I. Thu phong thanh


"Thu phong thanh

Thu nguyệt minhLạc diệp tụ hoàn toánHàn nha thê phục kinhTương tư, tương kiến tri hà nhật?Thử thì thử dạ nan vi tình"Thu phong thanh – Lý Bạch

1. Gió thu lành, trăng thu thanh. Lá thu rơi tụ rồi lại tán

Mọi chuyện bắt đầu từ mùa thu năm đó...

Ở trấn nhỏ này, người dân không quá hai trăm, người cũ ít đi, người ngoài ít đến, thế nên, chỉ cần nhanh nhạy một chút, quảng giao một chút, là đảm bảo ai cũng có thể quen mặt, biết tên từng người một trong cả trấn.
Thế nhưng, buổi chiều hôm đó, bên rừng trúc ven trấn, lại xuất hiện một bóng áo trắng đơn bạc, lặng lẽ.
Người đọc sách, những câu như: Ôn nhuận như ngọc, Nhất tiếu khuynh thành... hẳn đã đọc nhiều. Nhưng muốn hiểu chúng, có lẽ phải nhìn tận mắt người mặc áo trắng đó một lần.
Người đó đứng ở ven rừng trúc, vạt áo trắng nhẹ bay. Mái tóc đen nhánh đổ xuống lưng. Ánh nắng nhuộm vàng cả một vạt đất trời. Tĩnh lặng như một bức họa.
Thì ra, người đó là con cả của vị phú hộ giàu nhất nhì cái trấn này!
Vừa sinh ra đã tật bệnh, một năm chắc hẳn cả tứ quý chẳng đi xa quá được hoa viên của nhà. Trời mưa sẽ bệnh, trời nắng sẽ nhức đầu, mùa xuân cảm mạo, mùa đông phong hàn là chuyện như cơm bữa. Người như thế từ lúc sinh ra đã chẳng ra khỏi cửa nhà bao giờ, thế nên, người trong trấn đã sớm quên vị phú hộ này còn có một người con cả, chứ đừng nói là được diện kiến dung nhan người này!
Mà hỏi ra mới biết, cả trấn đều quên mất vị này tên gì rồi!

Phải đến hôm sau, người cả trấn mới biết, đến tột cùng buổi chiều thu đẹp đó đã xảy ra chuyện gì...
Người trong trấn chỉ trong một đêm mà như trải qua cơn ác mộng. Cả nhà vị phú hộ giàu nhất trấn kia bị thảm sát. Mà người xuống tay chẳng phải trộm cướp, chẳng phải ác bá, lại chính là vị Thống Soái tuổi trẻ tài cao nổi danh của triều đình mới dẹp giặc thành công về. Trong tay người ta có Thượng phương bảo kiếm, quan viên chẳng hỏi chẳng tra, cứ thế mà xếp vụ án thảm sát cả gia tộc hào môn này vào quên lãng...
Một nhà mấy chục mạng người lớn nhỏ, chỉ trong một buổi, không còn ai sống sót.
À, vẫn còn, người con cả quanh năm tật bệnh kia.
Nhà vị phú hộ nọ quay lưng vào rừng trúc. Mỗi chiều, ánh nắng vàng nhàn nhạt sẽ nhuộm khắp không gian. Tơ lụa trắng tinh ánh lên sắc vàng chói mắt. Rừng trúc vừa hay nối liền với hậu viên của người con cả nhà này.
Khi bị lôi ra ngoài rừng trúc, người này là lần thứ hai bước chân ra khỏi cửa.
Người đứng trong rừng trúc, áo trắng mong manh bay trong gió thu. Nắng vàng nhàn nhạt nhuộm lên từng vạt áo.
Người đứng đó, nhìn vị tướng trẻ áp giải từng người, từng người trong nhà mình ra. Từng người, từng người ngã xuống, máu nhuộm đỏ cả vạt cúc thu mà người trồng.
Trong mắt vị tướng trẻ đó chỉ có lạnh lùng và giễu cợt.
Trong mắt người mặc áo trắng đó chỉ có trống rỗng. Trống rỗng đến tột cùng.
Người ta nói nợ máu phải trả bằng máu. Vị tướng nhìn người mặc áo trắng đứng cũng không vững trước mặt mình, nhẹ nhàng hạ kiếm chỉ vào vị phú hộ già đang quỳ dưới đất, cười lạnh:
- Nghe nói phú hộ rất thương con cả? Làm giàu đến mức này chẳng phải vì muốn duy trì cái mạng tàn kia sao? Làm giàu đến mức hại cả nhà người khác tán gia bại sản, cả nhà mất mạng, cũng không cảm thấy áy náy hay sao?
Người làm tướng rất có phong độ của người làm tướng. Lời nói vừa dứt, kiếm cũng chém xuống. Vị phú hộ già gục xuống đám hoa cúc vàng. Cành xanh dập nát. Hoa vàng dập nát. Máu nhuộm đỏ từng bông. Từng bông.
Một nhà mười mấy mạng người, giờ chỉ còn lại người con cả quanh năm bệnh tật đứng nơi vườn trúc sau hậu viện. Áo trắng dài bay trong gió, tóc đen dài bay trong gió. Chỉ có ánh mắt là trống rỗng vô hồn.
Người dân nhìn qua bờ hồ, chỉ thấy ven rừng trúc xanh mướt nhuộm ánh tà dương là một tà áo trắng phiêu diêu như tiên tử. Nào có ai biết chỉ cách đó vài bước chân, trong hậu viện của vị phú hộ giàu nhất trấn, một biển hoa cúc đỏ nát bấy báo thu tàn...  

  2. Hơi lạnh chợt đưa quạ rùng mình

Người con cả của vị phú hộ nhắm đôi mắt trống rỗng của mình lại.

Đây là lần thứ hai người đó bước chân ra đến cánh rừng trúc ven hậu hoa viên. Lần đầu tiên, là tám năm trước. Lúc đó, người đó mới chỉ là một đứa trẻ mười hai tuổi.
Từ lúc sinh ra đến giờ, vì sức khỏe quá yếu, nên người đó chưa bao giờ được bước chân vào rừng trúc ngay kế sân sau nhà mình. Tối ngày, người đó chỉ quanh quẩn ở vạt sân nhỏ và giường bệnh.
Vạt sân cỏ mọc xanh mặt đất quanh năm, chỉ có mùa đông là tuyết phủ dày.
Năm đó, người này trốn người nhà, nửa đêm ra ngoài nghịch tuyết.
Tuyết trắng phủ dày bốn phía. Người trốn đi chơi co mình trong chiếc áo lông ấm áp, rón rén đẩy cửa sau, bước ra ngoài vạt rừng trúc.
Trên nền tuyết, từng đóa hoa đỏ thẫm đang nở rộ...
Người trốn nhà đi chơi bỗng giật mình! Quả nhiên là con nhà phú hộ, bước chân ra khỏi cửa là nhặt được đồ! Có điều, đồ mà người này nhặt được là một chiếc ô nhuốm máu. Cách đó vài bước chân, một đứa trẻ đang nằm trên tuyết. Máu nhuộm đỏ mặt tuyết, nở ra từng đóa hoa đỏ thẫm.
Người trốn nhà vừa lôi vừa đỡ, vất vả lắm mới đỡ được kẻ bằng tuổi mình về giấu trong phòng. Trong phòng người này quanh năm đều ám mùi thuốc Bắc, thế nhưng, trên người người ấy lại thoang thoảng mùi hoa đào. Đó điều đầu tiên đứa bé được cứu về nhớ được.
Người con cả nọ thân thể ốm yếu nhưng cực kỳ thông minh, đoán ngay người nhà sợ rắc rối của mình sẽ chẳng bao giờ thu nhận một đứa trẻ lai lịch không rõ ràng, lại còn bị đuổi cùng giết tận, thương tích đầy mình như thế. Vì vậy, người đó cứ vậy mà nuôi giấu người bạn mới của mình gần một năm trời.
Trong phòng người đó rất sẵn thuốc bổ, thuốc trị thương. Thế nhưng, để có thuốc tốt, người này không ngần ngại cầm dao cứa tay mình một nhát thật mạnh.
Máu tươi nhỏ xuống nền tuyết trắng loang ra như những bông hoa...
Cả nhà vị phú hộ lại tất bật mang thuốc cầm máu, thuốc trị thương, thuốc điều dưỡng tới, chất đầy cả bàn. Cả nhà bận trách mắng người nọ sao không cẩn thận, sức khỏe vốn không tốt lại còn nghịch như vậy, đúng là không biết quý tính mạng!
Trách mắng xong, băng bó xong, ai về phòng nấy.
Bấy giờ người này mới ngước khuôn mặt nhỏ nhắn, tái nhợt vì mất máu lên, nhìn người đang trốn trên xà nhà, nở một nụ cười.
Vành mắt người cong cong như vành trăng non đầu tháng. Khóe mi mềm mại như nét bút nhẹ đưa.
Gần một năm, đứa bé kia lưu lại, hai người bầu bạn với nhau trong bí mật. Người con cả ở riêng một hậu viện, cố ý lấy cớ sức khỏe không tốt, ra lệnh cho kẻ hầu người hạ hạn chế lui tới, tránh gây tiếng ồn. Hai đứa trẻ mùa xuân ươm mầm, mùa hạ nướng khoai, mùa thu trồng hoa cúc, mùa đông đắp người tuyết.
Đứa trẻ kia trước khi đi có nói: "Sau này sẽ trở lại, cùng người nướng khoai lang!"
Quân tử đã nói, nhất ngôn cửu đỉnh.
Đứa bé năm đó đã trở về, nhưng lại không phải để cùng người nướng khoai lang, không cùng người ươm mầm, đắp tuyết, trồng hoa cúc...
Vị tướng chĩa lưỡi kiếm còn loang vệt máu vào người áo trắng trước mặt mình, hạ giọng ra lệnh:
- Mở mắt ra
Nắng thu nhuộm vàng vạt rừng trúc. Tơ lụa ánh lên sắc vàng rực rỡ. Người nọ mở đôi mắt vô hồn của mình ra, khóe mi mềm mại như nét bút nhẹ đưa, mỉm cười.
Nắng thu nhuộm vàng vạt rừng trúc. Sắc kiếm xanh ánh lên sắc vàng lạnh lùng. Máu loang ra nơi ngực áo trắng, nở rộ thành từng đóa hoa đỏ thẫm. Người nọ ngã xuống, nét cười vẫn nhẹ vương trên bờ môi tái nhợt.  3. Tương tư nào biết khi nào gặp?

Mùa xuân năm đó, vị tướng trẻ ra lệnh chặt đi rừng trúc ven hậu viện, trồng đào thay thế, sau đó đi biền biệt ba năm. Thân làm tướng, chinh chiến sa trường là lẽ đương nhiên.

Người con cả vẫn ở lại trong hậu viện đó. Vị tướng nọ cử hai người ở lại, lấy danh hầu hạ nhưng thực ra để giám sát người.
Khi đó, nhát kiếm kia đâm xuống, máu đã chảy, hơi thở đã gần tàn, nhưng tim người còn chưa ngừng đập đã bị vị tướng nọ dùng thuốc quý trân bảo, ép danh y cứu người hồi sinh. Thế nhưng, người dù có từ cõi chết trở về rồi thì vết sẹo nơi ngực trái vẫn mờ mờ ẩn hiện sau lớp áo trắng.
Vị tướng nói: "Người cứu ta một mạng, ta lại giết người một lần. Ân oán hai nhà đã trả hết, giờ người là ân nhân của ta. Chờ ta về, hai chúng ta sẽ cùng nhau nướng khoai lang"
Ba năm rồi, người nọ ngồi trong hoa viên ngắm khoảng sân hậu viện. Nơi đó, những đóa cúc đẫm máu năm nào đã được dọn đi. Người nọ vẫn mặc áo trắng, tóc đen vẫn dài ngang lưng. Nhưng từ ngày ấy, người nọ đã không còn cười nữa.
Người nọ trên người, trên tóc, trên vạt áo trắng luôn thoang thoảng hương hoa đào. Nhưng đã ba năm rồi, người ấy không bao giờ bước chân vào vạt rừng trúc nay đã biến thành rừng đào kia thêm một lần nào nữa.
Người nọ mùa xuân ươm mầm, mùa hạ nướng khoai, mùa thu trồng hoa cúc, mùa đông đắp tuyết. Ba năm ròng, vạt cúc vàng đã cao đến ngang hông.
Mùa xuân năm nay, hoa đào nở rộ. Từ xa, vó ngựa của vị tướng đã khua rộn vườn đào.
Người nọ phá lệ, lần thứ ba bước chân vào vạt rừng ven hậu viện.
Dưới trời chim én lượn, hoa đào rợp cả tứ phương. Thấp thoáng từ xa là vị tướng trẻ vẫn mặc nguyên chiến giáp. Sóng vai phi ngựa cạnh chàng là một cô gái áo xanh thanh thoát như tiên tử. Vạt áo xanh giữa rừng đào rực rỡ nhẹ bay, phiêu dật như một áng mây.
Người nọ mỉm cười, về hậu viện, nướng khoai lang.

4. Nơi đây, đêm đó, thiết tha tình...

Vị tướng còn mặc nguyên chiến giáp. Chiến giáp vẫn vương mùi máu tanh. Vị tướng trẻ vừa về bèn từ vườn đào phi ngựa thẳng vào hậu viện. Mùi khoai lang nướng tràn ngập không gian.

Chàng gõ cửa.
Lần một, lần hai, rồi lần thứ ba...
Khi chàng đạp cửa xông vào, trên áo vải tơ trắng mịn của người kia, một đóa hoa đào đỏ thẫm đang nở rộ. Khóe môi người đó vương nét cười, khóe mi mềm mại như nét bút nhẹ đưa...
Trên bàn là củ khoai lang vừa nướng xong, vẫn còn thơm ngào ngạt...
Mùa hè năm ấy chẳng hiểu sao trấn nhỏ này lại mưa nhiều đến vậy. Hoa đào đã rụng hết. Những nhánh trúc còn sót lại đã kịp vươn cao. Mưa rả rích khiến vị tướng nhàn nhã thời bình chẳng thể nướng khoai, châm trà. Chàng che chiếc ô cũ mèm còn vương vệt máu khô, đứng trong làn mưa lạnh ngắt. Áo xanh nhẹ bay theo gió, thấm ướt một mảng.
Chiếc ô ấy người kia giữ trong phòng đã tròn mười lăm năm. Chiếc ô của ngày người đó cứu hắn.
Nhưng rồi thì sao chứ? Cúc đã nở hoa, tuyết đã tan hết, hoa đào đã tàn, khoai lang cũng đã thu hoạch, nhưng người đó đã đi rồi! Vĩnh viễn đi rồi!

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip