II. Mục 2- Chấp nhận chào hàng
Mục 2- Chấp nhận chào hàng
24. Thế nào là chấp nhận chào hàng bằng hành vi?
Chấp nhận chào hàng bằng hành vi được quy định tại Điều
CISG, theo đó một chấp nhận chào hàng không nhất thiết phải được biểu hiện thông qua văn bản, lời nói mà còn có thể được ghi nhận bằng hành vi. Bên cạnh việc các bên cùng nhau ký kết văn bản thỏa thuận, chấp nhận chào hàng có thể được thể hiện thông qua các hành vi liên quan đến nghĩa vụ chủ yếu của các bên khi hợp đồng được hình thành như gửi hàng hay trả tiền, tạm ứng tiền.
Chấp nhận chào hàng bằng hành vi có thể được thể hiện ở 3 hình thái chính: (i) chào hàng thể hiện hoặc cho phép rõ ràng việc chấp thuận bằng một hành vi; (ii) các bên thông qua các giao dịch tương tự trong quá khứ đã hình thành một thói quen chấp thuận bằng hành vi; và (iii) thói quen thương mại được thừa nhận rộng rãi như là một hình thức chấp thuận chào hàng. Trong một số trường hợp đặc biệt, việc bên mua đưa chào giá của bên bán vào trong một chào giá của mình cho một bên thứ ba và giao kết hợp đồng với bên thứ ba đó, cũng có thể coi là một hành vi chấp nhận chào hàng ràng buộc bên bán phải cung cấp hàng hóa đó cho bên mua.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, trong các trường hợp (i) chào hàng cho phép chấp thuận bằng hành vi; hoặc (ii) khi có
tập quán thương mại hoặc giữa các bên đã thiết lập thói quen. Như vậy, Điều 18.3 CISG cho phép chấp thuận chào hàng bằng hành vi có hiệu lực vào thời điểm hành vi đó được thực hiện mà không cần thông báo cho bên chào hàng, và chỉ có hiệu lực nếu nó thỏa mãn điều kiện hành vi đó đã được thực hiện xong trong thời hạn mà bên chào hàng đã ấn định, hoặc là trong một thời hạn hợp lý như quy định tại Điều 18.2 CISG. Trong các trường hợp chấp thuận chào hàng bằng hành vi khác, thông thường bên chấp nhận chào hàng phải thông báo cho bên chào hàng, hoặc bên chào hàng phải có xác nhận về việc chấp nhận chào hàng bằng hành vi. Trong trường hợp đó chỉ cần thông báo/xác nhận về một hành vi chấp thuận chào hàng bắt đầu được thực hiện là đủ cấu thành chấp thuận chào hàng bằng hành vi.
Một lưu ý khác là trong trường hợp bên nhận chào hàng thể hiện ý chí chấp nhận chào hàng thông qua hành vi giao hàng một phần, thì hành vi đó chưa cấu thành chấp nhận chào hàng bằng hành vi mà sẽ được coi là một chào hàng đối ứng mà bên chào hàng có quyền tự do chấp thuận hoặc từ chối.
25. Khi nào sự im lặng được coi là chấp nhận chào hàng?
Trên thực tế, chấp nhận chào hàng bằng hành vi xảy ra tương đối phổ biến, nhất là giữa các bên đã có quan hệ làm ăn lâu năm. Ví dụ, theo thói quen đã hình thành từ nhiều giao dịch với nhau trong quá khứ, khi nhận được chào hàng một bên mua có thể thực hiện nghĩa vụ chi trả tiền của họ mà không cần phải thông báo cho bên còn lại. Thực tiễn này dẫn tới một khoảng
thời gian im lặng, hay không hành động của bên nhận chào hàng từ thời điểm nhận được chào hàng tới khi họ thực hiện hành vi biểu thị sự chấp nhận chào hàng. Điều 18.1 CISG quy định: Sự im lặng hoặc không hành động (inaction/inactivity) không mặc nhiên có giá trị là một chấp nhận. Hay nói cách khác, bản thân sự im lặng không thể đảm bảo chắc chắn cho người chào hàng rằng chào hàng của họ đã được chấp nhận. Trong mọi trường hợp, sau khoảng thời gian im lặng, bên nhận chào hàng chắc chắn phải thực hiện một hành vi thể hiện rõ ràng khuynh hướng chấp nhận chào hàng của họ (như gửi hàng hoặc trả tiền).
Cũng bởi tính không rõ ràng của sự im lặng và sự không đảm bảo về việc một hành vi chấp nhận chào hàng sẽ xảy ra, thông thường chấp nhận chào hàng bằng hành vi chỉ tồn tại giữa các bên đã có mối quan hệ đối tác lâu dài - giữa các bên đã xây dựng được sự tin tưởng nhất định. Tuy vậy, ngay cả khi là đối tác lâu năm, bên chào hàng cũng nên có sự trù bị sẵn phương án dự phòng khi chào hàng không được chấp nhận, không nên quá tin tưởng rằng bên còn lại sẽ theo thói quen chấp nhận chào hàng mà không thông báo. Trong đa số trường hợp, sự im lặng tự nó không thể cấu thành chấp nhận chào hàng.
Một ngoại lệ cho nguyên tắc này, đó là khi giữa các bên giao kết hợp đồng đã hình hành thói quen về việc một bên im lặng thì được coi là sự chấp nhận của bên đó đối với chào hàng. Trong một quyết định của Tòa Phúc thẩm Grenoble (Cộng hòa Pháp), im lặng vẫn được coi là đồng ý do bên bán thường xuyên
thực hiện đặt hàng của bên mua mà không cần tuyên bố chấp thuận rõ ràng. Ngoại lệ này là hệ quả của việc áp dụng nguyên tắc các bên bị ràng buộc bởi các thói quen đã được xác lập giữa các bên (Điều 9 CISG) và nghĩa vụ hành động trên nguyên tắc thiện chí trung thực (Điều 7 CISG).
26. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính như thế nào?
CISG có quy định về mốc tính thời hạn chấp nhận chào hàng khác nhau đối với các hình thức chào hàng được gửi đi. Theo đó, Điều 20 quy định:
- Đối với chào hàng bằng điện tín hay thư: thời hạn chấp nhận chào hàng bắt đầu được tính từ ngày ghi trên thư hoặc ngày bưu điện đóng dấu trên phong thư hoặc kể từ ngày bức điện được giao để gửi đi.
- Đối với chào hàng bằng điện thoại, telex hoặc phương tiện thông tin liên lạc khác: thời hạn chấp nhận chào hàng bắt đầu được tính từ lúc người được chào hàng nhận được chào hàng.
Liên quan đến khái niệm "nhận được" trong trường hợp sau, Điều 24 CISG cũng có quy định việc chào hàng được coi là tới nơi khi:
- Chào hàng được thông tin bằng lời nói với người được
59 Calzados Magnanni v. Shoes General International, Tòa Phúc thẩm Grenoble, Pháp, ngày 21/10/1999.
Xem bản dịch tiếng Anh tại: hoặc: 60 Về điều này, xem thêm câu hỏi số 23.
chào hàng; hoặc
- Chào hàng được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng:
o Tại địa điểm kinh doanh của họ
o Tại địa chỉ bưu chính
o Tới nơi thường trú của họ (nếu họ không có địa điểm kinh doanhhay địa chỉ bưu chính)
Đối với trường hợp ngày lễ ngày nghỉ, nếu ngày lễ ngày nghỉ rơi vào khoảng thời gian được quy định chấp nhận chào hàng sẽ không được trừ khi tính thời hạn đó. Trừ trường hợp thông báo chấp nhận được gửi đi nhưng không thể đến địa chỉ người chào hàng vì ngày cuối cùng trong thời hạn là ngày nghỉ, thì thời hạn chấp nhận chào hàng được kéo dài đến ngày làm việc kế tiếp đầu tiên (Điều 20.2 CISG).
27. Trường hợp đề nghị chào hàng không quy định thời hạn trả lời, thì người được đề nghị phải trả lời trong thời hạn như thế nào?
Điều 18.2 CISG quy định trường hợp người đề nghị không ghi rõ một thời hạn trả lời nhất định, thì chấp thuận phải được thực hiện trong một thời hạn hợp lý, cũng có nghĩa là người được đề nghị phải hành xử một cách hợp lý. Điều 8 CISG có quy định một số nguyên tắc cơ bản để xác định hành xử hợp lý, theo đó một hành xử hợp lý sẽ được đánh giá là một người bình thường hành xử một cách thiện chí trung thực trong hoàn cảnh
tương tự như vậy sẽ xem đó là hợp lý. Mọi yếu tố liên quan đều nên được đưa vào xem xét như phương tiện liên lạc được sử dụng để gửi chào hàng và chấp nhận chào hàng, khoảng cách địa lý giữa các bên, thời gian suy nghĩ để trả lời chào hàng trên cơ sở xem xét các đặc thù của giao dịch (đối tượng hàng hóa, trị giá và tính phức tạp của giao dịch, sự thay đổi của giá hàng hóa trên thị trường, tính dễ hỏng hay không của hàng hóa, nhu cầu của bên được chào hàng cần phải đàm phán với nhà cung ứng hay ngân hàng trước khi đưa ra chấp nhận chào hàng). Ví dụ, nếu đề nghị được thực hiện bằng điện thoại hoặc các phương tiện truyền tin khác cho phép lời nói truyền dẫn sẽ phải được trả lời ngay bằng hình thức tương tự. Mặt khác, các hình thức thông điệp như telex, gửi thư v.v. có thể được trả lời trong một thời gian dài hơn. Ngoài ra, các thói quen hình thành giữa các bên và tập quán thương mại ngành cũng cần được xem xét như là cách hành xử hợp lý của các bên. Ví dụ trong ngành mua bán sản phẩm nông sản, giá hàng hóa thường xuyên thay đổi nhanh chóng với biên độ lớn, đòi hỏi việc trả lời đề nghị trong thời gian vài ngày, để tránh việc bên được đề nghị hưởng lợi từ việc đầu cơ giá. Trong một án lệ tại Thụy Sỹ, tòa án đã cho rằng, dựa trên thực tiễn kinh doanh trứng trên phạm vi quốc tế của các nhà kinh doanh lớn trong lĩnh vực này, người chào hàng bị ràng
buộc bởi chào hàng của mình trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm đưa ra chào hàng.
61 Peter Schlechtriem, Commentary on the UN Convention on the International Sale of Good, third edition, trang 133.
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 không quy định về vấn đề này. Khoản 1 Điều 394 Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung quy định: "Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý" nhưng chưa quy định cụ thể về các yếu tố dựa trên đó để xác định "tính hợp lý" của thời hạn hiệu lực của chào hàng.
28. Chấp nhận chào hàng muộn là gì? CISG quy định như thế nào về chấp nhận chào hàng muộn?
Chấp nhận chào hàng muộn xảy ra khi người được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận đề nghị sau thời điểm mà người đề nghị đặt ra để giới hạn thời gian trả lời (Điều 20). Về cơ bản, sự chấp nhận của người được đề nghị vào thời điểm này là vô hiệu. Tuy nhiên, nếu sau khi nhận được lời chấp nhận trong trường hợp trên, người đề nghị vẫn có ý định giao kết hợp đồng, họ phải thông báo lại bằng miệng cho người được đề nghị mà không trì hoãn (khoản 1 Điều 21). Trong trường hợp này, hợp đồng được coi là đã giao kết kể từ thời điểm người đề nghị nhận được chấp nhận chào hàng muộn.
Ngay cả trong trường hợp người được đề nghị trả lời (ngày gửi được thể hiện trên bao bì, giấy tờ) mà lẽ ra với cách thức truyền tin thông thường như vậy thì chấp thuận chào hàng đó đã đến tay người đề nghị đúng hạn, nhưng do trong quá trình vận chuyển thư từ/email/điện tín chấp nhận đề nghị gặp rủi ro không lường trước được (thảm họa thiên nhiên, mất đường truyền) khiến chào hàng đến trễ thì chấp nhận chào hàng vẫn được coi là
đến muộn và về nguyên tắc bên đề nghị không phải chịu ràng buộc bởi chấp thuận đó (trên thực tế khi đề nghị chào hàng đã hết hạn có thể đề nghị cũng đã được chấp nhận bởi một người được đề nghị khác). Tuy nhiên nếu người được đề nghị im lặng sau khi nhận được chấp thuận trễ hạn, rất có thể người được đề nghị sẽ tưởng rằng chấp thuận của mình đã đến với người nhận và hợp đồng đã được giao kết, và sẽ tiến hành thực hiện hợp đồng đó. Vì vậy, trong trường hợp này CISG yêu cầu người nhận chấp thuận bị trễ thông báo ngay lập tức bằng miệng (hoặc đã gửi đi một thông báo có giá trị tương tự) cho người được đề nghị rằng họ xem đề nghị đó là vô hiệu, nếu không chấp thuận chào hàng đến muộn sẽ có hiệu lực như là nó không bị trễ (khoản 2 Điều 21 CISG).
Như vậy, trong mọi trường hợp nhận được chấp thuận chào hàng muộn, người đề nghị luôn được khuyến nghị phải thông báo với bên được đề nghị một cách không chậm trễ về ý định của mình đối với chấp thuận chào hàng muộn đó. Điều này rất quan trọng vì không phải lúc nào việc xác định tình huống trễ hạn mà theo cách thức truyền tin thông thường thì chấp thuận chào hàng đó đã đến tay người đề nghị đúng hạn cũng dễ dàng.
29. Chấp nhận chào hàng có thể bị thu hồi không?
Mặc dù chấp nhận chào hàng đã được gửi đi đúng theo quy định của pháp luật, nhưng nó vẫn có thể bị thu hồi với điều kiện việc thông báo thu hồi đó phải tới trước hoặc cùng lúc với thông báo chấp nhận chào hàng (Điều 22 CISG). Như vậy, nguyên tắc
để thu hồi chấp nhận chào hàng được áp dụng giống như việc thu hồi chào hàng.
Pháp luật Việt Nam có quy định tương tự về quyền được thu hồi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 400 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 397 Bộ luật Dân sự năm 2015).
30. Quyền thay đổi nội dung chào hàng khi đưa ra chấp nhận chào hàng?
Điều 19.2 CISG ghi nhận một chấp nhận chào hàng, bên cạnh việc thể hiện sự chấp thuận còn có thể chứa các điều khoản bổ sung, thay đổi so với nội dung chào hàng ban đầu. Tuy nhiên, những nội dung mà sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào hàng bổ sung không được làm thay đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng. Những điều kiện làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng được liệt kê tại Điều 19.3: giá cả, thanh toán; phẩm chất và số lượng hàng hóa; địa điểm và thời hạn giao hàng; phạm vi trách nhiệm của các bên; việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, sự hồi đáp biểu lộ sự chấp thuận kèm theo yêu cầu thay đổi các điều kiện kể trên sẽ được coi là từ chối chào hàng và cấu thành một chào hàng mới. Hiện nay còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất về khái niệm "biến đổi một cách cơ bản nội dung chào hàng", tuy nhiên danh sách liệt kê tại Điều
là một danh sách mở, nghĩa là bất cứ bổ sung nào khác làm thay đổi cơ bản nội dung chào hàng cũng sẽ không được coi là chấp thuận chào hàng.
Ngoài ra, sự phúc đáp biểu hiện sự chấp nhận chào hàng
kèm theo các yếu tố bổ sung không làm thay đổi cơ bản nội dung chào hàng sẽ không được coi là chấp nhận chào hàng nếu nó bị phản đối bởi bên chào hàng ngay lập tức bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
31. Một trả lời có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng chứa các điều khoản sửa đổi, bổ sung thì được xem là chấp nhận chào hàng hay một chào hàng mới?
Về nguyên tắc, trả lời của bên được chào hàng chỉ được xem là chấp nhận chào hàng nếu bên được chào hàng chấp nhận toàn bộ nội dung của chào hàng (quy tắc tấm gương phản chiếu - mirror image rule).
Tuy nhiên, Điều 19.2 CISG cho phép trường hợp ngoại lệ. Theo đó, trừ trường hợp bên chào hàng không chậm trễ phản đối bằng miệng hoặc bằng cách gửi thông báo phản đối, một trả lời có chứa các điều khoản bổ sung, sửa đổi vẫn có thể cấu thành một chấp nhận chào hàng nếu các điều khoản được điều chỉnh là các điều khoản không cơ bản hay không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng (điều khoản không cơ bản).
Một số sửa đổi được coi là điều khoản không cơ bản bao gồm các điều chỉnh về số lượng hàng hóa trong mỗi lô hàng mà không làm thay đổi tổng số lượng hàng; bảo lãnh ngân hàng; chi phí vận tải; điều khoản bảo lưu quyền thay đổi ngày giao hàng trong điều khoản mẫu của bên bán; bổ sung yêu cầu bên bán phải soạn một hợp đồng chấm dứt chính thức; yêu cầu bảo mật cho đến khi các bên công bố nội dung của hợp đồng; điều khoản
quy định người mua từ chối hàng được giao trong thời gian được quy định; điều khoản điều chỉnh giá của chào hàng phù hợp với giá thị trường;...
Ngoài ra, trong một số trường hợp, các điều khoản cơ bản của chào hàng được liệt kê ở Điều 19.3 CISG như giá cả, thanh toán, chất lượng và số lượng hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên; giải quyết tranh chấp hay các điều khoản cơ bản khác (điều khoản cơ bản) cũng có thể được coi là điều khoản không cơ bản tùy theo phương thức sử dụng, công dụng đặc thù của hàng hóa hoặc theo thỏa thuận của các bên.
Cần lưu ý là việc xác định một sửa đổi, bổ sung chào hàng có thay đổi cơ bản nội dung chào hàng hay không cần được thực hiện theo từng trường hợp, tùy thuộc vào các yếu tố của giao dịch và sự ảnh hưởng của sửa đổi/bổ sung chào hàng đối với toàn bộ nội dung hợp đồng và đối với từng bên của hợp đồng. Ví dụ, thông thường một sửa đổi bổ sung liên quan đến vấn đề bao bì hàng hóa thường được coi là "không
cơ bản", nhưng trong một số trường hợp, bao bì lại được coi là yếu tố cơ bản của hợp đồng.
62 Án lệ về giao dịch mua bán đường được đóng trong bao bì có chất lượng (có thể là bao mới hay đã qua sử dụng), trích dẫn bởi: Karl H. Neumayer, Catherine Ming, Convention de Vienne sur les contrats de vente internationale de marchandise, Cedidac, 1993, tr.182. Hoặc án lệ về thịt hun khói, theo đó việc người được chào hàng đề xuất giao hàng không có bao bì được coi là thay đổi cơ bản nội dung chào hàng (trong chào hàng có nêu thịt hun khói được đóng gói), xem án lệ của Đức: OIG Hamm, 22/09/1992- 19 U 97/91.
32. Điều khoản nào sẽ trở thành nội dung của hợp đồng trong trường hợp bên chào hàng và bên được chào hàng trao đổi với nhau về nội dung chào hàng và chấp nhận chào hàng căn cứ theo điều kiện giao dịch chung (general/standard business terms) của mỗi bên và các điều khoản này mâu thuẫn với nhau?
Nếu một chấp thuận chào hàng chứa đựng các sửa đổi, bổ sung không cơ bản đối với chào hàng và theo đó hợp đồng đã được xác lập, điều khoản của hợp đồng sẽ là các điều khoản của chào hàng đã được sửa đổi, bổ sung bởi văn bản chấp thuận, trừ khi bên đề nghị phản đối (Điều 19.2 CISG). Tuy nhiên, khi trao đổi qua lại giữa các bên chứa điều kiện giao dịch chung của mỗi bên, CISG không hướng dẫn cụ thể việc xác định điều khoản của bên nào sẽ là nội dung của hợp đồng, đặc biệt khi các điều khoản đó mâu thuẫn với nhau và hợp đồng được xác lập thông qua hành vi. Do đó, việc xác định điều khoản của hợp đồng sẽ phụ thuộc vào hướng giải quyết của tòa án đối với từng vụ việc cụ thể.
Nhìn chung, các tòa án thường áp dụng một trong hai nguyên tắc sau để giải quyết vấn đề:
(i) Quy tắc "Last-shot"
Khi các bên trao đổi với nhau về nội dung chào hàng có liên quan đến việc áp dụng điều khoản mẫu của mỗi bên thì hợp đồng chỉ được hình thành và có giá trị pháp lý ràng buộc các bên nếu một bên chấp nhận và bằng văn bản, lời nói hoặc hành động
bất kỳ cho thấy rằng bên đó không còn phản đối, đề cập, trao đổi hoặc dựa trên các điều khoản mẫu của bên đó. Theo quy tắc này, điều khoản của hợp đồng được hình thành là điều khoản mẫu mà bên cuối cùng nhận được mà không phản đối.
(ii) Quy tắc "Knock-out"
Theo quy tắc "Knock-out", mặc dù các điều khoản mẫu trong chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng của các bên xung đột với nhau, dẫn đến làm biến đổi cơ bản hoặc không cơ bản nội dung của chào hàng theo Điều 19 CISG, hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý ràng buộc các bên, nếu mỗi bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung được thỏa thuận.
Các điều khoản mẫu xung đột với nhau sẽ không cóhiệu lực và được thay thế bằng các quyđịnh của CISG có liên quan. Nói cách khác, điều khoản của hợp đồng chỉ bao gồmcác điều khoản mẫu không mâu thuẫn.i
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip