Phần 3 (101-150)
101. (KTNN 123, ngày 15-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Xin giải thích câu:
Sinh con rồi mới sinh cha
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
AN CHI: Tác giả Nguyễn Lân, trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Hà Nội, 1989), đã ghi về câu đó như sau: "Lời kể theo một câu chuyện truyền thuyết về luân hồi". Chúng tôi không nghĩ như thế mà cho rằng ở đây đã có một sự chơi chữ bằng cách, đánh tráo khái niệm. Sinh trong "sinh con", "sinh cháu" thì mới đúng là "đẻ", còn sinh trong "sinh cha", "sinh ông" thì chỉ là "tạo ra cương vị (cho một người nào đó)" mà thôi. Hiểu như thế thì sẽ thấy câu mà bạn thắc mắc thực ra chẳng có gì bất thường. Một người đàn ông không thể trở thành cha nếu chưa có con, cũng như không thể trở thành ông nếu con mình chưa có con. Vậy sự ra đời của một đứa con là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông được làm cha cũng như sự ra đời của một đứa cháu là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông được làm ông. Liên lục bát đã nêu rõ ràng chẳng có gì nghịch lý cả.
★ 102. (KTNN 123, ngày 15-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Tôi thường nghe nói "Hợp chủng quốc" nhimg sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (Nhà xuất bản Giáo dục, 1991), tr.68 thì lại viết: "Hợp Chúng Quốc Châu Mỹ". Vậy gọi thế nào cho đúng? Xin hỏi thêm: "chung cư" và "chúng cư" có giông nhau không? Tại sao?
AN CHI: Gọi cho đúng thì phải là Hợp chúng quốc, dịch từ tiếng Anh United States. Hợp chúng quốc châu Mỹ là United States of America. Đây là tên chính thức và đầy đủ của nước Mỹ tức Hoa Kỳ. United là "hợp", còn States là "chúng quốc". Chúng là một hình vị tiếng Hán, có nghĩa là đông, nhiều, như có thể thấy trong chúng dàn, chúng nhân, chúng khẩu, chúng sinh, quần chúng, đại chúng, công chúng, xuất chúng, v.v. Vậy chúng quốc có nghĩa là nhiều nước (Hợp chúng quốc châu Mỹ hiện nay có 50 "nước", tức "staté", mà tiếng Việt gọi là bang). Do không rõ nguồn gốc và ý nghĩa của hình vị đang xét, lại thấy hoặc nghe nói Hoa Kỳ là một quốc gia có nhiều sắc tộc từ các nước, các châu đến sinh cơ lập nghiệp nên một sô' người mới biến Hợp chúng quốc thành "Hợp chủng quốc", nghĩ rằng chủng có nghĩa là giống người, là chủng tộc. Nhưng tên United States hoàn toàn không nhắc đến chủng tộc.
Trong khẩu ngữ hiện nay, chung cư đồng nghĩa với chúng cư vì đó chỉ là chúng cư bị nói sai đi. Chúng trong chúng cư cũng chính là chúng trong Hợp chúng quốc. Chúng cư là một tập hợp của nhiều căn nhà, căn hộ có kiến trúc và thiết kế giống nhau, tạo thành một quần thể thống nhất, xây dựng trên một khu vực nhất định. Cũng do không biết nguồn gốc và ý nghĩa của hình vị chúng, lại thấy chúng cư là nơi nhiều người, nhiều gia đình thuộc nhiều gốc gác, dòng họ khác nhau đến "cùng chung sông" nên người ta mới nói sai "chúng cư" thành "chung cư".
Lôi nói sai như hai trường hợp trên, ngữ học gọi là từ nguyên dân gian. Cũng xin nói thêm cho rõ là hiện nay giữa Hợp chúng quốc và Hợp chủng quốc thì hình thức trước vẫn còn được đa số nhận thức là hình thức chuẩn và chính xác - cho nên sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 mới ghi đúng như thế - nhưng giữa chúng cư và chung cư thì hình thức sau đang có xu hướng thắng thế mặc dù một sô sách báo vẫn còn muôn hướng nó quay trở về hình thức chuẩn và nguyên thủy là chúng cư.
'k 103. (KTNN 123, ngày 15-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Có người nói tên thật của vua cuối cùng đời Thương ở Trung Quốc không phải là Trụ. Vậy Trụ là gì và tên thật của Trụ là gì?
AN CHI: Trụ là tên do người đời đặt để gọi ông vua cuối cùng của nhà Thương (cũng gọi là nhà Ân), về tiếng Trụ, Từ nguyên đã giảng như sau: "Theo phép đặt tên thụy, phàm kẻ tàn nhẫn phụ nghĩa thì gọi là trụ. Vua nhà Ân là Tân, nướng đốt người trung nghĩa tài giỏi, mổ bụng phụ nữ có thai cho nên thiên hạ gọi là Trụ" (Thụy pháp tàn nhẫn tổn nghĩa viết trụ. Ân đế Tân phần chá trung lương, khô thích dựng phụ, cố thiên hạ vị chi Trụ).
Tên thật của Trụ là Tân. Sử ký, Ân bản kỷ chép: "Vua At băng, con là Tân lên ngôi, thiên hạ gọi là Trụ". Tân là tên đặt theo thập can. Đây là thể chế đời Ân quy định việc lấy ngày đặt tên. Nguyên thập can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) là hệ thống tên ngày của đời Ân (đó là tên của mười ngày trong tuần vì một tuần xưa có mười ngày, còn thập nhi chi là tên của mười hai giờ trong một ngày-đêm). Nhìn vào phả hệ nhà Ân thì sẽ thấy đúng như thế. Con của Tân là Canh, cha của Tân là Ât, cha của Ât (ông nội của Tân) là Đinh, V.V.. Đó đều là tên lấy trong thập can.
Sau đây là lời giải đáp về cách đặt tên trên: "Tại sao kẻ sáng lập ra thời đại có sử trước hết lại phải lấy ngày đặt tên? Sự thăm dò khí hậu nhất định rất quan trọng đối với sinh hoạt của người chăn nuôi (ở thời nhà Ân - AC), nhất là những ngày mưa gió đối với bầy súc vật; trong bốc từ còn giữ lại những lời bói toán về tai nạn gió mưa, để đoán lành dữ, họa phúc. Đồng thời, khí hậu tự nhiên có tính chất thời tiết cũng rất quan trọng đối với việc trồng trọt sản xuất, đôi với việc vua chinh chiến, đối với việc bản tộc sinh sôi nảy nở ra nhiều. Cho nên việc tiền nhân nhà Ân lấy ngày đặt tên phản ánh sự nắm vững hoàn cảnh tự nhiên biến hóa, đặc biệt là nắm vững quan niệm thời gian" (Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường, Bàn về tư tưởng cổ đại Trung Quốc, Chu Thiên và Lê Vũ Lang dịch, Hà Nội, 1959, tr.103).
★ 104. (KTNN 123, ngày 15-11-1993)
ĐỘC GLẢ: Tại sao lại gọi Hoa Kỳ là Chú Sam?
AN CHI: Chú Sam là dịch từ tiếng Anh Uncle Sam. Cụm từ này đã được Petit Larousse Illustré 1992 giảng là "hình thức nhân cách hóa mỉa mai của Hiệp chúng quốc (= Mỹ - AC) mà tên gọi được lấy từ các chữ U.S.Am (Unites States of America)". Chữ u đã được diễn đạt thành Uncle = (chú) còn chữ s được ghép với Am mà đọc thành Sam.
Chúng tôi cho rằng trên đây là một cách giải thích khiên cưỡng. Người Mỹ chỉ viết tắt United States of America thành U.S.A. hoặc bỏ A. (= America) mà viết thành U.S. Nhưng "U.S.Am" thì lại là một hình thức dị thường. Liên quan đến hai chữ cái a và m, tiếng Anh chỉ có các dạng tắt quen thuộc sau đây: - AM là amplitude modulation (điều biến biên độ) - A.M. (do tiếng Latin Artiurn Magister) là Master of Arts (Cử nhân Vần chương); - A.M., cũng viết a.m., do tiếng Latin anti meridiem nghĩa là ngọ tiền (= trước 12 giờ trưa); - Am., trong ngữ học là American (tiếng Mỹ). Chúng tôi chưa thấy trường hợp nào mà Am lại là dạng tắt của America (= châu Mỹ).
Eric Partridge đã khẳng định trong Origins (Routledge & Kegan Paul, London, 1961) rằng Sam là dạng tắt của Samuel. Chúng tôi cho rằng đây là một điều khẳng định xác đáng. Partridge cho biết tiếp rằng Sam xuất hiện những lần đầu tiên là trong hai cụm từ Sam Browne belt và Uncle Sam. Sam Browne belt (tức Samuel Browne belt) là thắt lưng (dây nịt) của Samuel Browne, rồi thắt lưng theo kiểu (thắt lưng) của Sam(uel) Browne. Ngày nay, người ta chỉ nói Sam Browne để chỉ thắt lưng và đai của sĩ quan. Còn Uncle Sam là cụm từ mà dân một địa phương ở Hoa Kỳ đã dùng để gọi một viên thanh tra thịt súc vật tên là Samuel Wilson, đương chức khoảng thập kỷ 1810. Ông này chuyên môn đóng con dấu có các chữ "U.S. - E.A" vào các súc thịt nguyên con (chưa sả). E.A. là Elbert Anderson, tên của người cung cấp thịt theo hợp đồng lúc bấy giờ. Còn U.S. đương nhiên là United States (= Hoa Kỳ). Nhưng rõ ràng U.S. cũng còn là hai chữ đầu của Uncle Sam. Chính vì vậy mà dân chúng ở đó đã đồng nhất hóa U.S. = United States với U.S. = Uncle Sam mà gọi đùa Hoa Kỳ là Chú Sam vì Uncle Sam, tức Samuel Wilson, nắm con dấu có hai chữ U.S. thì cũng được coi như "đại diện" ngon lành cho United States tức Hoa Kỳ, mặc dù đó chỉ là con dấu để đóng vào thịt súc vật mà thôi.
Webster's New International Dictionary cũng giải thích tương tự như E. Partridge. Rõ ràng là trong trường hợp này Origins hợp lý và đáng tin hơn Larousse.
105. (KTNN 124, ngày 20-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Lịch sử văn minh Trung Quốc của Will Durant do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch (Trung tâm thông tin Đại học sư phạm/ Thành phố Hồ Chí Minh, 1990) trang 32, có chép rằng Trụ vương là một ông vua đã chế tạo ra quản bút. Dịch giả có ghi nơi cước chú như sau: "Bản tiếng Pháp: inventeur des bâtonnets (người chế tạo ra những gậy nhỏ). Tôi đoán là quản bút". Vậy có đúng "bâtonnet" là quản bút và vua Trụ đã sáng chế ra quản bút như Nguyễn Hiến Lê đã đoán hay không?
AN CHI: Bâtonnet ở dây đồng nghĩa với baguette và có nghĩa là đũa (dể gàç thức ăn). Đũa, tiếng Hán gọi là trợ, giáp hoặc khoái. Ở chữ trợ, Từ hải đã ghi như sau: "Sử ký, Thập nhị chư hầu niên biểu: Trụ vi tượng trợ nhi Cơ Tử hy" nghĩa là "Niên biểu mười hai chư hầu trong Sử ký chép: Trụ làm đũa ngà mà Cơ Tử nghẹn ngào" (Cơ Tử là thái sư nhà Thương, thấy Trụ vô đạo nên đã nhiều lần can gián mà không được). Vậy nếu có xứng đáng được gọi là người sáng chế, thì Trụ chỉ chế ra đũa chứ không phải quản bút. Một ông vua hoang dâm và bạo ngược thì chế ra quản bút để làm gì!
Nhưng chúng tôi cho rằng Trụ cũng không phải là người đã chế ra đũa. Chẳng qua ông ta đã bắt thợ làm đũa ngà để tổ chức yến tiệc linh đình, khiến cho thái sư Cơ Tử phải nghẹn ngào, uất ức mà thôi. Vậy trước Trụ, người Trung Hoa cũng đã dùng đũa rồi.
Để biện bạch cho cách dịch của mình, Nguyễn Hiến Lê đã viết: "Mới đầu người Trung Hoa dùng dao khắc chữ lên thẻ tre, tới đời Thương dùng những cái que có đầu nhọn chấm vào một thứ sơn viết lên thẻ tre - tức như quản bút, sau tới đời Tần mới dùng những cành trúc đầu cắm lông để nhúng vào sơn viết lên lụa". (Sđd, tr.32, chth.l). Lời biện luận này không có căn cứ vì ở đời nhà Thương chỉ mới có giáp cốt văn là chữ khắc trên yếm rùa, xương thú và kim văn là chữ minh văn trên đồ đồng, còn thẻ tre (trúc giản) thì đến đời Hán mới có.
Vả lại, nếu bâtonnet thật sự có nghĩa là quản bút thì dịch giả bản tiếng Pháp đã viết inventeur du bâtonnet, nghĩa là đã dùng bâtonnet ở số đơn (singulier) chứ không phải ở sô nhiều (pluriel) như đã thấy. Điều này chứng tỏ rằng đây là đũa: vì đũa thì có đôi nên danh từ hữu quan mới được dùng ở số nhiều là bâtonnets. Thật ra ở trên chỉ là biện luận cho có lý có lẽ, chứ bâtonnet không bao giờ có nghĩa là "quản bút" cả.
'k 106. (KTNN 124, ngày 20-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Có người nói rằng các nhà khảo cổ đã gọi những cồn ngao, cồn hến ở ven biển là "đống rác bếp". Vậy "đống rác bếp" là gì, ở Việt Nam có "đống rác bếp" hay không?
AN. CHI: Về khái niệm này, Guy Rachet đã cho biết sơ lược như sau: "Vào năm 1869, Steenstrup và Worsae bắt đầu nghiên cứu những dải cồn dài dọc miền duyên hải Đan Mạch cấu tạo bởi những đống vỏ ốc và xương cốt, (những cồn này) không phải gì khác hơn là những đống rác hoặc những mẩu thừa từ thức ăn của cư dân thời đồ đá mới sơ kỳ; những cồn đó được gọi là kjokkenmodding (những mẩu vụn từ thức ăn bằng tiếng Đan Mạch) hoặc skaldinger (đống vỏ ốc). Giữa những chất thải đó, đã lẫn lộn những dụng cụ bằng đá hoặc bằng xương (...)" (L'univers de l'archéologie, t.I, Paris, 1970, p.258). Sách báo tiếng Việt gọi đó là đống rác bếp, đống vỏ sò hoặc cồn sò điệp, còn tiếng Anh thì sao phỏng thành kitchen midden.
Ở Việt Nam, có di chỉ Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, được các tác giả Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn và Diệp Đình Hoa giới thiệu như sau: "Đây là một đồi vỏ sò điệp lớn nằm ven đường quốc lộ số 1, cách thành phố Vinh 57 ki-lô-mét về phía Bắc. Trước đây Bùi-dương-Lịch đã mô tả đồi vỏ điệp này trong sách Nghệ-an ký và coi đây là dấu tích cửa biển xưa. Mãi đến năm 1963, người ta mới phát hiện ra rằng đồi sò điệp
Quỳnh-văn là một di tích khảo cổ học và vỏ sò điệp chất lại thành quả đồi lớn này không phải là do thiên nhiên mà do bàn tay của người nguyên thủy (...) Người nguyên thủy đã lấy các loài nhuyễn thể về ăn và vứt vỏ lại ngay nơi cư trú của họ. Lâu ngày vỏ nhuyễn thể tích lại thành đồi lớn" (Cơ sở khảo cổ học, Hà Nội, 1978, tr.202- 203).
Nhưng tác giả Nguyễn Trung Chiến, bằng khảo sát địa tầng thận trọng, đã hoài nghi kết luận trên đây. Tác giả này viết: "Không thể quan niệm đơn thuần rằng chỉ có một nguyên nhân duy nhất nào đó thuộc về tự nhiên hay con người tạo thành cồn điệp (của người cổ Quỳnh Văn - AC)" (Địa tầng Cồn Đất và vấn đề nguồn gốc các di tích cồn sò điệp thuộc văn hóa Quỳnh Vản vùng ven biển Nghệ Tĩnh, Khảo cổ học, số 3, 1984, tr.23). Và: "(...) đối với điệp, người Cồn Đất cũng như những người Quỳnh Văn xưa có sử dụng làm thức ăn, nhưng họ chỉ ăn một số lượng rất ít trong khối lượng điệp đồ sộ mà chúng ta gặp (...). Nói như vậy có nghĩa là chúng tôi khẳng định nguồn gốc tự nhiên của Cồn Đất cũng như những cồn sò điệp khác ở vùng vịnh Quỳnh Lưu." (Bđd, tr.28). Tác giả Nguyễn Trung Chiến kết luận: "Tóm lại, các tác động của tự nhiên cùng với phương thức kinh tế thu lượm theo mùa của người nguyên thủy Quỳnh Vản, theo chúng tôi, mới là những điều kiện cần và đủ cho sự hình thành các cồn sò điệp vùng Quỳnh Lưu" (Bđd, tr.29).
Chúng tôi tán thành cách nhìn nhận vấn đề thận trọng và hợp lý của tác giả Nguyễn Trung Chiến và xin trích dẫn hai ý kiến khác nhau trên đây để bạn đọc tiện so sánh.
★ 107. (KTNN 124, ngày 20-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Có phải chữ quân iễĩ trong tiếng Hán không bao giờ dùng dể chỉ phụ nữ hay không?
AN CHI: Nhiều người đã ngộ nhận như thế. Thật ra trong Hán ngữ, chữ quân vẫn được dùng để chỉ phụ nữ và công dụng này của nó đã được ghi nhận hẳn hoi trong từ điển. Từ hải ghi: "Tôn kính chi xưng dã (...) Phu nhân xưng quân (...) Phu xưng phụ viết quân" nghĩa là "Tiếng xưng hô tôn kính vậy (...) Phu nhân gọi là quân (...). Chồng gọi vợ là quân". Từ nguyên thì ghi: "Phụ xưng phu, phu xưng phụ giai viết quân" nghĩa là "Vợ gọi chồng, chồng gọi vợ đều nói quân". Hỉnh âm nghĩa tổng hợp đại tự điển ghi: "Cổ phong hiệu; nam nữ chi phong hiệu tịnh khả xưng quân" nghĩa là "Danh hiệu được phong thời xưa; danh hiệu được phong của nam nữ đều có thể gọi là quân". Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.s. Couvreur ghi: "Femme
principale du chef d'un Etat (...) Terme par lequel un fils désigne ses parents, (...), un mari sa femme (...) Terme de respect, Monsieur, Madame" nghĩa là "Vợ chính của nguyên thủ một quốc gia (...). Từ ngữ mà con dùng để chỉ cha mẹ (...) chồng (dùng) để chỉ vợ (...). Từ ngữ tôn kính, ông, bà".
Vậy quân là một từ dùng để chỉ cả nam lẫn nữ giới chứ không phải chuyên dùng để chỉ nam giới như nhiều người lầm tưởng.
★ 108. (KTNN 124, ngày 20-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Tại sao trước dây người Việt miền Nam gọi người Khmer là đàn thổi
AN CHI: Không phải "đàn thổ", mà là Đàng Thổ. Nói Đàng Thổ là để phân biệt với Đàng Trong cũng như nói Đàng Trong là để phân biệt với Đàng Ngoài và Đàng Trên (xưa gọi là Đàng Tiên). Đàng Trên chính là vùng đất mà trong những trang ghi chép của mình, A.de Rhodes đã gọi là vương quốc Cao Bằng, tức là vùng cát cứ của con cháu nhà Mạc từ 1592 đến 1677. Còn Đàng Thổ là phần đất của thổ dân, tức dân bản thổ đã sinh sông tại đó từ xưa. Thoạt đầu là tên vùng địa lý, về sau hai tiếng Đàng Thổ mới được người Nam Bộ dùng trong khẩu ngữ để chỉ người Khmer.
★ 109. (KTNN 124, ngày 20-11-1993)
ĐỘC GIẢ: Tại sao người Khmer gọi người Việt Nam là Duôríì
AN CHI: Người Khmer gọi người Việt Nam là yuôn còn người Chàm thì gọi là ywan. Nhiều dân tộc ở Tây Nguyên cũng chịu ảnh hưởng của tiếng Khmer hoặc tiếng Chàm mà gọi người Việt bằng những tên tương tự. Yuôn là dạng tiếng Khmer còn ywan là dạng tiếng Chàm của tiếng Sanskrit yavana. Trong bi ký cổ xưa bằng tiếng Sanskrit, người Chàm đã gọi người Việt bằng cái tên yavana này. Vậy yavana là gì? Dictionnaire sanskrit-français của N.Stchoupak, L.Nitti và L.Renou (Paris, 1932) đã đối dịch từ này như sau: "étranger, barbare*. Một vài học giả và nhà nghiên cứu vì hiểu nhầm barbare là "dã man" nên đã vội vàng tránh né cái nguyên từ yavana đích thực mà đi tìm cho yuôn. ywan một "nguyên từ" khác, đương nhiên là hoàn toàn xa lạ.
Sự thật thì barbare ở đây đồng nghĩa với étranger. Cái nghĩa đó đã được Nouveau Petit Larousse en couleurs (édition 1969) cho như sau: "Etranger, qui appartient à une autre civilisation" nghĩa là "dị chủng, thuộc về một nền văn minh khác". Xét theo định nghĩa này, người Khmer và người Chàm là đồng văn với người Ân Độ và đồng văn với nhau. Còn người Việt và người Nhật là đồng văn với người Trung Hoa và cũng đồng văn với nhau. Rõ ràng người Việt Nam là người "dị văn" với cả người Khmer lẫn người Chàm. Vậy hoàn toàn chẳng có gì lạ nếu họ gọi chúng ta là yavana, Khmer hóa thành yuôn và Chàm hóa thành ywan, tức là những kẻ "dị văn".
'k 110. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Theo tôi được biết thì câu "Lang bạt kỳ hồ" là một câu trong Kinh Thi. Nó không có nghĩa là sống lang thang rày đây mai đó. Tại sao người Việt Nam lại dùng nó theo nghĩa này?
AN CHI: Đúng như ông nói, lang bạt kỳ hồ là một câu trong Kinh Thi của Trung Hoa. Lang là chó sói, bạt là giẫm đạp, kỳ là một đại từ thay thế cho danh từ lang còn hồ là cái yếm da dưới cổ của một số loại thú. Vậy lang bạt kỳ hồ là con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó (nên không thể bước tới được). Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng và chú như sau: "Con chó sói giẫm lên cái phần da cổ của nó, lúng túng không biết làm sao. Chỉ sự lúng túng khó xử. Ta lại hiểu'là sông trôi dạt đây đó (không rõ tại sao)".
Điều mà quyển từ điển trên ghi "không rõ tại sao" chính là điều mà ông hỏi. Chung quy cũng là do từ nguyên dân gian mà ra. Không biết được ý nghĩa đích thực của câu đang xét, người ta đã liên hệ các thành tố củạ nó với những yếu tố mà mình đã biết: lang với lang thang, bạt với phiêa bạt, hồ với giang hồ, chẳng hạn. Thế là thành ra cái nghĩa "sông lang thang rày đây mai đó" như ông đã nêu. Chẳng những thế, người ta còn lược bỏ hai tiếng kỳ hồ mà nói gọn thành lang bạt để diễn đạt cái nghĩa trên đây. Quả vậy, Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhận: "lang bạt', sống nay đây mai đó ở những nơi xa lạ". Nhiều quyển từ điển khác cũng làm như thế vì hai tiếng lang bạt đã trở thành một đơn vị từ vựng thông dụng trong tiếng Việt.
Từ nguyên dân gian đã tạo ra lắm trường hợp oái oăm. Xin nêu thêm một thí dụ quen thuộc. Có nhiều người, kể cả nhà văn, nhà báo và nhà giáo, đã dùng yếu điểm thay cho nhược điểm. Họ nghĩ rằng yếu ở đây chính là yếu trong mạnh được yếu thua, yếu thế, ốm yếu, v.v. mà không hề ngờ rằng đó lại là yếu trong quan yếu, chủ yếu, yếu lĩnh, yếu nhân, v.v. Thực ra, yếu điểm là điểm quan trọng, còn nhược điểm thì mới là chỗ yếu. Nếu hiểu theo lối từ nguyên dân gian trên đây thì yếu nhân sẽ là người yếu. Nhưng thật ra đó là nhân vật quan trọng, thậm chí còn là VTP nữa ấy chứ!
★ 111. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Có phải Osiris trong thần thoại Ai Cập cũng chính là Zeus trong thần thoại Hy Lạp và Jupiter trong thần thoại La Mã hay không? Sự tích của Osiris có gì khác với sự tích của Zeus và Jupiter?
AN CHI: Người La Mã đã đồng nhất hóa thần Jupiter của mình với thần Zeus của Hy Lạp nhưng hai vị thần này không phải là một. Còn Osiris là một vị thần riêng biệt trong huyền thoại Ai Cập. Có thể là, ở đâu đó, người ta đã so sánh vị trí của Osiris trong huyền thoại Ai Cập với vị trí của Zeus trong huyền thoại Hy Lạp hoặc của Jupiter trong huyền thoại La Mã vì cả ba đều đứng hàng đầu. Văn khắc Ai Cập cổ đại đã tôn xưng Osiris như sau: "Vua của cõi vĩnh hằng, chúa của cõi vô tận, chủ của các vị thần và của loài người, thần của các vị thần, vua của các vị vua, chủ của các vị chủ, ông hoàng của các ông hoàng, người trị vì thế giới, đấng mà sự tồn tại là vĩnh cửu*. Với những tôn hiệu trên đây, rõ ràng là Osiris rất xứng đáng được đặt ngang háng với Zeus và Jupiter.
Osiris, Haroeris, Seth, Isis và Nephthys là con của thần Geb và nữ thần Nout, ra đời theo thứ tự đã ghi. Osiris lấy Isis còn Seth thì lấy Nephthys. Lên ngôi vua, Osiris đã dạy cho dân mình nghề trồng trọt, nghề chăn nuôi, đặt ra luật cai trị sáng suốt, còn Seth thì chỉ là một kẻ vô tích sự. Osiris tốt, giỏi bao nhiêu thì Seth xấu, tệ bấy nhiêu. Vì ganh ghét và do tham vọng, hắn đã âm mưu sát hại Osiris để chiếm đoạt vương quốc và lấy vợ của anh, cũng là em gái của cả hai.
Seth đã tổ chức một buổi tiệc khoản đãi Osiris khi anh mình vừa từ nước ngoài trở về. Hắn đã mời 72 đứa bạn đến dự. Giữa buổi tiệc, hắn cho khiêng ra một cái rương thật đẹp, đóng rất tinh xảo và nói rằng hễ người nào nằm vừa văn vào đó thì sẽ được nhận nó làm quà. Do có sắp xếp trước, một số khách mời đã vào nằm thử nhưng chẳng ai nằm vừa văn. Đến lượt Osiris nằm vào thì thượng hạ tả hữu không có chỗ nào dư. Bọn tòng phạm liền đóng rương lại. Chúng khiêng rương ra sông Nil, kéo nó đến gần cửa sông ở thành Tanis thì bỏ mặc cho dòng nước cuốn đi. Chiếc rương cứ thế mà trôi ra biển rồi giạt vào thành Byblos.
Biết tin chồng bị sát hại, Isis đã đi tìm xác chàng. Sau nhiều gian nan dầu dãi, nàng mới thấy được thi thể Osiris và đem nó từ Byblos về Ai Cập. Giữa đường, nàng phải dừng lại tại Chomnis, dự cảm sự ra đời của đứa con trai là Horus mà nàng sắp hạ sanh. Nàng giấu xác chồng trong bãi lau sậy. Nhưng trong một cuộc săn bắn, Seth đã phát hiện thi thể của Osiris. Hắn đã chặt xác của anh mình làm 14 mảnh và đem đi bỏ mỗi nơi một mảnh khắp Ai Cập. Isis lại phải khổ công đi tìm xác chồng. Tìm được mảnh nào tại đâu, nàng chôn cất mảnh đó tại đấy: cái đầu ở Abydos, cái cổ ở Héliopolis, đùi trái ở Bigen... Duy có bộ phận sinh dục thì mất luôn vì Seth đã vứt xuống sông cho cá ăn. Tuy thế, sau đó Isis cũng đã dùng phép màu mà tái tạo thân thể nguyên vẹn của chồng. Từ đó Osiris trở thành chúa tể của thế giới bên kia.
Còn Seth đã bị Horus thách đấu. Nhiều trận ngoạn mục giừa hai chú cháu đã diễn ra. Cuối cùng Seth đã bị Horus hạ gục rồi thẻo đi bộ phận sinh dục, cũng là để trả thù cho cha. Nhưng trong khi đánh nhau, Horus đã bị Seth khoét mất một con mắt mà theo một dị bản của truyện kể thì về sau chàng được thần Thot đền bù lại nguyên lành.
Về hình ảnh và vị trí của Osiris trong đời sông tâm linh của dân Ai Cập và dân vùng chung quanh Địa Trung Hải thời cổ đại, Serge Sauneron đã viết: "Vào những thời kỳ cuối cùng, khi mà thành Héliopolis (của Ai Cập - AC) cổ xưa chỉ còn là một kinh thành hoang vắng và thành Thèbes (cũng của Ai Cập - AC) chỉ còn là một bãi phế tích mênh mông thì sự sùng bái Osiris và Isis lại càng lan rộng hơn bao giờ hết. Nó lan sang các đảo của Hy Lạp, sang La Mã và sang cả những cánh rừng của xứ Germanie (Les prêtres de l'ancienne Egypte, les Editions du Seuil, 1962, pp.177-178).
★ 112. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẲ: Năm 1992, ngành Bưu chính Việt Nam có phát hành một con tem về thiếu nhi. Dọc theo rìa bên phải của nó, có hai câu song ngữ như sau:
Tất cả trẻ em là trẻ em của chúng ta All children are our children
Xin hỏi người phụ trách Chuyện Đông chuyện Tây có hiểu câu tiếng Anh trên đây theo cách mà người của ngành bưu chính đã dịch ra tiếng Việt hay không?
AN CHI: Chúng tôi không hiểu như thế. Trong câu tiếng Anh, người ta đã chơi chữ bằng tính đa nghĩa của từ: child(ren) vừa có nghĩa là trẻ con, vừa có nghĩa là con. Trong hai lần xuất hiện, lần trước nó có nghĩa là trẻ con còn lần sau nó có nghĩa là con. Vậy từ (all) children đến (our) children, đã có một sự đánh tráo khái niệm. Và all children are our children có nghĩa là: Tất cả mọi trẻ con đều là con của chúng ta.
iĩ 113. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Thỉnh thoảng báo có nói đến văn minh tiền Colombia. Xin cho biết đây là nền văn minh nào ở Colombia?
AN CHI: Văn minh tiền Colombia là một cách dịch sai từ tiếng Pháp civilisation précolombienne hoặc tiếng Anh pre-Columbian civilisation, có nghĩa là văn minh tiền Colomb. Colomb (tiếng Anh: Columbus), như ai cũng biết, là người đã phát hiện châu Mỹ còn Colombia là một nước ở Nam Mỹ, nằm trên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, giáp eo đất Panama. Liên quan đến nước Colombia, là tính từ tiếng Anh Colombian còn Columbian thì lại là tính từ tiếng Anh liên quan đến Columbus (tiếng Pháp: Colomb). Vậy pre-Columbian là tiền Colomb chứ không phải "tiền Colombia". Văn minh tiền Colomb là những nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Mỹ trước khi Christophe Colomb phát hiện châu lục này. Đó là những nền văn minh của các thổ dân vẫn thường được gọi là người Da đỏ.
Nói chung người ta đã chia các nền văn minh nói trên theo từng khu vực như sau: - khu vực Bắc Mỹ, - khu vực Trung Mỹ bao gồm: phần lớn Mexico, Guatemala, Honduras và một phần Nicaragua, - khu vực chung quanh biển Caraïbes (Ca-ri-bê), bao gồm: quần đảo Antilles, các nước thuộc phần Nam của Trung Mỹ, Costa Rica, Panama, bờ biển Đại Tây Dương của Colombia và Venezuela, - khu vực núi Andes kéo dài suốt dãy núi này từ cực Bắc của Nam Mỹ chó đến hết Chi-lê, - khu vực sông Amazone. Sự phân chia trên đây vừa dựa vào tính chất khu vực, vừa dựa vào tính tương đồng và sự tương quan của các nền văn minh đang xét.
Nổi tiếng nhất nên đã trở thành quen thuộc là văn minh Maya, văn minh Aztec và văn minh Inca mà Maya là nền văn minh rực rỡ nhất. Người Maya đã được một nhà khảo cổ học danh tiếng xem là người Hy Lạp của Tân thế giới. Đối với văn minh Aztec, nó đã có một vai trò giông như văn minh Hy Lạp đôi vđi văn minh La Mã thời xưa.
Riêng trên đất nước Colombia thì có các nền văn minh tiền Colomb sau đây: văn minh vùng Esmeraldas, văn minh Pasto, văn minh Buesaco, văn minh vùng Patia và Guachicono, văn minh Popayán, văn minh vùng Corinto, văn minh Calima. Được biết đến nhiều nhất và rõ nhất là nền văn minh Chibcha. Vì khuôn khổ có hạn nên, về người Chibcha, chúng tôi chỉ xin kể hiến ông mẩu huyền thoại ngắn sau đây.
Bochica và Chibchacum là địch thủ của nhau. Có một lần, bởi tức giận loài người không biết vì cớ gì, Chibchacum đã dìm thảo nguyên Bogota dưới những cơn mưa lũ dữ dội. Dân chúng đã đi cầu cứu Bochica. Bochica đến và dùng chiếc đũa bằng vàng của mình mà gõ nứt đá ở Tenquendama, làm cho nước chảy xuống hết (Bogota ở độ cao 2.600m). Dâri Bogota đã thoát nạn và đá bị nứt đã tạo ra những dòng thác nổi tiếng tại đây. Sau đó Bochica còn phạt Chibchacum phải vác cả trái đất trên vai nữa. Vì vậy mà mỗi lần đất rung chuyển thì người ta biết là Chibchacum đang chuyển quả đất từ vai này sang vai kia (kể theo Henri Lehmann, Les civilisations précolombiennes, Paris, 1958, p.117).
'k 114. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Trong "ăn như hạm" thì "hạm" là gì?
AN CHI: Hạm là con cọp. Đây là một biến thể ngữ âm của hầm Ềi, một yếu tố Hán Việt có nghĩa là con cọp trắng. Tiếng hàm được ghi bằng một hình thanh tự mà nghĩa phù là hổ (= cọp) còn thanh phù là cam #(= ngọt). Khang Hy tự điển, nơi bộ cam, đã cho thiết âm của nó là "hồ cam thiết" và ghi nghĩa của nó là "hàm, bạch hổ". Vậy hàm là con cọp trắng còn hạm, biến thể ngữ âm của nó, thì có nghĩa rộng là cọp nói chung. Và ăn như hạm là ăn như cọp. Người ta thường dùng thành ngữ này để chỉ hành động của bọn có chức có quyền chuyên ăn của dân mà ăn đến bao nhiêu cũng chưa thấy đã thèm. Vợ của chúng, dựa hơi dựa thế của chồng để ăn của dân gọi là hạm cái còn thuộc hạ của chúng dựa hơi dựa thế của quan trên để ăn của dân thì gọi là hạm non.
★ 115. (KTNN 125, ngày 01-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Tại sao báo chí trước đây gọi Gandhi là Mahatma và Nehru là pandit?
AN CHI: Mahatma là do tiếng Sanskrit
mahãtman, có nghĩa gốc là linh hồn vĩ đại (maha = lớn lao; atman = linh hồn). Từ này được dùng để tôn xưng các lãnh tụ tinh thần. Còn pandit là do tiếng Sanskrit pandita có nghĩa là nhà hiền triết, nhà thông thái. Từ này được dùng để tôn xưng các học giả danh tiếng.
'k 116. (KTNN 126, ngày 15-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Chúng tôi hiện đang tìm hiểu nguồn gốc gia tộc để biên tu gia phả nên muôn biết; 1. Họ của chúng tôi là Hạ, theo chữ Hán viết là ngoài nghĩa là mùa hè, chữ hạ này còn có nghĩa gì khác? 2. Ngoài họ Hạ của chúng tôi, còn có những họ Hạ nào khác, chữ Hán viết ra sao? 3. Gia phả chúng tôi có ghi: Tộc Hạ - Cối Kê quận. Các cụ trưởng lão trong tộc khi khấn vái cũng nói: "Cối Kê quận". Vậy có phải họ của chúng tôi xuất phát từ quận Cối Kê hay đó chỉ là một danh hiệu đặt riêng mà thôi? 4. Trong Tam Quốc chí có họ Hạ Hầu, họ nầy có phải gốc ở Cối Kê và có liên quan gì đến chữ của họ chúng tôi hay không?
AN CHI: 1. Chữ hạ ngoài nghĩa là mùa hè, còn có các nghĩa sau đây: - Chỉ người Trung Hoa, như trong danh xưng Hoa Hạ, do đó cũng dùng để chỉ nước Trung Hoa - To, lớn - Ngôi nhà to - (Vật) ngũ sắc - Tên triều đại. Đây là một trong tam đại (Hạ, Thương, Chu) - Quốc hiệu. a. Chỉ nước của vua Vũ, nay thuộc Vũ Huyện, tỉnh Hà Nam, b. Đời Tấn, Hách Liên Bột Bột, người Hung Nô, chiếm Thống Vạn Thành, xưng vua và đặt tên nước là Hạ, cũng gọi là Đại Hạ. c. Đầu đời Tông, Triệu Nguyên Hạo chiếm Hưng Khánh, xưng vua, đặt tên nước là Hạ, sử gọi là Tây Hạ - Họ người. Đây chính là tôn tính.
1. Theo chúng tôi tra cứu, ít nhất cũng còn có một họ Hạ nữa, chữ viết là % (trên gia, dưới bối), âm Quan thoại là Hè. Người họ này vốn thuộc về họ Khánh Ệt (= vui, mừng). Đây là một họ của người Khương. Do kiêng húy cha của vua An Đế nhà Hán nên đã phải đổi thành Hạ ^ (cũng nghĩa là mừng). Đây là trường hợp lấy từ đồng nghĩa thay thế cho từ bị kiêng kỵ.
2. Về inấy tiếng tộc Hạ, Cối Kê quận thì chúng tôi không dám khẳng định» Nhưng cứ theo thông thường khi đã ghi và đã khấn như thế thì hẳn là tôn tộc phải xuất phát từ quận Cối Kê. Đây là một quận do nhà Tần lập; đất của nó thuộc miền Đông Nam tỉnh Giang Tô, và cả miền Đông, miền Nam tỉnh Chiết Giang ngày nay nữa. Nếu thế thì tôn tộc là một dòng họ rất lâu đời.
3. Về nguồn gốc của họ Hạ Hầu, sách Tính phả cho biết như sau. Những người thuộc họ này vốn là họ Tỹ -bu . Cứ theo truyền thuyết thì đó là hậu duệ của Hạ Vũ (nhà Hạ). Khi Chu Vũ Vương lên ngôi thì phong cho con cháu của Vũ ở đất Khởi (cũng đọc Khỉ). Sau đất Khởi bị nước Sở thôn tính, em của Giản Công là Đà phải chạy sang nước Lỗ. Lỗ Điệu Công thấy Đà là con cháu của nhà Hạ nên đã phong cho tước hầu, nhân thế mới lấy họ là Hạ Hầu. Vậy chữ Hạ trong Hạ Hầu cũng chính là chữ Hạ của tôn tộc. Nhưng họ Hạ Hầu không xuất phát
từ quận Cối Kê vì đất Khởi xưa không thuộc Giang Tô hoặc Chịết Giang ngày nay mà lại thuộc Hà Nam. Nếu lấy nước Lỗ là nơi mà Đà đã lưu vong để xét thì nước này lại thuộc tỉnh Sơn Đông ngày nay, cũng không liên quan đến quận Cối Kê.
★ 117. (KTNN 126, ngày 15-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay 113, Chuyện Đông chuyện Tây, có nói đến tiếng Afrikaans và giảng rằng đó là tiếng Hà Lan nói ở Nam Phi. Xin cho biết rõ về thứ tiếng đặc biệt này.
AN CHI: Tiếng Afrikaans là một thứ tiếng Hà Lan pha tạp mà chính dân lập nghiệp Hà Lan ồ Nam Phi chấp nhận và truyền bá. Bên cạnh tiếng Anh, nó đã trở thành một trong hai ngôn ngữ chính thức của Nam Phi theo ý nghĩa đầy đủ nhất của mấy tiếng này và là ngôn ngữ pha tạp duy nhất trên thế giới có được quy chế đó.
Năm 1652, người Hà Lan đã đổ bộ lên Mũi Hảo Vọng (cực Nam châu Phi) và xây dựng thành phố Mũi Đất (tiếng Afrikaans: Kaapstad, tiếng Anh: Capetown,^ có người viết Cape Town) để làm trạm dừng chân từ Đại Tây Dương sang Ân Độ Dương (bấy giờ chưa có kênh Suez). Tại thành phố mới tạo lập này, thứ tiếng pha tạp đó, mà nền tảng là tiếng Hà Lan, đã phát triển nhanh chóng thành một phương tiện giao tiếp đắc lực và đầy hiệu quả giữa dân châu Âu với nhân công gốc Phi. Trẻ con sinh ra tại đây, bất kể nòi giông, dần dần tự nhiên trở thành dân "bản ngữ" của thứ tiếng pha tạp đó, góp phần biến nó thành phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa người gốc Âu và người gốc Phi. Khi những lưu dân Hà
Lan càng đi sâu vào nội địa Nam Phi thì ngôn ngữ mới mẻ này phát triển càng rộng, càng xa. Tuy nhiên tiếng Hà Lan chính gốc vẫn còn là ngôn ngữ viết của họ.
Tình hình ngôn ngữ trở nên phức tạp hơn khi người Anh thiết lập thuộc địa tại vùng Mũi Hảo Vọng vào năm 1806. Từ đây, bắt đầu một thời kỳ Anh hóa. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ của xã hội thượng lưu. Năm 1820, di dân người Anh tiến xa về hướng đông. Nhưng tiếng Afrikaans, mặc dù không có tư cách chính thức, vẫn tiếp tục là ngôn ngữ được dùng trong sinh hoạt gia đình của cả người da trắng lẫn người da đen. Đặc biệt, người Boer (thực dân Hà Lan) thì hoàn toàn lẩn tránh việc Anh hóa khi họ di cư sâu vào nội địa theo hướng Bắc để thành lập quốc gia tự do Orange và xứ Transvaal trong thập kỷ 1830.
Đến thập kỷ 1870 thì vấn đề ngôn ngữ đã trở thành mục tiêu chủ yếu trong cuộc đấu tranh chính trị của dân Afrikaner (người Hà Lan nói tiếng Afrikaans). Đã từ lâu không còn có liên lạc gì với Hà Lan chính quốc, rất ít người còn nói hoặc viết đúng được tiếng Hà Lan chính gốc nên họ chủ trương rằng tiếng Afrikaans phải là ngôn ngữ tương lai của Nam Phi. Thế là họ bắt đầu công cuộc xuất bản bằng tiếng Afrikaans.
Năm 1902, các nước cộng hòa của người Boer mất quyền độc lập và trở thành một bộ phận của đế quốc Anh. Nhưng người Boer chống lại việc Anh hóa các lãnh thổ của họ và trong đạo luật thành lập Liên bang (Nam Phi), bên cạnh tiếng Anh, tiếng Hà Lan đã được thừa nhận là ngôn ngữ chính thức trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, quy chế này của tiếng Hà Lan chẳng hề đem lại lợi ích gì cho người Afrikaner vì họ đã quên bẵng nó đi rồi. Vì vậy mà đã diễn ra một cuộc vận động rộng khắp đòi thừa nhận tiếng Afrikaans. Kết quả là đến năm 1926 thì thứ tiếng pha tạp đó đã trở thành một ngôn ngữ chính thức của Nam Phi, thay thế cho tiếng Hà Lan bên cạnh tiếng Anh.
if 118. (KTNN 126, ngày 15-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Theo Từ điển Phật học Việt Nam của hai ngài Thích Minh Châu và Minh Chi thì Kim xỉ điểu là "một loại chim thần thoại, mình chim, đầu người". Vậy có phải đây cũng là nữ thần thân chim đầu người trong thần thoại La Mã hay không?
AN CHI: Kim xí điểu - chứ không phải "Kim xỉ điểu" như đã in trong Từ điển Phật học Việt Nam — không phải là loại chim mình chim đầu người mà ngược lại. Xí (có sách phiên sí) là cánh; vậy kim xí điểu là "chim cánh vàng". Đây là ba tiếng mà người Trung Hoa đã dùng để chỉ giống chim thần trong huyền thoại Ân Độ mà tiếng Sanskrit gọi là garuda (Pali: garula). Người Trung Hoa cũng phiên âm tên này thành ca lâu la hoặc ca lưu la. Con garuda, tức kim xí điểu, có đầu chim - chứ không phải đầu người - mỏ chim, cánh chim, móng chim và chân người, mình người - chứ không phải mình chim. Nó là vật cỡi của thần Vishnu bên Ân giáo, là chúa tể của loài chim và là kẻ thù của loài rắn. Do đặc điểm này mà trong tiếng Sanskrit nó còn được gọi là nãga-damana, nghĩa là kẻ thuần phục loài rắn.
Còn nữ thần thân chim đầu người trong huyền thoại La Mã mà ông nói đến thì tiếng La Tinh là Harpyiae, có xuất xứ ở huyền thoại Hy Lạp. Tiếng Hy Lạp Arpuia, danh từ ở số ít, là Nữ thần mẹ của gió hoặc của những con tuấn mã cực nhanh; còn ở số nhiều, Arpuiai, thì lại là các Nữ thần của bão tô". Danh từ này bắt nguồn ở căn tố arp-, có nghĩa là cướp đi, vồ đi một cách mau lẹ. Với căn tố này, tiếng Hy Lạp còn có danh từ arpe, có nghĩa là chim cắt hoặc chim ó (mà đặc điểm là quắp mồi rồi bay lên một cách cực nhanh). Sang đến tiếng La Tinh thì nghĩa của arpe đã xen vào nghĩa của Arpuia cho nên Harpyiae mới trở thành những quái vật nửa chim nửa đàn bà: đầu phụ nữ, mình kên kên.
Vậy con garuda, tức kim xí điểu, đầu chim mình người, không có liên quan gì đến Harpyiae, đầu người mình chim.
119. (KTNN 127, ngày 22-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Tại sao Chuyện Đông chuyện Tây chỉ nói đến từ nguyên dân gian trong tiếng Việt và tiếng Anh mà không nói về từ nguyên dân gian trong tiếng Pháp? Xin cho vài thí dụ trong thứ tiếng này.
AN CHI: Chỉ vì chẳng có ai hỏi đến. Nay bạn đã hỏi thì chúng tôi xin hiến bạn vài thí dụ như sau:
Hẳn bạn đã biết thành ngữ être en nage là ướt đẫm mồ hôi. Nhưng hình thái gốc của nó chẳng liên quan gì đến danh từ (la) nage là sự bơi lội cả. Vốn nó là être en age. Age là một hình thái phương ngữ của eau (bên cạnh các hình thái khác như ève, aige, v.v. ). Vậy être en age = être en eau = ướt đẫm (mồ hôi). Vì không biết rõ hình thái gốc, lại do phải nối vần (liaison) giữa n của en với a của age thành [паз] n®n người ta đã viết thành être en nage, tưởng đâu rằng có bơi lội thì mới ướt đẫm.
Nói đến nước thì lại nhớ đến hồ. Chắc bạn cũng đã biết thành ngữ tomber dans le lac có nghĩa là thất bại, là hỏng bét. Hình thái gốc của nó không liên quan gì đến lac là cái hồ cả. Nó vốn là tomber dans le lacs. Lacs là cái dò, tức là cái bẫy thường làm bằng dây thòng lọng để bắt chim bắt thú. Vậy tomber dans le lacs có nghĩa là sa bẫy, mắc bẫy, hiểu xa hơn một chút thì coi như là "đi đoong", do đó mới ra cái nghĩa "hỏng bét". Chẳng qua người ta đã nhầm lacs thành lac.
Một thí dụ nữa là prendre Paris pour Corbeil. Hình thái gốc của nó là prendre panier pour corbeille. Panier là rổ, thúng còn corbeille là lẵng, giỏ (nhưng cũng có nghĩa là rổ, rá). Vậy prendre panier pour corbeille đồng nghĩa với thành ngữ tiếng Việt nhìn gà hóa cuốc, chỉ sự lẫn lộn các đối tượng tương tự, na ná nhau. Do cách phát âm tương tự mà corbeille đã bị đồng hóa với Corưeil là một địa danh. Khi Corbeil đã là một địa danh thì đương nhiên... panier cũng phải trở thành Paris cho tương xứng. Nhưng xứng sao được khi Paris là kinh đô hoa lệ còri Corbeil chỉ là một chef-lieu de canton (= lỵ sở của tổng) mà thôi.
Nhắc đến kinh thành Paris thì lại nhớ đến tên một con đường của nó. Đó là rue aux Ours (= phố Gấu). Tên thì như thế nhưng tại con đường này xưa nay không hề có bóng dáng hoặc dấu chân của gấu. Chỉ có những con ngỗng mà thôi. Do đặc điểm này mà xưa kia con đường đã mang tên là rue aux Oues. Oue là hình thái cổ xưa của oie (= ngỗng). Vậy rue aux Oues là phố Ngỗng. Từ nguyên dân gian đã biến oues thành ours nên phố Ngỗng mới trở thành phố Gấu.
120. (KTNN 127, ngày 22-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Củ chi là củ gì? Tên củ này có liên quan đến địa danh Củ Chi không?
AN CHI: Củ chỉ là một tên khác của cây mã tiền. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi: "Củ chi. Loài mã tiền. Vị thuốc trị phong bại". Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ cũng giảng củ chi là cây mã tiền còn mã tiền thì được giảng như sau: "Cây củ chi, trái tròn như chanh, lớn lắm bằng cam, màu vàng, nhiều hột sáng chói như bạc
Rất có thể Củ Chi là vùng vốn có rất nhiều cây củ chi, tức cây mã tiền, do đó mà có tên.
■ử 121. (KTNN 127, ngày 22-12-1993)
ĐỘC GIẢ: Ai là người Việt Nam đầu tiên viết văn tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ?
AN CHI: Cứ theo Lịch sử chữ quốc ngữ của Đỗ Quang Chính (Sài Gòn, 1972), thì đó là hai người: Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
Trong thời gian lưu lại châu Âu, tác giả Đỗ Quang Chính đã có dịp và có điều kiện đến một số văn khố và thư viện Ở Roma, Madrid, Lisboa, Paris, Lyon và Avignon và đã khám phá ra nhiều tài liệu viết tay vô cùng quý báu, liên quan đến lịch sử chữ quốc ngữ. Trong những tài liệu viết tay đó, có bức thư đề ngày 12.9.1659 của Igesico Văn Tín viết cho linh mục G.F. de Marini, bức thư đề ngày 25.10.1659 của Bento Thiện, cũng viết cho linh mục Marini và tập Lịch sử nước Annam (Đỗ Quang Chính gọi theo quy ước vì tập này không hề có nhan đề) của Bento Thiện mà tác giả nhận định là được viết vào đầu hoặc giữa năm 1659. Ba tài liệu trên đều viết bằng chữ quốc ngữ.
Về người thứ nhất, Đỗ Quang Chính cho biết như sau: "Igesico Vãn Tín gồm hai tên: tên thánh và "tên tục". Tên Igesico (Hoàng Xuân Hãn và Thanh Lãng ghi: Igessio - AC) hay Iglésis, Iglesias là một thứ mà ngày nay hiếm người mang tên đó, kể cả người châu Âu. Khi Văn Tín gia nhập Giáo hội Công giáo mới bát đầu mang tên Igesico. Còn chính tên họ của Văn Tín là gì thì không được ghi lại, vì cứ theo chữ ký của ông, chỉ có hai chữ Việt là Văn Tín. Khi biên thư này, tác giả được bao nhiêu tuổi, sinh quán ở đâu, hoạt động ra sao, chúng tôi không rõ. Trong sổ bộ các Thầy giảng Đàng Ngoài năm 1637 do L.m. Gaspar d'Amaral ghi lại, không thấy dấu vết gì về Văn Tín" (Sđd, tr.92).
Về người thứ hai, tác giả cho biết: "Bento là tên thánh của ông; đó là danh từ Bồ Đào Nha, tiếng La Tinh là Benedictus, tiếng Pháp là Benoît, tiếng Việt là Bê Nê Đích Tô hay Biển Đức. Chúng tôi không biết rõ lai lịch Bento Thiện, nhưng có lẽ ông là người mà
Gaspar d'Amaral đã nhắc lại trong tài liệu năm 1637. Sử liệu trên có ghi danh sách những người thuộc bốn bậc "Dòng Tu" Thầy giảng, trong số này có một người tên là Bento (không có tên Việt Nam) ở bậc Kẻ giảng, tức là cấp thứ hai, tính đến năm 1637, Bento dược 23 tuổi, theo đạo Công giáo được 11 năm, tức là năm 1627. Như vậy Thầy Bento là một trong những người dầu tiên do L.m. Marques hoặc Đắc Lộ rửa tội ở Đàng Ngoài" (Sđd, tr.98-99).
Chúng tôi phải dè dặt ghi tên hai người như trên là vì tuy thư của Igesico Văn Tín viết ngày 12.9 còn thư của Bento Thiện viết ngày 25.10 cùng năm nhưng táẹ giả Đỗ Quang Chính đoán rằng Bento Thiện có thể đã viết tập Lịch sử Annam từ đầu hoặc từ giữa năm đó. Vậy xin tạm coi đó là hai người "đồng thời". Ngoài ra còn phải tính đến khả năng là có người (hoặc những người) Việt Nam khác đã viết tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ trước cả Igesico Văn Tín và Bento Thiện nhưng bút tích của họ đã vĩnh viễn thất lạc.
'k 122. (KTNN 128, ngày 01-01-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao tiếng Anh lại gọi Ông già Noël là Santa Claus?
AN CHI: Người Anh cũng nói Father Christmas, tương đương với tiếng Pháp Père Noël, để chỉ Ông già Noël. Còn Santa Claus thì bắt nguồn từ tiếng Hà Lan Sant Nikolass, tức Thánh Nicolas. Thánh Nicolas sống vào thế kỷ IV, nguyên là linh mục ở Myra, vùng Lycie thuộc Tây Nam bán đảo Tiểu Á. Ông là thánh bảo trợ của nước Nga và của trẻ em. Có người lại nói rằng ông là thánh bảo trợ cho thuyền nhân, thương nhân và trẻ em. Ông được sùng bái ở Cận Đông và châu Âu, đặc biệt là ở Ý, tại Bari là nơi còn lưu giữ được nhiều thánh tích của ông. Ông thường ban phát quà cho trẻ em vào đêm Giáng sinh hàng năm nên được xem là tượng trưng cho ông già Noël. Xin lưu ý rằng tiếng Anh vẫn gọi Thánh Nicolas là Saint Nicholas, còn Santa Claus thì lại là Ông già Noël và bắt nguồn từ tiếng Hà Lan Sant Nikolaas.
★ 123. CKTNN 128, ngày 01-01-1994)
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay số 122, Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã trả lời một bạn đọc về thi hào Tagore, tôi xin được phép góp ý về Ông Rabindra Nâth Tagore.
Ông sinh năm 1861, đồng thời là triết gia, thi sĩ và nhạc sĩ. Ông đã tự dịch sang Anh văn các tác phẩm chính của ông. Tây phương chú ý đến ông kể từ năm 1913, năm ông nhận giải Nobel về văn chương. Tác phẩm trình bày sáng sủa và rõ ràng nhất triết học của ông thấy trong một quyển sách nhan đề là Sâdhana có nghĩa là "Hoàn thiện tuyệt hảo", được dịch sang tiếng Việt Nam lấy tên là "Thực hiện toàn mãn", bản dịch của Ông Nguyễn Ngọc Thơ, Nhà xuất bản An Tiêm năm 1973.
Tagore tuyên thuyết là tư tưởng Ấn Độ lầm lạc khi chỉ quan tâm đến sự thống nhất với Thượng Đế, mà không quan tâm đến thế giới vốn là biểu lộ của Thượng Đế. Ông qui định hai mục tiêu cho con người: thuộc về Thượng Đế hết cả tâm hồn mình và phục vụ người cách tích cực trong thế giới mà người đã sáng tạo. Theo Tagore, nguồn vui sống và sáng tạo chính là yếu tô' của con người.
Trong Sâdhana, Tagore đã kết tập những bài thuyết pháp hàng tuần của ông vào các năm 1906-1909 ở phòng cầu nguyện ở Santiniketan. Ông bát dầu dịch ra Anh văn dùng cho các bài giảng thoại Sâdhana của ông ở Đại học Havard (sic) của Mỹ. Trong Sâdhana, ông dã hoàn toàn dựa vào Upanishad (Áo nghĩa thư) dể thuyết giảng về nhất nguyên và sự thực hiện cõi vô hạn.
Xin lưu ý: 0. Rabindra Nâth Tagore có ông thân sinh cùng tên là Tagore (Tagore có thể là họ).
AN CHI: Chúng tôi quả có nói rằng mình không được biết về hoạt động tôn giáo của Rabindranãth Tagore. Nhưng lối nói có tính chất dè dặt này không có nghĩa rằng văn hào Tagore nhất thiết là một nhà hoạt động tôn giáo.
Những bài rao giảng của Tagore tại ốãntiniketan mà ông đã nhắc đến hoàn toàn không đủ để khẳng định rằng văn hào này là một nhà hoạt động tôn giáo, nhất là một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng, dù Tagore đã dựa vào Upanishad. Tại Việt Nam, chẳng hạn, có những nhà Phật học tuyệt nhiên không phải là những nhà hoạt động Phật giáo mặc dù công việc nghiên cứu của họ cũng phải lấy Kinh Phật làm nền tảng. Vậy việc Tagore dựa vào Upanishad không chứng tỏ rằng văn hào này là một nhà hoạt động tôn giáo. Tác phẩm Sãdhana, theo chúng tôi, chỉ bộc lộ khuynh hướng triết học của Tagore mà thôi.
Xin được nói thêm rằng sãdhana, ngoài nghĩa là "hoàn thiện, tuyệt hảo" mà ông đã nêu, hoặc "thực hiện toàn mãn" mà ông Nguyễn Ngọc Thơ đã dịch, còn có nghĩa là "lời khấn", "câu thần chú", "sự cầu khẩn", "sự niệm chú" (nhớ rằng đây là những lời rao giảng của Tagore tại Sãntiniketan) lại còn có nghĩa là "công cụ", "phương tiện" (đó là phương tiện để Tagore truyền bá khuynh hướng triết học của mình). Vậy theo thiển kiến, sãdhana là một từ có nghĩa nước đôi rất khó dịch. Đương nhiên là trong những nghĩa đó có một nghĩa trọng tâm mà Tagore muốn nêu bật và nhấn mạnh. Việc sử dụng những từ có nghĩa nước đôi là một công việc tế nhị. Tác dụng của nó đã được Marcel Bernasconi chỉ rõ ra như sau: "Ớ mọi thời và ở tất cả các nước, những từ có nghĩa nước đôi đã gây chú ý không phải cho các đầu óc hời hợt và phù phiếm như người ta đã có thể tưởng, mà cho những con người rất mực nghiêm túc đã thấy ở việc sử dụng chúng một phương tiện hữu hiệu để đánh vào tình cảm và áp đặt cho ký ức một ý tưởng như (ý tưởng này bị áp đặt) bằng một thứ ám ảnh (Histoire des énigmes, Paris, 1970, p.70).
Cuối cùng xin nói thêm rằng Rabindranath Tagore chính là con của Debendranãth Tagore, nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay số 122.
★ 124. (KTNN 128, ngày 01-01-1994)
ĐỘC GIẢ: "Tam phụ bát mẫu" là những ai? Do đâu mà có lối nói này?
AN CHI: Tam phụ (ba cha) là: dồng cư kế phụ (cha ghẻ ở chung), bất dồng cư kế phụ (cha ghẻ không ở chung) và tùng kế mẫu cải giá chi kế phụ (cha ghẻ là chồng của mẹ ghẻ đã cải giá). Còn bát mẫu (tám mẹ) là: đích mẫu (mẹ ruột), kế mẫu (mẹ ghẻ), dưỡng mẫu {mẹ nuôi), từ mẫu (mẹ là vợ lẽ của cha nhận nuôi mình như con ruột theo ý của cha; đây không phải là "mẹ hiền"), giá mẫu (mẹ đi lấy chồng khác), xuất mẫu (mẹ bỏ nhà đi hoặc bị đuổi ra khỏi nhà), thứ mẫu (mẹ là vợ lẽ của cha), và nhủ mẫu (mẹ cho bú = vú nuôi).
Luật nhà Thanh đã phân biệt tam phụ bát mẫu như trên để quy định tang phục cho người con hoặc người được coi là con. Chú ý: xét theo từ nguyên thì kế mẫu là mẹ kế sau khi mẹ ruột đã chết hoặc không còn ở với cha, còn thứ mẫu là vợ lẽ của cha ngay cả khi mẹ ruột còn sống hoặc còn ở với cha. Ngày nay người ta vẫn nói kế mẫu thay vì thứ mẫu.
125. (KTNN 128, ngày 01-01-1994)
ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay số 122, Chuyện Đông chuyện Tây, tr.82, có nói về câu "Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng". Theo tôi biết, không phải Jules César đã nói câu này sau khi đánh tan quân của Pharnacae II vua xứ Bosphore, mà là sau khi đã chiếm được xứ Gaule (tức nước Pháp ngày nay). Xin bạn An Chi chấp nhận cho lời góp ý của tôi.
AN CHI: Chúng tôi sẵn sàng thọ lãnh những lời góp ý đúng và biết ơn người đã góp ý. Nhưtig ý của ông góp thì không đúng.
Để ông dễ dàng đốì chiếu, xin chép hiến ông lời giảng về câu Veni, vidi, vici (Ta đã đến, ta đã thấy, ta đã thắng) nơi các trang hồng (pages roses) của Petit Larousse Illustré 1992: "Mots célèbres par lesquels César annonça au sénat la rapidité de la victoire qu'il venait de remporter près de Zéla (47) sur Pharnace, roi de Bosphore", nghĩa là "Danh ngôn mà César dùng để thông báo cho Viện nguyên lão sự mau lẹ của chiến thắng mà ông ta mới giành được ở gần Zéla (năm 47) trước Pharnace, vua xứ Bosphore". Đây là sự kiện xảy ra năm 47 tr.CN. Còn xứ Gaule thì đã bị César chinh phục từ giữa thế kỷ I tr.CN. Thủ lãnh của dân Gaulois là Vercingétorix đã đầu hàng tại Alésia năm 52 tr.CN rồi bị giải về La Mã. Đến năm 51 tr.CN thì xứ Gaule đã hoàn toàn bị chinh phục. Sau đó đến 4 năm (47 tr.CN) thì César mới tuyên bố câu "Veni, vidi, vici".
★ 126. (KTNN 129, ngày 15-01-1994)
ĐỘC GlẲ: Nói á kim, á hậu, V.V.. Vậy có thể nói "á nam á nữ" hay phải nói "ái nam ái nữ"?
AN CHI: Trong á kim, á hậu, v.v. á có nghĩa là thứ, là dưới một bậc. Thí dụ: á khanh là một chức quan to dưới bậc khanh; á nguyên là người thi đậu sau người đậu đầu; á tử là con trai thứ, V.V.. Còn ái có nghĩa là giống như, phảng phất như. Vậy ái nam, ái nữ là vừa giống nữ mà lại vừa giống nam. Ớ đây không thể dùng á được.
★ 127. (KTNN 129, ngày 15-01-1994)
ĐỘC GIẲ: Chẳng lẽ tiếng Việt không có từ nào để thay thế cho từ "lô-gích"? Ta có 4000 năm văn hiến mà vẫn bị "hổng" khi đụng lô-gích nên đành "bỏ trông" hay sao? Vậy tiếng của ta để làm gì?
AN CHI: Ông cho biết mình ở Sài Gòn 40 năm nhưng trước 1975 chưa từng nghe người Việt Nam nào nói tiếng Việt mà lại xen vào hai tiếng lô-gích. Có lẽ ông đã nói không quá đáng.
Lô-gích - mà nay nhiều người, kể cả tác giả của Từ điển tiếng Việt 1992, đã viết thành logic, y hệt tiếng Anh - trước đây gọi là luận lý (học). Hai tiếng lô-gích bắt đầu được dùng càng ngày càng nhiều ở miền Nam mặc dù đôi với nó một số người vẫn còn "dị ứng".
Xét cho cùng, nếu lô-gích là Tây thì luận lý lại là Tàu (đây là một từ Việt gốc Hán, vẫn quen gọi là Hán- Việt). Chẳng có cái nào là ta cả. Và chẳng cứ gì ta có 4.000 năm mà vẫn phải mượn của Tây, mà cả Tàu cũng chẳng hơn gì ta. Nếu tính từ đời Phục Hy thì họ đã có ngót nghét 5.000 năm. Nhưng họ vẫn phải mượn của Tây ngay cả trong trường hợp của mấy tiếng lô-gícli. Để diễn đạt khái niệm này, trước kia họ đã có các từ ngữ danh học, biện học, luận lý học, nhưng họ vẫn phiên âm tiếng Anh logic thành luó jí (âm Bắc Kinh) và ghi bằng hai chữ Hán đọc theo âm Hán Việt thành la tập. Ngày nay, khắp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không ai dùng danh học, biện học hoặc luận lý học mà chỉ nói la tập (học) (Ớ miền Bắc hồi nửa sau thập kỷ 50, tác giả Trần Văn Giàu cũng đã dùng la tập học để chỉ môn logique). Nhưng xin nói rõ rằng đây cũng chẳng phải là "đặc sản" của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vì nó thành lập từ 1949 mà mấy chữ la tập thì đã có mặt trong Từ nguyên là một bộ từ điển ra đời từ năm 1915.
Ngay đến tiếng Anh logic, mà hình thái trung đại là logike cũng là mượn từ tiếng Pháp logique. Tiếng Pháp logique lại là mượn từ tiếng La Tinh logice. Tiếng La Tinh logice lại là mượn từ tiếng Hy Lạp logikẽ trong từ tổ logikê tekhnê, có nghĩa là nghệ thuật biện luận. Phiên âm thành logice chưa đủ, dân La Mã ngày xưa còn cứ theo đặc điểm của tiếng La Tinh mà đặt thêm danh từ logica, cùng nghĩa. Tóm lại, cả ta, Tàu, Pháp, Anh và La Mã đều gián tiếp hoặc trực tiếp mượn của Hy Lạp; chẳng có ai dùng thứ của mình. Dân Nhật cũng mượn mấy tiếng luận lý (học) của Tàu mà đọc theo âm Hán Hòa thành ronri (gaku).
Vậy phải thay lô-gích bằng "từ Việt" nào thì chúng tôi thấy rất khó. Chỉ xin nhấn mạnh rằng không nên dùng nó một cách "đại trà" khi nó chỉ có nghĩa là "hợp lý". Cá nhân chúng tôi thì rất thích dùng mấy tiếng luận lý học để chỉ môn logique formelle (luận lý học hình thức) cổ điển.
ir 128. (KTNN 129, ngày 15-01-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao Từ điển Pháp - Việt do Lê Khả Kế làm tổng biên tập (Agence de Coopération Culturelle et Technique, 1981) giảng (être) le coq du village là "người đàn ông được phụ nữ thích" mà Kiến thức ngày nay Xuân Quý Dậu (tr.17) lại nói đó ỉà "nhân vật quan trọng nhất ở trong làng?"
AN CHI: Nghĩa mà bạn nêu chỉ là một nghĩa của thành ngữ đang xét. Nó đã được Petit Larousse Illustré 1992 cho như sau: "Homme le plus admiré des femmes dans une localité; séducteur fanfaron et hâbleur": người đàn ông được phụ nữ ái mộ nhất tại một địa phương; kẻ quyến rũ khoe khoang và khoác lác. Nhưng thành ngữ đó cũng có cái nghĩa mà trên Kiến thức ngày nay chúng tôi đã từng nêu. Nghĩa này đã được Dictionnaire général de la langue française của A. Hatzfeld và A. Darmesteter cho như sau: "le plus important (comme le coq dans la basse-cour)": Người quan trọng nhất (như con gà trống giữa sân gia cầm).
iĩ 129. (KTNN 129, ngày 15-01-1994)
ĐỘC GIẢ: Có phải do quyết định độc đoán của Tần Thủy Hoàng mà ngày nay chữ trẫm và chữ tội trong Hán tự đã bị dùng khác đi hay không?
AN CHI: Trước Tần Thủy Hoàng, trẫrn là một đại từ ngôi thứ nhất mà ai ai cũng có thể dùng để tự xưng. Khang Hy tự điển, trích lời chú trong sách Nhĩ nhã, thiên Thích hỗ, đã chép như sau: "Cổ giả quý tiện giai tự xưng trẫm" (Người xưa sang hèn đều tự xưng là trẫm). Chẳng hạn, Khuất Nguyên đã viết trong Ly tao: "Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung" (Cha quá cố của ta tên là Bá Dung). Đến năm thứ 26 đời Tần Thủy Hoàng (trước đó là Tần vương), bạo chúa này đã quyết định trẫm là tiếng mà chỉ có vua mới được dùng để tự xưng. Lệ này được nhà Hán và các triều đại phong kiến khác của Trung Hoa noi theo cho đến khi chế độ quân chủ chuyên chế cáo chung.
Còn chữ tội ngày xưa viết là Ệr (trên tự dưới tân) nhưng Tần Thủy Hoàng đã bắt đổi thành Jf. Người ta kể rằng bấy giờ nhiều nho sĩ có ác cảm với bạo chúa của
Tần nên thường cố ý viết Tần Thủy Hoàng thành Tần Thủy Tội vì chữ tội na ná với chữ hoàng (trên bạch dưới vương). Vì vậy mà Tần Thủy Hoàng rất ghét chữ -Ệ-. Không biết điều này có đúng hay không nhưng điều chắc chắn là do quyết định của Tần Thủy Hoàng mà chữ tội vốn viết là Ệr đã bị đổi thành Ẹị. Chữ này vốn có nghĩa là một thứ lưới bắt cá đan bằng tre (bộ ngư trúc võng). Nó là một hình thanh tự mà nghĩa phù là võng & , tự hình giống như chữ tứ E9 là bổn, nhưng thật ra chính là chữ võng jtf| , là lưới. Còn thanh phù của nó là chữ phi ^ • Đoàn Ngọc Tài chú giải Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đã ghi về nó như sau: "tùng võng, phi thanh" nghĩa là thuộc bộ võng, đọc là phi (xem Thuyết văn giải tự Đoàn chú, Đài Bắc, 1965, tr.395, thất thiên, hạ, 41). Vậy chữ tội ngày nay vốn là một chữ xưa kia đọc là phi - nói cho thật đúng với ngữ âm lịch sử, là một âm tiền thân của phi - và có nghĩa là một thứ lưới bắt cá đan bằng tre. Do quyết định độc đoán của Tần Thủy Hoàng nên nó mới có âm và có nghĩa như hiện nay.
★ 130. (KTNN 130, ngày 01-02-1994)
ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay 122, Chuyện Đông chuyện Tây, có nói về vai trò của Napoléon đốì với khoa Ai Cập học qua lời đánh giá của Anne Terry White. Có vẻ như là tác giả này, và tiếp theo là cả An Chi nữa, đã quá đề cao Napoléon. Tôi không dám tin đến như thế.
AN CHI: Không chỉ Anne Terry White trong Les grandes découvertes de l'archéologie mới nói như thê về vai trò của Napoléon đới với khoa Ai Cập học. Nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử của khoa Ai Cập học đều khẳng định như thế.
Xin chép - dịch thì đúng hơn - hiến ông lời của Serge Sauneron, tổng thư ký của Pháp quốc Đông phương khảo cổ học viện tại Cairo (Institut français d'Archéologie Orientale du Caire) như sau:
"Nhiều quyển sách đã được dành cho cuộc viễn chinh của Bonaparte (tức Napoléon - AC) ở Ai Cập và ít có giai đoạn nào của sự nghiệp anh hùng vừa phi thường vừa vĩ đại này lại không được hàng loạt sử gia và nhà phê bình miêu tả và phận tích (...) Người ta đã biết khá đầy đủ về đoàn bác học mà Bonaparte đã kéo đi theo ông dọc đôi bờ sông Nil, nên có thể đánh giá được lòng can đảm tuyệt vời cùng với hoạt động của họ. Chắc hẳn là Viện (đã nói trên - AC) họp các phiên của nó tại Cairo, nhưng các nhà bác học thì lại đi tìm kiếm tư liệu nghiên cứu của họ ở châu thổ (sông Nil - AC), ở thượng Ai Cập, trong các hoang mạc, theo gót các hàng quân, chia sẻ đời sông bình nhật với những ngựời lính, tận dụng những lúc quân đội dừng chân và dựng trại ngoài trời giữa hai cuộc chạm súng để đi khảo sát các bãi sa mạc và các dãy núi, vẽ những công trình cổ xưa, đo đạc chúng, miêu tả chúng. Khi quân đội lại lên đường, người ta phái một sĩ quan liên lạc đi "thu gom" các nhà bác học tản mát ở trong vùng, mặc cho công việc của họ đã xong hay chưa. Dáng sầu muộn, họ khép cặp giấy của mình lại và chạy theo đoàn quân cho đến lần dừng chân tiếp theo (...).
Trong một thời gian hạn chế (tháng bảy 1798 - tháng chín 1802), nước Ai Cập đã được nghiên cứu về mọi phương diện: hệ động vật, hệ thực vật, địa chất, tính chất sông ngòi, giếng mỏ, địa lý của nó. Một tấm bản đồ từ vùng Assouan cho đến Địa Trung Hải đã được lập, và sau được chuyển thành một tập bản đồ gồm năm mươi mốt tờ. Cư dân đã được miêu tả, nghiên cứu cùng với y phục, các kiểu dáng ngoại hình, âm nhạc, các nghề, lối sống, các tập quán, các đơn vị đo lường, tiền tệ của họ (...).
Cuốĩ cùng, chính xứ sở Ai Cập đã được miêu tả, từ Nam đến Bắc, và các công trình có thể thấy được vào thời đó, dù chúng thuộc về các vị Pharaon, có đặc điểm Ki Tô giáo, Á Rập hoặc Thổ Nhĩ Kỳ, đều được nêu lên, vẽ lại và đo đạc.
Khi vận rủi bắt buộc đạo quân viễn chinh lại trở xuống thuyền hồi tháng chín 1802 thì các nhà bác học chỉ sau một cuộc tranh chấp ác liệt (với người Anh - AC) mới bảo vệ được các tư liệu mà họ đã thu thập được. Thế là họ đã đem về theo họ bộ sách bách khoa thuộc loại đặc biệt nhất, không tiền khoáng hậu, về xứ sở Ai Cập. Sự khen ngợi tốt đẹp nhất mà người ta có thể dành cho sự nghiệp của họ là ở chỗ ghi nhận rằng ít có công trình nào liên quan đến Ai Cập cổ đại hoặc trung đại mà lại không phải dựa vào cái nguồn tư liệu vô tận đó, ở lúc này hoặc lúc khác. Là tác phẩm có hệ thống đầu tiên dành cho Ai Cập, bộ sách Description de l'Egypte (Miêu tả Ai Cập) vẫn là một trong những bộ sách làm nền tảng cho khoa Ai Cập học".
(ưêgyptologie, Paris, 1968, pp.9-11).
Description de l'Egypte là một bộ sách gồm 24 quyển văn bản và 12 quyển tranh phụ bản mà'tác giả là Vivant Denon, một trong những học giả đã đi theo đạo quân viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập.
Lòng dũng cảm và đức hy sinh cho khoa học của các nhà bác học ở đây là điều hiển nhiên. Nhưng nếu không có con người biết yêu thích học thuật và có tài tổ chức như Napoléon thì chắc chắn là họ đã không bao giờ có được cơ hội để hoàn thành kỳ công mà họ đã đạt được hồi cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, để trao tặng cho toàn thể nhân loại hôm nay.
★ 131. (KTNN 130, ngày 01-02-1994)
ĐỘC GIẢ: Trong quyển Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (trang 21-22), tác giả Lê Trung Hoá đã chủ trương viết tên thành phố này như sau: thành phố Hồ Chí Minh với chữ t thường. Lý do: không viết hoa các danh từ chung đặt ở trước địa danh khi địa danh ấy dùng để gọi tên đơn vị hành chính. Cách viết này có đúng hay không?
AN CHI: Xét theo từ nguyên, thành phố vốn là một danh từ chung. Nhưng trong Thành phố Hồ Chí Minh, nó lại là một thành tố không thể tách rời được của địa danh gồm có 5 tiếng (= âm tiết) này. Đồng thời, Hồ Chí Minh vẫn cứ là nhân danh (tên người) chứ đâu có phải là địa danh dùng để gọi tên đem vị hành chính như ông Lê Trung Hoa đã khẳng định. Bởi vậy ta hoàn toàn không thể nói, chẳng hạn: "đi từ Hồ Chí Minh ra Hà Nội rồi lại từ Hà Nội trở về Hồ Chí Minh", mà phải nói đầy đủ "đi từ Thành phố Hồ Chí Minh... trở về Thành phố Hồ Chí Minh". Thành phố Hồ Chí Minh là một địa danh duy nhất năm âm tiết gồm có danh từ chung thành phố (mà chữ t phải được viết hoa khi danh từ chung này trở nên một thành tố của địa danh) cộng với nhân danh Hồ Chí Minh. Đây là một trường hợp chưa có tiền lệ trong tiếng Việt: lần đầu tiên người ta dùng tên người mà đặt tên cho một thành phố. Vậy tưởng nên cẩn trọng mà viết Thành phố Hồ Chí Minh với chữ t hoa (= T) chứ không phải với chữ t thường như trong "thành phố Sài Gòn" hoặc "thành phố Đà Lạt" được.
★ 132. (KTNN 130, ngày 01-02-1994)
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết các đời tổng thông Mỹ từ Washington đến nay.
AN CHI: Đó là George Washington, 1789-1797; John Adams, 1797-1801; Thomas Jefferson, 1801-1809; James Madison, 1809-1817; James Monroe, 1817-1825; John Quincy Adams (con của John Adams), 1825-1829; Andrew Jackson, 1829-1837; Martin Van Buren, 1837- 1841; William Harrison, 1841 (qua đời sau khi nhậm chức được một tháng); John Tyler, 1841-1845; James Polk, 1845-1849; Zachary Taylor 1849-1850; Millard Fillmore, 1850-1853; Franklin Pierce, 1853-1857; James Buchanan, 1857-1861; Abraham Lincoln, 1861-1865; Andrew Johnson, 1865-1869; Ulysses Grant, 1869-1877; Rutherford Hayes, 1877-1881; James Garfield, 1881 (qua đời trong năm này); Chester Arthur, 1881-1885; Stephen
Cleveland, 1885-1889; Benjamin Harrison, 1889-1893; Stephen Cleveland (lại tranh cử và đắc cử), 1893-1897; William McKinley, 1897-1901; Theodore Roosevelt 1901- 1909; William Taft, 1909-1913; Thomas Woodrow Wilson, 1913-1921; Warren Harding, 1921-1923; Calvin Coolidge, 1923-1929; Herbert Hoover, 1929-1933; Franklin Roosevelt, 1933-1945; Harry Truman, 1945- 1953; Dwight Eisenhower, 1953-1961; John Kennedy, 1961-1963; Lyndon Johnson, 1963-1969; Richard Nixon, 1969-1974; Gerald Ford, 1974-1977; Jimmy Carter, 1977-1981; Ronald Reagan, 1981-1989; George Bush 1989-1993; Bill Clinton, từ 1993 và mới trúng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Trên đây là 42 đời tổng thông Hoa Kỳ với năm nhậm chức và năm mãn nhiệm. Cứ theo số năm thì sẽ tính ra người nào làm mấy nhiệm kỳ, biết rằng mỗi nhiệm kỳ là 4 năm. Xin chú ý là có người đã qua đời khi đương chức (Taylor, Harding...), bị ám sát (Lincoln, Kennedy) hoặc phải từ chức (Nixon) nên thời gian tại chức mới không đủ 4 năm (hoặc 8) năm. Trong trường hợp này, phó tổng thống sẽ lên thay thế (như Fillmore thế Taylor, Arthur thế Garfield, Truman thế
F. Roosevelt, Ford thế Nixon...). Riêng F.Roosevelt đã tranh cử đến 4 lần (1932, 1936, 1940, 1944) và đều thắng cử nên đã làm tổng thống Hoa Kỳ từ 1933, cho đến năm qua đời là 1945 (Nhiệm kỳ thứ tư của ông lẽ ra năm 1949 mới chấm dứt).
'k 133. (KTNN 131, Xuân Giáp Tuất 1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao ngày xưa cứ đến Tết người ta thường dán hình Thần Đồ Uất Lũy trước cửa nhà? Tại sao Thần Đồ cũng gọi là Thần Trà?
AN CHI: "Thần Đồ Uất Lũy" là một cách đọc sai của Thân Thư Uất Luật (sẽ nói rõ bên dưới). Trước hết xin trả lời câu hỏi tại sao Thần Đồ cũng gọi là Thần Trà. Nhiều người đã cho rằng sở dĩ Đồ bị đọc thành Trà là do kiêng kỵ để tránh thô tục vì đồ là một tiếng lóng dùng để chỉ... của phụ nữ. Chúng tôi không nghĩ như thế. Vì nếu tránh thô tục là lý do đích thực của việc đọc trại Đồ thành Trà thì trước khi kiêng kỵ cho ông Thần Đồ của Tàu, lẽ ra người ta đã phải kiêng kỵ giùm cho các ông "đồ" Nho mà gọi họ là ông "trà" chứ có đâu vẫn cứ báng bổ mà dùng cái tiếng "đồ" để gọi họ. Thật ra, đây chẳng qua chỉ là chuyện tác đánh tộ, ngộ đánh quá mà thôi vì chừ đồ và chữ trà chỉ khác nhau có một nét. Thần Đồ bị đọc thành Thần Trà cũng cùng một lẽ với việc cao hoàn bị đọc thành dịch hoàn, như chúng tôi đã trình bày trên KTNN 114. Vậy đó chẳng qua là do nhầm lẫn mà ra. Vả lại, tại sao để tránh thô tục, người ta không chọn tiếng nào gần âm với tiếng đồ hơn (chẳng hạn: đô, độ, đà, v.v...) mà cứ phải chọn trài
Nhưng đọc thành Đồ cũng vẫn là sai vì chữ ^ có hai âm: đồ và thư. Ở đây nó phải được đọc là thư, nghĩa là đọc theo âm thứ hai mà Từ hải đã cho: thúc ư thiết, âm thư. Chính là với âm này mà Từ hải, và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác nữa, đã ghi nhận tên của vị thần đang nói. Vậy đó phải là Thần Thư chứ
không phải Thần Đồ. Nhưng đọc thành Thần Thư vẫn cứ còn sai vì chữ cũng có hai âm: thần và thân. Ớ đây nó phải được đọc là thân, nghĩa là đọc theo âm thứ hai mà Từ hải đã cho: thi ân thiết, âm thân. Chính là với âm này mà Từ hải, và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác, đã ghi nhận tên của vị thần nói trên. Vậy tên của vị thần đó là Thân Thư chứ không phải Thần Đồ, càng không phải là Thần Trà!
Tên của vị thần thứ hai cũng đã bị đọc sai thành Uất Lũy. Thực ra, chữ ễ có đến năm âm: lũy, đội, lụy, lội và luật. Ở đây nó phải được đọc là luật, nghĩa là đọc theo âm thứ năm mà Từ hải đã cho: lư truật thiết, âm luật. Chính là với âm này mà Từ hải và cả Từ nguyên cùng những từ điển khác, đã ghi nhận tên của vị thần thứ hai. Vậy tên của vị này là Uất Luật chứ không phải là Uất Lũy. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đã ghi nhận đúng là uất Luật (X. q.hạ, phần
II, tr.333).
Tóm lại, Thần Trà Uất Lũy hoặc Thần Đồ uất Lũy cũng đều là những cách đọc sai của Thân Thư Uất Luật. Ớ từng chữ riêng, Từ hải đã cho thiết âm như chúng tôi vừa dẫn. Rồi ở thành ngữ vẫn bị đọc sai thành Thần Đồ (Trà) Uất Lũy, Từ hải lại chú thêm một cách rõ ràng: "Độc như thân thư uất luật". Người Trung Hoa đã cố ý dùng song thanh điệp vận liên ngữ để đặt tên cho hai vị thần trên đây: Thân Thư là song thanh, tức là cái mà tiếng Việt gọi là từ láy phụ âm đầu còn Uất Luật là điệp vận, tức là cái mà tiếng Việt gọi là từ láy vần. Nhớ rằng âm Hán Việt theo rất sát âm Hán thời xưa cho nên bốn tiếng Thân Thư Uất Luật trong trạng thái cổ xưa của tiếng Hán vẫn đúng là song thanh điệp vận.
Bây giờ xin nói về sự tích của hai vị Thân Thư và Uất Luật. Theo Từ hải thì sách Độc đoán chép rằng ở giữa biển có núi Độ Sóc, trên núi có cây đào cành nhánh mọc quanh co lan ra đến ba ngàn dặm. Nơi các nhánh cành thấp bé phía Đông Bắc có cửa Ma (Quỷ môn) là nơi họ nhà ma ra vào. Hai vị thần là Thân Thư và Uất Luật ở cửa này để đảm trách việc giám sát ma quỷ. Những con ma hung dữ nguy hiểm thì sẽ bị hai vị thần bắt trói bằng dây cỏ lau mà đem cho hổ ăn. Vì vậy, khi tháng mười hai chấm dứt, người ta mái vẽ hình Thân Thư và Uất Luật rồi dùng cọng lau mà treo hai bên cửa để trừ tà ma. Thiên Lễ nghi chí trong Hậu Hán thư cũng chép rằng giữa biển Đông có núi Độ Sóc, trên núi có hai vị thần, một là Thân Thư, một là Uất Luật, lo việc theo dõi những con ma hay làm hại người. Hai vị bắt chúng rồi dùng cây lau mà trói lại để đem cho hổ ăn. Sách Kinh Sở tuế thời ký chép rằng ngày mồng một tháng Giêng, người ta vẽ hình hai vị thần mà dán hai bên cửa, bên trái là Thân Thư, bên phải là Uất Luật, tục gọi là thần giữ cửa. Nhiều sách khác cũng có chép chuyện Thân Thư Uất Luật với cá biệt một vài chỗ tiểu dị. Phong tục thông chép rằng hai vị vốn là hai anh em. Sách Ấu học chép rằng Thân Thư Uất Luật là hai vị thần ăn ma (đạm quỷ chi thần).
Tóm lại đặc điểm nổi tiếng của Thân Thư và Uất Luật là diệt trừ ma ác, do đó mà ngay từ đầu năm người ta thường vẽ hình hai vị, có khi chỉ là viết tên, mà dán hai bên cửa với hy vọng rằng tà ma sẽ không ám hại nhà mình và chuyện dữ cũng không xảy ra cho nhà mình trong suốt một năm.
iĩ 134. (KTNN 131, Xuân Giáp Tuất 1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao trong một số tranh Phước, Lộc, Thọ, ngoài hình ông Phước, ông Lộc và ông Thọ lại còn có hình con dơi, con nai và cây tùng?
AN CHI: Sở dĩ như thế là vì cây tùng tượng trưng cho tuổi thọ, con nai tượng trưng cho lộc còn con dơi thì tượng trưng cho phúc (phước). Cây tùng tượng trưng cho sự trường thọ thì nhiều người vẫn biết. Chính vì vậy mà Mathews' Chinese-English Dictionary đã ghi về chữ tùng là "an emblem of longevity". Còn con nai tượng trưng cho lộc là do hiện tượng đồng âm. Con nai, tiếng Hán là lộc đồng âm với lộc ÌỆ trong phúc, lộc, thọ. Cả hai chữ trên đây, tiếng Bắc Kinh đều đọc là lù (ghi theo phương án La Tinh hóa của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) còn tiếng Quảng Đông đều đọc là lục (ghi theo chữ quốc ngữ Việt Nam). Cũng do hiện tượng đồng âm mà con dơi tượng trưng cho phúc. Con dơi, tiếng Hán là phúc i|| , đồng âm với phúc íế trong hạnh phúc. Cả hai chữ này, tiếng Bắc Kinh đều đọc là fú và tiếng Quảng Đông đều đọc là phúc. Ở chữ phúc là con dơi, Mathews' Chinese-English Dictionary ghi là "used as an emblem of happiness, from the sound" hoàn toàn đúng như đã nói trên đây. Chữ này được đọc thành bức trong Việt-Hán thông-thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp, Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự-điển của Thiều Chửu, Hán-
Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng, v.v... Nhưng theo Đường vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận, v.v... thì thiết âm của nó đều là: phương lục thiết, âm phúc. Vậy nó phải được đọc thành phúc. Cách phiên âm của những quyển từ điển trên không xuất phát từ lý do ngữ học nào cả, đó chỉ là do nhầm lẫn mà ra. Xin nói kỹ thêm rằng danh từ đầy đủ chỉ con dơi trong tiếng Hán là biên phúc (bức) nhưng cũng có khi tách ra mà nói phúc (bức).
Sự sùng thượng hoặc sự kiêng kỵ bắt nguồn từ hiện tượng đồng âm là một nét độc đáo trong văn hóa dân gian Trung Hoa. Chuyện con nai và con dơi là thuộc về sự sùng thượng. Sự sùng thượng kiểu này đã được đề cập đến trong hai bài đăng trên KTNN Xuân Quý Dậu (1993). Đó là bài "Chữ phúc dán ngược" của Trần Bình (tr.62-63) và bài "Nguyên đán - xuân tiết" của Lê Huy Tiêu (tr.76-77). Khi thấy chữ phúc bị lật ngược, người ta nói: phúc đảo (= chữ phúc lật ngược rồi). Nhưng phúc đảo trong tiếng Bắc Kinh lại đồng âm với phúc đáo, là phúc đến (nhà): cả hai chữ đảo và đáo đều đọc là dào. Vì vậy mà người ta thích dán ngược chữ phúc ở trước nhà để đọc thành fú dào mà hiểu là phúc đến (nhà). Đó là chuyện trong bài của Trần Bình. Sau đây là chuyện trong bài của tác giả Lê Huy Tiêu. Trong bữa tiệc cuối năm, người Trung Quốc thích ăn đậu phụ (tàu hủ) vì chữ phụ (hủ) trong tiếng Bắc Kinh là fu (đọc liền với đậu (tàu) thì do điều phối thanh điệu mà thành (dòи fu), rất gần âm với phúc mà tiếng Bắc Kinh đọc là fú. Trong bữa tiệc đó họ cũng thích dùng cá và khoai sọ (khoai môn) là vì, theo tác giả giải thích, hai món này tiếng Bắc Kinh đều gọi là "úy" (đúng ra phải là yú\ có lẽ đó là
lỗi ấn loát - AC), đồng âm với chữ "dư" (dư thừa). Chúng tôi muốn cải chính như sau: Chữ ngư là cá, tiếng Bắc Kinh đọc là yú, thì đúng là đồng âm với chữ dư (= thừa) vì tiếng Bắc Kinh cũng đọc chữ này là yú. Nhưng chữ vu là khoai môn, tiếng Bắc Kinh đọc là yù thì không đồng âm với dư (tiếng Bắc Kinh đọc là yú), mà lại đồng âm với chữ dụ có nghĩa là phong phú, no đủ, mà tiếng Bắc Kinh cũng đọc là yù.
Tục hái lộc đêm giao thừa (chủ yếu là ở ngoài Bắc) và tục chưng hoa mai ngày Tết (ở trong Nam) của người Việt Nam cũng có lý do như các phong tục trên đây của người Trung Hoa.
135. (KTNN 132, ngày 15-02-1994)
ĐỘC GIẢ: Alexandre de Rhodes có phải là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ hay không? Mục đích của ông là gì?
AN CHI: Nhiều nhà nghiên cứu đã trả lời một cách khách quan và nghiêm chỉnh rằng Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
Sau đây là lời phi lộ củá Việt Nam khảo cổ tập san, sô 2-1961, ra mắt nhân "Tam bách chu-niên húy-nhật giáo-sĩ Đắc-Lộ" do Trương Bửu Lâm chấp bút:
"(...) Giáo-sĩ Đắc-Lộ (tức Alexandre de Rhodes - AC) thật ra không phải là ông tổ và củng không phải là ông tổ duy nhất (Chúng tôi nhấn mạnh - AC) của chữ quốc ngữ. Trước ông, đã có nhiều người đã cố gắng tìm cách phiên âm tiếng nói của dân Việt bằng vần La Tinh và chính ông cũng đã bao lần trong những tác phẩm của
Ông nói đến nhiều sách vở được viết ra trước ông bằng tiếng Việt (...). Và đồng thời với giáo sĩ Đắc-Lộ, chắc chắn cũng có nhiều giáo sĩ khác quan tâm đến vấn dề phiên âm: đó là lẽ dĩ nhiên vì công cuộc phiên âm là một lợi khí rất lớn cho việc truyền giáo. Vậy thì không còn ai có thể bào chữa thuyết cho rằng giáo sĩ Đắc-Lộ là ông tổ và ông tổ duy-nhất của chữ quốc ngữ" (Sđd, tr.ll).
Và sau dây là lời của linh mục Đỗ Quang Chính:
"Đắc-Lộ không phải là người Âu châu dầu tiên học tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc-Lộ cũng không phải là người ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam thời đó (Chúng tôi nhấn mạnh - AC). Thật ra, trong giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ, Đắc-Lộ chỉ góp một phần trong công việc quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và cho xuất bản đầu tiên."
(Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn, 1972, tr.78).
Còn sau đây là lời của Đỗ Hữu Nghiêm:
"Đắc Lộ dã tiếp thu, thừa kế, sắp dặt lại cho hoàn chỉnh tất cả các thành tựu của các nhà truyền giáo tiền phong hay đồng thời, dựa trên những trợ giúp quý giá, không thể thiếu dược của các tín đồ người Việt tiếp xúc gần gũi với ông, chia sẻ chí hướng của ông (...). Thực sự công trình sáng tạo chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh là một công trình tổng hợp có tính chất tập thể quốc tế, trong đó Đắc Lộ là người đã có một vị trí cốt yếu khi sử dụng rộng rãi thứ chữ mới này trong các tác phẩm in trình bày những kiến thức sâu rộng. Các bậc thức giả như Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Xuyên, Thanh Lãng, Đỗ Quang Chính, Võ Long Tê đều khẳng định chữ quốc ngữ là một công cuộc chung của nhiều người."
(A. Đắc Lộ trong lịch sử hình thành chữ quốc ngữ, Công giáo và dân tộc, số 798, 17/3/1991, tr.14)
Nhưng hùng hồn và đáng tin hơn cả phải là lời của chính A. de Rhodes. Giáo sĩ đã viết như sau:
"Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh (tức Đàng Trong và Đàng Ngoài - AC), thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi căng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa (Chúng tôi nhấn mạnh - AC), cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam (tức là từ điển Việt-Bồ - AC), ông sau bằng tiếng Bồ-đào (tức là từ điển Bồ-Việt - AC), nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La Tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn..."
{Từ điển Annam-Lusitan-Latinh, tức Từ điển Việt-Bồ-La, do Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch, Nxb Khoa học xã hội, 1991, phần phiên dịch, tr.3).
Vậy A. de Rhodes cũng chẳng phải là người châu Âu đầu tiên soạn từ điển về tiếng Việt vì trước ông đã có hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là G. de Amaral và A. Barbosa.
Chính vì những điều trên đây mà linh mục Thanh Lãng đã khẳng định:
"Giáo sĩ Đắc Lộ không những không phải là ông tổ duy nhất của chữ quôc ngữ mà cũng không phải là một trong các ông tổ của chữ quốc ngữ". Và "Sở dĩ Đắc Lộ về sau này được lịch sử nhắc nhở đến nhiều, có lẽ không phải vì ông đã có công kiện toàn chữ quốc ngữ cho bằng ông đã để lại hai quyển sách (tức Từ điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày - AC) được coi như tài liệu duy nhất (có hệ thống - AC) về chữ quốc ngữ"
Địa chí văn hóa Thành phố HỒ Chí Minh, t.II, TPHCM, 1988, tr. 136-137).
Còn mục đích của A. de Rhodes thì đã được chính ông xác định như sau:
"(...) ước gì các Ngài trở nên những người truyền bá nhiều phương ngữ, để không những các nước lân cận và quen biết từ xưa được nghe những sự kỳ diệu của Thiên Chúa mà cả mọi miền dưới bầu trời và những vương quốc rất xa xôi ở cực Đông từ nhiều thế kỷ qua chưa được nghe, thì bây giờ những nước ấy cũng phải được nghe và rao truyền danh Chúa huyền diệu biết bao trên khắp trái đất (...). Mà lại để Lời Thiên Chúa thâm nhập dễ dàng hơn tới tận cùng Hoàn cầu, nơi người Đông- kinh và Cô-sinh, tức là tất cả mọi người An Nam đang chiếm cư, thì bây giờ lòng đại lượng bao la của quý vị cũng truyền lệnh thực hiện quyển từ điển của dân tộc An Nam, một quyển từ điển giúp ích cho những người làm công tác Tông đồ được chỉ định cho phần vườn nho này của Chúa, hầu họ hiểu biết phương ngữ xa lạ của người An Nam, tức là để những mầu nhiệm Thiên Chúa được giãi bày cho người An Nam, đồng thời cũng để người An Nam vừa làm quen với chính Đức Tin Rô-ma và Tông đồ, vừa làm quen với phương ngữ Rô-ma và La- tinh. Ai mà không thấy việc đó trong tương lai có lợi là chừng nào cho công cuộc truyền bá đức tin của Chúa Ki- tô được rộng rãi và chắc chắn hơn" (Sđd, phần đã dẫn, tr.l).
Lời lẽ của A. de Rhodes hoàn toàn rõ ràng: Ông làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ lợi ích nào của người Đại Việt cả.
-ử 136. (KTNN 133, ngày 01-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Tôi không đồng ý với cách trả lời của mục Chuyện Đông chuyện Tây cho câu "Dân dĩ thực vi thiên", trên Kiến thức ngày nay số 117 (tức cách trả lời cho rằng "thiên" là ông trời). Tôi đang có bằng chứng cụ thể như sau: Trong quyển sách "Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca", do tác giả Nguyễn Hữu Quỳ phiên âm và chú giải xuất bản năm 1971, tập I, quyển nhất, trang 31, dòng thứ 14 có giảng như sau: "Chữ thiên ở
đây có nghĩa là "hình dung vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được". Thí dụ: dân dĩ thực vi thiên "người dân xem việc ăn là cần thiết nhất". Vậy chữ "thiên" ở đây không có nghĩa là "làm trời".
AN CHI: Cái "nghĩa" của chữ thiên mà ông dẫn ra trên đây đã được nói đến từ lâu trong một số từ điển. Từ nguyên giảng: "Phàm tất bất khả vô giả viết thiên" (Những cái nhất định không thể không có gọi là thiên). Từ hải thì giảng: "Phàm sở ngưỡng lại giả giai viết thiên" (Những cái mà người ta trông nhờ đều gọi là thiên). Cái nghĩa này của Từ nguyên và Từ hải đã được Mathews' Chinese-English Dictionary diễn đạt là "describes that which is indispensable" (diễn tả cái gì không thể thiếu được). Do đó mà câu "dân dĩ thực vi thiên" được dịch là "the people regard food as their one (có lẽ là "own" bị in sai - AC) necessity" (dân chúng xem cái ăn là thứ thiết thân của họ). Tuy nhiên cũng quyển từ điển đó của R.H. Mathews, nơi chữ dân, lại dịch câu đang xét là "the masses regard sufficient food as their heaven" (dân chúng xem cái ăn đầy đủ là ông trời của họ).
Chính cách dịch sau của Mathews' Chinese-English Dictionary mới là cách dịch đúng, cần phải hiểu mệnh đề "dân dĩ thực vi thiên" gắn liền với mệnh đề đứng liền trước nó vì cả câu là "Vương giả dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên" (Vua chúa lấy dân làm trời (còn) dân thì lấy cái ăn làm trời). Trong cả câu, chữ thiên đã được dùng hai lần với một cái nghĩa duy nhất là ông trời, là trời. Đây là dụng ý chơi chữ của tác giả. Đôi với câu đang xét thì sự biên dịch phải dừng lại ở cái nghĩa "Ông trời" của chữ thiên còn cái ý "vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được" thì chỉ nên dành cho sự giảng văn mà thôi. Cũng vậy, đối với câu sau đây trong sách Nghi lễ "Phụ giả tử chi thiên; phu giả thê chi thiên dã" (Cha là ông trời của con; chồng là ông trời của vợ vậy) thì chữ thiên phải được dịch là "trời" chứ không nên dịch thành "người đáng được tôn sùng nhất" hoặc "người có quyền hành tuyệt đối". Thử tưởng tượng xem thành ngữ "dân chi phụ mẫu" mà không dịch thành "cha mẹ của dân", lại đi dịch thành "người có quyền sinh sát đối với dân" hoặc "người xét xử công bằng cho dân" thì còn đâu là ý nhị nữa!
Trở lại với câu đang xét, xin chép để ông tham khảo lời dịch và lời giảng trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, q.thượng, phần II. Câu dân dĩ thực vi thiên được dịch là "dân lấy ăn làm trời" còn câu dân lấy ăn làm trời thì được giảng như sau: "Dân lấy miếng ăn làm trọng, nên muốn trị dân, trước hết phải làm cho dân no ấm, vì dân đói thì nước loạn". Cái triết lý sâu xa của câu đang xét chính là ở đó và cái tiếng thiên nghĩa là trời này còn bao hàm ở trong nó cái ý "nước loạn hay nước yên là tùy ở dân bị đói kém hay dân được no đủ" (nó đâu chi diễn đạt cái ý quá tầm thường là "vật gì hay sự gì cần thiết và người ta phải nhờ vả không thể thiếu được"!). Tuy nhiên cái ý đó là dành cho nhà giảng văn còn nhà từ điển thì chỉ nên ghi nhận cái nghĩa là "trời" của tiếng thiên mà thôi.
★ 137. (KTNN 133, ngày 01-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay số 125 mục Chuyện Đông chuyện Tây có giải thích thành ngữ "ăn như hạm". Tôi xin góp ý như sau. Nói "àn như hạm" là hàm ý "ăn nhiều" "ăn khỏe", ở đây, người ta hiểu theo cách thông thường "hạm" là "chiến hạm", "tàu chiến" hay "tàu há mồm". Chiến hạm có thể chứa nào là binh lính, vũ khí, thiết giáp, máy bay, v.v... Người ta ví von người ăn khỏe, ăn không biết no với sức chứa của "chiến hạm" hay "hạm" là hiểu theo cách đò. Rất mong An Chi cho biết ý kiến về cách hiểu này của tôi.
AN CHI: Xin thẳng thắn khẳng định rằng đây là một cách hiểu sai.
Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel đã ghi nhận ba từ hạm như sau:
- hạm 1. Tigre féroce, Grand tigre (...)
- hạm 2. (Tàu trận) Navire đe guerre.
- hạm 3. (= Hãm) Menton.
Thành ngữ ăn như hạm đã được tác giả xếp vào từ hạm thứ nhất (có nghĩa là cọp dữ, hổ to).
Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ ghi nhận hai từ hạm như sau:
- hạm 1. Tàu chiến đóng với sắt dày.
- hạm 2. Hầm, hùm, hổ hay cọp.
Thành ngữ ăn như hạm đã được các tác giả xếp vào từ hạm thứ hai (= hổ, cọp).
Vậy ăn như hạm có nghĩa là ăn như ẹọp. Vấn đề đã rõ ràng. Nhưng cũng xin nói thêm rằng hạm trong chiến hạm, hạm đội, hàng không mẫu hạm, v.v. chỉ mới bắt đầu thông dụng trong tiếng Việt từ sau Thế chiến II (1939-1945) còn thành ngữ ăn như hạm thì đã ra đời trong tiếng Việt, ít nhất cũng là trong phương ngữ Nam Bộ, tự đời nào rồi.
Từ tổ tàu há mồm, với tính cách là ẩn dụ dùng để chỉ các miệng ăn con trẻ vô tội và vô tư, cũng chỉ mới xuất hiện từ thập kỷ 50 trong phương ngữ Ềắc Bộ, sớm lắm cũng chỉ là cuối thập kỷ 40, mà thôi. Nó cũng chẳng có liên quan gì về nguồn gốc với thành ngữ ăn như hạm cả.
'ử 138. (KTNN 133, ngày 01-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Có phải bút hiệu của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) bắt nguồn từ một giai thoại hay không? Xin cho biết giai thoại đó.
AN CHI: Bút hiệu của Nguyễn Khắc Hiếu không bắt nguồn từ một giai thoại nào cả. Nó chỉ phản ánh một cách sinh động và ý nhị đặc điểm của quê hương nhà thơ xét theo địa thế mà thôi, vì chính ông đã viết trong bài yết hậu "Tự thuật":
"Ba-vì ở trước mặt,
Hắc-giang bên cạnh nhà:
Tản Đà!"
(Ba-vì là núi Tản còn Hắc-giang là sông Đà).
Tản Viên hay Tản Lĩnh là tên gọi khác của núi Ba Vì gồm ba ngọn cao mà hình tròn như cầi tán (nên mới gọi là Tản = cây dù, cái lọng). Ngọn cao nhất ở giữa gọi là núi Ông, ngọn ở phía Đông gọi là núi Bà, còn ngọn thứ ba gọi là núi Chẹ thì đứng ở phía Tây soi bóng xuống dòng sông Đà. Núi Tản Viên có liên quan đến huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh mà mọi người đều biết. Đây chính là nơi đã diễn ra các cuộc đọ sức đọ tài giữa Thần Núi và Thần Nước. Thủy Tinh cho nước dâng lên thêm thì Sơn Tinh cũng đắp núi cho cao lên thêm nên chẳng bao giờ bị ngập. Cứ theo truyền thuyết thì đó chính là núi Ba Vì ngày nay mà ngọn núi ông cao đến 1281m.
Còn sông Đà, cũng gọi lằ sông Bờ, thì bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Sơn Tây (cũ), Hà Đông (cũ) rồi trở lên Hưng Hóa để hợp lưu với sông Hồng mà đổ ra vịnh Bắc Bộ. Đây là một con sông hung hãn đã từng gây ra biết bao cơn lũ lụt khủng khiếp và tai hại cho người dân từ xưa đến nay. Nó chính là hiện thân của Thủy Tinh mà huyền thoại đã định đoạt cho cái số phận là phải bị Sơn Tinh chế ngự. Tình tiết này của huyền thoại đã nói lên một cách sinh động ước vọng của con người muốn thoát khỏi sự tàn phá của nạn lũ lụt.
Địa hình, địa vật và địa danh nơi quê hương của Tản Đà quả là vẫn luôn luôn phảng phất cái không khí bi tráng của huyền thoại xa xưa. Ông đã chào đời tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, tức 25-5-1889 (theo Tản Đà thơ và đời, Nguyễn Khắc Xương soạn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1995). Bất Bạt đã trở thành huyện Ba Vì, còn làng Khê Thượng của ông nay đã được chia thành hai xã Khê Thượng và Khê Hạ để nhập vào thành phố Hà Nội. Nhưng dù địa danh và địa giới có thay đổi như thế nào thì địa thế của quê hương Tản Đà vẫn cứ là:
Tản Viên trước mặt,
Đà giang cạnh nhà.
Hồn thơ Tản Đà phải chăng một phần nào là kết tinh của địa thế hùng vĩ và thơ mộng này?
★ 139. (KTNN 133, ngày 01-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Trong tuồng "Bên cầu dệt lụa", Nhuận Điền đã nói về Trần Minh: "Sanh ta ra là cha mẹ ta, hiểu ta chỉ có Trần Minh". Có phải đây là lấy ý của câu ngày xưa Bá Nha nói về Tử Kỳ hay không? Xin cho biết nguyên văn cầu đó trong tiếng Hán.
AN CHI: Chuyện Bá Nha, Tử Kỳ là chuyện tri âm, là chuyện Tử Kỳ hiểu tiếng đàn của Bá Nha. Còn dây lại là chuyện tri kỷ, nghĩa là chuyện người khác hiểu dược con người của mình, liên quan đến tình bạn giữa Bào Thúc Nha và Quản Trọng. Chuyện này dược Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ chép như sau:
"Bào Thúc Nha, người thời Chiến-quốc, làm bạn với Quản-Trọng rất thân; khi chưa làm quan hai người hùn vốn đi buôn. Quản-Trọng luôn luôn tìm cách chia phần lời nhiều hơn, nhưng Thúc-Nha không buồn, lại nói rằng: Quản-Trọng nhà nghèo, cần có tiền nhiều để nuôi mẹ. Khi mới ra làm quan, Quản-Trọng làm nhiều việc hư-hỏng, ai nấy đều chê, chỉ có Thúc-Nha biết tài, cho là Quản-Trọng chưa tới thời. Khi ra trận, Quản- Trọng hay lùi lại phía sau, mọi người đều cười là nhát, chỉ có Thúc-Nha bảo là Quản-Trọng còn mẹ già, cần phải giữ thân để nuôi mẹ. Khi Tề loạn, mỗi người phò một công tử trôn sang nước khác, và hẹn sau ai có chúa được làm vua, phải tiến cử bạn cùng phò chung một người. Sau công tử Bạch về nước làm vua, xưng Tề Hoàn-công. Thúc-Nha tiến cử Quản-Trọng làm tể tướng. Quản-Trọng giúp Tề Hoàn-công làm bá các chư-hầu; khi sắp chết lại không tiến cử Thúc-Nha thay mình. Vua lấy làm lạ hỏi, Quản-Trọng đáp: "Bào Thúc-Nha là bậc quân-tử chớ không phải là nhà chánh-trị; ông ưa điều thiện mà ghét điều ác, lại ghét thái quá đến không ai chịu được. Người như thế mà nắm quyền chánh, ắt hư việc nước". Có người mách việc ấy lại cho Bào Thúc-Nha nghe. Ông cười và nói: 'Chính vì thế mà trước kia ta mới hết sức tiến-cử Quản thượng-phụ cho chúa-công; thượng-phụ trung với nước mà không vì bạn, đó là không phụ công ta tiến-cử. Giả sử chúa-công phong ta chức tư-khấu để trừ gian diệt nịnh, thì ta nhận ngay. Nếu phong ta làm tể-tướng thì nhà ngươi và nội bọn còn đâu chỗ dung thân". Kẻ ấy mắc cỡ lui ra. Bởi vậy, lúc sinh-thời, Quản-Trọng thường nói: "Sinh ta là cha mẹ ta, còn hiểu ta thì chỉ có Bào Thúc-Nha". (Sđd, q. thượng, ph.III, tr. 15-16).
Lời nói của Quản T^ọng bằng tiếng Hán vẫn thường được ghi là: "Sinh n^ã giả phụ mẫu; tri ngã giả Bào Tử (Bào Tử là Bào Thúc Nha)".
★ 140. (KTNN 134, ngày 15-3-1994)
ĐỘC GLẲ: Mục "Tin thế giới thu qua vệ tinh" của Đài truyền hình Thành phô' Hồ Chí Minh, buổi phát hình tôi 12/9/1993 có nói đến cộng đồng người "A-bô-ri-giơ-nôn" ở Australia. Xin cho biết người "A-bô-ri-giơ-nôn" là người gì?
AN CHI: "A-bô-ri-giơ-nôn", tiếng Anh là
aboriginal, có nghĩa là thổ dân, dân bản địa nếu là danh từ, là thuộc về thổ dân, liên quan đến thổ dân nếu là tính từ. Vậy nó đồng nghĩa với autochthon(al). Đó là một từ phái sinh bằng hậu tô" cd của aborigines, do tiếng La Tinh cũng là aborigines, có nghĩa là cư dân nguyên thủy của một vùng đất nhất định. Danh từ này trong tiếng La Tinh vốn được dùng để chỉ dân bản địa của xứ Latium, tức cư dân nguyên thủy của nước Ý ngày nay.
Đáng lẽ phải dịch thành "cộng đồng thổ dân" người dịch lại diễn đạt thành "cộng đồng người A-bô-ri-giơ- nơn", có lẽ do nghĩ rằng aboriginal là tên của một sắc dân bản địa ở Australia. Tĩếng Pháp có một từ tương ứng là aborigène mà có báo cũng đã dịch thành "người A-bô-ri-gien".
★ 141. (KTNN 134, ngày 15-3-1994)
ĐỘC GIẲ: Trong Việt-nam sử-lược, kết luận chương IV nói về nhà Lý, cụ Trần Trọng Kim đã viết: "Vì vua Cao-tôn hoang chơi, làm mâ't lòng người, cho nên giặc-dã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tôn lại nhu nhược bỏ việc chính-trị, đem giang sơn phó thác cho người con gái còn đang thơ dại, khiến cho kẻ gian hùng được nhân dịp mà lấy giang sơn nhà Lý, và lập ra cơ nghiệp nhà Đông-A vậy". Hẳn nhà Đông A phải là nhà Trần. Nhưng tại sao lại gọi như thế?
AN CHI: Nhà Đông A đúng là nhà Trần và đó là do chiết tự mà ra. Chữ Trần PẬ. gồm có chữ đông jfl bên phải và chữ p bên trái mà một số người đã cho là chữ a. Vì vậy mà theo họ ihì "đông + a = Trần".
Nhưng cách phân tích trên đây lại không đúng vì p không phải là chữ a mà là chữ phụ Ạ viết tắt khi nó đứng làm bộ thủ ậ bên trái như trong các chữ nguyễn Bt, trờ Ri., lăng ĩề.,■ V.V.. Cũng cái tự hình đó, nếu đứng làm bộ thủ ở bên phải, thì lại là chữ ấp ễ> viết tắt như trong các chữ bang ệp, hàm tìp, tà V.V.. Vậy tự hình [5 không thể là chữ a. Thuộc bộ phụ, có một chữ mà tự hình là H. Chữ này có ba âm: a (= cái gò lớn, chỗ quanh co), ả (trong ả nả = mềm dẻo, ôn hòa) và ốc (là một phát ngữ từ). Một số người đã khẳng định một cách võ đoán rằng chữ p chính là dạng tắt của chữ l15! đọc theo âm thứ nhất là a. Đó là một điều khẳng định vô căn cứ. Tóm lại, nếu chiết tự thì trần phải là đông phụ chứ không phải là đông a.
Tuy nhiên - vì đã gần như thành lệ - hễ nghe đến hai tiếng "Đông A" thì có thể biết rằng người nói muốn nhắc đến nhà Trần.
:к 142. (KTNN 134, ngày 15-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao lại nói "quay tít thò lò?" "Thò lò" là gì?
AN CHI: Thò lò là cái bong vụ sáu mặt (nhất, nhì, tam, tứ, ngũ, lục) có tra cốt ở giữa để bong cho quay. Đây là một từ Việt gô"c Hán mà âm Hán Việt hiện đại là đà loa, âm Bắc Kinh là tưó luó, chữ viết là Đà
loa vốn là một thứ đồ chơi của trẻ con, thoạt đầu được làm bằng gỗ, đẽo gọt cho tròn và từa tựa hình con ốc (loa là con Ốc) mà cân đôi, chúm lại phía dưới thành một điểm nhọn để có thể bong cho nó quay đều và đằm. Xét theo nguồn gốc của đồ vật thì cái thò lò, tức cái bong vụ, của trẻ con Trung Hoa thời xa xưa, có thể cũng chỉ là một con ốc, nhưng phải là con ốc đều đặn, cân đối mà chúng đã lựa chọn được để bong chơi.
Trong tiếng Việt ngày nay, người ta chỉ còn dùng hai tiếng thò lò để chỉ cái bong vụ sáu mặt nói trên với tính cách là một đổ cụ (= đồ dùng để đánh bạc), như đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ hoặc Từ điển tiếng Việt 1992. Nhưng chắc chắn là danh từ thò lò đã đi vào tiếng Việt với cái nghĩa gốc là một món đồ chơi của trẻ con như đã nói. Bằng chứng là tại nhiều vùng thuộc Bắc Bộ người ta vẫn còn dùng nó theo nghĩa này, ít nhất cũng là tại một số vùng thuộc tỉnh Thái Bình là những nơi mà trong 20 năm ở miền Bắc chúng tôi đã từng lưu ngụ. Thậm chí tại đây người ta còn nói, con thò lò, chứ không nói cái thò lò, với ý thức rõ ràng là mình dùrig danh từ chỉ cá thể con để gọi một vật "hoạt động". Và chính là căn cứ vào cái nghĩa này mà nhiều người dân ở Thái Bình đã dùng từ thò lò theo ẩn dụ để chỉ củ su hào: họ gọi đây là củ thò lò. Phải hiểu hai tiếng thò lò theo cái nghĩa nguyên thủy đã miêu tả thì mới so sánh như thế được, chứ cái thò lò sáu mặt thì so sánh thế nào được với củ su hào về hình dáng.
Vậy thò lò là cái bong vụ và quay tít thò lò là quay tít như cái bong vụ.
★ 143. (KTNN 134, ngày 15-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Xin nhắc lại truyện Chử Đồng Tử và xin cho biết tích này có liên quan đến địa danh nào ở miền Bắc. Có phải tên Chử Đồng Tử có nghĩa là cậu bé ở bãi sông?
AN CHI: Truyện "Chử Đồng Tử" có những lời kể khác nhau dưới cái tên "Truyện đầm Nhất Dạ (Nhất Dạ Trạch)". Ớ đây, xin chép lời kể trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, q. thượng, ph. II, như sau:
"Đời Hùng-vương thứ 3, nhà họ Chử đã nghèo lại bị cháy nhà, chỉ còn một cái khố cho hai cha con cùng mặc. Hễ cha là Chử-phù-Vân mặc khố thì con là Chử- đồng-Tử phải trầm mình dưới nước, hay ngược lại. Lúc hấp hối, cha trối dặn con cứ dể cha trần truồng mà chôn, dành cái khô' lại cho con mặc. Nhưng vì quá thương cha, Chử-đồng-Tử đành cãi lời cha mà đóng khố cho cha trước khi chôn. Từ đấy Chử-đỒng-Tử sông cuộc đời khốn-khổ trần-truồng, cứ dìm mình dưới nước che thân và xin ăn ở các thuyền qua lại. Ngày kia, nhân vắng người, Chử lên bãi cát ngồi phơi nắng cho đỡ lạnh; bỗng có đoàn thuyền của công-chúa Tiên-Dung di ngoạn cảnh vừa đến. Chử bèn lật đật cào cát núp mình xuống dưới và hất cát phủ lên trên. Vô tình, công-chúa truyền quân căng màn nơi đó để công chúa tắm mát. Nước giội cát trôi, trơ ra chàng thanh-niên họ Chử cùng công chúa Tiên-Dung ở giữa bốn bức màn kín đáo. Âu cũng là duyên trời, công-chúa đành lấy Chử làm chồng và vì sợ uy vua cha, công-chúa đành cùng chàng ở lại làng Chử- xá dựng nhà mua bán với dân-chúng trong miền. Chử- đồng-Tử lại theo khách buôn vượt biển mua bán nơi xa, gặp tiên ban cho gậy và nón phép. Chử trở về cùng vợ tìm thầy học đạo. Đường xa vắng-vẻ, vợ chồng không nơi trú-ngụ, Chử bèn cắm gậy úp nón xuống, tức thì lâu- đài cung-điện hiện ra, có cả văn-ban võ-bá cùng quân lính hầu-hạ. Tiếng đồn tới tai vua cha, Hùng-vương bèn sai quan quân tới dẹp. Binh triều kéo đến đóng tại bãi Tự-nhiên (thuộc phủ Khoái-châu, Hưng-yên) đôi diện với cung diện Chử-đồng-Tử. Đang đêm nhìn qua sông, bỗng thấy cung-điện cùng vợ chồng công-chúa từ từ bay lên trời cả. Nơi có cung-điện trở thành cái đầm, gọi là đầm Nhất Dạ" (Sđd. tr.58-99).
Chử Đồng Tử không có nghĩa là cậu bé ở bãi sông như nhiều người vẫn tưởng. (Một số từ điển cũng đã giảng theo kiểu đó). Vì hiểu sai như trên cho nên có tác giả đã viết, chữ Chủ theo bộ thủy là 'M (= bãi sông). Thực ra, Chủ ở đây là họ người nên phải viết theo bộ y thành mới đúng. Việt-Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp (phần "Nhân danh, địa danh") đã ghi đúng tên của Chử Đồng Tử bằng chữ Chủ bộ y này, vì đây mới chính là chữ đã được dùng trong Lĩnh Nam chích quái. Có thể kiểm chứng thêm nơi các từ điển của Trung Hoa: chữ chủ bộ y mới dùng để ghi họ người còn chữ chủ bộ thủy thì không. Cha của Chử Đồng Tử là Chử Phù
Vân (có bản ghi là Cù Vân hoặc Vi Vân): Chủ ờ đây hẳn hoi là họ người. Vậy Chử Đồng Tử có nghĩa là cậu bé họ Chử.
Địa danh có liên quan đến sự tích Chử Đồng Tử là Chủ Xá, xưa là tên xã, nay là tên thôn thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. (Xin xem: Bùi Thiết, Làng xã ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, 1985, mục 253, tr.279-81). Xá có nghĩa gốc là nhà rồi, trong quá trình chuyển nghĩa, lại có thêm các nghĩa sau đây:
- những người trong nhà, - những người trong họ, - làng ấp. Vậy Chử Xá là làng của người họ Chử. Tập quán lấy họ để đặt tên cho làng đã xuất hiện từ thế kỷ X tại nước ta. Nó đã được ghi chép như sau:
"Bên cạnh các làng cũ, thành lập từ lâu đời, có một sô" làng mới của người Trung Quốc sang ngụ cư, của một vài họ lớn hoặc là làng đã phong kiến hóa của một dịa chủ kiêm quan lại nào đó. Các làng sau này thường lấy ngay họ khai sáng hay họ lớn nhất làm tên gọi như Ngô xá..., Dương xá..., Lê xá, Bùi xá..."
(Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, Lịch sử Việt Nam, thế kỷ VII - 1427, q.l, t.2, Hà Nội, 1970, tr.73).
Theo Bùi Thiết thì Chử Xá xưa gọi là Chử Xá Châu (X. sđd, tr.280). Địa danh Chử Xá Châu đã dược ghi nhận trong Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX ((Các tổng trấn xã danh bị lãm), Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Hà Nội, 1981, tr.195). Trong sách này, chữ Chủ được ghi theo bộ y, còn chữ Châu được viết là /V+l (= bãi đất nổi giữa nước, giữa sông hoặc giữa biển). Vậy Chử Xá Châu có nghĩa là bãi đất nổi trên đó có làng của người họ Chử. Chúng ta lại có thêm một bằng chứng rõ ràng nữa để khẳng định rằng Chử ở đây là họ người. Nếu nó có nghĩa là bãi sông thì Chử Xá đã là "họ của những người sông ngoài bãi" rồi nên chữ châu là hoàn toàn thừa thãi. Vậy chủ ở đây không phải là bãi sông.
ir 144. (KTNN 134, ngày 15-3-1994)
ĐỘC GIẢ: Trong "khỏe như vâm" thì "vâm" có phải là con voi không? Đâu là xuất xứ của từ này?
AN CHI: Vâm là con voi đúng như bạn đã hiểu. Xuất xứ của nó liên quan đến chữ vi 'ềj là làm, vì chữ này trong giáp cốt văn đời nhà Thương chính là hình một con voi như đã nói ở KTNN 111, Chuyện Đông chuyện Tây, tr.32, cột 3. Vương Lực đã chứng minh rằng voi là âm xưa của chữ vi còn tồn tại trong tiếng Việt ngày nay (X. "Hán Việt ngữ nghiên cứu", Háĩí ngữ sử luận văn tập, Bắc Kinh, 1958, tr.359). Khi mà tự hình cổ xưa của chữ vi là một con voi và âm cổ xưa của nó (voi) cũng là tên của con vật này thì ta có cơ sở để luận ra rằng vi ngày xưa có nghĩa là voi.
Chữ vi này, theo phép âm dương đối chuyển trong tiếng Hán cổ, còn có thể đọc là viêm. Các quyển từ điển quen thuộc như Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển, v.v. đều không ghi nhận âm này. Nhưng Lo Tch'ang-Pei (La Thường Bồi), trong một bài thông báo nhan đề Correction de j- en ỵj- dans le système du chinois ancien de M. Karlgren, đọc tại Hội nghị lần thứ 158 của tổ chức American Oriental Society tại New York ngày 30/3/1948, có cho biết rằng ông đã khảo chứng được một âm nữa của nó là viêm. Ông đã nêu các thiết âm sau đây: vu liêm, vu triêm, vinh kiềm. Cả ba thiết âm này nói lái lại thì đều cho âm viêm (lu, tru, kình). Vậy rõ ràng chữ vi đang xét còn có thể đọc là viêm. Và từ viêm sang vâm thì chỉ có một bước (Nhớ rằng nhậm cũng đọc thành nhiệm).
Tóm lại, vâm (= voi) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ một tiếng Hán được ghi bằng chữ % mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là vi nhưng xưa kia còn có thể đọc thành viêm mà vâm là một biến thể ngữ âm còn tồn tại trong tiếng Việt ngày nay. Chữ vi hiện nay chỉ còn được dùng theo lôi giả tá (mượn chữ mượn âm) để ghi một động từ có nghĩa là "làm" mà thôi.
★ 145. (KTNN 135, ngày 01-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Mục Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay có khẳng định rằng "giao thừa" là tiếng Hán chứ không phải do "giao thời" nói trại mà ra. Quý ông có bộ Từ hải, tôi mong quí ông tra xem trong đó có từ "giao thừa" không. Nếu không thì nên tra đến các bộ Từ nguyên, Khang Hy. Một khi thấy có trong một bộ sách nào hay thấy có trong một bộ từ điển Hán của người Hoa nào khác - chứ không phải trong từ điển Hán-Việt của người Việt - thì thuyết cho rằng "từ giao thừa là do giao thời nói trệch đi" mới bị đánh đổ được. Nếu quý ông tìm thấy được từ "giao thừa" trong bộ từ điển Tàu nào thì xin đăng vào báo để cho lời giảng giải của quý ông trước thêm CỨNG và bác bỏ hẳn các ý tưởng bất đồng.
AN CHI: Chúng tôi đã tra cứu các từ điển sau đây: Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển, Hình âm nghĩa tổng hạp đại tự điển của Cao Thụ Phiên và Liên miên tự điển (dày 4775 trang mà chỉ chuyên thu thập các tiếng đôi) của Phù Định Nhất thì không thấy các quyển này ghi nhận hai tiếng giao thừa. Nhưng tất cả những quyển đó cũng không ghi nhận hai tiếng giao thời. Vậy cũng chẳng có cơ sở nào để nói rằng giao thời là tiếng Hán cả.
Đúng ra, có một quyển đã ghi nhận hai tiếng giao thời nhưng đây không phải là từ điển tiếng Hán, eũng không phải từ diển Hán-Việt, mà lại là từ diển Việt- Hán. Đó là quyển Việt Hán tự điển tối tân do nhà sách Chin Hoa ở Chợ Lớn in lần đầu tiên năm 1961. Đây chỉ là một bản sao chép (có rút gọn và trừ phần phụ lục) không hơn không kém của quyển Từ điển Việt Hán do tập thể tác giả Hà Thành, Trịnh Ngọa Long, Chu Phúc Đan, Vương Đức Luân, Vương Minh Thư và Lương Phong biên soạn, xuất bản lần đầu tiên tại Bắc Kinh năm 1960. Tập thể tác giả này lại là những người đã từng học tập hoặc công tác tại Việt Nam (Hà Nội) nên phần dối dịch của họ có chỗ dã chịu ảnh hưởng của việc sử dụng tiếng Hán tại Việt Nam. Còn từ mục giao thời mà họ dưa vào từ diển của họ thì dương nhiên là một dơn vị từ vựng của tiếng Việt.
Trong thực tế, đã có rất nhiều từ thông dụng không dược ghi nhận vào từ diển. Chỉ xin đơn cử một thí dụ. Hai tiếng sung sướng ýL^ệị không hề được ghi nhận trong những quyển từ điển tiếng Hán mà chúng tôi kể ra bên trên. Nhưng nó lại được dùng để giảng tiếng hàm ỗử trong Từ điển tứ giác nhỏ in ở Bắc Kinh rất thông dụng trong học sinh và sinh viên. Nếu vì không thấy sung sướng được ghi thành từ mục trong từ điển tiếng Hán mà cho rằng nó không phải là tiếng Hán thì đã kết luận trái ngược với sự thật.
Vậy cũng không đáng lấy làm lạ nếu giao thừa không được ghi nhận trong từ điển. Và cũng không đáng lấy làm lạ nếu người Trung Hoa dùng hai tiếng đó để diễn đạt ý "giao phó và thừa tiếp" nói chung mà người Việt Nam lại dùng nó để diễn đạt ý "giao phó và thừa tiếp trong đêm trừ tịch". Nhiều từ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt đã có thêm những cái nghĩa mà chúng không hề có trong tiếng Hán, chẳng hạn: tử tế, lịch sự, khốn nạn, v.v...
Cuối cùng cho rằng giao thừa là do giao thời nói trại mà ra thì không hợp lý, vì giao thừa khó hiểu hơn giao thời mà thông thường người ta chỉ nói trại âm khó hiểu thành âm dễ hiểu hơn. Thí dụ: sáp nhập nói thành sát nhập trong tiếng Việt; laudanum (cồn thuốc phiện) thành lait d'änon trong tiếng Pháp hoặc fẽberfũge (hạ nhiệt thảo) của tiếng Anh cổ đại thành feverfew (do không hiểu răng füge là gốc La Tinh có nghĩa là trốn, xua đuổi, làm cho giảm bớt nên mới thay nó bằng few, nghĩa là ít).
'k 146. (KTNN 135, ngày 01-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Cách gọi tên các ngày trong tuần: thứ hai, thứ ba..., chủ nhật bắt nguồn từ đâu?
AN CHI: Cách gọi tên các ngày của tuần lễ từ thứ hai, thứ ba, V.V., đến chủ nhật trong tiếng Việt hiện đại là do ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Sau đây là tên gọi các ngày của tuần lễ trong tiếng Bồ: domigo (chủ nhật, được coi là ngày đầu tuần), segunda feira (phiên chợ thứ hai), terẹa feira (phiên chợ thứ ba), quarta feira (phiên chợ thứ tư), quinta feira (phiên chợ thứ năm), sexta feira (phiên chợ thứ sáu), và sabado (thứ bảy - đúng nghĩa gốc là ngày Xa-ba). Những tên gọi đó của tiếng Bồ bắt nguồn từ những tên gọi sau đây trong tiếng La Tinh: dies dominica, secunda feria, tertia feria, quarta feria, quinta feria, sexta feria và sabbatum. ứng với tiếng La Tinh feria (mà nghĩa gốc là lễ), tiếng Bồ lẽ ra cũng phải là féria, có nghĩa là ngày. Nhưng từ nguyên dân gian đã biến féria thành feira, có nghĩa là chợ phiên, phiên chợ. Theo danh sách trên đây, có thể thấy rằng từ chủ nhật đến thứ sáu, tiếng Việt đã theo rất sát tiếng Bồ. Nhân vì ngày sabado, tức ngày lễ Xa-ba, chỉ có ý nghĩa đối với người Do Thái mà thôi, cho nên khi diễn hệ thống tên gọi các ngày trong tuần từ tiếng Bồ sang tiếng Việt, người ta đã dịch luôn ngày sabado thành ngày thứ bảy. Âu cũng là một việc làm hợp lý.
-k 147. (KTNN 135, ngày 01-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao người ta cũng gọi cái rựa (để đốn cây, bửa củi) là "đực rựa"? Có lẽ nào đồ vật cũng "ái nam ái nữ"?
AN CHI: Trong Đại Nam quấc âm tự vị, Huình- Tịnh Paulus Của đã cho rằng đực rựa là một lối nói đùa bắt nguồn từ câu chuyện mà ông ghi lại như sau: "Tích rằng: hai vợ chồng chia gia tài, giao với nhau, vật chi kêu là cái thì về vợ; té ra vật gì cũng gọi là cái, người chồng tức mình, còn có một cái rựa chưa chia, bèn giành mà kêu là đực rựa". Đây chỉ là một lối giải thích theo kiểu từ nguyên dân gian. Gần đây, có nhà nghiên cứu cũng đã tán thành và nhắc lại cách giải thích của từ điển gia họ Huỳnh trên mặt báo. Đó là tác giả Lê Trung Hoa trong bài "Tìm hiểu nghĩa gốc một số từ" đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 22-3-1980. Sự thật không phải như thế.
Đực rựa là một lối nói thông thường của tiếng Việt thời xưa. Đây là một ngữ danh từ mà thành tô" thứ nhất (đực) là một đơn từ (= danh từ chỉ đơn vị) còn thành tố thứ hai (rựa) là một loại từ (= danh từ chỉ tổng loại - có người gọi là danh từ khôi) trong đó đực cũng hành chức tương tự và ngang hàng với các đơn từ khác như: con, cái, cục, chiếc, V.V.. Cho đến nay nó vẫn còn tồn tại trong thổ ngữ Vĩnh Hoàng như Võ Xuân Trang đã miêu tả trong bài "Truyện Trạng Vĩnh Hoàng, một hiện tượng trào phúng độc đáo trong văn học dân gian Bình Trị Thiên" (Dân tộc học, số 2, 1983, tr. 59-65). Trong thổ ngữ này, người ta vẫn nói đực cá thay vì con cá, đực rạ (= rựa) thay vì cái rựa, đực đá thay vì cục đá, V.V.. Các nhà Việt ngữ học đều nhất trí thừa nhận rằng, tiếng Việt ở miền Bắc Trung Bộ còn bảo tồn được nhiều yếu tố cổ xưa đã mất đi khỏi tiếng nói ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Thổ ngữ Vĩnh Hoàng nằm trong địa bàn đó nên việc nó còn lưu giữ nhiều yếu tô" Việt cổ là điều dễ hiểu. Vậy đực rựa là một cấu trúc cổ xưa của tiếng Việt mà phương ngữ Nam Bộ còn bảo tồn được cho đến gần đây, chứ chẳng có liên quan gì đến câu chuyện ngộ nghĩnh mà nhà từ điển họ Huỳnh đã kể lại.
Xin nói thêm rằng người ta cũng còn khai thác công dụng riêng biệt của đơn từ đực trong các phương ngữ mà hư cấu tình tiết cho truyện cổ tích Hà rầm hà rạc. Trong truyện này, có chi tiết sau đây về việc hai anh em chia của:
"Đến ngày chia của, anh chìa một tờ giấy bảo em:
- Của cải của cha mẹ để lại có ba giống: giống đực, giống cái và giống con. Mày bé bỏng nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc giống đực, còn giống cái và giống con thì phần tao. Nếu mày bằng lòng thì ký vào đây!
Em ngây thơ tưởng là anh thương thật nên không nghi ngờ gì cả ký ngay vào giấy. Cuộc chia của bắt đầu. Nhưng đồ vật nào mà chả gọi là "cái" hay "con". Người anh đếm mãi:
- Cái nhà này: của tao, con trâu này: của tao, cái chum này: của tao, cái cày, cái bừa này: của tao...
Suốt từ sáng đến chiều, những của chìm, của nổi, chia đã sắp vợi mà vẫn chưa có một vật nào thuộc giống đực cả. Mãi đến lúc trời đã tối người em tức mình mới chụp lấy một cây dao rựa dựng ở hè nhà mà nói rằng:
- Đây là "đực rựa" thuộc về phần tôi".
(Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tA, TPHCM, 1993, tr'199-200).
Có thể khẳng định rằng truyện này, ít nhất cũng là những chi tiết đã trích dẫn trên đây, chỉ ra đời sau khi đực không còn được dùng làm đơn từ trong một sô" phương ngữ, đồng thời xuất xứ của nó không phải là địa bàn của phương ngữ hoặc thổ ngữ nơi đó đực vẫn còn hành chức như một đơn từ.
Câu chuyện mà Huình-Tịnh Paulus Của đã kể cũng là một dị bản đơn giản của câu chuyện này.
★ 148. (KTNN 135, ngày 01-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao không gọi cái "báo giờ" hay "chỉ giờ" mà gọi cái "đồng hồ"? Tại sao không nói "làm một giờ", "làm hai giờ" mà nói "làm một tiếng", "làm hai tiếng"?
AN CHI: Ở Trung Hoa ngày xưa người ta dùng dụng cụ chỉ giờ "chạy" bằng nước, về đại thể, nó gồm có hai phần. Phần trên, chứa nước, có lỗ cho nước chảy xuống. Ở phần dưới, có cắm một cái cọc chia thành một trăm vạch (Mặt đáy được coi là một vạch, coi như có tất cả 101 vạch). Khoảng cách giữa 2 vạch chỉ một khoảng thời gian bằng 1/100 thời gian của một ngày-đêm, tức 14 phút 24 giây. Người ta cứ theo nước đã ngập được bao nhiêu vạch mà tính được bao nhiêu lần 14'24" đã trôi qua. Vì thứ dụng cụ đo giờ đó hoạt động theo đặc điểm đã nói trên, nên người ta gọi nó là lậu hồ (= hồ nhỏ giọt) và vì lậu hồ thường làm bằng đồng nên người ta cũng gọi nó là đồng hồ. Vậy đồng hồ là dụng cụ đo giờ, chỉ giờ của thời xưa.
Khi máy chỉ giờ của phương Tây du nhập vào Việt Nam thì người nước ta cũng gọi nó là đồng hồ, mặc dù
đó không phải là cái hồ bằng đồng. Đồng hồ của phương Tây lại thường là đồng hồ gõ kiểng (= đánh chuông), cứ mấy giờ thì gõ mấy tiếng (không kể phần nhạc mở đầu). Vậy tiếng kiểng đồng hồ là dấu hiệu chỉ thời gian. Một tiếng kiểng đổ là một lần một giờ đã trôi qua. Tiếng kiểng (hoặc tiếng chuông) đồng hồ, nói gọn thành tiếng đồng hồ, gọn hơn nữa là tiếng, do đó đã được dùng theo phép hoán dụ (lấy dấu hiệu của hiện tượng để chỉ hiện tượng) để chỉ khoảng thời gian đã nói. Vậy làm một tiếng, làm hai tiếng cũng có nghĩa là làm một giờ, làm hai giờ đó thôi.
Nhân tiện, xin nói thêm rằng tiếng khắc (= 15 phút) cũng là hệ quả của một sự chuyển nghĩa theo phép hoán dụ. Những vạch trên cái cọc cắm ở phần dưới cái lậu hồ, tiếng Hán gọi là khắc. Khi nước ngập thêm một khắc là lại thêm một lần thời gian 14'24" trôi qua như đã nói. Do đó mà người ta dùng khắc theo phép hoán dụ để chỉ khoảng thời gian này. Do điều chỉnh theo đồng hồ Tây mà ngày nay 1 khắc mới bằng 15 phút. Vì vậy, tính theo đồng hồ Tàu thời xưa thì một ngày đêm có 100 khắc, nhưng tính theo đồng hồ Tây ngày nay thì chỉ có 96 khắc mà thôi.
:k 149. (KTNN 136, ngày 15-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Tại sao trước dây Thái Lan dược gọi là Xiêm hoặc Xiêm La? Tại sao lại đổi làm Thái Lan? Các tên đó có ý nghĩa gì?
AN CHI: Xiêm không phải là tên tự gọi của người Thái Lan (trở xuống xin gọi là Xiêm). Đó là tên mà người Khmer và người Chàm đã dùng để gọi họ. Danh xưng Syãm (ghi theo Coedès) đã xuất hiện trên văn bia của người Chàm từ thế kỷ XI, còn hình ảnh của họ (được khẳng định là người Syãm) cũng đã hiện diện trên phù điêu của di tích văn hóa Angkor ở Campuchia từ thế kỷ XII (X., chẳng hạn: P.Fistié, La Thaïlande, Paris, 1971, p. 10, hoặc G.Coedès, Les peuples de la péninsule indochinoise, Paris, 1962, p.99).
Người Việt Nam trước kia cũng theo cách gọi của người Khmer và người Chàm mà gọi họ là Xiêm. Người Trung Hoa cũng phiên âm tên gọi này thành Tiêm (âm Bắc Kinh: Xiàn), rồi ghép với tên nước La Hộc thành Tiêm La (người Việt Nam đọc thành Xiêm La). Danh xưng Tiêm La đã được Từ hải giảng như sau: "Tên nước, tương truyền xưa phân làm hai nước Tiêm và La Hộc, sau hợp nhất làm một, do đó có tên (Quốc danh, tương truyền cổ phân vi Tiêm dữ La Hộc nhị quốc, hậu hợp vi nhất, cố danh). La Hộc đã được khẳng định là phiên âm từ địa danh Lvo, nay là Lopburi của Thái Lan, ở hạ lưu sông Mênam (X. G.Coedès, sđd, tr.104).
Người Pháp cũng phiên âm tên gọi trên đây thành Siam. Người Anh theo cách phiên âm của người Pháp mà ghi là Siam và phát âm thành [siam]. Nhưng bộ Enciclopedia Italiana (Bách khoa thư Italia) lại giải thích rằng tiếng Pháp và tiếng Anh Siam bắt nguồn từ tiếng Xiêm "Saiam", "Sayam", rằng đây là do người Xiêm đọc trại âm tiếng Miến Điện Shan, vốn là tộc danh chung cho các cư dân láng giềng phía Đông của Miến Điện (theo E. Partridge, Origins, London, 1961, p.620 - Miến Điện nay gọi là Myanmar). Lời giải thích của bộ bách khoa thư trên đây không đúng với sự thật lịch sử. Người Xiêm vốn vẫn tự gọi là Thay và gọi người Shan là Nghiêu. Còn Sayam (thực ra, trong tiếng Xiêm, âm tiết thứ hai của từ này có thanh điệu đi lên) chỉ là danh xưng mà mãi đến thời cận đại họ mới phiên âm từ tiếng Anh Siam.
Người Xiêm vẫn tự gọi là Thay và gọi tên nước mình là Mương Thay (cách gọi thông tục) hoặc Prathêt Thay (cách gọi tao nhã), nghĩa là nước Thái. Đến triều vua Rama IV (1851-1868) mới chính thức lấy tên nước là Sayam, tức Xiêm. Rama IV là một vị vua có đầu óc canh tân, chủ trương học tập phương Tây và bang giao với các nước phương Tây. Ông đã lấy tên nước là Xiêm để đánh dấu cho công cuộc canh tân của mình. Tên Xiêm được dùng cho đến năm 1939; khi tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, nó được thay thế bằng tên Thái. Năm 1945, lại đổi thành Xiêm rồi đến 1948 thì lại gọi là Thái cho đến nay. Người Anh đã phiên âm Thay thành Thai và dịch mương hoặc prathèt thành land mà gọi nước Thái là Thailand. Tên này của tiếng Anh đã được phiên âm sang tiếng Pháp thành Thaïlande và sang tiếng Việt thành Thái Lan.
Có ý kiến cho rằng tên Sayam, tức Xiêm có nghĩa là người ở giáp biên giới. Còn tên Thay tức Thái, thì một số người đã giảng là "tự do". Tuy trong tiếng Xiêm, có một từ thay có nghĩa là tự do nhưng tộc danh Thay lại có nghĩa là người. Trên thế giới, có nhiều dân tộc đã lấy từ có nghĩa là người trong ngôn ngữ của mình để làm tên dân tộc. Điều này đã được khẳng định. Cũng vậy với người Xiêm, mà tộc danh Thay tương ứng với Tày của người Tày (trước đây gọi là Thổ), với Táy của người Thái Tây Bắc Việt Nam, với Đioi của người Đioi ở Quý Châu (Trung Quốc), với Đày của người Lê ở đảo Hải Nam, V.V.. Thay, Tày, Táy, Đioi, Đày là những từ cùng gốc và nghĩa gốc của chúng là người. Theo chúng tôi, cái gốc chung của những từ này đã được ghi nhận trong từ đại của tiếng Hán mà chữ viết là A. . Đây là một chữ tượng hình. Tự hình của nó trong giáp cốt văn đời Thương là một hình người nhìn chính diện, giơ hai tay và giạng hai chân ra hai bên. Văn tự học Trung Hoa cũng khẳng định nghĩa gốc của đại là người. Nếu diều chúng tôi nêu là đúng thì người Trung Hoa dã biết đến các tộc người Thái muộn nhất cũng là từ dời nhà Thương. Hơn thế nữa, nếu điều đó đúng thì nó sẽ là một cứ liệu ngôn ngữ, bên cạnh nhiều cứ liệu ngôn ngữ khác mà chúng tôi không thể nêu ra ở đây, buộc người ta phải nghĩ đến một nguồn gốc chung cho tiếng Hán và các ngôn ngữ Thái dã từng dược một sô' người nói đến từ lâu.
150. (KTNN 136, ngày 15-4-1994)
ĐỘC GIẢ: Trong bức ảnh đính kèm theo đây là kiến trúc gì, tọa lạc tại dâu và dược xây cất vào niên đại nào? Ba chữ Hán ở giữa phần trên của kiến trúc này được đọc ra sao?
AN CHI: Đó là Lăng Hùng Vương, nằm trong khu Đền Hùng trên núi Hy Cương (cũng gọi là Nghĩa Lĩnh hoặc Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh hoặc Hùng Sơn), nay thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Núi Hy Cương nằm giữa một miền đồi núi lô nhô vốn là hình ảnh thực tế cho truyền thuyết về con voi bất nghĩa mà Nguyễn Khắc Xương đã ghi lại như sau:
"Vua Hùng mở nước Văn Lang, đóng đô ở thành Phong Châu, đặt cung ở núi Nghĩa Lĩnh, có một trăm con voi từ khắp các nơi trong nước cùng rủ nhau về chầu mừng. Tất cả đàn voi đều phủ phục quanh núi Nghĩa Lĩnh, như đàn con nằm vây quanh mẹ, tỏ ý thần phục nhà vua. Vua Hùng rất đẹp lòng. Nhưng trong đàn voi ấy có một con bước ra khỏi bầy, quay đuôi lại vua, đầu ngoảnh về phương khác. Vua bèn đùng đùng nổi giận, gọi con gái là công chúa Bầu, trao cho kiếm báu hạ lệnh chém đầu con voi bất nghĩa. Công chúa Bầu nhận kiếm, cất tiếng kể tội trạng con voi bỏ đàn rồi giơ cao kiếm báu bổ xuống một nhát vỡ sọ voi, lại chém một nhát nữa đứt cổ voi. Từ đó tới nay con voi bất nghĩa vẫn đứng trơ trơ chịu tội với dòng máu nhớp nhơ rỉ ra từ cổ và cái sọ bị vỡ toang một góc". (Truyền thuyết Hùng Vương, Chi hội Văn nghệ dân gian Vĩnh Phú xuất bản, 1972, tr.34). Nguyễn Khắc Xương đã chú thích như sau: "Con voi bất nghĩa đó nay là một quả đồi thuộc địa phận xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh. Còn 99 con voi theo mẹ và vua Hùng là các quả đồi lớn nhỏ quanh Đền Hùng thuộc địa phận Lâm Thao, Việt Trì, Phù Ninh" (Sđd, tr.34, chth.l)
Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, 1993) đã viết về Đền Hùng như sau:
"Miếu Hùng Vương thường gọi là Đền Hùng (...) Theo Đại Nam nhất thống chí, sau khi Hùng Vương mất, dân địa phương lập miếu thờ; theo thần tích và văn bia ở đền thì chính An Dương Vương Thục Phán cảm kích vì được Hùng Vương nhường ngôi, nên sau khi Hùng Vương mất, đã đến núi Nghĩa Lĩnh dựng đền thờ. Từ phía dưới đi lên, đầu tiên là Đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng. Tiếp đến là đền Trung nơi vua Hùng thường họp bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên hết là đền Thượng, tương truyền là nơi Hùng Vương thứ 6 lập đàn cầu trời xin cho thiên tướng xuống giúp đánh giặc Ân (sau đó là nơi thờ Thánh Gióng). Bên phải Đền Thượng còn có hai cột đá là di tích miếu cổ. Gần đó có lăng thờ vọng Hùng Vương (tức kiến trúc trong ảnh mà ông đã gởi đến - AC). Đền Giếng ở phía tây nam núi Nghĩa Lĩnh, có giếng đá tương truyền là nơi con gái Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18) là công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung thường đến múc nước gội đầu. Các đền hiện nay chủ yếu là di tích kiến trúc do Tổng đốc Tam Tuyên là Nguyễn Bá Nghi theo sắc chỉ tu tạo năm Tự Đức thứ 27 (1874). Năm Duy Tân thứ 6 (1912) trùng tu, xây sửa lại như kiểu thức hiện nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922), tu sửa lăng thờ vọng".
Lê Tượng, người đã tham gia khai quật thăm dò khu Đền Hùng, đã cho biết cụ thể thêm như sau: "Trên
Núi Hùng, từ xưa vẫn có 4 đền và 1 chùa do ba làng trông coi và hương khói. Đền Thượng, Đền Giếng do dân làng Cổ Tích trông coi. Đền Trung do dân làng Triệu Phú (tức Làng Trẹo) và Đền Hạ do Làng Vi (...) Đền Trung được lập từ rất sớm, ít ra cũng vào thời Lý hoặc Trần (...) trước khi bị tàn phá (bởi quân Minh - AC) đã lợp ngói và có quy mô khá lớn, ít nhất cũng vào khoảng 8 cột (3 gian). Trong đền còn có bệ thờ bằng đất nung trang trí cánh sen và hoa chanh nổi và những viên đất nung chạm khắc công phu. Làng cổ Tích được thành lập sau chiến thắng quân Minh, năm 1427, và dần dần phát triển. Dân làng đã cùng nhau xây dựng Đền Thượng, chuyển Đền Hạ (cũ) sang vị trí ngày nay và xây chùa vào nền cũ (của Đền Hạ - AC). Chùa, Đền Thượng và Đền Hạ được xây dựng vào trước năm 1470 vì theo bản ngọc phả viết năm Hồng Đức thứ 1 (1470) đã nói đến Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ và chùa. Lăng và Đền Giếng lúc đó chưa có (...) Làng Cổ Tích lúc đầu dựng chùa ở Điếm Mánh (theo tộc phả họ Hoàng), sau khi vào ở sát chân Núi Hùng, mới đưa chùa lên núi và dựng trên nền Đền Hạ cũ (...) Lăng Hùng Vương, theo các bi ký thì xây năm 1874. Còn Đền Giếng xây dựng năm nào đến nay chưa rõ" (Vết tích thời Lý-Trần và các thời khác quanh Đền Hùng, Khảo cổ học, số 17, 1976, tr.97).
Cứ như trên thì Lăng Hùng Vương, tức kiến trúc trong bức ảnh mà ông đã gởi đến, được xây dựng năm Tự Đức thứ 27 (1874) rồi được trùng tu năm Khải Định thứ 7 (1922). Tuổi của nó mới tròn 120 năm.
Ba chữ Hán mà ông đã hỏi là ba chữ tức: Lạc vương lăng (đọc từ phải sang trái).
Chữ lạc là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là chuy còn thanh phù là các -&■ (do nét thứ ba bị viết ngắn đi nên mới có tự hình là ;ỗ, vì vậy mà có người đã nhầm nó với chữ danh ;ỗ, chẳng hạn như Hoa Bằng trong Hùng Vương dựng nước, t.II, Hà Nội, 1972, tr.287), khác hẳn với chữ hùng ịặ. tuy cũng có nghĩa phù là chuy 'ỆỄ. nhưng thanh phù lại là quăng iz. (về sau bị viết sai thành chữ hữu iã nên chữ hùng cũng viết thành tíệ. ). Hai nét đầu tiên của chữ lạc là ỳ còn hai nét đầu tiên của hùng lại là / . Trong ảnh mà ông đã gởi đến, hai nét đầu tiên của chữ đang xét là p chứ không phải là / nên phần bên trái của nó là chữ các chứ không phải là chữ hữu . Vậy đó là chữ lạc
Nhưng trên đây chỉ là trả lời theo cách nhìn riêng của cá nhân (thấy hai nét đầu tiên là ỳ chứ không phải là / ) nên chúng tôi phải dè dặt nói kỹ thêm rằng trong "hiện trường", có thể đó lại là chữ hùng tíệ. nhưng do được tô đắp từ lâu nên nét chữ không còn sắc sảo và rạch ròi, ảnh chụp lại mờ, làm cho người quan sát có thể thấy ia thành Xì ■ Phải đến tận nơi quan sát thật kỹ thì mới có thể khẳng định một cách thật dứt khoát.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip