30. Ven hồ Tây
Ai hỏi tôi nhớ nhất chỗ nào ở Hà Nội, tôi thường chỉ nhớ những con đường ven hồ Tây. Kỷ niệm thuở nhỏ thì không bao giờ phai được.
Tôi tìm nhặt búp đa trên đường Cổ Ngư. Cây đa ở đây, giống đa nhựa, đa lông làm bóng đá được. Búp to, thổi lên, phồng như khúc lòng lợn.
Ở hồ Tây cứ lâu lâu lại có người chết đuối. Người chết đuối hay người đi trẫm mình, thật cũng không rõ. Xác người chết nào cũng dẹp đét như con mắm. Trông thấy xác chết được vớt lên, nằm đắp chiếu ở mép cỏ. Thật lâu, tôi sợ không dám đến nhặt búp ở cây đa cạnh ấy. Dần dần, suốt hai bên đường, hồ Trúc Bạch và hồ Tây, có đến hàng chục cây đa có ma người chết đuối.
Tiếng kèn lính tập vang vang cũng không át hẳn được cái hoảng sợ ma. Buổi sáng nào cũng có một đám lính trong Cửa Bắc đi ra. Đấy là lính tập thổi kèn. Mỗi người lính đeo vai một chiếc kèn đồng loa cuốn vòng tròn, sáng vàng lóe. Hàng lính bước đều đều, tay ve vẩy khoan thai, chân đi đất tăm tắp nhanh nhanh bằng nhau. Mặt người nào cũng chăm chắm nhìn nghiêng lên cành đa. Như tìm cái gì trên ấy. Không phải, luật lính người ta khi đi đều phải vênh cằm, vênh mặt lên như vậy.
Một quan Tây ria vểnh chắp tay sau lưng, không bước cùng hàng với ai, đi lững thững nhìn ra hồ.
Hàng lính tụ lại bãi cỏ bên bờ. Rồi giãn rộng ra, đứng thẳng cách nhau có đến hai đòn gánh. Chiếc kèn loa cầm sắp sẵn bên tay.
Ông cai người ta lúc nãy bước đi đầu bây giờ ra trước hàng lính, tự dưng nói một câu lạ lắm. Tôi chỉ đứng xem, nghe thấy mà cũng hốt.
Ông cai nói to:
- Đứng khéo, đứng khéo. Đứng xa nhau ra! Để Tây người ta đến tát mỗi người một cái hai cái. Tát thế cho giãn má, biết chưa? Có giãn má ra, mới nhiều hơi thổi kèn. Đứng khéo, đứng khéo. Đứng xa nhau ra, xa nhau ra!
Ông cai dõng dạc, thong thả nói lại câu ấy lần nữa.
Nhiều buổi sáng, tôi đứng xem ông cai nói rồi lão quan Tây râu vểnh bước đến giơ thẳng cánh tay tát thật lực từng người. Những cái tát cứ phăng phăng. Hai má mỗi người lính đỏ lự, lằn vết ngón tay chuối mắn. Tôi trông thấy thế nhiều lần. Làn nào nghe câu nói "đứng khéo, đứng khéo" rồi tiếng tát đốp đốp, biết trước rồi mà tôi vẫn giật mình.
Lại đến buổi trưa, con đường trải đá ra đầu ô Yên Phụ thật giãi nắng. Nước hồ Tây ánh lên mặt đường lởm chởm trắng xóa. Đi phải nhón gót cũng rát cả chân.
Thế mà giữa đường nắng nằm lù lù cái xe vuông sơn hắc ín đen sì bốn bánh sắt, giống cả chục cái áo quan xếp chồng lên nhau. Một đầu đen hở cái lỗ tròn cho người chui ra chui vào. Đấy là nhà ở có bánh xe của phu làm đường. Tưởng như nóng bức đến độ chẳng ai dám lại gần. Đứng xa, nhìn chỉ thấy vòm lỗ cửa tối om. Không biết trong lỗ có người nằm ngủ, có người chui vào làm gì, hay là cái xác chết đuối vừa khiêng dưới hồ lên đem đặt tạm vào đấy.
Đi đường bên này hồ lên Bưởi. Cuối làng Hồ có quãng thật vắng. Bờ hồ chỗ ấy cạn. Bãi cây rút bấc viền xanh mờ ra tận ngoài mép nước. Đứng ở cổng Rong trông về cống Đõ chỉ thấy mồ mả nhấp nhô trong tha ma quanh những cây đa, cây muỗm trước đền Voi Phục. Năm kháng chiến, Tây kéo ở Thụy Khê lên tạt vào sau làng Hồ sang Võng ra dốc Sài, đánh tập hậu chiếm đồn Bưởi - trụ sở ban chỉ huy tự vệ miền. Người ta kể ngày trước chỗ gần cổng Rong có cái miếu, tên là miếu "Ông Bảo". Lại có quán tên là quán "Giời Ơi". Sự tích thành tên quán Giời Ơi, miếu Ông Bảo thật là rùng rợn. Vắng vẻ quá, giữa ban ngày cũng gặp cướp đường. "Lại đây ông bảo". Người đi đường chạy. Nhưng chạy đâu. Một bên hồ nước. Một bên bãi tha ma. Cướp đuổi đến sau lưng rồi. Làng Thụy, làng Hồ đều còn ở xa. Người cùng đường kia chỉ còn giơ tay lên, gào một tiếng khủng khiếp "Giời ơi!".
Tôi đã có lúc tò mò tìm xem chỗ nào miếu "ông bảo", quán "giời ơi" mà không thấy dấu vết đâu. Hỏi cũng không ai biết, tưởng như cái quán, cái miếu có ma đã biến mất. Song lúc đi qua vắng vẻ vẫn cảm thấy trờn trợn, chập chờn.
Sau này, có dịp đi xa, thấy ở nhiều nơi những quãng đường thanh vắng hay có cướp đường, người ta cũng nói đấy là miếu Ông Bảo, quán Giời Ơi cùng với những chuyện ghê rợn quanh sự tích tên quán, tên miếu. Tôi hiểu có lẽ không ở đâu có cái quán, cái miếu thật tên như thế, mà đấy là chỗ tai nạn xảy ra và nỗi lo gặp cái chết của người ta khi đi quãng đường vắng đã thành hình thù tên miếu, tên quán như câu chuyện được kể lại ở ven hồ Tây.
Không mấy ai còn nhớ. Chỗ nào cái xe hắc ín trưa nắng đi theo tàu lu trên đầu ô... Những người lính tập kèn... Từng đoàn thuyền chở đất bơi lử lả suốt đêm ngang qua hồ. Mỗi sáng tôi đã trông thấy những cảnh vất vả ấy. Chặp tối, trăng lên sớm. Trên bóng nước hiện ra những đoàn thuyền nối nhau chèo đi suốt đêm trên mặt hồ. Đấy là thuyền đất thó của thợ đấu đào từ cánh đồng bên Quán La chở sang bán cho nhà máy gạch Satic của Tây. Đầu đường Thanh Niên còn vết đường ray xe goòng. Chỗ ấy, bến đổ đất lên cho goòng đẩy vào nhà máy giữa phố Quan Thánh.
Đoàn thuyền hàng chục chiếc, chặp tối thì bắt đầu nhổ sào. Trăng lên, lửa thổi cơm nhập nhèm giăng dài trên mặt sóng xôn xao bóng nước, nhấp nhô cái lưng nhễ nhại ánh trăng và mồ hôi. Cả đêm, những đoàn thuyền qua lại mặt hồ.
Kíp thuyền ấy từ đồng Quán La bơi suốt sáng đã sang bờ sen trước đền Quan Thánh, khi ngoài bờ hồ vang tiếng gõ cá trong sương. Những nhà chài ở bên Nhật Tân đã ra hồ từ gà gáy. Người của ông chủ Chánh Đúc ở Thụy nhà thầu cá hồ - đã đứng trên mạn thuyền, ánh đèn bão lắc lư soi vào. Người đánh cá phải giam tiền thuế ngày xong, mái chèo nhà chài mới được động nước. Tiếng gõ dồn cá quăng lưới vang động. Sương lên nghi ngút như khói.
Những người thợ đấu trên thuyền đất buông tay chèo xuống, lảo đảo ngẩng lên. Cật sức, hết sức thì vừa tới nơi. Đàn vịt trời đen sì bay qua, đậu xuống mặt hồ phía sau lưng đình Yên Phụ, xa xa tiếng thuyền gõ đuổi cá sáng sớm.
Lúc ấy, tôi cũng đương rảo bước trên bến. Tiếng kèn đã tan tập, trống trường tôi sắp nổi rồi. Trường Yên Phụ ở bờ bên kia hồ Trúc Bạch, cái gốc cây sung già, ở sân dưới đi giữa đường hồ cũng trông thấy.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip