cũng vẫn là vũ trụ vật chất thôi. Tính quan hệ vũ trụ phi vật chất và vũ trụ vật chất là chẳng phải một, chẳng phải khác. Chẳng phải một, vì hai vũ trụ này không hoàn toàn giống nhau. Chẳng phải khác, vì chẳng phải là hia vật khác nhau. Như nước và sóng, ánh sáng và sức nóng. Nói cách khác, vũ trụ vật chất thuộc về vũ trụ cảm giác, còn vũ trụ phi vật chất thuộc về vũ trụ tri giác. Vũ trụ cảm giác do vũ trụ tri giác sanh ra, nên ông Sakavov Andrey Dmitriyevich, có trí tuệ sáng suốt, đã tuyên bố y như vậy.

BB: Có phải khi chúng ta đi vào vũ trụ phi vật chất là có thể đạt được tất cả trí năng của vũ trụ vạn hữu chăng?

QM: Vũ trụ phi vật chất ở ngay trong tâm linh chúng ta, trừ chỗ đó ra thì không phương pháp nào tìm thấyđược nó.

Nếu chúng ta có thể tiến vào cũ trụ phi vật chất, liền nắm được tổng cơ quan của vũ trụ vạn hữu, có lực lượng cải tạo và sáng tạo muôn vật.

BB: Vũ trụ phi vật chất đã ở trong tâm linh, sao lại còn bảo “tiến vào”?

QM: Trước khi giải thích vấn đề này, ta cần phải có nhận thức thật đúng đắn về thân tâ. Mọi người đều cho rằng thân thể máu thịt này là TA, đó là thác giác. Cái ta chân chính, là Tâm Linh, mắt thịt không thể thấy được. Thân thể phải được coi là “Của Ta”, như xe hơi hay quần áo vậy thôi. Xe hơi có lúc bị người lái mất, áo quần có lúc bị người khác mặc nhầm, nên những chuyên thay hồn đổi xác xảy ra rất nhiều trên thế gian này. ở đây nói tiến vào, là tiến vào bằng tâm linh chứ không phải bằng thân máu thịt.

BB: Tâm linh tiến vào có phải là linh hồn tiến vào?

QM: Tâm linh và linh hồn là hai thứ chẳng phải một chẳng phải khác. Quan niệm về linh hồn của một số người là nói theo vũ trụ cảm giác tương đối, nó có khổ có vui, còn cái tâm linh chân chính, vượt khỏi khổ vui, là thuần thuộc vũ trụ tri giác/

BB: Thế nào là vũ trụ cảm giác và vũ trụ tri giác?

QM: Vũ trụ cảm giác là trong tâm còn đầy những tạp niệm lăng xăng, khi hết tạp niệm trở lại tâm chính thường, đó là vũ trụ tri giác.

BB: Nói cách khác, khi chúng ta hết sạch những tạp niệm trong tâm, hiện ra chính thường, thì ta có thể cải tạo tất cả sự vật trong vũ trụ tùy theo ý muốn phải không?

QM: Tâm linh của chúng ta, bao gồm không gian bên trong, không gian bên ngoài và sự vật của các bậc không gian khác. Muốn tùy ý cải tạo sự vật vũ trụ, trước hết phải có thể vận dụng được thần lực tự tại của vũ trụ.

BB: Điều kiện nào mới có thể vận dụng được thần lực tự tại của vũ trụ?

QM: Điều kiện duy nhất là tâm linh chúng ta phải tự tại đã, nếu tâm linh còn bị những thứ tự ngôn tự ngữ liên tục không chế, mà muốn được thần lực vũ trụ, chẳng khác nào “leo cây bắt cá”

BB: Cho hỏi thêm lần nữa, làm thế nào để khuếch đại cái tâm linh bé nhỏ của chúng ta, cho “Giống in không hở” với cái tâm linh to lớn của vũ trụ?

QM: Tâm linh của chúng ta vốn không phải bé nhỏ, như đã giải thích ở trên. Sở dĩ hiện nay chúng ta chưa có cách hiểu biết lớn lao, vì cái “độ biết” (độ tri) chưa đủ sáng suốt, lại còn bị “vô minh” xem lẫn. Giống như khi nhìn một vật ở xa nguồn sáng hay bị che chắn ánh sáng, tri độ chúng ta cũng bị giảm bớt. Nếu y theo “Pháp Nhiếp Hóa” trong sách này mà dụng công, chỉ thời gian sau là có thể khắc phục được khuyết điểm này.

BB: Có người bảo nếu tâm hoàn toàn vắng lặng, không mong cầu một điều gì, dễ bị ma quỷ lôi kéo, điều này đúng không?

QM: Những mục tiêu công tác tôi nêu ở trên, nhà Phật gọi là NGUYỆN. Sức nguyện có một lực lượng to lớn không thể nghĩ bàn. Như chúng ta biết, đức Phật A Di Đà có 48 nguyện lớn, đức Bồ tát Quán Thế m có 12 nguyện lớn, ngài Bồ tát Địa Tạng có nguyện rộng “Địa ngục chưa hết chúng sinh, thề chẳng thành Phật”. Nếu cho như thế là bị ma quỷ lôi, thật quá sai lầm!

BB: Chúng ta làm sao để sử dụng phóng xạ vũ trụ?

QM: Phóng xạ vũ trụ, ở bốn bên quanh ta, không thuộc về của riêng ai. Chỉ cần bạn có đủ trí năng là có thể thu nhập và sử dụng được phóng xạ vũ trụ.

BB: Tôi bị thất học từ nhỏ, nay chỉ biết lõm bõm, thì làm sao có đủ trí năng. Tôi nghĩ trong kiếp này chả có hy vọng gì!

QM: Xuất phát trí năng có ba cách: Một do học mà được, hai do khổ mà được, ba do tu mà được. Nếu bạn không thể do hai cách trước để đạt, thì hãy theo cách thứ ba, nhất định sẽ đạt kết quả chẳng thể nghĩ bàn vậy. (Lục Tổ Huệ Năng)

BB: Nghĩa là công phu theo “Pháp Nhiếp Hóa” phải không?

QM: Pháp Nhiếp Hóa có chỗ dùng không thể nghĩ bàn, chó thể giúp bạn từ vũ trụ cảm giác tiến vào vũ trụ tri giác, mở ra được tổng cơ quan áo bí của vũ trụ, trí năng như biển, dùng hoài chẳng hết.

BB: Theo như ông nói, tu học Pháp Nhiếp Hóa còn tốt hơn việc đào mỏ vàng bên Mỹ?

QM: Đào mỏ vàng tuy là việc cũng tốt đấy, nhưng có khi “vốn liếng tiêu tan”. Nếu vận mạng xui xẻo, hầm mỏ sụp xuống, thì ngay cả tánh mạng cũng tiêu mất. Trong vũ trụ tâm linh chúng ta có vô số vật quí giá trị liên thành, tiếc rằng bị mọi người bỏ quên, không chịu khai quật nó, đáng tiếc vô cùng!

BB: Khó nói là có thể khai quật ra loại phóng xạ vũ trụ này chăng?

QM: Tâm linh của bất cứ người nào, chẳng những có chứa đựng phóng xạ vũ trụ, mà còn có cả những thứ kỳ diệu gấp vạn lần nó nữa. như hiện nay, giới khoa học sử dụng cách truyền âm thanh, hình ảnh bằng ánh sáng, điện từ…cũng đều là khai quật từ tâm linh ra đấy thôi.

BB: Xin ông chớ lầm lẫn, những hiểu biết ấy là do nhóm nhà khoa học, từ thàng này qua năm nọ, phát huy các thứ trong vũ trụ vật chất làm thành.

QM: Lìa khỏi tâm linh thì các vị ấy làm sao phát huy? Vả lại, tất cả vật chất, nguồn gốc của nó là lực năng của tâm linh.

BB: Như thế nghĩa là sao?

QM: Hiện nay, hạt tối cơ bản Quark quyết định sự cấu thành nguyên tử vật chất, lại ở dạng lực năng, với những dụng cụ tối tân nhất vẫn không thể nhìn tháy nó. Nó tồn tại như một ý niệm, một ký hiệu toán học, nên gọi đó là lực năng của tâm linh.

BB: Thế thì có phải “ngoài tâm không có pháp (vật), muôn pháp nhờ vào tâm” (Tâm ngoại vô pháp, vạn pháp duy tâm) như kinh Phật nói chăng?

QM: Đó là chỗ khiến chúng ta không thể không bội phục sự vĩ đại của Thích Ca Như Lai, có thể thấy cái người chưa thấy, biết cái người khó biết. Khi bạn tiêu trừ hết tất cả tâm ngữ trong tâm, hiện ra chân thường, bạn chẳng những hiểu rõ mà còn vận dụng được tất cả thần bí của vũ trụ.

BB: Có người nói: Tạp niệm là làn sóng điện của bộ óc, thật sự chẳng có cái gì gọi là tâm linh, có đúng thế không!

QM: Đó là nhận thức sai lầm của phái Duy Vật. Duy vật luận này đã bị giới khoa học và giới triết học phủ định rồi. Hai nhà triết học lớn của Pháp và Đức là Bá Cách Tốn và Đỗ Lý Thứ (tên dịch) tuyên bố rằng, triết học lý duy vật đã cáo chung. Tôi thì nhận thấy hai vị Đỗ, Bá lời quá nghiêm trọng. đến hôm nay, duy vật luận chưa hẳn chết mất, chỉ biến thành đôi giày nhỏ bé, ai mà mang nó, mồ hôi nước mắt đều chảy đầm đìa, khó lê nửa bước!

Bộ óc là công cụ của tâm linh. Chúng ta nhận thấy bộ óc phát hiệu ra lệnh, chỉ huy động tác của hệ thống thần kinh trong thân thể, nên cho bộ óc là tri giác, quả thật sai lầm. Tôi đã từng tập họp máy mươi người, tổ chức thí nghiệm tại thiên đường. Tôi bảo mọi người dùng Tâm Nhãn tập trung quan sát tâm linh mình trong vòng 10 phút, ròi thật thà bóa cáo kết quả thấy được.

Thực tế, không báo cáo nào giống nhau. Nếu là tác dụng phản xạ của làn sóng điện bộ óc, thì nhất định nó hoạt động như cái máy, cùng môi trường và thời gian, không thể sai khác. Sự thực rành rành đã phủ định thuyết sóng điện phản xạ.

Hiện nay, trí tuệ con người, ngày càng vượt ngàn dặm, từ rất nhiều vật, chứng minh bọ óc và tâm linh, là hai thứ hoàn toàn khác nhau.

BB: Ông muốn chỉ sự vật gì?

QM: Giác quan thứ sáu, vì những sự vật phát sinh ra từ giác quan thứ sáu, vượt trên tác dụng của bộ óc. Thứ hai, ngành phẩu thuật ngoại khoa đã tìm cáhc thay thế một phần hoặc toàn bộ ócđể trị bệnh cho người và động vật, nhưng không vì thế mà người và động vật thay đổi trí nhớ hay nhận thức. Thứ ba, hiện nay các nước tiên tiến có bộ phận nghiên cứu loại vũ khí tình thần, không đánh trận mà vẫn thắng địch bằng cách dùng sức mạnh tinh thần, từ ở xa ngàn dặm, làm cho các người lãnh đạo, chỉ huy bên địch, đột nhiên biến đổi tâm lý, buông vũ khí đầu hàng.

BB: Tôi rất hy vọng kết luận cua nhóm nhà khoa học là chính xác: Vũ trụ là tâm linh cực lớn, vũ trụ vạn hữu có cái tổng cơ quan. Như thế mới có thể giải quyết những tai họa đang bức bách loài người, sáng tạo được những phúc lợi cho nhân loại. Đồng thời, chúng ta cũng hy vọng có ngày trở thành một nhân vật thần kỳ kinh thiên động địa.

QM: Cảnh giới này các vị thành hiền Á Đông đã sớm đề cập như: Nhất chân pháp giới của Phật giáo, Đạo của Lão Giáo, Vô Cực của Nho giáo, đều là cách nói khác của tổng cơ quan vũ trụ. Chỉ tiếc rằng, phương pháp đã thất truyền, chẳng biết cửa nào mà vào, trở thành chuyện thần thoại, nên ít được người chú ý tới.

BB: Theo ông, trí tuệ của người Trung Quốc thuở xưa không kém gì trí tuệ người u Tây?

QM: Thời hai ngàn năm về trước, thiên tư người Trung Quốc rất cao. Thời kỳ Xuân thu chiến quốc, khoa học đã bắt đầu manh nha, đi đầu trước cả u Tây. Đáng tiếc bị bàn tay Hán Vũ Đế bóp chết, cấm đoán mọi thứ khoa học, chỉ cho phổ biến đạo lý Nho giáo có lợi cho vua chúa, nên khiến cho khoa học Trung Quốc không còn ảnh hưởng gì. Rồi đến nhà Đường, thi hành chế độ thi cử trọng văn, nên đã giam hảm các phần tử trí thức trong khuôn khổ tứ thư ngũ kinh. Do đó trí tuệ của người Trung Quốc không được phát triển tự nhiên. Còn trí tuệ người u Tây chỉ phát huy từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18. Trong khi, những nhà Nho TQ còn vùi đầu vắt óc để nhai những thứ “Càn vi thiên, khôn vi địa…” thì máy hơi nước của ông James Watt (1)

BB: Như vậy, theo ông thì Nho giáo là cổ thụ to lớn có mầm độc đối với người Trung Hoa chăng?

QM: Tôi không cho là như thế. Nho giáo có những cống hiến đối với tật tự xã hội, đến nay cũng chưa mất giá trị. Mấy năm gần đây, hai chính phủ Dân quốc và Singapore, đề xướng việc chấn hưng phát triển văn hóa Khổng Mạnh, không phải là vô cớ. Khuyết điểm lớn nhất của Nho giáo là sự sùng cổ cực đoan. Ông Hàn Dũ, một đại nho chủ trương: “Chẳng phải lời khuôn phép của bậc Thánh xưa thì chẳng nên mặc”. Rất may mà mọi người không triệt để nghe theo ông, nếu không, Trung Quốc chẳng còn ngước đầu lên được. Chúng ta cũng công nhận rằng, nhà Nho có đưa ra chủ trương: “Mỗi ngày phải mới, ngày ngày đều mới, lại ngày càng mới”, nhưng không thể chống lại nổi với tinh thần sùng cổ lâu đời kia. Lời kêu gọi đổi mới, chỉ như gió thoảng đở oi bức thôi.

BB: Sự lạc hậu của Khoa học Trung Quốc còn có nguyên nhân gì?

QM: Thể văn ngôn biền ngẫu không phù hợp với việc truyền bá khoa học, đó là một trở ngại rất lớn, khiến ánh sáng rực rỡ của khoa học 2000 năm trước tại Trung Quốc chỉ như “ngàn năm hoa mới nở”. Nếu như đến ngày nay, học sinh vẫn còn ngân nga “Chi, hồ, giả, dã”, thì Đài Loan chắc chắn không thể có đường xa lộ siêu tốc, hay xưởng hóa lọc dầu to lớn hiện đại được.

BB: Còn nguyên nhân nào nữa không?

QM: Nguyên nhân thì còn rất nhiều, không thể kể hết. Biện pháp tốt nhất là phải có một chính phủ pháp trị (trị theo pháp luật) vững chắc toàn vẹn, đem thứ chính trị nhân trị (trị theo cảm tính con người) từ mấy ngàn năn nay liệng vào trung tâm biển Thái Bình. Gắng sức đề cao giáo dục nhân dân, khiến họ có nhận thức chính chắn việc phải quấy, đúng sai. Dù có bao nhiêu nguyên nhân nào khác, cũng sẽ như “nắng rọi tuyết tan” mà hóa giải được hết.

Trí tuệ người Trung Quốc, không thua bất cứ người nước nào, chỉ cần được người lãnh đạo đúng phương pháp, tạo hoàn cảnh thuận lợi, thì trí tuệ người TQ sẽ có cơ hội phát triển cao độ, rực rỡ hơn người?

BB: Có sự thực nào chứng minh?

QM: ngày 16/16/1986, Sở Giáo Dục New York tổ chức thi toán quốc tế (Olympic) học sinh đoạt giải có 700 em, trong đó có 300 em gốc Hoa. Tháng 7 cùng năm này, có cuộc thi của Tây Ốc (tên dịch) khoa học thuật, gồm các môn không gian, vật lý, sinh vật, y học, kỹ thuật công trình, có 1200 học sinh tham dự, trong số 5 giải thưởng lớn, học sinh gốc Hoa chiếm 3 giải.

Nước Mỹ tổ chức kỷ niệm 100 năm Thần Tự Do, Tổng thống Mỹ ban thưởng cho 10 công dân Mỹ đã tạo sự nghiệp lớn thành công, người gốc Hoa chiếm 3 người.

Tóm lại, chỉ cần có hoàn cảnh tốt, bồi dưỡng nhân tài đúng mức, người Trung Quốc chắc chắn có điều kiện giỏi dang về cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, lẫn kỹ thuật.

BB: Công tác chủ yếu của chúng ta hiện nay, là tiêu diệt tâm ngữ trong tâmlinh, nhưng tâm ngữ đã có từ khi ta mới chào đời, làm sao có thể diệt được nó?

QM: Đối với hạng phàm phu tục tử, thì quả là tâm ngữ có từ lúc mới sinh ra. Nhưng tâm thể vốn thanh tịnh, tạp niệp nương theo tâm thể hoạt động, như nước với sóng. Tính của nước vốn dừng lặng, vì gió mà có sóng. Sóng tuy chẳng phải là nước, nhưng sóng không rời nước.

Vì tâm linh chẳng phải tạp niệm, cho nên chỉ cần có phương pháp chính xác, thì chắc chắn tiêu diệt được tạp niệm, tâm linh sẽ trở lại trạng thái bình thường.

BB: Tạp niệm trong Phật học gọi là tam độc (tham, sân, si) là thứ rất đáng ghét. Nay trong pháp hóa niệm ông lại đem nó hóa thành thú vị, để chuyển phiền não thành trí tuệ, mà chuyển bằng cách nào?

QM: Từ giác độ riêng mà nhìn, thân thể này là xác thân máu thịt, dù bất cứ lý do gì đi nữa, trong thân cũng không thể có cái thầm thầm thì thì (tự ngôn tự ngữ). Vậy mà hiện giờ trong thân chúng ta, nó cứ cuồn cuộn tuôn ra không ngớt, suốt cả ngày đêm, chẳng phải là điều thú vị lắm sao? Sở dĩ hiện nay ta không thấy thú vị, vì từ lúc rời bụng mẹ, chưa có chút hiểu biết, đã có những thứ đó rồi, lâu ngày quen dần mà không còn phản ứng. Nếu giả như tạp niệm trong thân thể, trước giờ vốn không, nay bổng nhiên có, tôi tin rằng mỗi người trong ngày sẽ có hàng mấy mươi lần cười ha hả.

Nếu bạn muốn biết rõ vấn đề, xin xem kỹ quyển “Giải Thoát Học” của tôi, do Đài Loan thương vụ ấn thư quán xuất bản (1/1/1970)

BB: Xin ông cho biết mục đích xuất bản cuốn sách Thần Kỳ Học này?

QM: Để cho mọi người biết rằng, ai cũng có tiềm lực vĩ đại để làm cho tự mình hạnh phúc và cho tất cả người khác cũng được hạnh phúc. Bao gồm cả từ người dốt nát đến người trí thức cao, miễn là biết tin sâu, theo đó mà làm, nhất định đạt kết quả 100%. Nhất là đối với các tu sĩ các tôn giáo chủ trương tu tâm, cần hết sức lưu ý, nắm bắt được lực lượng trong tâm linh, phát huy nó ra làm cho lợi người lợi mình.

BB: Quyển sách này thiên về thế gian pháp nhiều quá, e rằng khó hấp dẫn và gây sự chú ý cho các nhân sĩ tôn giáo. Bởi vì, thế gian pháp thuộc về loại “qua mắt thành mây khói”. Những thứ mà tín đồ tôn giáo ưa thích là lên trời, thành Phật, lợi ích mãi mãi không thay đổi muôn ngàn năm chẳng mất.

QM: Sự trình bày trong sách này tuy không nói đến làm Tổ, thành Phật…, nhưng tám mục tiêu đề ra ở trên, kẻ phàm phu tụ tử có thể làm được chăng? Ít nhất cũng phải là sức của Văn Thù, Phổ Hiền, Quan m, Thế Chí Bồ Tát mới kham nổi, chẳng phải vậy thì khó mà toại nguyện.

BB: Mục tiêu công tác của ông đề ra, đến cả chính ông cũng chưa có thể hoàn thành, thế thì lý luận của ông, liệu có hấp dẫn người khác không?

QM: Năm rồi, tôi có viết tập sách “Vạn tri vạn năng đích siêu nhân tu học pháp” (Pháp tu học thành siêu nhân muốn biết ngàn thông). Có người viết thư phản đối rằng, tôi chưa được vạn tri vạn năng, làm sao có thể viết sách này? Tôi liền viết thư trả lời, những vị khuyên người tu tịnh độ, đâu bắt buộc phải từ cõi Tây phương Cực Lạc trở về, mới đủ tư cách dạy người lên thiên đàng, cũng chẳng cần phải người đã đến Vườn Địa Đàng mới là hợp lí. Cốt lõi của vấn đề là, lý luận của người đó có chính xác không? Khi Einstein tuyên bố: Bất cứ người nào thở ra một hơi thở, trong đó đều có chứa đựng vật chất, nếu đem toàn bộ vật chất này biến thành năng lượng, hì sẽ đủ năng lượng cung cấp cho một máy bay tầm trung bay suốt cả năm”, thì ông đâu cần làm thí nghiệm trước mắt mọi người, đưa chiếc máy bay ra, dùng hơi thở thổi lên giữa không trung. Vậy mà các nhà khoa học đều công nhận và ca ngợi lời đó, còn đối với những kẻ mù quáng, sùng bái tượng gỗ thì có để ý đến câu nói đó chút nào.

BB: Lời tuyên bố của nhà khoa học Liên Xô là Sakarovandrey Dmitriyevich (Waxapo Ahpeu Duumpuebur) đã chứng minh hùng hồn cho chân ý “Nhứt thiết duy tâm đạo” trong Phật học chăng?

QM: Câu “Nhất thiết duy tâm đạo” là lẽ thực, không có gì để tranh luận cả. Nếu bạn nhận thức được những hành động giơ chân múa tay, cử chỉ nhăn mày chớp mắt… của vô số chúng sinh, đều là trạng thái động của tâm linh biểu hiện ra ngoài, thì nay đó, bạn cũng biết chắc rằng tòa nhà 102 tầng Empire State Building (Mỹ) và Tháp Eiffel của Paris, là tâm tạo của các kỹ sư và nhân công. Nếu cho rằng, đó là kết quả của đôi tay vạn năng của họ tạo nên, thật là một sai lầm quá lớn. Nhưng “nhứt thiết duy tâm tạo” của Phật học, chân lý của nó chẳng phải là nông cạn như thế. Thâm ý kỳ diệu trong đó, chúng ta hiện chưa thể hiểu rõ, có lẽ ông Sakarov có thể giải thích, nhưng dẫu chúng ta được nghe vẫn còn trợn mắt câm lời, chẳng hiểu ra sao. Phật và nhà khoa học đều nói “Nhứt thiết duy tâm tạo”, câu danh ngôn này là chân lý, không còn gì nghi ngờ nữa.

Phật có một cái tâm, nhà khoa học có một cái tâm, chúng ta cũng có một cái tâm, chứng minh bất cứ người nào cũng đều có điều kiện đầy đủ, để thay đổi vạn vật sáng tạo tất cả.

Cho nên, tôi hy vọng mọi người hãy tiếc quí chính mình, đừng để kiếp này trôi qua rất uổng.

BB: Theo cái nhìn của ông, thì tôn giáo có tiềm lực thần kỳ hơn khoa học, làm nhiều việc lợi ích hơn cho chúng sinh. Tại sao hiện nay, đa số người chưa có cái nhìn kính trọng đối với tôn giáo?

QM: Tôn giáo quả thật là ưu việt và thần thánh. Những năm gần đây, rất nhiều nhà khoa học nổi tiếng đã đến Chùa hoặc Nhà thờ, đã minh chứng cho cái hay của tôn giáo. Sở dĩ, cái hay ấy chưa đầy đủ là vì cả ngàn năm nay, người hoằng pháp chưa đem hết tinh hoa của tôn giáo để làm sáng tỏ rộng lớn ra ngoài. Những thành quả của đại chúng, mới chỉ đạt đến chỗ da lông bên ngoài, chưa thành lợi ích lớn, làm sao khiến cho quần chúng xem trọng tôn giáo được?

BB: Những chủ điểm gì mới là tinh hoa của tôn giáo?

QM: Mục đích của tôn giáo là Giúp chúng sinh thoát khỏi biển khổ sinh tử, thành ra muôn biết ngàn thông, tự tại an lạc. Mục đích này hoàn toàn do những phương pháp Tu Tâm mới đạt đến. Các tôn giáo đều chủ trương tu tâm, đường lối quả là chính xác. Chỉ tiếc rằng trong đó xen vào những thứ lý luận tạp nhạp, phần nhiều nêu mục tiêu to lớn mà không sao có thể đạt tới, lời lẽ hay đẹp mà không có lợi ích thực sự không đúng trọng điểm của việc tu tâm.

Cho nên muốn làm một vị hoằng pháp hiện đại, phải nhìn thẳng nói ngay hiện thực, đừng nên “nhìn quanh nói quẩn” nữa.

Nay xin nêu thẳng gọn, cụ thể với tín chúng, muốn tu tâm cho đúng, phải trả lời đúng những câu hỏi sau:

I. CU HỎI ĐỂ TRẢ LỜI:

1) Điểm chính yếu của việc tu học Phật pháp có phải là chỉ có lễ bái cầu nguyện hay phải có công phu khác?

2) Vạn vật trong vũ trụ, nói khái quát gồm có: Thân, Tâm, Vật. Tại sao chúng ta không tu thân, vật mà chỉ lựa chọn tu tâm?

3) Khi tu tâm thành công có lợi ích gì?

4) Tâm linh ở chỗ nào?

5) Phải tu những gì trong tâm linh?

6) Những tạp niệm trong tâm linh gây ra tai họa gì cho chúng ta?

II. CU HỎI ĐỂ GỢI Ý PHÁP TU

1) Chú ý đừng tu ngoài tâm, hay phân tâm, cái nào là phân tâm?

2) Chú ý tri giác có hai phần: Kiến phần (là cái thấy biết) và Tướng phần (cái bị thấy biết). Nếu chỉ dùng một, như một bàn tay có vỗ nên kêu không?

3) Tại sao không nên tự chế tạo huyễn giác (quán tưởng) có thể che đậy tâm linh?

4) Có nên lưu ý câu “Dục tốc bất đạt” (Muốn mau chẳng được) và “nước chảy đá mòn” không? Hay nên không gấp không chậm, có làm có nghỉ, bám chặt không buông bỏ, dùng thời gian đổi lấy tri giác chính thường, mở tổng kho trí năng của vũ trụ vạn hữu?

BB: Tôi đã theo đạo mấy chục mùa mưa nắng, mà chưa được nghe người nào nói đến những vấn đề trên.

QM: Đấy là vấn đề tu tâm nông cạn tầm thường, chẳng phải là thứ học vấn cao sâu gì. Trừ phi chẳng phải tu tâm thì mới có thể bỏ sót nó, kỳ dư, người nào quyết tu, hãy nghiên cứu nó một cách kỹ lưỡng để dụng công.

Nếu như các tôn giáo chọn dùng pháp này, thực hành phổ biến rộng rãi, trong một tương lai không xa lắm, sẽ ào ạt tuôn ra những nhân tài kỳ diệu (chẳng những) sánh ngang với những thiên tài khoa học mà còn có thể đi trước dẫn đầu nữa là khác!

*Thiền sư Thích Quang Tông.

2. PHỤ BẢN 2. ĐẠO

1. NHIỀU CÁCH THUYẾT PHÁP: Xưa nay khắp thế giới đã nói nhiều đến Đạo

Đạo Thiên Chúa và Tin Lành, mỗi tuần đều có làm lễ ở nhà thờ, nhà nguyện, Linh mục và Mục sư giảng dạy Kinh Thánh, gọi đó là truyền đạo. Đối với họ, ĐẠO là nội dung toàn bộ Kinh Thánh ghi chép.

Đạo của Hồi giáo, lấy kinh CORAN làm tiêu biểu, trong đó đặt toàn bộ niềm tin vào Thánh ALLAH, mỗi ngày hướng về Ngài lễ bái 5 lần, nghiêm chỉnh chấp hành sinh hoạt theo lịch “Trăng đỏ Lama”…

Đức Khổng phu tử cũng từng đã nói đến Đạo rằng “Sáng nghe được Đạo, chiều chết cũng vui”. Quan niệm của người, Đạo rất khó gặp nhưng lợi ích vô cùng to lớn. Rất tiếc, đức Khổng Tử không giải thích câu nói trên, khiến cho đệ tử sau này không thể không bổ sung: Đạo của Phu Tử, là Trung Thứ mà thôi vậy (Phu Tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hỉ).

TRUNG tức là phải hoàn thành trách nhiệm của mình và bổn phận giữa người và người, hết sức hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu vợ con, thương mến và giúp đỡ lẫn nhau với mọi người, gỡ rối vượt khó, đùm bọc nâng đỡ nhau…

THỨ là biết cảm thông bỏ lỗi người khác, không được mưu sâu kế độc hại người, ganh ghét đố kỵ lẫn nhau, hay chỉ ích kỷ lợi mình bằng cách gây đau khổ thiệt thòi cho người.

Có người phê phán một số hành vi không chính đáng của số người, là lìa kinh bỏ đạo, như vậy đối với đầu óc họ, đạo là những qui định thông thường của truyền thống xưa nay.

Các hảo háng Lương Sơn Bạc trên lá cờ nghĩa có viết bằng chữ đỏ rất lớn “ĐẠI THIÊN HÀNH ĐẠO” (Thay trời hành đạo) Đó là Đạo của Trung Nghĩa Đường, một mình tựu thế, sát khí đằng đằng.

Trong giới tôn giáo, thường nghe nói “một người được đạo, gà chó được thăng” và “Một người chứng đạo, chín họ sanh thiên” Cái đạo nói ở đây, chẳng phải giống phàm trần, mà nó có sức mjanh vô cùng to lớn, giúp bạn được siêu phàm nhập thánh.

Trong ĐẠO ĐỨC KINH , Lão Tử đã giải thích về đạo: “Có vật hổn độn thành ra, sinh trước trời đất, vắng lặng không hư hoại, đứng một mình mà chẳng mỏi, đi vòng khắp mà chẳng nguy, có thể làm mẹ thiên hạ. Tâ không biết tên nó là gì, tạm gọi là Đạo”. Lại nói “Đạo sinh một, mọot sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”.

Những điều nêu trên chính là mục tiêu chúng ta tìm kiếm. rất tiếc những tư tưởng đó quá mờ ảo, họ nghĩ đó là vật quí của vũ trụ, không ở không gian trong mà được an trí ở không gian ngoài.

Hiện nay, các tín đồ đệ tử của Đạo giáo (Lão) cho là muốn được cái đạo này, phẩi hiệp nhất Tinh Khí Thần, hạ thủ công phy, dùng cách an tâm bế khí để luyện khí hóa thần, ý đồ khai thông hai mạch Nhâm Đốc để đắc Đạo. Tất cả quá trình tu tập , đều dùng quán tưởng, nói thì hay mà làm không được.

Phật giáo hiện nay, cũng dùng pháp môn quán tưởng để hành công: các tông Duy Thức, Thiên Thai, Tịnh Độ, Mật Tông, Hoa Nghiêm, Thiền Tông đều dùng rất nhiều. Tôi hoài nghi phép tu này, có thật là do trí tuệ như biển của đức Phật nói ra không, vì từ không sanh ra có, nhờ sức của ý chí làm ra ảnh giả, thì rất hay rất đẹp, nhưng không bao giờ thành ra vật thực được.

Phật giáo gọi Đạo là Chân Như. Chân là không hoại, Như là chẳng khác. Lại gọi “Thực Tướng”, có nghĩa là Không có Tướng, chẳng lệ thuộc vào tròn vuông, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng. Nhưng nó lại có thể sanh ra muôn vật đủ loại hình sắc, vậy thì nó lại chẳng phải không có tướng. Nó đã chẳng phải rỗng, chẳng phải có, lại cũng rỗng cũng có…nên gọi là không tướng mà chẳng phải không có tướng (vô tướng vô bất tướng) Nếu chúng ta có thể trong vũ trụ này mà thấy được vật báu thần diệu đó, chính là ta Ngộ Đạo (Khai ngộ) vậy!

Lối giải thích trên cũng lại mờ ảo, khiến cho người học bạc đầu cũng không thu hoạch được gì, đâm ra gnhi ngờ không biết trên thế giới có cái Đạo như vậy không?

Trong Phật học có cách giải thích rất đơn giản “Tâm chính thường là đạo”. Cái tâm chính thường đó rất phù hợp với những yếu tố giải thích ở đọan trên. Cho nên khi bạn phát hiện ra trong tâm không còn cái tự ngôn tự ngữ mà chẳng còn cần kềm chế, thì có thể nói rằng bạn đã ngộ đạo hay chứng đạo vậy.

2. SỰ CẢM THỌ CỦA ĐẠO

Ngộ đạo, Thiền Tông riêng dùng thuật ngữ “Khai ngộ”, cũng vì quan niệm truyền thống đối với Đạo quá phức tạp, ảnh hưởng đến nhận thức chính xác về ngộ đạo. Chẳng ít công án còn ghi chép việc một số thiền đức, khi được thiện tri thức giúp một “chưởng” làm bể “thùng sơn đen”, cũng có người nhìn trăm hoa đua nở mà thấy được bản lai diện mục, lại có người nghe tiếng ca mà “đất này sáng sủa” (bổn địa phong quang); có người thắp đèn (bị người) thổi tắt mà thấy được chơn như…những kiểu ngộ đạo như trên, không hề thấy nói là khoảng cách từ vũ trụ cảm giác đến vũ trụ tri giác là “mười muôn tám ngàn dặm”!

Ngộ đạo chan chính là tâm cuồng hết sạch. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, trong tâm luôn tự nói tự rằng không dứt, không chịu dứng nghỉ. Nay do công phu đầy đủ, trong tâm vắng lặng, dừng bựt những thứ tự ngôn tự ngữ khó thấy dạng, để có thể duy trì trạng thái vô niệm đó từ Một Phút đến Dưới Một Giờ, gọi đó là ngộ đạo.

Lúc đó, chúng ta không còn thấy bóng dáng sự vật trong tâm nữa, lặng lẽ sáng biết mãi mãi, đó chính là nguồn gốc chung của vũ trụ. Nếu bạn đã được như vậy, bạn đã có thể cải tiến và sáng tạo vạn vật.

3. ĐI TÌM DIỆU PHÁP

Làm sao để tâm chúng ta có thể sinh ra tri năng (năng lực hiểu biết) để tạo phúc lợi cho chúng sinh? Lục Tổ Huệ Năng đã khai thị rõ trong kinh Pháp Bảo Đàn: Không cần phải dùng sự cầu nguyện, lễ bái, luyện khí, uống linh đơn…mà chỉ cần “Tà chính đều dứt sạch, tánh bồ đề hiện rõ” (Tà chính tận đã khước, bồ đề tính uyển nhiên).

Muốn ngộ đạo, phải công phu ở trong tâm, đem những niệm chính niệm tà trong tâm, thanh trừ toàn bộ, làm cho tâm được sáng như gương, như bầu trời trong veo, thế là bạn đã có được vật báu vô giá của vũ trụ rồi đó.

Có ngườiphát biểu giải thích về hai chữ “đã khước” (đánh sạch) một cách sai lầm, cho đánh sạch nghĩa là quét sạch, Phật đến quét Phật, ma đến quét ma…thành ra suốt mấy mươi năm công phu mà đến lúc xuống mồ vẫn chưa từng thấy bồ đề.

Tạp niệm trong tâm, chẳng cần phải tảo trừ, mà hãy hấp thu nó bằng cách, bạn hãy nhắm hai mắt lại (không được mở 1/3), mặc niệm bốn chữ “Quan m Bồ Tát” (hay bất cứ Phật hiệu nào khác cũng được) trong tâm thề không cần phải khống chế cái tự ngôn tự ngữ này, mà chúng bị thánh hiệu hấp thu không sót. Biết mặc niệm khéo léo, sẽ có tác dụng lọc trong, tẩy rửa, trừ độc…Khiến cho người sa cơ mới tu, chỉ cần Năm phút, là đạt được “Nhứt tâm bất loạn”

Yêu cầu của phương pháp này là:

a. Bắt buộc phải nhắm mắt, nếu không thì thánh hiệu không thể vào sâu trong tâm được.

b. Mặc niệm phải liên tục, để cho thánh hiệu không mất trong tâm. (Tướng Phần)

c. Không được niệm nhanh quá, mỗi chữ từ 1 -2 giây, đừng niệm chậm quá, sức hấp thu không đủ mạnh.

d. Không lần chuỗi để tránh bị phân tâm, tức là tránh làm cho sức của tâm “từ từ chảy vào biển khổ ta bà”

e. Dùng tâm nhãn (Kiến Phần) chú ý đến cái năng niệm khiến cho Định Huệ (kiến tướng) ngang nhau, không bao lâu sẽ được ý giải tâm khai (tâm mở ra, ý được cởi trói), vui mừng tự sanh ra, khỏi cần chế ngự tâm nữa…

4. SAO GỌI LÀ THN GIÁC?

Thân giác, tức là “khu xác quan niệm” (quan niệm đúng về thân xác)

Tâm chún ta cũng giống như tròng con mắt, không thể chịu đựng được bất cứ vật gì, dù quí như mạt vàng bụi ngọc, cũng phải lấy ra mới dễ chịu.

Niệm Phật đến chỗ nhất tâm, là một kết quả khá lớn, nhưng thuộc về tình trạng “Nhất đóa bạch vân hoành cốc khẩu, Kỷ đa phi điểu tận mê sào” (một chúmg mấy trắng che cửa hang, biết bao chim bay mờ mịt tổ). Do đó, phải tiến lên một bước, là xả luôn cái “nhất tâm”, vào cảnh “chân thường”, được tổng kho áo bí của vũ trụ vạn vật.

Từ chỗ vọng tưởng lăng xăng đi vào chỗ vô niệm, là sự thay đổi vô cùng lớn lao, quan trọng và khó khăn. Nên xưa nay, trên thế giới biết bao người tu đến chỗ ấy đều chịu cảnh “hao binh tổn tướng”, uổng phí sức hai cọp chín trâu, vẫn không làm sao cho cuồng tâm dừng nghĩ. Do đó, phải chuyển qua tu Tịnh Độ, niệm Phật lần chuỗi, luôn miệng niệm Phật cầu sự thương xót giúp đỡ khi chết được vãng sanh cực lạc.

Từ vũ trụ cảm giác đi vào vũ trụ tri giác, nếu không được gặp pháp đúng kỹ thuật, thì chớ nên cưỡng cầu gượng ép. Dung tâm nhãn thấy rõ trong tâm đầy những hình bóng của lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nào là sơn hà đại địa, trời, trăng, sao… liên tục xuất hiện. Đó là những thứ không mời thỉnh mà vẫn đến, kết thành một mạng lưới dày đặc, khó có cách phá vở nó.

Muốn làm thủng được mạng lưới vô minh bền chắc này, chỉ có thẻ dùng thứ phương tiện thật hữu hiệu để trị tâm bệnh.

Có người than thở, thân xác này nếu có bệnh thì hịên nay đã có trăm ngàn thứ phương tiện, phương pháp để trị, bất cứ bộ phận nào trong cơ thể mắc bệnh, cũng đều có cách trị lành, còn linh hồn mắc bệnh, thì chưa có cách trị.

Thật ra nếu bjan chịu khó ngồi yên lặng một lúc bạn sẽ thấy phương tiện trị bệnh đó hiện ra thôi. Cách này, cha mẹ đã cho ta “miễn phí hoàn toàn”, miễn là ta biết mượn cái giả đẻ tu cái thật. Yêu cầu của chúng ta là giải thoát, không cần dùng phương tiện gì quá cao siêu, chỉ cần một hiểu biết thông thường là có thể đạt ý nguyện. Cái thường thức đó tên là Thân Giác. Có người cười rằng, tưởng cái gì chứ giác ngộ về thân vô thường, trong Kinh Phật nói đến hàng khối. Thực thì, thân giác nói ở đây không phải là điều đó, mà như thế này.

1) Trong thân này không thể niệm Phật

2) Trong thân này không thể có tự ngôn tự ngữ

3) Trong thân này tuyệt đối yên lặng

THN GIÁC = Vì thân này do máu thịt thành ra, giống như gỗ đá.

Dùng cái thân giác này để phát khởi “Kỳ Tình”, nó là thuốc hiệu để tiêu trừ tạp niệm,dù cho đến cả thứ “vô minh ngàn kiếp” hay “tên giặc vô hình”, khi đụng đến nó, cũng đều tiêu tan như nước nóng đổ lên băng giá, thắp đèn sáng trừ bóng tối, những vọng tưởng dù thô hay tế, cũng tiêu thành mây khói.

5. NGHI TÌNH HAY KỲ TÌNH?

Trong nhà Thiền từ lâu có truyền lại cái “nghi tình”. Rất có thể, đó là “kỳ tình” bị lầm lẫn mà thành. Tôi đã tra cứu tất cả sách vở thiền tông, thấy rằng lối giải thích về nghi tình của các vị cổ đức, không làm người học thỏa mãn, nếu dùng nó để diệt vọng tưởng, thì chẳng khác nào giũ áo chốn bụi bặm, không sao sạch được.

Ngàn ngàn muôn muôn người tu hành trước đây, suốt mấy mươi năm vật lộn với vọng tưởng mà vẫn kéo cờ trắng đàu hàng nó, chẳng phải là không có nguyên nhân, chẳng qua vì phương pháp còn thiếu sót, nên hang ổ vọng tưởng không diệt được, khổ công năm tháng, rốt lại hoàn không.

Cái mấu chốt và Thân Giác và Tâm Nhãn phối hợp lại mà dùng, nếu thiếu một cái cũng không thành. Ngay lúc ta dùng tâm nhãn soi rọi bên trong thân thể, phát hiện ra tạp niệm, là những thứ tự ngôn tự ngữ liên tục, không cách gì bắt nó dừng lại được. Ngay lúc đó, ta liên tưởng đến thân giác, cho dầu nó có ẩn hiện hiện, tợ có tợ không. Ta nghĩ rằng, cái đáng lẽ không thể có mà bây giờ lại có đây, chẳng phải rất kỳ quái ư? Chính lúc bạn cảm thấy kỳ quái, tức là kỳ tình sanh ra, vọng tưởng lập tức bị tiêu diệt, thật lâu không xuất hiện: bạn đã từ vũ trụ cảm giác đi vào vũ trụ tri giác, đã ngộ Đạo rồi đó!

Ngoài trạng thái vô niệm đó mà nói ngộ đạo, dều là chuốc lấy tiếng cười.

(Xin tham khảo thêm hai quyển Giải Thoát Học và Thiền hải minh châu của cùng tác giả, Thiền sư Thích Quang Tông)

Nếu tiếp tục công phu đến chỗ triệt để, từ Ngộ sẽ đến Chứng. lúc ấy, chẳng những có thể đưa gà chó trong nhà lên chín tầng mây, mà còn hiểu biết rõ áo bí của vũ trụ, biến mục nát thành thần kỳ, bụi bặm đều là vật báu, mọi vật đều là vàng.

Trần thế lăn lộn trôi nổi này, chớp mắt thành cõi vàng ngọc an vui.

*Thiền sư Thích Quang Tông.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #hoc