Hồi I: Du viên
Hồi I: Du viên
"Quay đầu đều là ảo cảnh, đối mặt biết là ai đây."
- Trích "Mẫu đơn đình" - (*)
.....
Năm Thánh Đức hai mươi bốn, đế vương tuần du Giang Nam, đoàn người tùy giá vô cùng đông đảo, bốn mươi chiếc thuyền lớn choán cả mặt sông, cờ xí bay rợp trời.
Ngày mùng năm tháng bảy năm đó, thuyền ngự đi đến thành Cô Tô. Đương tiết tháng bảy, đất trời Giang Nam đổ một cơn mưa lớn, từng hạt mưa xào xạc vỗ vào mạn thuyền, tiếng mưa dai dẳng mãi từ lúc thuyền vừa tới ngoại thành cho đến khi đã vào thành nội vẫn chưa dứt.
Trên một chiếc thuyền lớn có treo lá cờ thêu chữ Tĩnh, một bàn tay nhỏ bé gầy guộc vén rèm vươn ra ngoài, nhẹ nhàng hứng lấy những giọt mưa mát lạnh tuôn đổ xuống da thịt, thấm vào tâm khảm.
Lúc này, có một thị nữ bước vào, cung kính khuyên:
"Vương phi, thuyền sắp vào trong thành rồi, xin người hãy mau vào trong sửa soạn đi. Sức khỏe của người vốn không tốt, xin chớ để ướt nước mưa."
Bấy giờ, thiếu phụ ngồi bên cửa sổ mới chậm rãi rút tay về. Nương theo ánh sáng lờ mờ của đèn treo bốn góc thuyền, có thể thấy được thiếu phụ mặc một bộ cẩm y màu trắng trên người, dung nhan đoan trang cao quý, vừa nhìn đã biết là vị phu nhân quyền quý. Nàng quay lại, nhẹ gật đầu, cười hỏi:
"Vương gia đâu rồi?"
Thị nữ đáp:
"Thưa, Vương gia bảo ngài sẽ theo Thánh thượng đến hành cung an bài một số chuyện trước. Do hành cung đang tu sửa, phần hậu viện chỉ đủ cho các vị nương nương ở lại, thế nên các vị vương phi và gia quyến của trọng thần tùy giá sẽ được sắp xếp ở trong phủ trạch của Tướng gia. Vương gia căn dặn Vương phi đi đến đó trước, ngày mai ngài sẽ quay về đưa Vương phi đi thăm thú ngoạn cảnh."
Vị thiếu phụ nọ nghe vậy, hơi ngạc nhiên, hỏi lại:
"Tướng gia? Người ngươi nói là vị Tả tướng vừa mới thế chỗ Tiêu Tả tướng hay sao? Người này có sẵn phủ trạch ở thành Cô Tô ư?"
Thị nữ đáp:
"Dạ phải, nghe nói Tướng gia cũng là người Cô Tô, hình như là cựu trạch ở tại Côn Sơn..."
Nói tới đây, thị nữ như sực nhớ ra chuyện gì, bèn hỏi:
"Phải rồi, Vương phi cũng từng ở Cô Tô đúng không ạ? Nô tỳ tò mò bạo gan hỏi một câu, trước kia Vương phi ở khu nào vậy?"
Thiếu phụ khẽ cười, đưa mắt nhìn ra màn mưa bụi mờ mịt ở xa xa, nhẹ giọng đáp:
"Cũng là Côn Sơn..."
....
.....
Đến lúc trời đổ bóng hoàng hôn, đoàn thuyền cập bến Cô Tô. Người trên ngự thuyền xuống trước, gia quyến của các thân vương trọng thần tùy giá lần lượt xuống sau. Thánh thượng cùng hậu phi khởi giá đến hành cung nghỉ ngơi, các vị mệnh phụ phu nhân thì có sẵn xe ngựa đưa về nơi nghỉ tạm.
Thiếu phụ ở trên chiếc thuyền có chữ Tĩnh kia đeo lên mạng che mặt, vừa bước lên bờ, đã có một toán thị vệ đến, cung kính chắp tay nói:
"Xe ngựa đã chuẩn bị xong, xin mời Tĩnh Vương phi bước lên xe."
Tĩnh Vương phi nổi tiếng là người hiền hòa nhân đức, khoản đãi kẻ dưới rất hậu, ngay cả Tĩnh vương vốn có tính tình hung bạo cũng bị nàng ảnh hưởng, trở nên hiền từ hơn. Dù đường xa mệt nhọc, nàng vẫn chẳng tỏ ra buồn bực cau có gì, còn hòa nhã gật đầu, bảo:
"Vất vả cho các ngươi rồi."
Tĩnh Vương phi bước lên xe cùng thị nữ hầu cận, thị vệ của Tĩnh Vương phủ cưỡi ngựa đi theo bên cạnh xe ngựa hộ tống nàng. Đoàn xe ngựa chầm chậm lăn bánh, lướt đi trong màn mưa bụi mịt mùng.
Tĩnh Vương phi ngồi trong xe ngựa, đưa tay nhẹ nhàng nhấc một góc rèm cửa xe lên, lẳng lặng nhìn khung cảnh bên ngoài. Đôi mắt nàng lưu luyến từng góc phố ngõ nhỏ, thì thầm lẩm bẩm:
"Nơi này bao năm rồi mà vẫn chẳng đổi..."
Thị nữ vẫn còn nhỏ tuổi, tính tình hoạt bát hiếu kỳ, lại ỷ vào Vương phi nhà mình hiền lành không khắc nghiệt, bèn đánh bạo hỏi:
"Vương phi sống ở đây từ nhỏ, có biết nơi nào ở Cô Tô náo nhiệt nhất không ạ?"
Tĩnh Vương phi gật đầu, nói:
"Nơi náo nhiệt thì có rất nhiều. Bảy dặm Sơn Đường, Bình Giang lộ, nơi nào cũng phồn hoa náo nhiệt, ngày mai ta sẽ xin Vương gia đưa ngươi đi theo thăm thú."
Thị nữ vui mừng vô cùng, ríu rít cảm ơn nàng.
Bấy giờ, xe ngựa rẽ vào một lối khác, đúng lúc từ gánh hát xa xa vọng lại một đoạn Côn khúc thân thuộc:
"Mộng ngắn mộng dài đều là mộng, năm qua năm lại biết năm nao..."
Tĩnh Vương phi bỗng lặng người đi, hai giọt lệ nóng hổi lăn xuống má mà nàng vẫn chẳng hay chẳng biết. Mãi tới khi thị nữ lo lắng hỏi:
"Vương phi, sao người lại khóc?"
Nàng mới giật mình tỉnh táo lại, cười gượng bảo:
"Ta không sao, chỉ nghe đoạn hát này, nhớ tới vở kịch lúc xưa từng xem, thế là chợt muốn khóc."
Thị nữ thở phào một hơi, rồi lại cười hì hì, nói:
"Kịch chỉ là kịch mà thôi, Vương gia cùng Vương phi hạnh phúc vui vẻ như thế, vui mừng còn không hết, cớ gì phải khóc vì người trong kịch chứ?"
Tĩnh Vương phi chỉ khẽ cười, chẳng nói gì thêm.
Cớ gì ư?
Chính nàng cũng không biết.
Ngoài trời, mưa vẫn không ngớt.
Nàng đưa mắt nhìn ra song cửa, nhìn cảnh vật hai bên đường lùi xa, bỗng chợt cảm thấy ngờ ngợ.
Tại sao con đường này lại quen như vậy?
Đây không phải là đường về...
Nàng lắc lắc đầu, tự nhủ chỉ là cùng đường mà thôi.
Thị nữ ở bên cạnh ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
"Vương phi với Tướng gia đều từng ở khu Côn Sơn, nói không chừng trước kia từng quen biết nhau đấy ạ?"
Tĩnh Vương phi cười cười, nói:
"Không thể nào. Tướng gia có thể trở thành Tướng gia thì ắt hẳn là xuất thân thư hương thế gia, nhiều đời sĩ tộc, nhà chúng ta trước kia chỉ là thương gia bình thường. Sĩ nông công thương đã phân rõ thứ bậc, tướng gia làm sao quen biết thương nữ thấp kém như ta được chứ?"
.....
Đến khi trời sẫm tối, xe ngựa dừng lại trước một tòa phủ trạch rộng lớn ở Côn Sơn. Thị nữ dìu Tĩnh Vương phi xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất, ngước đầu nhìn lên thấy tấm bảng lớn viết hai chữ triện "Mai phủ" uy nghi, sắc mặt của Tĩnh Vương phi đã tái nhợt.
Nàng níu tay áo thị nữ, lắp bắp hỏi:
"Sao... Sao lại dừng ở đây?"
Thị nữ ngạc nhiên, đáp:
"Thưa, nô tỳ đã bẩm với Vương phi trước rồi mà. Chúng ta phải ở tạm trong phủ trạch của Tướng gia..."
Tĩnh Vương phi vội nói:
"Có phải đi nhầm rồi không? Đây... Đây đâu phải phủ trạch của Tướng gia..."
Thị nữ nhìn nàng bằng ánh mắt e dè, đáp:
"Không nhầm đâu ạ. Tướng gia họ Mai, đây đúng là Mai phủ rồi mà."
Sắc mặt của Tĩnh Vương phi càng thêm trắng bệch như chẳng còn chút máu nào. Nàng run run hỏi:
"Ngươi nói... Tướng gia họ... họ Mai ư?"
Thị nữ gật đầu chắc nịch:
"Dạ đúng ạ."
Tĩnh Vương phi nắm chặt cái khăn lụa trong lòng bàn tay, tưởng chừng như không còn đủ sức lực để bước vào trong.
Nếu có người từng nhìn thấy khăn tay của Tĩnh Vương phi, ắt sẽ biết, mỗi chiếc khăn đều có thêu một chữ ở góc khăn.
Chữ Mai.
....
Đêm hôm đó, hành cung thiết yến tẩy trần cho Thánh thượng, Tĩnh Vương phi cáo bệnh không đến.
Trời lại đổ mưa. Tĩnh Vương phi được sắp xếp ở gian nhà phía Tây, là một khu rất yên tĩnh, yên tĩnh đến mức nghe rõ được tiếng mưa gõ nhịp trên mái hiên.
Cô Tô cái gì cũng tốt, điểm duy nhất không tốt chính là mưa quá nhiều, mưa đến mức khiến lòng người phiền muộn.
Không rõ là vì không quen hay quá quen với nơi này, Tĩnh Vương phi nằm trằn trọc mãi chẳng ngủ được, bèn xuống giường, khoác ngoại bào vào, giương một chiếc ô, bước ra vườn.
Mai phủ có một viên lâm rất đẹp, bày trí rất thanh nhã. Từng ngọn cây, từng khóm hoa trong vườn vẫn chẳng hề đổi dời, vẫn y hệt như thuở xưa. Nàng lần theo trí nhớ, tìm ra cái hồ sen năm đó. Quả nhiên, hồ sen vẫn còn ở chỗ cũ.
Cô Tô mùa xuân có hoa hạnh, mùa hạ có hoa sen, mùa thu có hoa quế, mùa đông có mai vàng. Bấy giờ đương vào mùa hạ, cho dù là ban đêm, nàng vẫn có thể đoán được hoa sen đã nở rợp hồ. Bên cạnh hồ sen có một cái lương đình. Nhớ năm xưa, mỗi buổi tối mùa sen nở, nàng rất thích ngồi trong lương đình để cho hương sen thấm vào ruột gan. Khi ấy, người đó pha trà, nàng đàn một khúc tỳ bà, ngỡ rằng nhân gian thiên đường chính ở chốn này chẳng xa.
Tĩnh Vương phi chầm chậm tiến gần về phía lương đình, đầu ngổn ngang hồi ức. Đến lúc cách lương đình một quãng rất gần, nàng mới chợt nhận ra có một ai đó đang ngồi trong đấy. Dường như người đó cũng nghe thấy tiếng bước chân của nàng, quay đầu lại nhìn.
Trong ánh đèn mờ ảo treo ở bốn cột của lương đình, nàng vừa kịp nhìn thấy rõ dung mạo của người đó, mà người đó cũng nhìn thấy nàng.
Cả người Tĩnh Vương phi cứng đờ ra, đánh rơi chiếc ô trên tay xuống đất.
Sau đó, nàng quay lưng bỏ chạy.
Chẳng thiết nhặt ô lên, mặc kệ nước mưa xối ướt đẫm người, nàng cứ bỏ chạy đi như thế, trong đầu chỉ có một ý nghĩ: Nàng không thể gặp lại người đó.
Cho đến khi chạy về đến phòng, nàng mới chợt nhớ ra mình có đeo mạng che mặt, hẳn người đó không thể thấy được dung mạo nàng.
Hơn nữa, dù có thấy thì sao chứ? Đã mười năm rồi, nói không chừng người ta đã quên mặt nàng rồi.
Nàng đang sợ cái gì chứ?
Tĩnh Vương phi thẫn thờ ngồi xuống ghế, khẽ cười một tiếng chua xót.
Ngoài kia, đất trời Cô Tô vẫn chìm trong màn mưa mịt mù.
.....
(*) Mẫu đơn đình: là một trong những vở kịch nổi tiếng trong lịch sử sân khấu Trung Quốc, do nhà soạn kịch nổi tiếng thời kỳ nhà Minh là Thang Hiển Tổ viết năm 1598 mà đến nay vẫn được người Trung Hoa nghiên cứu dựng lại và diễn xướng. Nội dung chủ yếu của Mẫu đơn đình là câu chuyện tình lãng mạn triền miên sinh sinh tử tử của đôi trai gái: Đỗ Lệ Nương và Liễu Mộng Mai.
Đỗ Lệ Nương là con gái độc nhất của quan thái thú Nam An là Đỗ Bảo. Nàng vừa xinh đẹp lại rất đỗi thông minh nên vợ chồng Đỗ Bảo rất yêu quý, mời thầy học là Trần Tối Lương về nhà dạy cho con gái về Kinh Thi. Nhà họ Đỗ giáo dục con gái rất nghiêm, suốt ngày Đỗ Lệ Nương chưa bao giờ dám rời khỏi khuê phòng nửa bước. A hoàn là Hương Xuân cũng theo nàng cùng học, nhưng Hương Xuân rất ham chơi, thường trốn học đi ra ngoài.
Một hôm, Hương Xuân rủ Lệ Nương ra vườn hoa sau nhà chơi. Sắc xuân khắp vườn đã khiến cho Lệ Nương vô cùng say đắm. Khi vào đình Mẫu đơn trong vườn nghỉ chân, Lệ Nương chợp mắt ngủ thiếp đi, mộng thấy mình gặp một chàng thư sinh tài mạo là Liễu Mộng Mai trò chuyện tâm tình rất tương đắc. Từ đó Lệ Nương về nhà ốm tương tư Liễu Mộng Mai. Bệnh tương tư càng ngày càng nặng, Lệ Nương vẽ một bức chân dung tự hoạ và đề một bài thơ bảo Xuân Hương đem giấu dưới ngọn giả sơn rồi lặng lẽ qua đời. Vợ chồng Đỗ Bảo theo di nguyện của con, an táng nàng dưới một gốc mai ở vườn hoa sau nhà. Sau đó Đỗ Bảo được thăng làm An phủ sứ ở Hoài Dương, trước khi đi ông cho dựng Mai Hoa quán ở trong vườn rồi sai Trần Tối Lương và Thạch Đạo Cô ở lại trông nom phần mộ của Lệ Nương.
Liễu Mộng Mai lên kinh đi thi, trên đường qua Nam An bị cảm ốm phải xin ở nhờ Mai Hoa quán. Một hôm Mộng Mai ra sau vườn dạo chơi nhặt được bức chân dung tự hoạ và bài thơ trước khi chết của Lệ Nương, liền đem về phòng. Mộng Mai vừa thấy chân dung Lệ Nương tưởng như mình đã quen biết khi nào, tình cảm vô cùng sâu nặng, cũng đề một bài thơ lên tranh, rồi suốt ngày ngồi bên bức vẽ, "cùng chơi, cùng hỏi, cùng gọi, cùng đùa". Cảm tấm chân tình của Liễu Mộng Mai, Lệ Nương đã ra khỏi bức tranh và hẹn hò ước nguyện với người tình trong mộng năm xưa. Sau khi biết căn nguyên câu chuyện, Mộng Mai năn nỉ Thạch Đạo Cô cho mở nắp quan tài lên. Lệ Nương sống lại, hai người nên duyên vợ chồng, cùng với Thạch Đạo Cô lên kinh ứng thí. Trần Tối Lương phát hiện ra bèn đến Hoài Dương tố cáo với Đỗ Bảo tội trộm mộ của Liễu Mộng Mai.
Liễu Mộng Mai ứng thí ở Lâm An (tức Hàng Châu) thì gặp lúc quân Kim vào cướp phá. Việc yết bảng bị đình lại, Hoài Dương bị vây hãm. Lệ Nương liền bảo Mộng Mai đến Hoài Dương dò la tin tức cha mẹ. Mộng Mai đến Hoài Dương cũng vừa lúc quân Kim lui binh. Nhưng Đỗ Bảo cho rằng Liễu Mộng Mai là kẻ dối trá nên đánh cho một trận rồi áp giải về Lâm An thẩm vấn. Ngày yết bảng, Liễu Mộng Mai đỗ trạng nguyên, nhưng Đỗ Bảo cố chấp vẫn không chịu nhìn mặt cả con gái lẫn con rể. Đến khi Hoàng thượng hỏi rõ câu chuyện liền giáng chỉ cho nhà họ Đỗ: "Cha con vợ chồng nhận nhau, về phủ đệ thành thân". Cuối cùng cả gia đình đoàn viên sum họp, Đỗ Lệ Nương và Liễu Mộng Mai sống với nhau vô cùng hạnh phúc.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip