1. Phố mới


Đứng đầu phố Hàng Mã, chỗ ngã tư Hàng Đường trông sang phố Mới - phố Hàng Chiếu bây giờ, hai hàng cây nhội, vòm lá đen sẫm, thân rêu mốc thếch, dây mộc leo quấn sởn lên. Mặt đường lúc nào cũng thẫm mưa bụi nhớp nháp. Hoa nhội li ti rụng đỏ xỉn lẫn với bùn vết chân người đi chen nhau. Phần nhiều là người váy nâu áo đụp ở đầu ô Quan Chưởng vào.

Mấy năm tôi đã thôi ở Hàng Mã về Nghĩa Đô rồi, nhưng lúc nào đi qua phố Mới, vẫn thấy tương tự thế. Năm ấy, áp tết, tôi đi với dì Năm ra nhà Vạn Bảo phố Mới.

Nhà Vạn Bảo ngay giữa phố. Đi ra bờ sông, nhà Vạn Bảo ở tay phải. Lúc nào cũng có chú khách gầy móp xương hóc, cởi trần ngồi cái ghế đẩu canh cửa. Nhà cầm đồ Vạn Bảo, chủ là người Tàu.

Người cầm đồ cho vay lãi, làng tôi vô khối. Chỉ vài đồng bạc cũng thành cái vốn còm để có thể cầm bán quanh quẩn. Chiếc thắt lưng, bộ xà tích, chục cái bát mẫu, cái mâm, cả bát ăn cũng đem cầm được. Lúc túng, coi như giựt nóng.

Nhà tôi thường túng bấn như nhiều nhà trong xóm. Nhưng chẳng gì cũng có khung cửi đương làm, lại nữa các dì tôi đều chưa chồng, cho nên phải giữ mẽ đôi chút. Khi có cái cầm bán, chẳng dám đánh tiếng hỏi han xung quanh. Mà phải đem đi cầm tận ngoài Kẻ Chợ. Mà nào của nả báu ngọc cho cam. Cái áo the, cái quần lĩnh, cái mâm thau... Nhưng cốt là còn lành lặn, "các chú khách" nhà Vạn Bảo mới cho cầm.

Dì Năm tôi đi chuộc cái áo cánh bông. Ngày thường dù rét mướt đến đâu, có thể cứ xống áo cũ vá đụp lên, thế nào xong thôi. Nhưng tết nhất đến nơi rồi, không thể như vậy được. Cái áo bông của dì tôi, xa tanh đen lót lụa màu cánh chả, áo mồi đấy.

Mưa bụi. Có lẽ mưa bụi đã nhiều ngày. Những cây nhội che mái nhà, người qua lại trên mặt đường âm u, xám ngắt, nhẽo nhợt ra. Mấy cửa hàng bán củ nâu hai bên cửa ô, từng đống nâu chất cao xám xịt như đống đất. Các nhà bán thừng, bán chiếu, mưa hắt thâm xì.

Thành tên phố Mới, phố Hàng Nâu, rõ ràng chẳng phải chỉ vì ở đấy liên quan đến việc bán chiếu, bán củ nâu gần bến Nứa, của rừng bên kia sông lúc nào cũng đem sang đổ lên đấy. Mấy ai nhớ được phố Mới, ấy là thời lão Tây buôn Đồ Phổ Nghĩa (1) đem quân Tàu Cờ Vàng tận Vân Nam về, lên chiếm đất lập "Phố Mới". Tông tích cái phố Mới là như thế. Về sau này, Tây lấy tên Đồ Phổ Nghĩa đặt cho phố Mới, phố Đồ Phổ Nghĩa! Người ta vẫn gọi là phố Mới và bây giờ ai cũng chỉ biết phố Mới là cái chợ mua bán người, là nơi có hiệu cầm đồ của người Tàu mở to nhất Kẻ Chợ. Và quanh chân cửa ô Quan Chưởng là phố Hàng Nâu.

[1] Phiên âm của Jean Dupuis tên một nhà buôn người Pháp

Trông vào phố Mới lúc nào cũng thấy ủ ê, hốt hoảng, những nét mặt người ngoài đường, người đứng tụ tập, ướt át, bẩn thỉu. Cả đến trong cái ngách cửa hậu vào chợ Đồng Xuân cũng lôi ra được một nút người sầu thảm như thế.

Ngày trước, Vũ Trọng Phụng đã viết "Cơm thầy cơm cô", thiên phóng sự thấm thía về cái chợ buôn bán người ở phố Mới này. Các nơi, các tỉnh quanh đây đói việc, chẳng ai bảo ai đều kéo nhau về phố Mới. Đêm hôm rúc ráy ngủ nghê ở đâu, ban ngày bò ra đứng bày hàng từng lũ trên đường, trên hè. Các mụ Tú Bà làm mối người te tái đi lại, thoáng trông đã đoán biết. Nếu nhầm, chỉ nhầm với mấy con mẹ ngồi đổi tiền đằng cửa chợ có chiếc thúng nhòi để trước mặt. Các mụ ấy thường mặc áo nâu vải rồng đóng khuy, mở khăn vấn lộn ngược. Mụ thì gầy đét cá mắm, mụ thì béo tròn như cái cối xay. Nước da chì xám xỉn, con mắt đảo điên, đứng đây mà nhớn nhác nhìn ra tận đằng kia.

Ngón tay vuốt mép ăn trầu cắn chỉ, cứ liến thoắng:

- Tôi kiếm cho cậu cái món được mã nhé. Thổi cơm, giặt giũ, sai bảo, gì cũng nhanh tay, nhanh miệng. Lại kháu nữa! Không ỡm ờ đâu. Nói thật.

- Cụ thì cứ kén người chân tay chắc chắn, không tốn cơm mà nuôi những của nỡm, lóng ngóng động đâu vỡ đấy. Cụ cho giá xem nào?

- Ờ, sữa tốt, nhiều lắm, cứ vọt tứa ra thế kia. Người đồng chiêm mà. Nghèo thì phải bỏ con ở nhà nuôi lã lần ra tỉnh đi ở vú kiếm miếng thôi. Chứ người khỏe như trâu lăn ấy. Mợ định cho bao nhiêu?

Đủ loại kẻ ăn người ở trong nhà. Con sen, con nhài, con nụ, vú em, u già, cậu nhỏ, anh xe, thằng quýt. Cứ nhong nhóng đứng đám đấy. Các mụ Tú Bà nháo nhác, táo tác chạy đèn cù tán tỉnh chào hàng, nói thách, ngã giá, đòi tiền lót tay. Khách mua người đã đưa người đi rồi đến lúc ngắm lại thấy có điều không ưng, quay lại, tìm mụ, vẫn con mụ ấy, thế mà mụ phủi áo cãi phứa không biết, không biết. Thế là một trận xỉa xói nhau lại um lên.

Người các làng cả năm cả tháng chẳng ra Kẻ Chợ đều phải khiếp cái phố Mới. Sợ dây vào quân nặc nô. Lo thân một ngày kia mình chẳng may sa vào đây. Lại còn bọn thầy tướng, bọn bói bài tây, bọn chơi cua cá bạc bịp nhan nhản khắp phố, lan sang cả Hàng Đào, Hàng Ngang.

Một mụ béo núc tӵ dưng đi theo dì tôi. Mắt cú vọ nhìn người soi mói như lạ lùng lắm. Rồi bỗng bước lên trước mặt. Một tay mụ vuốt lên tay áo dì tôi:

- May quá, trông cô cũng được nước đấy. Có nhà trên phố Tây đương cần chị hai. Chị hai, cô khâu đầm, cô vú đầm ấy mà. Làm với Tây, tha hồ ăn trắng mặc trơn. Khổ người như cô, mảnh dẻ, nhỏ nhắn, Tây người ta ưa. Chị hỏi khí không phải, cô ra Kẻ Chợ có việc gì thế?

Dì tôi lúng túng:

- Tôi, tôi...

Mụ kia ngoác loe miệng, lại quệt mép trầu, nói:

- Người như cô chắc chẳng phải ra đây làm con nhài, con nụ đi ăn đi ở như người ta.

- Vâng ạ.

- Trông biết ngay mà. Ra Vạn Bảo cầm đồ, chuộc đồ hả?

- Vâng ạ.

- Đấy cô xem, con mắt chị có tinh đời không. Cô em tính kệ đi nhé. Muốn đi khâu đầm. Hay làm chị hai. Một bước lên quan rồi!

Dì tôi vẫn lúng túng:

- Em chẳng biết thế nào.

Mụ ấy buông một câu:

- Cô em cứ ngẫm cho cẩn thận. Chị chỉ mới cần em đưa chị một đồng bạc, đồng thơm đồng thảo lấy may thôi. Mọi sự sau này hẵng hay.

Rồi mụ không nói gì nữa, ngoảy sang với một đám đứng hè cạnh đấy, lại nói nói cười cười với đám bên kia. Như thể người ta còn nghĩ. Đúng như quân bài tây lật mặt thoăn thoắt, chẳng biết thế nào. Dì cháu tôi càng chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao.

Nhà cầm đồ Vạn Bảo có cái hẻm lối đi con con chỉ vừa một người len vào, thì đến một cửa mắt cáo thấy cái lỗ tròn. Dì tôi cầm tờ biên lai, kèm với tiền chuộc, tiền lãi đặt trước ô cửa. Chỉ thấy một bàn tay gầy gụa đen như ám khói thuốc phiện thò ra lặng lẽ vơ cả vào. Khác nào các thứ đồ cúng dâng ông Trằn tinh trong chuyện Thạch Sanh. Nháy mắt, đã trông thấy cái áo bông của dì tôi được gấp nếp cẩn thận, vẫn bàn tay xương xẩu lúc nãy lại thò đưa ra.

Rồi dì cháu tôi đã ra về đến giữa phố. Vẫn ngổn ngang, túi bụi những người trên lòng đường, dưới trời bụi mưa trắng sáng.

Cái mụ mối lái người lúc nãy lại ở đâu bước tới. Hay mụ vẫn đứng rình đợi chỗ nào, ai biết được.

Mụ nói tự nhiên, như vẫn đương dở câu chuyện. Dì tôi bây giờ đã bạo dạn hơn, dì tôi đáp:

- Phúc đức quá, gặp bà có lòng giúp cho em. Mời bà lên chơi nhà. Thế nào em cũng xin chu tất.

Mụ cười bả lả:

- Đành thế rồi. Nhất định phải lên cho biết nhà biết cửa cô em chứ. Còn phải một bữa túy lúy cơm rượu nữa chứ, còn đi lại dài lâu nên tình nên nghĩa chứ. Nhưng lạy thánh mớ bái, phải có một mảy làm của tin, "của tin gọi một chút này làm ghi", có của tin mới có lòng thành, em ạ.

- Mời bà lên chơi nhà... Bà cứ nói... cứ hỏi... nhà em ở chỗ chợ Bưởi đi vào...

- Được rồi, trò chuyện bây giờ xong với em, chị còn phải chạy đi nói lại với người ta. Tây người ta nói chắc như đinh đóng cột ấy. Thế nào chị cũng lên nhà. Nhưng mà phải...

- ... Em gửi bà...

- Bao nhiêu?

- ... bà... một hào...

- Phỉ phui! Thèm vào! Lót tay cái rơm cái rác thế à?

Dì tôi nhăn nhó, khẩn khoản:

- Nói thực với bà. Chuộc cái áo này, em hết tiền rồi. Hôm nào bà lên nhà, em xin... nhà em ở chỗ chợ Bưởi vào. Bà cứ hỏi, cứ hỏi...

Đồng hào bạc trắng, dì tôi cầm trong lòng bàn tay. Mụ ấy nhổ bẹt một bãi nước bọt xuống đất, để làm hiệu phỉ phui đốt vía rồi chép miệng, cất cái giọng chán khê nằng nặc: "Từ sáng đến giờ! Thôi cũng mở hàng lấy may...". Mụ rón đầu ngón, nhặt đồng hào. Như thể ghê tay không đáng cầm. Trên tàu điện, dì Năm ngồi cạnh tôi, cũng như ban sáng. Nhưng mà sao thấy lạ. Tôi chưa thể hiểu được công việc của người lớn. Cảm như có cái gì khác buổi sáng, khi hai dì cháu ở nhà ra đi. Tôi cũng biết thế là dì Năm tôi sắp được xuống Kẻ Chợ làm chân chị hai, chân khâu đầm cho nhà Tây. Tôi đã trông thấy ở phố thanh vắng, cái nhà Tây có hai cánh cửa sắt mở, ô tô chạy ra chạy vào. Dì Năm sẽ được đi vào cái cửa ấy à? Dì Năm đi làm việc trong ấy à? Lấy ông bếp, ông bồi, ông tài xế hay lấy ông Tây cũng nên. Lấy chồng Tây thì sung sướng, nhưng phải cái bị người ta gọi là con me tây. Vùng tôi cũng chưa có ai như thế. Tôi không biết tưởng tượng ra hơn bao nhiêu điều "ấy à" lộn xộn nhưng ngạc nhiên.

Đến hôm hẹn, cả nhà tôi cứ lẳng lặng kín đáo mà lại tấp nập khác thường. Dì Năm quét sân, nhát chổi moi móc kỹ lưỡng cả trong góc vách. Thế mà lát sau, ông tôi lại ra quét lại. Tiếng chổi quẹt quẹt lạ lạ, xôn xao thế nào. Nhà có khách, nhà sắp có khách ngoài phố về.

Khách là cái bà mặt béo xám đã cầm của dì Năm một hào bạc. Làm sao mà tôi ghét cái con mụ! Nhưng rồi tôi lại mong người ta đến, đem dì Năm đi làm khâu đầm, làm chị hai ở nhà Tây. Rồi tôi lại thấy cứ ghê ghê rợn rợn, như nhà sắp có ma, nửa đêm gà gáy ma hiện ra.

Mãi tận chập tối, dường như cả nhà ai cũng đều nghe, chẳng thấy người bước vào ngõ. Đến quãng xâm xẩm thế này thì hết tàu điện rồi. Vậy là dì Năm tôi bị lừa mất một hào. Năm nay dì Năm đã kém một tuổi đầy tám mươi. Dì tôi và các em tôi ở Sơn Tây. Chuyện này, chắc dì đã quên lâu.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip