Hồi 1: Bờ thu dung nở (*) đôi nhạn bay
(*) Nguyên văn cụm này là "Thu phố dung tân (Phù dung nở bên bờ sông thu)", cũng là tên một bức tranh lụa cổ hiện đang được cất giữ ở Viện Bảo tàng Cố cung Đài Bắc, theo các chuyên gia khảo cứu thì là tác phẩm của họa sĩ Thôi Bạch thời Bắc Tống.
1. Cửa cấm
Hậu quả mở cửa cung giữa đêm vô cùng nghiêm trọng, ta đã sớm biết điều đó từ lúc mới vào cung.
Năm ấy ta tám tuổi, bị người trong họ nghĩ cách đưa vào cung làm tiểu hoàng môn (*). Trước đó, cha ta qua đời, mẹ tái giá với người khác, trong họ cũng không ai muốn nhận nuôi ta, bởi vậy nên đối với ta, đây là chuyện chẳng còn cách nào.
(*) Cấp bậc nhỏ nhất của hoạn quan.
Ta học lễ nghi quy chế cung đình cùng ba, bốn mươi đứa trẻ đồng thời vào cung khác, đến những đoạn quan trọng, nội thị điện đầu (*) phụ trách dạy bọn ta, tên Lương Toàn, sẽ mời quan chủ quản các ty trong hai tỉnh nội thị (**) tới giảng giải cụ thể cho bọn ta.
(*) Một chức quan cửu phẩm của hoạn quan.
(**) Thời Tống, nội thị/hoạn quan được chia thành hai cơ quan Nhập nội nội thị tỉnh và Nội thị tỉnh, phần sau sẽ có giải thích cặn kẽ.
"Đến khi trời tối, mọi lối ra vào hoàng thành đều phải đóng cửa, trước khi mặt trời mọc, tuyệt đối không thể tự tiện mở ra." Nói câu này là quan chủ quản Nội đông môn, tên Trương Mậu Tắc. Ra vào cung đa số đều phải đi qua Nội đông môn, làm chủ quản ở Nội đông môn tức là quản lý người và vật xuất nhập cung cấm, là một chức vụ khá quan trọng đối với hoạn quan. Khi đó, thầy chỉ mới hơn hai mươi, không mấy ai có thể nhậm chức này ở cái tuổi ấy, thần sắc thầy thanh bạch, không tự cao tự đại, giọng điệu cũng rất ôn hòa. Ta còn để ý thấy, trong số các nội thần (*) tới giảng bài hôm ấy, màu áo thầy mặc là tối cũ nhất, như thể đã bận rất nhiều năm, song vẫn được giặt giũ sạch sẽ.
(*) Chỉ quan viên, thái giám, hộ vệ phục vụ hoàng đế trong cung.
"Nếu ai quả thực có việc quan trọng, phải mở cửa cung ban đêm thì phải có mặc sắc ngư phù (*)." Trương Mậu Tắc tiếp tục giải thích các thủ tục kế: "Người nhận sắc chỉ phải ghi lại thời gian, căn nguyên cặn kẽ của sự việc, tên cửa cần mở và nhân số, thân phận của những người cùng ra vào theo mình trước rồi đưa tới Trung thư môn hạ (**). Từ đại tướng quân giữ cửa trở xuống, các thủ thần liên quan sau khi xem xong phải tới nội các bẩm tấu, quan gia ngự phê cho rồi mới có thể mời nội thần giữ chìa khóa cửa cung đến mở cửa."
(*) Mặc sắc là sắc chỉ do hoàng đế tự tay viết, không đóng ấn triều đình mà trực tiếp hạ lệnh.
(**) Tên cơ quan hành chính tối cao do các quan đứng đầu Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnh và Thượng thư tỉnh đồng quản lý.
Đô tri (*) Nhập nội nội thị tỉnh đều biết, ở trong cung, Nhậm Thủ Trung quyền cao chức trọng, vốn không cần tới giảng bài, nhưng đúng lúc ấy lại tiện đường qua đây, bèn vào xem, nghe Trương Mậu Tắc nói xong đoạn này thì gật đầu, quét mắt nhìn bọn ta một lượt rồi nói: "Các ngươi nghe cho thật kỹ, lúc mở cửa cung cũng có điều phải chú trọng đấy."
(*) Tên một chức quan hoạn quan, ở Nội thị tỉnh, tả ban đô tri và hữu ban đô tri là chức quan cao nhất, Nhập nội nội thị tỉnh thì lên trên còn có đô đô tri.
Ta nín thở dỏng tai lên nghe Trương Mậu Tắc giảng tiếp: "Trước khi mở cửa, thủ thần các cửa phải đối chiếu nghiệm xét ngư phù bằng đồng với các nội thần giữ chìa khóa." Trương Mậu Tắc giơ một cặp ngư phù lên cho đám bọn ta đang chia nhóm ngồi trước mặt thầy xem: "Phù tiết đồng có khắc hình cá và tên cổng thành, mỗi ngư phù đồng đều được chia ra làm hai nửa trái phải, thủ thần các cửa và nội thần giữ chìa khóa mỗi bên giữ một. Trong lúc đợi mở cửa, quan, ty giữ cửa phải chuẩn bị xong xuôi cấm vệ thủ cửa, trong ngoài cửa mỗi bên hai đội, đốt đuốc lấy sáng, thủ thần, nội thần cẩn thận nghiệm xét ngư phù, bảo đảm không có gì sai nhỡ rồi mới được mở cửa. Dẫu ngư phù có khớp mà thủ thần nội thần chưa nghiệm đã mở cửa, hoặc nghiệm không khớp nhưng vẫn mở, hoặc người không nhận mặc sắc lại tự tiện mở cửa, đều phải chịu luật hình trừng phạt nghiêm khắc."
"Đã nhớ rõ cả chưa?" Nhậm Thủ Trung chen lời hỏi. Bọn ta đều cúi người thưa dạ, ông ta chỉ vào tiểu hoàng môn ngồi hàng đầu cách ông ta gần nhất, ra lệnh: "Ngươi, thuật lại xem."
Đứa bé đó lại hơi đần ra, đứng nghĩ hồi lâu mới lắp bắp nói được hai ba câu, giữa chừng còn có sai sót.
Nhậm Thủ Trung cốc đầu nó, tức giận mắng: "Có mấy câu thế thôi mà cũng không nhớ được thì vào cung làm ăn thế nào? Tương lai trong các ngươi khó tránh khỏi sẽ có vài đứa nhận nhiệm vụ giữ chìa khóa cửa cung, xảy ra sai sót là rơi đầu chết chắc!"
Trương Mậu Tắc đứng bên bổ sung: "Nếu để người ra vào không đúng cách thức luật lệ, nhẹ thì tù đày, nặng thì treo cổ."
Đám tiểu hoàng môn nghe mà kinh hãi, trái phải nhìn nhau, thầm líu lưỡi.
"Ngươi ra ngoài sân, quỳ xuống mà ngẫm, miễn ăn bữa tối." Nhậm Thủ Trung xử phạt đứa bé kia, lại nhìn những đứa khác, cuối cùng chọn trúng ta: "Ngươi đã nhớ hết chưa?"
Ta đứng lên khom người, mạch lạc trả lời ông ta, thuật lại nguyên văn lời Trương Mậu Tắc: "Đến khi trời tối, mọi lối ra vào hoàng thành đều phải đóng cửa, trước khi mặt trời mọc, tuyệt đối không thể tự tiện mở ra. Người nếu quả thực có việc quan trọng, phải mở cửa cung ban đêm, đều phải có mặc sắc ngư phù... Nếu để người ra vào không đúng cách thức luật lệ, nhẹ thì tù đày, nặng thì treo cổ."
Không sai một chữ, nội thần các ty từ Trương Mậu Tắc trở xuống đều gật đầu mỉm cười.
Nhậm Thủ Trung cũng rất hài lòng, hiền hòa hỏi ta: "Nhà ngươi tên gì?"
"Lương Nguyên Hanh." Ta đáp, lại bổ sung: "Nguyên Hanh trong Nguyên Hanh Lợi Trinh (*) ạ."
(*) Đây là lời quẻ của quẻ Càn trong Kinh dịch, được coi là bốn tính chất cơ bản của quẻ Càn, thường được hiểu theo nghĩa rộng là bốn mùa: Nguyên (元) – mùa xuân, Hanh (亨) – mùa hạ, Lợi (利) – mùa thu, Trinh (贞) – mùa đông; về mặt sự đời, Nguyên Hanh Lợi Trinh lần lượt đại diện cho nhân, lễ, nghĩa, chính.
Hiển nhiên, lời ta nói chẳng khác nào vẽ rắn thêm chân, vừa ra khỏi cửa miệng đã khiến người người biến sắc. Nhậm Thủ Trung bước hai bước tới trước mặt ta, quạt cho ta hai cái tát đầu: "Nhãi ranh xằng bậy to gan, ngươi không biết tị húy à?"
Bấy giờ ta mới láng máng nhớ ra, trước đây lúc giải thích cho ta về cái tên của ta, cha ta cũng từng dặn dò rằng không được nhắc tới chữ "Trinh" trong đó với người khác, bởi kim thượng tên húy là "Trinh (祯)", thế nên "Trinh (贞)" cũng phải tị húy (*).
(*) Chữ Trinh (祯) này có nghĩa là cát tường, chữ Trinh (贞) này có nghĩa là trung trinh, hai chữ đồng âm Hán [zhēn].
Ta nhất thời ngớ ra, không biết phải ứng đối ra sao, chỉ lặng lẽ cụp mắt đứng đó.
Nhậm Thủ Trung bảo kẻ dưới: "Dẫn nó xuống nhốt lại, đợi ta xin chỉ thị của quan gia rồi xử phạt sau."
Ta ở trong một gian phòng nhỏ tối hai, ba ngày, nằm ngẩn ngơ, cơ hồ không ăn cơm, nhiều lần trong cơn mê ngủ, ta tưởng là mình sắp chết rồi.
Cuối cùng cũng có người mở cửa, ánh sáng đã lâu không thấy tràn vào như thủy triều, đâm mắt ta đau nhói.
Một lần nữa mở mắt, ta trông thấy gương mặt hiền hòa của thầy Lương Toàn. Đại khái là vì ta cùng họ với thầy nên thầy vẫn luôn rất tốt với ta.
"Đi thôi." Thầy nói. Thấy ta không còn sức nhấc chân, ấy vậy mà thầy lại ngồi xổm xuống, tự mình cõng ta ra ngoài.
Ta không sao nén được nước mắt nhỏ xuống cổ thầy, thầy tiếp tục bước đi điềm nhiên như không, cũng không an ủi gì ta, chỉ nói: "Sau này phải cẩn thận. Nếu là phạm húy ở bên ngoài thì còn có thể che giấu được, nhưng trong cung thì khác, hơi chút sai lầm thôi cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng. Là Trương tiên sinh khẩn cầu hoàng hậu nói giúp cho ngươi trước mặt quan gia, con nên nhớ lấy việc này..."
Đương nhiên là ta sẽ nhớ kĩ rồi. Sau buổi giảng bài kế tiếp của Trương Mậu Tắc, ta bám theo thầy ra ngoài, chạy tới trước mặt thầy quỳ xuống, khấu đầu tạ ơn cứu mạng.
Thầy chỉ cười khẽ, nói: "Tên thằng nhóc nhà cậu quá dễ gợi đến chữ phạm húy, vẫn nên đổi một cái tên khác cho thỏa đáng thì hơn."
Ta đồng ý, kính nhờ thầy đổi tên cho mình.
Thầy thoáng trầm ngâm rồi bảo: "Hoài Cát, sau này cậu cứ lấy tên là Lương Hoài Cát đi."
Ta nghiêm túc cảm ơn thầy. Thầy lại nói: "Có phải cậu từng đi học không?"
Ta đáp: "Trước đây từng học vài chữ với cha ở nhà ạ."
Ông gật đầu, lại dụng tâm quan sát ta thêm một lượt rồi mới xoay người rời đi.
2. Nội thị
Qua nửa năm, sau khi đã làm quen với lễ nghi trong cung, bọn ta được phân đến các ty của hai tỉnh nội thị học nội dung mới.
Nội thần Đại Tống chia ra làm hai tỉnh: Nhập nội nội thị tỉnh và Nội thị tỉnh. Nhập nội nội thị tỉnh hầu hạ trong cung cấm, quản lý sự vụ hậu cung, còn gọi là Hậu tỉnh, Bắc ty; Nội thị tỉnh phụ trách việc phục dịch nội triều (*) và làm tạp dịch quét tước lau dọn trong cung, còn gọi là Tiền tỉnh, Nam ban.
(*) Nội triều chỉ nơi nghỉ ngơi và xử lý chính sự của thiên tử và chư hầu thời cổ đại.
Ta được phân về Hàn lâm thư nghệ cục thuộc Nội thị tỉnh quản hạt. Bởi về sau phải quản lý việc sách vở nghệ thuật nên có nội thần hiểu nhiều biết rộng rành chuyện bút nghiên giảng bài cho bọn ta, ngoài những công việc tạp dịch vẩy nước quét nhà mà tiểu hoàng môn bắt buộc phải làm, tất cả số thời gian còn lại của ta đều dành vào việc đọc thi thư và nghiên cứu luyện tập các thể chữ triện, lệ, hành, thảo, chương thảo, phi bạch.
Ta thích bầu không khí bình yên trong thư viện và cuộc sống tĩnh lặng này, song Trương Thừa Chiếu thì không, thường ngày hắn vẫn hay oán thán luôn miệng.
Trương Thừa Chiếu là đồng bạn của ta ở Hàn lâm thư nghệ cục, hắn nhỏ hơn ta hai tháng, nhưng vào cung sớm hơn ta một năm, rất thích tự cho là tiền bối trước mặt các cung nhân mới vào, thường chủ động lấy giọng dạy bảo kể chuyện trong cung cho chúng ta. Những người khác rất phản cảm dáng điệu đó của hắn, riêng ta không nhiều lời, lần nào cũng yên lặng lắng nghe, bởi thế mà về sau chúng ta thành bạn thân.
Hắn một lòng muốn chuyển sang Nhập nội nội thị tỉnh, cũng qua lời hắn kể, ta mới biết địa vị hai tỉnh nội thị thì ra chẳng hề giống nhau chút nào.
Một ngày nọ, hai đứa bọn ta nhận lệnh mang sách vở sao chép của thư nghệ cục sang Trung thư môn hạ, bởi tướng công (*) đòi gấp nên bọn ta chạy cả một đường, đương chạy qua một khúc rẽ thì vô ý va phải hai nội thị khác từ phía bên kia đi tới, hai người đó đều cao hơn bọn ta, chỉ lảo đảo hai bước, còn bọn ta thì ngã lăn ra đất, sách vở cũng rơi lả tả.
(*) Ở đây chỉ tể tướng.
"Lũ ranh con, không có mắt hả?" Hai người kia tức giận mắng bọn ta.
Ta không để ý tới họ, chỉ vội vã thu nhặt sách vở, kiểm tra xem có bị bẩn hỏng gì không. Trương Thừa Chiếu nghe mắng nổi nóng, đứng lên định nạt lại, nào ngờ vừa thấy rõ trang phục của họ đã lập tức hết cáu, trái lại còn nở nụ cười giả lả: "Là bọn tôi không cẩn thận, cản đường hai vị ca ca, mong ca ca thứ cho. Đáng đánh, đáng đánh!"
Nói đoạn tự tát mình một cái, lại khom người lia lịa cười nói xin lỗi, hai người kia nguýt bọn ta một cái rõ dài rồi đủng đỉnh rời đi.
Ta lấy làm khó hiểu, hỏi: "Sao cậu phải khiêm tốn với chúng thế?"
Trương Thừa Chiếu vừa tay đấm chân đá với bóng lưng hai người kia, vừa hung tợn ngầm nhổ toẹt một bãi nước bọt, lúc này mới đáp: "Thứ nhất, chúng là nội thị hoàng môn có phẩm giai; thứ hai, chúng là nội thị hoàng môn của Nhập nội nội thị tỉnh."
Ta biết bọn ta hiện giờ chỉ là tiểu hoàng môn chưa có phẩm cấp, nội thị hoàng môn cao hơn chúng ta một bậc, nhưng không rõ vì sao nội thị hoàng môn của Nhập nội nội thị tỉnh lại đáng để tôn kính đặc biệt như thế.
"Họ là người hầu hạ quan gia, nương nương và công chúa chứ sao! Thở bừa ra chút phong thanh trước mặt các chủ tử thôi là chúng ta có khả năng đã chẳng còn quả ngọt mà ăn nữa rồi." Trương Thừa Chiếu rầu rĩ: "Năm đó tại tôi lười biếng, học tập lễ nghi không chú tâm nên mới không được phân vào Nhập nội nội thị tỉnh."
Trên đường trở về từ Trung thư môn hạ, Trương Thừa Chiếu giải thích cặn kẽ từng nơi quan trọng trong Nhập nội nội thị tỉnh cho ta: "Họ có thể trực tiếp vào tẩm điện của quan gia hoặc hoàng hậu, hầu hạ các nương nương và công chúa thì khỏi phải nói, thảy đều chọn từ Hậu tỉnh cả. Ngoài ra, các ty Hậu tỉnh cũng đều không đơn giản: Ngự dược viện quản lý tra cứu y thư bài thuốc, soạn phối thuốc thang để tiến vua và phục vụ trong cung cấm, là ty được tôn trọng nhất trong cung, không phải nội thần có công thì không thể nhậm chức 'lĩnh ngự dược viện (*)' đâu; Nội đông môn ty, chưởng quản người và vật xuất nhập cung cấm, không những có thể hạn chế việc đi lại mà nếu phát hiện ra ai mang theo vật gì khả nghi thì còn có thể trực tiếp đệ trình lên Hoàng thành ty xử lý hoặc bẩm báo Trung thư môn hạ, có họ giám thị, đến quan gia cũng chẳng dám tùy tiện thưởng ai tài vật gì; Hợp đồng bằng do ty, quản lý vật lưu hành trong cung cấm, cung cấp ghi chép, phàm là vật đặc chỉ ban thưởng đều phải lên danh sách tên gọi và số lượng, giao cho ty quản lý kho ngự lấy ra, quan gia ban thưởng cái gì cũng phải qua tay họ thực hiện, ai dám đắc tội chứ? Long đồ, Vu xương, Bảo văn các, quản lý cất giữ tác phẩm của tổ tông, bản đồ cương vực, sổ hộ tịch và vật báu cát tường, đều là những thứ cực kỳ quý giá, nội thần nhậm chức ở đó tất nhiên cũng mang thân phận khác biệt rồi."
(*) Tức chức quan chấp chưởng Ngự dược viện.
"Không phải nội thị tỉnh cũng làm việc cho quan gia à? Vì lẽ gì mà cứ nhất định phải phân cao thấp giữa hai tỉnh?" Ta hỏi hắn.
"Đã khác nhau thì tất nhiên là có cao thấp rồi!" Trương Thừa Chiếu so sánh: "Lại nhìn lại công việc của các ty Tiền tỉnh mà xem: Quản câu vãng lai quốc tin sở, quản lý việc sứ thần Khiết Đan cống nạp, tuy rằng ngày thường nhàn hạ song chẳng có quan hệ gì với người trong cung nên cũng không ai nịnh bợ; quan chủ quản Hậu uyển, cai quản chăm nom vườn tược, ao hồ, điện đài trong cung, phòng khi quan gia nương nương nổi hứng dạo chơi, nhậm chức nơi đó thực ra chỉ rặt một đám thợ làm vườn; Chế tạo sở, phụ trách chế tạo đồ đạc dùng trong cung và lễ đón dâu hoàng tộc, đều là việc nặng cả; Quân đầu dẫn kiến ty, trông coi việc giữ gìn các tiện điện (*), chư quân vào cung bái kiến, tương đương với làm dẫn đường; Hàn lâm viện của chúng ta quản lý bốn cục thiên văn, thư nghệ, đồ họa, y quan, phụ trách các việc quan sát hiện tượng thiên văn, bút nghiên, hội họa, y dược, tuy có khá hơn chút, nhưng thư pháp của chúng ta dẫu có tốt mấy thì giỏi lắm cũng chỉ ở thư viện làm chút việc sao chép hầu đám đãi chiếu (**) mà thôi, đến cái mép nội cung cũng chẳng rờ được đến..."
(*) Những gian điện khác ngoài chính điện đều được gọi là tiện điện, là nơi hoàng đế nghỉ ngơi ăn uống tiêu khiển.
(**) Thời Tống, đây là danh xưng để gọi kẻ sĩ và nghệ thuật gia ở Hàn lâm viện.
Ta lặng thinh, lại nghe hắn thở dài thườn thượt: "Vả lại, bổng lộc của người trong hai tỉnh cũng khác nhau. Chỉ tính chức cung phụng quan mà cả hai tỉnh đều có thôi nhé, cung phụng quan Tiền tỉnh chúng ta lương tháng mười ngàn, xuân, đông mỗi mùa năm xếp lụa, đông thêm hai mươi lạng bông, Hậu tỉnh thì mười hai ngàn, xuân năm xếp lụa, đông bảy xếp, bông mười ba lạng... So ra kém hơn hẳn Hậu tỉnh còn gì, người Tiền tỉnh mà được bổ dụng vào đó thì lại chẳng là lên chức à, bình thường, người được bổ dụng ai cũng mặt mày hớn hở cả... Cậu nhìn đám quan Hậu tỉnh ăn mặc mà xem, ai nấy đều vẻ vang ra trò..."
"Cũng không hẳn," Ta nghĩ đến một người: "Trương tiên sinh chủ quản Nội đông môn ăn mặc cũng mộc mạc thôi mà."
Trương Thừa Chiếu nhất thời nghẹn lời, vò đầu ngẫm nghĩ rồi nói: "Biết đâu ông ấy sống đạm bạc là để chắt chiu tiền của."
Nghe ta nhắc đến, hắn lại chợt nổi cơn tò mò, hỏi ta: "Cậu biết không? Nghe nói là Trương tiên sinh đề nghị phân cậu tới Hàn lâm viện đấy. Lạ ghê, không phải ông ấy tốt với cậu lắm à? Tên cậu cũng là ông ấy đặt mà sao ông ấy lại không cho cậu sang Hậu tỉnh nhỉ?"
Ta mỉm cười, nói: "Chắc là cảm thấy nơi này hợp với tôi hơn. Bản thân tôi cũng nghĩ vậy."
Hắn khinh thường lắc đầu, ánh mắt nhìn ta rõ ràng là nói "Trẻ con không dạy được".
Lại qua một năm, bọn ta đồng thời thừa ân bổ dựng làm nội thị hoàng môn. Làm nội thị rồi, Trương Thừa Chiếu lại càng nghiêm túc hơn với việc cố gắng tấn chức, ngày nào cũng bấm đầu ngón tay nhẩm đếm những cấp bậc phải trải qua để đạt tới nội thị cực phẩm tính từ phẩm giai hiện tại: "Nội thị hoàng môn, nội thị cao ban, nội thị cao phẩm, nội thị điện đầu, nội tây đầu cung phụng quan, nội đông đầu cung phụng quan, áp ban, phó đô tri, đô tri, đô đô tri... Lưỡng tỉnh đô đô tri..." Mỗi lần nói đến "lưỡng tỉnh đô đô tri", hắn đều nở nụ cười cầm lòng không đậu như thấy chức quan nội thị cực phẩm này đang vẫy tay với hắn vậy, làm ta nhìn cũng phải cười theo.
Có lần ta hỏi hắn: "Lưỡng tỉnh đô đô tri có gì mà cậu muốn làm đến thế?"
"Có nhiều tiền chứ gì nữa!" Hắn đáp ngay không cần nghĩ, "Lưỡng tỉnh đô đô tri một tháng ít nhất cũng được lĩnh năm chục ngàn đó, gấp năm mươi lần lương hai ta kia mà."
Ta không hiểu vì sao hắn phải cố chấp chuyện tiền nong như vậy: "Bọn mình cần nhiều tiền thế làm gì đâu? Chẳng mua được ruộng cũng chẳng lấy được vợ, càng không có con cháu để mà giao phó."
Câu này lại đâm ra khiến hắn ngẩn người, một lát sau hắn mới nói: "Không nói đến tiền, làm lưỡng tỉnh đô đô tri, ngoài quan gia và nương nương ra thì cũng chẳng ai dám đánh mắng tôi nữa, chỉ có tôi đánh mắng người khác... Chúng ta cực nhọc làm việc trong cung như vậy, dù sao cũng phải có gì đó để mà mưu cầu chứ? Không phải là muốn tấn chức thì còn biết mưu cầu gì đây?"
Lần này đổi lại là ta im lặng. Ta khi đó dường như mỗi ngày đều chỉ sống bình thản mà vô vị như thế, không có mục tiêu, không có hi vọng.
3. Thôi Bạch
Năm mười hai tuổi, ta được điều vào Hàn lâm họa viện nhậm chức. Phẩm cấp không thay đổi, chỉ là công việc chủ yếu đổi thành hầu hạ các đãi chiếu bên họa viện vẽ tranh và nghe quan chủ quản họa viện sai khiến. Đám nội thị Thư nghệ cục đều rất lấy làm thương cảm cho ta, nói rằng đây thực ra là bị giáng chức, họa viện vốn thấp hơn thư viện một bậc.
Ta cũng biết rằng địa vị của người bên thư họa viện không cao, tuy quan viên tứ phẩm ngũ phẩm trong viện cũng có thể mặc áo đỏ áo tím như các quan văn bình thường nhưng lại không có bội ngư (*). Trong mắt người đời, đãi chiếu thư họa viện bị quy là "vào bằng nghệ thuật", mức độ tôn trọng được dành cho cũng có giới hạn. Mà người của họa viện so ra thì còn kém thư viện một bậc, mỗi lần chúng đãi chiếu lập đội đều lấy thư viện dẫn đầu, họa viện xếp sau, chỉ đỡ hơn cầm, kỳ, ngọc, bách công viện đôi chút.
(*) Tín phù ra vào hoàng thành, lên triều diện thánh của quan viên từ ngũ phẩm trở lên, chiếu theo cấp bậc quan viên mà phân biệt làm bằng vàng, bạc, đồng, tạo thành hình cá chép, gọi là ngư phù, khắc những thông tin cơ bản như họ tên quan viên, chức quan, đựng trong túi đeo bên hông, là ký hiệu cho địa vị và thân phận của quan viên. (chú thích của tác giả)
Đãi chiếu chính thức còn vậy thì nội thị trong viện lẽ tự nhiên cũng theo đó mà bị phân chia đẳng cấp trong mắt mọi người. Cùng là nội thị hoàng môn nhưng cầm viện không bằng họa viện, họa viện cũng không bằng thư viện.
Quan tổng quản của Hàn lâm thư họa cục khi ấy là nhập nội phó đô tri Nhậm Thủ Trung, sau đó, Trương Thừa Chiếu đã kiến nghị ta: "Cậu đi xin Trương tiên sinh đi, xin ông ấy nói vài câu với hoàng hậu, để hoàng hậu mệnh Nhậm đô tri giữ cậu lại thư viện cho."
Ta chẳng ừ hử gì. Hắn lại nháy mắt mấy cái với ta, cười nói: "Đi đi, không sao đâu, Trương tiên sinh là tâm phúc của hoàng hậu, một khi ông ấy đã có lời thì cậu cũng không cần phải đi họa viện nữa rồi."
Ta lắc đầu với hắn, gạt bỏ kiến nghị này. Cũng không phải là ta nghi ngờ sự thật rằng Trương tiên sinh rất được hoàng hậu tán thưởng và tín nhiệm, mà là ta biết rõ rằng, ỷ vào sự coi trọng của hoàng hậu với mình để yêu cầu chuyện ngoài bổn phận không phải là tác phong của thầy, lần trước mở miệng cứu ta chỉ là tình huống cực kỳ ngẫu nhiên, ta không muốn khiến thầy phá lệ lần nữa. Ta chưa bao giờ tham vọng xa vời, cũng không muốn chứng kiến ai vì cớ tại ta mà cầu xin người khác điều gì.
Họa sư họa viện chia thành năm bậc: họa học chính, đãi chiếu, nghệ học, chỉ hầu, nghệ nhân; người chưa có phẩm cấp thì gọi chung là họa học sinh. Các tác phẩm tranh vẽ của họ đều là để cung ứng cho cung đình, lấy làm ngự dụng, hoặc giả họ sẽ phụng chỉ đến các chùa miếu đạo quan vẽ tranh. Đó là nơi còn yên tĩnh hơn thư viện. Cứ mỗi mười ngày đều phải mang tranh họa cất trong gác mật ra cho các họa sư đánh giá mô phỏng, hôm ấy sẽ hơi mệt, song những ngày khác thì không có bao nhiêu sự vụ, đa số thời gian ta chỉ cần đứng hầu bên cạnh, nghe quan viên họa viện dạy học hoặc xem các họa sư vẽ tranh là được.
Trong số các họa sư, ta thích xem tranh của họa học sinh Thôi Bạch nhất. Gã là người Hào Lương, năm đó tuổi chừng hăm mấy, dung mạo sáng sủa thanh tú, tính tình cởi mở, không màng danh lợi, hành sự phóng túng ngông cuồng, thường độc lai độc vãng, hay bị quan viên họa viện lườm nguýt, nhưng tranh gã luôn ẩn chứa một luồng linh khí hiếm thấy so với tranh cung đình phổ thông, đó cũng là cái mà ta cực kỳ thưởng thức.
Một ngày cuối thu, trong đình họa viện xào xạc lá rụng, gã một thân một mình vẽ tại chỗ hai con quạ đậu trên cây, ta yên lặng đứng xem đằng sau gã, khi đặt bút xuống tạm nghỉ, trong lúc vô tình quay đầu, gã phát hiện ra ta, cười cười, hỏi: "Trung quý nhân (*) cũng mê đan thanh (**) chăng?"
(*) Về xưng hô của hoạn quan, hoạn quan thời Tống không gọi là thái giám mà thường gọi là nội thị, nội thần, hoạn giả, trung quan, người Tống không gọi họ là "công công" mà thường gọi họ theo chức quan, "trung quý nhân" là cách gọi tôn kính của người ngoài cung đối với hoạn quan. (chú thích của tác giả)
(**) Đan chỉ đan sa (chu sa), thanh chỉ thanh hoạch, là hai loại khoáng vật chế tạo nên thuốc màu. Hội họa cổ Trung Hoa thường dùng hai màu đỏ xanh nên đan thanh trở thành một cách gọi khác của môn nghệ thuật này.
Ta lùi ra sau một bước, cúi người đáp: "Hoài Cát mạo phạm, quấy rầy nhã hứng của Thôi công tử."
"Chuyện đó thì không," Thôi Bạch tủm tỉm, nói, "Tôi chỉ tò mò không biết, vì sao trung quý nhân không đi xem chư đãi chiếu họa viện vẽ tranh mà mỗi lần đều để ý tới chuyết tác như thế."
Ta ngẫm nghĩ rồi đáp: "Còn nhớ ngày Hoài Cát mới vào họa viện, thấy chúng họa học sinh đều đang theo họa học chính vẽ phỏng tranh hoa điểu của Hoàng Cư Thái, duy có công tử là ngoại lệ, một mực nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, vẽ chim chóc trên cành cây trong đình."
Thôi Bạch xua tay cười: "Tranh hoa điểu của Hoàng thị tinh vi tráng lệ, đời này tôi học chẳng nổi nên dứt khoát tự mình nguệch ngoạc đấy thôi."
Ta cũng mỉm cười, nói: "Thôi công tử đặt bút là thành cấu tứ, không vay mượn quy chuẩn mà cong thẳng vuông tròn vẫn đúng độ chuẩn mực. Hoài Cát đó giờ vẫn hằng bội phục sâu sắc."
"Trung quý nhân khen lầm." Nói đoạn, Thôi Bạch một lần nữa chầm chậm nâng bút lên, trước khi hạ bút chợt hỏi ta: "Lẽ nào trong họa viện này còn có người cong thẳng vuông tròn nằm ngoài chuẩn mực ư?"
Tất nhiên là có. Nhưng ta chỉ cười hờ hững, không đáp lời.
Chừng như bản thân cũng có đáp án, Thôi Bạch không truy hỏi nữa, ngậm một nét cười ngang tàng, xoay người tiếp tục vẽ tranh, trước trán rủ xuống vài sợi tóc chưa bao giờ chịu vào nếp, theo động tác đưa bút mà đôi lúc lại phất phơ bên sườn mặt gã, song ánh mắt gã trước sau vẫn chăm chú đậu lên bức tranh, không chút để ý.
Nhờ thế mà hai ta dần trở nên quen thân, thi thoảng gặp nhau trò chuyện về thư họa, gã nhìn ra ta có hứng thú với đan thanh, chủ động đề nghị dạy ta, ta tất nhiên là vô cùng vui vẻ, bèn theo gã học vẽ vào những lúc cả hai đều rảnh rỗi.
Một hôm, gã dạy ta vẽ chim núi rừng xuân bằng thủ pháp không xương, họa học chính họa viện đi ngang qua phòng vẽ bọn ta dùng, thấy người vung bút vẽ tranh là ta, không khỏi kinh ngạc, bèn vào xem thử. Ta tức khắc thu bút, thi lễ với y như thường ngày. Y không đáp lại, đi thẳng tới cạnh ta, nghiêm túc xem tranh ta vẽ.
Từ thuở lập quốc đến nay, phong cách hội họa cung đình Hoàng thị của hai cha con Hoàng Thuyên và Hoàng Cư Thái vẫn luôn giữ ngôi độc tôn trong Hàn lâm họa viện quốc triều, vẽ hoa trúc lông vũ phải dùng bút than nháp trước rồi lấy chỉ mực cực nhỏ phác họa đường nét, tiếp đó trùng trùng tô màu, hình vẽ tinh xảo tráng lệ, tôn chỉ rực rỡ đậm màu. Mà giờ đây, họa học chính thấy tranh ta vẽ màu sắc thanh nhã, trong đó, chim núi không được phác họa hoàn toàn bằng chỉ mực, chi tiết sợi lông vũ phần đa là dùng những màu mực đậm nhạt khác nhau điểm xuyết thêm chấm đỏ mà thành, khác hẳn tranh cung đình Hoàng thị được họa viện coi là chuẩn mực, tức thì mặt sa sầm, lạnh lùng hỏi Thôi Bạch: "Anh dạy cậu ấy vẽ thế này?"
Thôi Bạch gật đầu, ung dung đáp: "Họa chim muông vị tất phải vẽ phác đắp màu, thỉnh thoảng pha lối không xương tô điểm bằng mực đạm cũng có cái thú hoang dã riêng. (*)"
(*) Vẽ phác đắp màu (双钩填彩) là phép vẽ phác họa đường nét trước rồi mới tô màu, họa sĩ Hoàng Thuyên thời Ngũ Đại là một họa sĩ tiêu biểu cho bút pháp này, tương phản với phép vẽ không xương (没骨) là trực tiếp dùng thuốc màu hoặc mực để vẽ sự vật mà không có "xương bút", tức dùng chỉ mực phác khung, tiêu biểu cho phép vẽ này có họa sĩ Từ Hi cùng thời với Hoàng Thuyên.
Họa học chính thình lình đập bàn, cao giọng: "Anh làm thế là dạy hư học sinh!"
Thôi Bạch không nao núng, chỉ nghiêm trang cúi người với y, cụp mắt đứng đó.
Họa học chính nén giận, quay sang nói với ta: "Nếu trung quý nhân muốn học vẽ, trong họa viện tự có đãi chiếu, có thể thỉnh giáo học nghệ, mới bắt đầu học phải thận trọng mà chọn lấy thầy tài, chớ để bị hạng nắm cày không thạo dẫn lên đường lầm."
Ta cũng khom lưng tỏ vẻ thụ giáo. Họa học chính hung dữ trừng Thôi Bạch thêm một cái rồi mới phất tay áo ra cửa.
Đợi y đi xa rồi, Thôi Bạch nghiêng đầu nhìn ta, giả đò nghiêm mặt, nói: "Mời trung quý nhân chọn thầy tài khác cho, chớ theo cái hạng nắm cày không thạo tôi đây mà lạc phải đường lầm."
Câu trả lời của ta là: "Nếu lối Thôi công tử dẫn tôi theo là đường lầm thì đời này tôi nguyện không đi chính đạo nữa."
Bọn ta nhìn nhau cười, từ đó về sau càng thêm thân thiết. Theo lời đề nghị của gã, chúng ta không còn xưng hô khách khí với nhau nữa, gã gọi thẳng tên ta mà ta cũng gọi gã bằng tự "Tử Tây" của gã.
Họa học chính càng lúc càng tỏ ra chán ghét Thôi Bạch, nhiều lần bàn luận với đồng liêu về phẩm hạnh và họa kỹ của gã, thường có ý chê bai. Thôi Bạch cũng liên tiếp bị họa viện chèn ép, mỗi lần so tài, tranh của gã đều bị bình xét hạng kém, chưa lần nào có cơ hội được trình lên ngự lãm.
Thôi Bạch không bận tâm, vẫn chuyện ta ta làm mà vẽ tranh theo phong cách của mình, cũng chẳng để bụng lời giảng dạy của quan viên họa viện. Mỗi bữa dạy học, gã đều không vắng mặt thì cũng đến trễ, góp được cái thân ngồi trong sảnh cũng chẳng nghiêm túc nghe bài, thường xuyên dõi mắt qua cửa sổ mà ngắm cảnh bên ngoài, thả hồn rong chơi, hoặc là dứt khoát gục xuống bàn ngủ, đợi đến lúc quan viên họa viện giảng xong mới vươn vai ngáp dài, thong thả đứng dậy, nghênh ngang rời đi trước cái nhìn hầm hầm của quan viên.
Một lần nọ gặp đúng tiết dạy của họa học chính, chủ đề là nghệ thuật tranh thủy mặc, lý thuyết giảng xong rồi, họa học chính lấy bản phác nền đã chuẩn bị từ trước ra, múa bút điểm màu tại chỗ, vẽ nên một bức sen thu thủy mặc, nét mực vừa khô sơ là treo ngay lên vách cho các họa học sinh bình phẩm.
Quả tình cũng là một tác phẩm đặc sắc, bông sen thu trong tranh phong tư thanh nhã, tuy là tranh thủy mặc, song lại vẽ đài sen và lá sen phản chiếu đón sóng, thể hiện được ý mây trôi mang mưa. Chúng họa học sinh tất nhiên là khen ngợi không ngớt, ngay sau đó sôi nổi nhấc bút, bắt đầu phỏng theo.
Họa học chính vuốt râu, quét mắt nhìn mọi người, dương dương tự đắc. Chẳng ngờ tròng mắt đảo qua, phát hiện ra Thôi Bạch không để ý mảy may, ngồi một góc mãi tít dãy cuối, bộ dáng lại còn là gục bàn ngủ vùi.
Họa học chính lập tức tắt ngấm nụ cười, sầm mặt gọi: "Thôi Bạch!"
Thôi Bạch như đã say giấc nồng, chẳng có vẻ gì là định tỉnh. Họa học chính lại nghiêm giọng gọi, gã vẫn không một phản ứng, ta thấy cục diện dần ngả theo hướng xấu hổ, bèn lại gần gã, cúi người gọi khẽ: "Tử Tây." Bấy giờ gã mới cau mày, chậm rãi nhập nhèm mở mắt, dòm ta trước rồi mơ màng nhìn chòng chọc họa học chính một hồi, mãi sau mới rộ cười hỏi: "Đại nhân giảng bài xong rồi?"
"Xong rồi," Họa học chính nuốt giận lạnh nhạt cất lời, "Nhưng xem ra nói khô khan quá, khó vào nổi tai của quý ngài, thành ra lại hoá tác dụng thôi miên."
Thôi Bạch cười mỉm, nói: "Nào có, lúc đại nhân giảng bài tôi vẫn nghe mà, chỉ là sau đó đại nhân vẽ tranh, bọn học sinh đều chen lên quan sát, tôi cách có hơi xa, mắt thấy chen không nổi nên mới quyết định ngủ một chốc, đợi đại nhân vẽ xong lại tỉ mỉ thưởng thức sau."
"Thật không?" Họa học chính liếc xéo gã rồi không thèm nhìn nữa, chắp tay đứng ngó bầu trời xanh bên ngoài cửa sổ, bảo: "Vậy theo cái nhìn của anh, bức họa của kẻ hèn này vẽ ra sao?"
Thôi Bạch vẫn ngồi đó, biếng nhác dựa ghế, nghiêng đầu đánh giá bức sen thu trên vách tường đối diện một khắc rồi gật gù: "Đẹp lắm đẹp lắm... Chỉ là ở đâu đó có hơi thiếu nét."
Họa học chính sao khỏi hiếu kỳ, hỏi lại ngay: "Chỗ nào?"
Thôi Bạch nhếch miệng: "Chỗ này." Đương nói, tay nhặt một chiếc bút đã nhúng mực lên, bỗng ném phắt về phía tranh vẽ, đến lúc gã dứt lời, bút đã chạm đến tranh, quét một nét mực xéo dưới một phiến lá sen thu.
Hành động của gã quá mức đột ngột, chúng họa học sinh la lên thất thanh, quay đầu nhìn Thôi Bạch, lại đồng thời chuyển qua nhìn họa học chính, thăm dò sắc mặt y.
Họa học chính tức đến nghẹn lời, ngón tay trỏ vào Thôi Bạch run run: "Ngươi, ngươi..."
"Ối! Học sinh nhất thời sơ suất, lấy nhầm cái bút có mực, đại nhân thứ tội." Thôi Bạch vừa cáo lỗi vừa giở tay áo đứng lên, cất bước đi tới trước mặt họa học chính, một lần nữa tao nhã khom người tạ lỗi.
Sắc mặt họa học chính thoắt xanh thoắt trắng, phẫn nộ xoay người, giơ tay lên muốn giật bức họa treo trên vách xuống, chắc là định xé tan trút giận.
Thôi Bạch lại đưa tay đi cản, cười nói: "Đại nhân bớt giận. Tranh này xuất sắc là vậy, chỉ vì một nét mà xé đi thì tiếc quá. Học sinh đã phạm lỗi tất sẽ nghĩ cách bổ cứu."
Một họa học sinh nghe vậy xen lời: "Tranh đã bị mực làm nhơ thì bổ cứu thế nào?"
Thôi Bạch treo ngay ngắn lại tranh, cẩn thận nhìn thêm một lượt rồi nói: "Tranh đã dính vết nhơ, đại nhân cũng không muốn giữ nữa thì hẳn cũng sẽ không để ý tôi lại thêm vài nét bút đâu chứ?"
Cũng không đợi họa học chính cho phép, liền thong dong lựa lấy một cây bút trên bàn y, chấm nước mực trong nghiên, tay trái đặt sau lưng, tay phải vận bút, từ nét mực nhơ kia, hoặc điểm, dắt, lia, phẩy, hoặc xoay, chếch, xiên, kéo, giữa chừng pha mực, chốc lát sau, một con ngỗng trắng cong gáy cúi đầu rỉa lông xuất hiện đầy sinh động dưới phiến lá sen, nét bút nhơ được gã vẽ thành mỏ ngỗng, bút pháp tự nhiên, nhìn không ra dấu tích cố ý tu sửa.
Vẽ xong, Thôi Bạch đặt bút xuống lùi ra sau, cười mỉm mời họa học chính góp ý. Mọi người chú tâm nhìn lại, thấy gã tuy chỉ vẽ một con ngỗng song lại bao hàm đủ năm màu thủy mặc tiêu, nùng, trọng, đạm, thanh (*), dung hòa êm ái, sống động mà không lộn xộn, kỹ thuật dùng mực dường như còn trên cơ họa học chính. Tư thế con ngỗng nhã nhặn thanh thoát, có cảm giác như phá giấy mà ra, so ra, bông sen thu họa học chính vẽ mới rồi chợt mất đi thần thái, trở nên khô khan dại đờ.
(*) Năm màu mực pha trong nghệ thuật tranh thủy mặc Trung Hoa cổ, chi tiết xem cuối trang.
Hơn nữa, trước khi vẽ gã không hề có bản phác nền, cứ thế thả bút hoạ ra, hiển nhiên lại thắng họa học chính thêm một nước. Có người không cầm được mở miệng trầm trồ, kêu thành tiếng rồi mới nhớ đến họa học chính, vội vàng ngậm miệng, nhưng trong mắt vẫn toát lên vẻ khâm phục.
Họa học chính cũng tiến lên xem xét, nín thinh thẫn thờ vuốt râu một lúc lâu rồi mới lườm sang Thôi Bạch, bình: "Dùng mực tạm được, nhưng thêm một con ngỗng vào đây làm không gian tranh đột ngột trở nên chật chội, mà lưu bạch (*) bên dưới thì lại quá nhiều, hỏng mất bố cục."
(*) Một thủ pháp thường được dùng trong sáng tác nghệ thuật Trung Hoa, chỉ việc cố ý khéo léo để lại một khoảng trống trong tác phẩm, giữ làm không gian tưởng tượng.
"Phải ạ phải ạ," Thôi Bạch tức thì hùa theo, thoải mái nhìn họa học chính, cười nói: "Tôi cũng thấy vị trí con ngỗng này đứng (*) quá cao, hạ xuống mấy phân thì vừa vặn."
(*) Ở đây họ Thôi chơi chữ, nguyên văn: "这呆鹅所处之位过高", chữ "呆" vừa có nghĩa là ngu ngốc, vừa có nghĩa là dừng chân/nán lại.
Nhìn vẻ mặt gã vậy, mọi người đều biết lời gã nói có ý chế nhạo họa học chính, đều có xu thế không nhịn được cười. Ngực họa học chính phập phồng dữ dội, tưởng chừng như có thể ngất xỉu bất cứ lúc nào, có lẽ do không tiện nổi giận trước mặt chúng họa học sinh nên cuối cùng chỉ phất mạnh tay áo, chỉ ra ngoài cửa, lệnh Thôi Bạch: "Ra ngoài!"
Thôi Bạch không mất lễ nghi cúi thấp người thi lễ với hoạ học chính rồi ra khỏi cửa, nét cười ung dung trên bờ môi không giảm, bước đi đến là tiêu sái tự nhiên.
Ta hơi dịch bước, dõi nhìn gã đi xa. Niềm vui mà hành vi ngông cuồng của gã đem lại không địch nổi tiếc nuối trong lòng, ta lờ mờ cảm thấy, ngày gã rời khỏi họa viện chẳng còn bao xa.
Năm màu mực pha trong nghệ thuật tranh thủy mặc Trung Hoa cổ:
Tiêu (cháy khét): bỏ nước mực đã mài nhuyễn vào nghiên, để bay hơi nửa ngày, mực tiêu dùng để vẽ những phần đậm màu nổi hình nổi khối. Mực tiêu là phần đen đặc riêng biệt trong cả bức tranh, đen mà bóng sáng.Nùng (nồng đậm): độ đen của mực nùng gần với mực tiêu, nhưng trong mực nùng có pha thêm chút nước nên không tạo hiệu ứng bóng sáng như mực tiêu.Trọng (trầm đục): Mực trọng đối lập với khái niệm mực đạm. Lượng nước pha vào mực trọng nhiều hơn mực nùng nên nhạt hơn nhưng so với mực đạm thì đen hơn.Đạm (nhạt loãng): Pha thêm nhiều nước hơn vào mực, tạo thành màu xám tro thì gọi là mực đạm.Thanh (trong vắt): Màu mực ở đây chỉ còn lại vẻn vẹn chút bóng dáng xám nhạt, chuyên dùng để thể hiện những hình tượng mơ hồ như sương sớm khói chiều.
4. Trung cung
Chừng một tháng sau, họa viện đột nhiên nhận được giáo chỉ của hoàng hậu, sai tuyển chọn một tập tranh người vật tả thực của các quan viên và họa học sinh họa viện, trình lên hoàng hậu tại Nhu Nghi Điện. Mặt trời sắp lặn, chúng đãi chiếu và họa học chính không dám chậm trễ, vội vàng lựa lấy những tác phẩm vừa lòng nhất, dự định đưa tới tẩm điện của hoàng hậu.
Hôm ấy vốn chẳng có việc gì, các nội thị khác của họa viện đã về phòng nghỉ ngơi, chỉ còn mình ta nán lại trực, giáo chỉ tới quá đột ngột, thành ra sau hơn một năm nhậm chức ở họa viện, lần đầu tiên ta nhận được nhiệm vụ mang tranh cuộn vào hậu cung, nếu là ngày thường thì hãy còn chưa tới phiên ta làm việc này.
Đây cũng là lần đầu tiên trong mấy năm qua kể từ khi vào cung, ta có cơ hội đi từ ngoài hoàng thành vào trong nội cung nơi đế hậu và tần phi ở. Hàn lâm họa viện nằm bên ngoài Hữu Dịch Môn phía tây nam hoàng thành, dưới sự dẫn đường của nhập nội nội thị truyền chỉ cho điện hoàng hậu, ta bưng tranh cuộn, cất bước từ đó, băng qua Hữu Dịch Môn, Hữu Trường Khánh Môn, Hữu Gia Túc Môn, Hữu Ngân Đài Môn, lần lượt đi qua Môn hạ tỉnh, Xu mật viện, Môn hạ hậu tỉnh, Quốc sử viện, lại qua Hoàng Nghi Môn, vượt cổng Thùy Củng vào cung, vòng qua Thùy Củng Điện và Phúc Ninh Điện, bấy giờ mới đến được nơi ở của hoàng hậu, Nhu Nghi Điện.
Khi đó trời đã xâm xẩm tối, hoàng hậu lại không ở trong điện. Thị nữ Nhu Nghi Điện nói, hoàng hậu đã sang Phúc Ninh Điện gặp quan gia, chẳng biết lúc nào trở về. Ta nhờ nhập nội nội thị mang tranh cuộn vào trong điện, vì phải tận mặt phục lệnh hoàng hậu nên cũng không dám tự tiện rời đi, bèn đứng ngoài điện đợi.
Đợi suốt hai canh giờ, rốt cuộc hoàng hậu cũng trở về. Ta quỳ xuống hành lễ, thấy ta lạ mặt, bà thoáng dừng bước, thị nữ giới thiệu với bà, bà mới nhớ ra, gật đầu, vào điện không bao lâu thì sai người truyền ta vào.
Hoàng hậu Tào thị bận thường phục trung cung quốc triều với ống tay áo dài rộng đỏ thắm, ngồi ngay ngắn trong điện, bên trong ống tay và cổ áo rực rỡ thấp thoáng để lộ viền mép lớp áo đơn bằng vải sa màu đỏ vàng, đường nét lần váy dài đỏ thẫm rủ xuống phẳng phiu mềm mại, không một nếp nhăn dư thừa, tấm gấm khoác nền trắng vân vàng lẳng lặng chất thành nếp gấp dưới mặt đất, tôn lên tư thái trang nhã an hòa của bà.
Một lần nữa hành lễ với bà, nhân lúc đứng thẳng dậy, ta lướt mắt qua mặt bà. Hành vi vượt quá bổn phận này xuất phát từ lòng hiếu kỳ của ta đối với dung nhan vị quốc mẫu, đồng thời cũng cẩn thận khống chế thời gian cho thật ngắn để không bị người khác phát giác.
Bà nước da tựa ngọc, sắc mày nhạt nhòa, khí chất cao nhã, lúc này đang rũ mi như suy tư điều gì, vầng trán cũng ẩn hiện vẻ ưu sầu.
Nội thần trong điện đã hoàn tất việc treo tranh cuộn, hoàng hậu thong dong đứng dậy, chậm rãi dời bước xem xét từng bức. Một lúc lâu sau, xem xong tất thảy rồi, bà không bình luận gì, chỉ xoay người hỏi ta: "Các tác phẩm tả thực xuất sắc nhất của họa viện gần đây đều ở trong này?"
Ta bẩm dạ. Bà lại xem thêm một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi: "Trong này có tranh của họa học sinh Thôi Bạch không?"
Ta thưa rằng không, bà liền mỉm cười: "Ta cũng nghĩ là không có. Nghe nói họa kỹ hắn vụng về, không biết tiến thủ, lại ngạo mạn ngông cuồng, thậm chí còn chẳng để quan viên họa viện vào mắt... Vậy cũng lạ quá, người tồi tệ thế chẳng hay đã thi được vào Hàn lâm họa viện như thế nào?"
Ta hơi do dự, nhưng vẫn bẩm đúng thực tế cho bà biết: "Từ khi quốc triều mở họa viện đến nay, không ai là không tôn sùng phong cách hội họa của cha con Hoàng Thuyên, Hoàng Cư Thái, mỗi buổi tranh tài so nghệ đều coi quy cách Hoàng thị là thước đo ưu khuyết. Căn cơ của Thôi Bạch rất tốt, luận về nét vẽ tinh xảo thì tuyệt không làm khó được y, thế nên thi vào họa viện khá thuận lợi. Nhưng tính y bay bổng không màng danh lợi, có vẻ như không tán thưởng phong cách hoa lệ của nhà họ Hoàng cho lắm, ngược lại yêu thích Từ Hi Dã Dật (*) hơn, thường ngày rất thích vẽ vật thực, gặp cảnh hợp ý là ghi lại ngay, có thể sao chép hình thái vật, đâu đó mang phong thái còn sót lại của Từ Hi. Sau khi vào họa viện, vẽ hoa trúc lông vũ không phải lúc nào cũng dùng vẽ phác đắp màu mà còn thường xuyên tham khảo bút pháp không xương của Từ Hi hoặc Từ Sùng Tự, trong một bức họa đồng thời tồn tại cả bút ý phóng khoáng lẫn công phu nghiêm cẩn, điểm màu lại thanh nhã, độc đáo vượt trội, mang cái thú hoang dã riêng. Nhưng khi so tài, phong cách vẽ này không được các quan viên họa viện tán thành nên tác phẩm của Thôi công tử lần nào lần nấy đều bị coi thường, rất khó gặt hái được khen ngợi."
(*) Một trong hai trường phái hội họa lớn thời Ngũ Đại, lấy họa sĩ Từ Hi làm đại biểu với lối vẽ phóng khoáng hoang dã, mộc mạc tự nhiên, còn được gọi là trường phái Nam Đường, khác với lối vẽ cung đình hoa lệ của phái Tây Thục Hoàng Thuyên.
Hoàng hậu gật đầu, lại hỏi: "Hắn biết rõ phong cách không được ưa chuộng mà vẫn kiên trì vẽ tranh như vậy?"
Ta đáp: "Vâng. Y đã định đoạt việc gì thì sẽ không dễ dàng bị người khác ảnh hưởng mà thay đổi."
Hoàng hậu cười nhạt: "Cũng là một kẻ gàn bướng. Nhưng hắn thi vào họa viện cũng chẳng dễ dàng gì, liều lĩnh như vậy không sợ bị trục xuất đi sao?"
Trong lòng ta biết hẳn là đã có người nói lời không hay về Thôi Bạch trước mặt hoàng hậu, lưỡng lự không rõ có nên cùng bà bàn đến tâm thái của Thôi Bạch hay không, song, giọng nói điềm đạm của hoàng hậu đã làm ta rất có hảo cảm với bà, vả lại bà vẫn luôn hòa nhã nhìn ta, đợi ta trả lời, điều này cho ta dũng khí thẳng thắn đáp: "Thi vào họa viện là nguyện vọng của phụ thân Thôi công tử, bởi vậy y mới tuân lời mà đi, nhưng hạn chế chỉ học thuần phong cách Hoàng thị trong họa viện lại đi ngược với chí hướng của y... Tính y cũng không hợp với tác phong của họa viện, bị trục xuất cũng không khiến y sợ hãi."
Hoàng hậu trầm ngâm đôi chốc rồi mệnh lệnh: "Hai ngày nữa mang một số tác phẩm của Thôi Bạch tới đây."
Ta lập tức lĩnh chỉ, bà lại quan sát ta, hỏi: "Ngươi bao tuổi rồi, cũng từng học vẽ à?"
Ta khom người trả lời: "Thần năm nay mười ba, cũng chưa bao giờ học vẽ ạ, chỉ từng nguệch ngoạc mấy đường dưới sự chỉ bảo của Thôi công từ mà thôi."
"Ngươi...tên gì?" Bà hỏi tiếp.
"Bẩm, Lương Hoài Cát." Ta đáp, lần này không giải thích thêm bất cứ điều gì về tên mình nữa.
"Ồ, ta có biết ngươi." Hoàng hậu hé cười: "Ngươi vốn tên là Lương Nguyên Hanh phải không? Tên bây giờ là do Bình Phủ đổi."
Bình Phủ là tên tự của Trương tiên sinh chưởng quản Nội đông môn. Hoàng hậu gọi thầy như vậy làm ta hơi ngạc nhiên, ngay sau đó vô hình trung lại nảy sinh chút mừng rỡ. Ta coi Trương tiên sinh như thầy như cha, tuy mấy năm nay chúng ta không có nhiều cơ hội gặp mặt, song trước sau ta vẫn ôm niềm cảm kích kính yêu vô tận với thầy. Hoàng hậu nhắc đến chuyện đổi tên cũng gợi cho ta lập tức nhớ ra ân trạch bà từng ban cho, bèn trịnh trọng quỳ xuống, khấu tạ ơn bà cứu mạng năm đó.
Bà hiền hòa kêu ta bình thân, còn thưởng cho ta vài cây bút râu chuột và mực thơm Tân An. Ta cơ hồ được sủng ái mà sinh lo sợ, bởi thứ bà thưởng cho ta không phải là lụa là vải vóc như vẫn thường ban thưởng cho nội thị mà là bút mực thượng đẳng dùng vào việc thư họa.
Bà xem lại đống tranh cuộn kia thêm bận nữa, chọn ra vài bức hỏi ta tác giả, sai người nhất nhất lưu lại rồi bảo ta mang những bức còn lại về. Ta tuân lệnh lui xuống, ra khỏi Nhu Nghi Điện dưới sự dẫn đường của nhập nội nội thị, nhập nội nội thị chỉ đường quay về cho ta rồi đóng cửa trở gót.
Y và ta đều đánh giá cao khả năng nhận đường của ta, ta lại một mực suy nghĩ chuyện vừa rồi, lơ đãng đi hồi lâu mới chợt hoảng hốt phát hiện ra thân đang ở chốn hoàn toàn xa lạ, ta đã bị lạc giữa đêm trong chín lớp cung điện này.
Ta dừng lại, mù mịt nhìn xung quanh, bốn bề lặng ngắt không một tiếng động, không một bóng người, chỉ có hồ nước trước mặt đang gợn lên những vệt sóng sáng loáng dưới ánh trăng, bóng liễu bên bờ đung đưa, phất phơ trong gió như những sợi tơ, nhìn mà lòng ta nổi cơn lạnh lẽo. Ta ngờ ngợ nghĩ đây hẳn là Hậu uyển tây bắc hoàng thành, bèn ngửa đầu nhìn trời, chiếu theo phương vị ngôi sao phân biệt phương hướng, tìm được cửa ra hướng nam, vội vã rảo bước hướng theo phía đó.
Vừa đi tới dưới hàng hiên cửa nam thì chợt thấy bên thân nhoáng lên một cái bóng từ ngoài cửa đi vào, ta cả kinh, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy bóng dáng ấy nhỏ bé xinh xắn, dường như là một cô bé không lớn, chạy về phía Dao Tân Trì ở Hậu uyển trong gió đêm hiu hắt, trên người chỉ mặc một chiếc áo đơn trắng thuần và váy dài cùng màu, mái tóc dài buông xõa tới eo, gặp ánh trăng phát ra ánh lam trầm.
Nàng xách váy chạy băng băng, giữa vạt váy tung bay có thể thấy nàng không đi vớ, ắt là chạy chân trần. Chi tiết này khiến ta ý thức được nàng là người chứ không phải ma quỷ, nỗi sợ hãi ban đầu nhờ thế mà nhòa đi, ta lặng lẽ quay trở lại, nấp trong rừng cây bên hồ, xem xem nàng định làm gì.
Nàng quỳ gối cạnh một tảng đá bên bờ, ba vái chín lạy với ánh trăng. Từ góc nhìn của ta có thể trông ra sườn mặt nàng, chỉ thấy nàng chừng bảy, tám tuổi, dung mạo xinh tươi, ngũ quan đẹp đẽ.
Bái lạy xong, nàng ngửa đầu nhìn trời, chau mày khóc nức, giọt châu trên mặt trong vắt như sương mai: "Cha ốm rồi, Huy Nhu không cách nào giúp cha thoát khỏi đau đớn, nhưng khẩn cầu trời cao rủ lòng thương xót cho Huy Nhu lấy thân thay cha gánh cơn bệnh tật, chịu gấp bội hết thảy đau ốm nơi cha. Chỉ mong thần linh thành toàn cho lời thỉnh cầu của con, nếu có thể giúp cha khỏe mạnh như trước, Huy Nhu dẫu có mất mạng cũng cam lòng..."
Nàng vừa khóc vừa kể lể, lặp đi lặp lại hướng trời bày tỏ quyết tâm nguyện lấy thân thay cha, ta lặng im dõi xem, cũng buồn lây. Tình cảnh này làm ta nhớ lại vài chuyện khi xưa.
Sức khỏe cha ta vốn yếu kém, sau lại mắc thêm bệnh nặng, thường xuyên ngày đêm ho hen, mỗi đêm đi ngủ ta đều có thể nghe thấy tiếng ông ho vọng sang từ cách vách. Khi đó còn nhỏ chưa hiểu chuyện, luôn cảm thấy thứ tạp âm này đáng ghét vô cùng, cứ lần nào bị ồn ào quấy rầy không ngủ yên được là lại mơ hồ nghĩ, nếu có một ngày ông chịu yên lặng thì thật tốt biết bao.
Rốt cuộc cũng có một đêm như vậy, ta cuối cùng cũng không phải nghe tiếng ông ho nữa. Đêm đó ta ngủ rất ngon. Hôm sau tỉnh lại, vừa mở mắt đã trông thấy khuôn mặt đờ đẫn tái nhợt của mẫu thân, bà nhìn ta trân trân, chết lặng nói với ta: "Tiểu Nguyên, cha con đi rồi."
Thì ra trời sập là như thế, mọi thứ đều thay đổi.
Kể từ đó tới nay, cứ nhớ đến mình khi ấy đã thờ ơ với bệnh tình của phụ thân ra sao là ta lại hối hận khôn cùng, nếu thời gian có thể quay ngược về, ta nhất định cũng sẽ như cô bé trước mặt này, chân trần xin trời, thành tâm cầu khẩn, hi vọng mình có thể lấy thân thay cha.
Ta nghĩ đến thất thần. Trên đầu có chiếc lá bị gió thổi rụng, phất qua mặt ta, ta hơi giật mình, tay run lên, một cuộn tranh rơi xuống đất.
Nghe thấy động tĩnh, cô bé cảnh giác quay đầu lại. Ta nhặt cuộn tranh, hiện thân dưới ánh nhìn lom lom của nàng, mắt đối mắt với nàng, nhất thời đều không cất tiếng nào.
Ta không biết nàng là ai. Phi tần trong cung có truyền thống thu nhận con nhà thanh bạch làm con gái nuôi, cũng có người sai nhập nội nội thị tìm người môi giới mua bé gái bần hàn vào cung làm đầy tớ, huống hồ còn có cung nữ bồi dưỡng từ nhỏ ở Thượng thư nội tỉnh, trong cung có không ít những cô bé cỡ tuổi nàng, ngoài nghe được nàng tên Huy Nhu ra, ta không rõ thân phận của nàng, chỉ cảm thấy không biết phải bắt chuyện với nàng ra sao, dù rằng ta rất muốn nói nàng hay, ta chân thành mong cha nàng sớm ngày khỏi bệnh.
"Ngươi là ai?" Nàng hỏi.
Ta đang định trả lời thì thấy ngoài cửa nam Hậu uyển có người xách đèn lồng đi vào. Huy Nhu trông đến, lập tức xoay người chạy hướng sang một cửa khác, chắc hẳn không muốn người tới phát hiện ra mình.
Nàng chạy đi lại kinh động tới người kia. Đó là một cô gái trẻ tuổi mang dáng vẻ một nội nhân (*), cũng theo sát xách đèn lồng đuổi theo, miệng cao giọng hô: "Ai? Đứng lại!"
(*) Một cách gọi khác của nữ quan trong cung.
Ta được bóng tối dưới tán cây che phủ nên cô gái không để ý tới. Ta xem bóng hình hai người họ biến mất ở đầu đông Hậu uyển rồi mới đi theo hướng sao chỉ, một lần nữa tìm đường về chỗ ở.
5. Huy Nhu

Hai ngày sau, ta vâng mệnh hoàng hậu, mang vài cuộn tranh Thôi Bạch vẽ tới Nhu Nghi Điện thỉnh bà xem. Hoàng hậu đang nói chuyện phiếm cùng đô tri Nhập nội nội thị tỉnh Trương Duy Cát, thấy ta mang tranh đến, bèn sai người mở ra, cùng bình phẩm với Trương Duy Cát.
Những bức họa này được ta dày công chọn lựa, chủ đề đa dạng, có hoa trúc lông vũ, ấu sen vịt nhạn, cũng có quỷ thần Phật Đạo, đều là sở trường của Thôi Bạch. Trương Duy Cát ngắm mà mắt mày nhuốm đẫm ý cười, xem chừng rất thưởng thức, hoàng hậu hỏi ý kiến của y, y thận trọng đáp: "Tranh người này vẽ ý tưởng khá mới lạ."
Hoàng hậu tạm thời không có lời nào, lại xem xét tỉ mỉ thêm lần nữa, cuối cùng, ánh mắt đậu lên một bức hoa sen đôi cò, khóe miệng khẽ nhếch, bảo ta: "Hoài Cát, ngươi nói không sai, Thôi Bạch khéo vẽ vật thực, nếu bàn về sao chép hình thái vật thì quả thực họa viện không mấy ai có thể vượt được hắn."
Ta mỉm cười cụp mắt cúi đầu. Trương Duy Cát thấy hoàng hậu nhìn kỹ bức tranh đôi cò hồi lâu, cũng tới gần xem lại, muốn biết kỳ diệu chốn nào.
Hoàng hậu nghiêng đầu hỏi y: "Đô tri cảm thấy bức họa này thế nào?"
Bức tranh này vẽ một cặp cò nghịch nước trên hồ sen, một con bơi từ phải qua trái, muốn vồ lấy đóa sen hồng trước mắt, một con khác từ trên không liệng xuống, cần cổ dài cong rụt, hai chân duỗi thẳng ra sau.
Trương Duy Cát chăm chú phẩm họa kĩ càng rồi đáp: "Cò trắng trong tranh tư thế linh động, đuôi cánh dày mềm, như có thể chạm tới... Đích thật là tác phẩm hiếm có."
"Không chỉ có thế," hoàng hậu chỉ vào cổ cò trắng, nói: "Cò trắng khi bay tất sẽ cong cổ thu sức, thậm chí nửa cổ dưới còn vòng thành hình túi. Trước đây ta cũng từng xem tranh cò trắng người khác vẽ, thường vẽ nhầm thành dáng bay của chim hạc, cổ và chân phân biệt duỗi thẳng ra hai hướng trước sau. Mà Thôi Bạch thì không nhỡ nhầm, có thể thấy hắn xem vật vẽ thực đúng là đã tốn không ít tâm tư."
Ta và Trương Duy Cát nghe vậy đều ghé lại xem bức tranh này, quả nhiên trông thấy con cò trắng bay trong họa cong cổ thu sức, gần như thành hình cái túi, bất giác kinh hãi thán phục.
Trương Duy Cát tức thì ngợi khen: "Nương nương thánh minh. Thôi Bạch có thể được nương nương tán thưởng cũng thật có phúc!"
Hoàng hậu lại lắc đầu, thở dài: "Nhưng tài năng tính tình hắn thế mà tiếp tục giữ lại họa viện thì lại thành trói buộc gò bó hắn... Có một số người trời sinh đã không hợp bước vào hoàng thành."
"Thu tranh lại đi, về sau cất vào bí phủ (*)." Bà chỉ thị ta: "Còn về Thôi Bạch, ta sẽ bảo quan chủ quản bên họa viện phê chuẩn cho hắn rời đi."
(*) Thời cổ, nơi cất giữ sách vở bí mật trong cung gọi là bí phủ.
Sự tán thưởng bà dành cho Thôi Bạch từng cho ta phút chốc ảo giác, cho là nhờ vậy bà sẽ giữ gã lại, thế nên bà đột nhiên đổi lời kết thúc làm ta rất kinh ngạc, nhưng ngay sau đó cũng không thể không thừa nhận rằng điều này quả thực là một quyết định mà cả quan viên họa viện lẫn Thôi Bạch đều hài lòng. Ta bội phục bà.
Cung nhân cuộn tranh lại, chuẩn bị đưa ta mang về. Ta đứng nghiêm chờ đợi, chợt nghe ngoài điện vọng vào tiếng ầm ĩ, có nữ tử đang kêu khóc bên ngoài: "Hoàng hậu, mẹ con ta bị hãm hại, ngài không muốn đứng ra trừng trị kẻ gian thì thôi, dựa vào đâu mà đến quan gia cũng không cho ta gặp?"
Trương Duy Cát nhíu mày, định rảo bước ra xem, lại bị hoàng hậu ngăn lại, bà lệnh cung nhân: "Cho cô ta vào đi."
Rất nhanh sau đó, một người phụ nữ búi tóc lỏng lẻo chạy vào điện, quỳ rạp xuống trước mặt hoàng hậu, chìa đứa trẻ ôm trong lòng ra cho hoàng hậu xem, thút thít nói: "Ấu Ngộ đã ốm đến vậy rồi mà hoàng hậu vẫn không chịu để quan gia gặp mặt ư?"
Có lẽ do lo lắng cho bệnh tình của đứa bé, hai mắt người phụ nữ sưng đỏ vì khóc, mặt mày tiều tụy, song vẫn nhìn ra được dung mạo ả diễm lệ, nếu trang điểm thỏa đáng thì ắt là tuyệt sắc. Ả ôm một bé gái ba, bốn tuổi, lúc này đang nhắm nghiền hai mắt, nặng nề hít thở, khuôn mặt nhỏ đỏ rực màu ốm bệnh, như sốt cao không hạ.
Hoàng hậu ôn hòa nói: "Ta đã sai thái y chẩn bệnh kỹ càng cho Ấu Ngộ, Trương mỹ nhân không nên mang nó ra ngoài, gặp lạnh nữa thì không hay. Mấy ngày nay quan gia cần phải tĩnh dưỡng, trước đó đã hạ lệnh không gặp tần ngự (*)."
(*) Thời Tống, lấy bậc tam phẩm cửu tần làm vạch phân chia, thị thiếp của vua từ tần trở lên thì gọi chung là tần phi, từ tần trở xuống thì gọi chung là tần ngự.
Trương mỹ nhân lại lắc đầu: "Hoàng hậu cũng không phải không biết, bệnh con bé là do bị trù ếm, thái y chỉ chữa được ngọn khó trị tận gốc, muốn Ấu Ngộ khỏi hẳn, nhất định phải xử phạt kẻ tiểu nhân đã hãm hại nó. Thiếp biết hoàng hậu chẳng để tâm việc nhỏ bậc này, không dám đem ra phiền nhiễu hoàng hậu, nhưng vì sao thiếp cầu kiến quan gia mà hoàng hậu cũng không cho?"
Ta từng nghe người khác nhắc qua, vị nương tử được kim thượng sủng ái nhất là mỹ nhân Trương thị, chắc hẳn chính là vị trước mắt đây. Ả hiện giờ lời lẽ phách lối, hung hăng hống hách, đúng thật cái dáng được sủng ái mà lấy làm kiêu căng, ấy vậy nhưng hoàng hậu cũng chẳng nổi giận, chỉ thản nhiên đáp: "Mỹ nhân lo nghĩ quá rồi. Hôm nay thời tiết thất thường, Ấu Ngộ chẳng qua chỉ lỡ trúng phong hàn, uống thuốc vào sẽ khỏe lại thôi, không can hệ gì đến người khác."
"Không can hệ gì đến người khác?" Trương mỹ nhân cười khẩy, vung tay quẳng một vật xuống đất: "Thứ này là hôm qua lục soát được dưới tảng đá trong Hậu uyển, thiếp đã sai người bẩm báo với hoàng hậu mà hoàng hậu vẫn nói là không can hệ đến người khác ư?"
Một con rối bằng vải, trên thân có chữ viết, vài cây kim sáng loáng đâm sâu vào ngực bụng nó.
Đây là thuật vu cổ bị nghiêm cấm xưa nay trong cung đình. Thấy Trương mỹ nhân đột nhiên ném con rối này ra, cung nhân trong điện đều lộ vẻ kinh hoàng.
Hoàng hậu buông mắt nhìn con rối, không nói gì, vẻ mặt như thường. Lại nghe Trương mỹ nhân nói: "Đêm hôm trước, nội nhân Phùng thị đã chính mắt thấy Huy Nhu hướng trăng khấn vái bên bờ hồ Hậu uyển, trùng hợp làm sao, hôm qua lại có người tìm được thứ này dưới tảng đá lớn ven hồ. Phùng thị đã bẩm tấu rõ ràng với hoàng hậu, cớ chi hoàng hậu không lý tới? Ban nãy ta tự mình đi hỏi Huy Nhu, nó cũng đã thẳng thắn thú nhận chuyện đêm trước đi Hậu uyển rồi!"
Huy Nhu? Cái tên này mang đến cho ta niềm kinh ngạc còn lớn hơn cả cảm giác khi trông thấy con rối hình người. Ta nhớ lại một lượt lời Trương mỹ nhân nói, mau chóng hiểu ra ý ả là Huy Nhu – cô bé cầu xin dưới trăng kia – đêm trước ra Hậu uyển là để thực hiện thuật vu cổ, trù ếm con gái ả Ấu Ngộ.
Ta do dự, không biết với thân phận thấp hèn của mình, có nên tự ý tham dự vào cuộc nói chuyện giữa hai vị cung quyến tôn quý này, nói ra những gì mình thấy hay không.
Hoàng hậu trầm ngâm, không bày tỏ thái độ gì, chúng cung nhân cũng nín thở im lặng, chỉ có tiếng bi thương giận dữ đòi nghiêm khắc trừng phạt Huy Nhu của Trương mỹ nhân là vang vọng trong điện: "Nhân chứng vật chứng đều đủ cả, sao hoàng hậu còn chưa hạ lệnh trừng trị, dẹp yên cung cấm?"
Cuối cùng, nỗi lo lắng Huy Nhu phải đối mặt với tai họa đã vượt lên trên suy nghĩ cho tình trạng của bản thân, bóng dáng mảnh mai và đôi lời rưng rưng của cô bé bơm dũng khí cho ta. Ta hơi dịch bước ra khỏi hàng, khom người với hoàng hậu: "Nương nương, thần có chuyện này muốn xin được kiểm chứng với Trương nương tử."
Ta đột nhiên chen lời vào khiến hoàng hậu và mọi người trong điện có phần kinh ngạc, nhưng hoàng hậu vẫn gật đầu, cho phép ta nói.
Ta quay người sang phía Trương mỹ nhân, hành lễ xong xuôi rồi cúi đầu hỏi: "Xin hỏi Trương nương tử, vị cô nương ngài nói đến tên là Huy Nhu ạ?"
Trương mỹ nhân chưa kịp trả lời, Trương Duy Cát đã cất giọng quát: "Láo xược..."
Hoàng hậu giơ tay lên cản y lại, hiền hòa ra hiệu cho ta tiếp tục.
Trương mỹ nhân lạnh lùng ngó ta, nụ cười cổ quái trên môi như có thâm ý: "Đúng vậy, con bé đó tên Huy Nhu."
Ta hỏi lại ả: "Phùng nội nhân thấy cô ấy khấn vái trăng ven hồ Hậu uyển là vào giờ tý đêm trước?"
Trương mỹ nhân ngẫm nghĩ rồi đáp phải.
Ta lại xoay người, nói với hoàng hậu: "Đêm trước thần đưa tranh vào Nhu Nghi Điện, lúc rời đi đêm đã khuya, bởi không rõ đường đi nội cung nên lạc vào Hậu uyển, vô tình bắt gặp một tiểu cô nương áo trắng chân trần cầu khấn trước trăng, tự xưng là Huy Nhu... Trước đó thần có loáng thoáng nghe thấy tiếng trống canh, hẳn là vào giờ tý."
"Ồ?" Hoàng hậu hỏi, "Lúc nó cầu khấn đã nói gì?"
Ta đúng thực tế bẩm lại: "Cô ấy nói phụ thân bị ốm, bởi vậy liên tục xin trời, nguyện lấy thân thay cha."
Hoàng hậu hé cười mỏng nhạt: "Không phải là hành vu trù ếm người khác?"
Ta lắc đầu, khẳng định chắc nịch: "Không ạ. Vì bị người nhìn thấy nên sau khi cầu khấn, Huy Nhu lập tức rời khỏi Hậu uyển, thần không hề nghe thấy cô ấy trù ếm người khác." Lại liếc con rối hình người Trương mỹ nhân ném trên mặt đất, bổ sung, "Cũng không thấy cô ấy mang theo vật này đi, hẳn cũng không phải là cô ấy đặt dưới tảng đá."
"Nói năng xằng bậy!" Trương mỹ nhân vừa tạm nén được giận lại bị lời ta nói kích thích, "Không phải nó thì là ai? Còn ai khác lo lắng bị Ấu Ngộ san mất sủng ái của quan gia như nó chứ?"
Suy nghĩ trong đầu ta bị câu hỏi của ả phá rối, lúc này mới mơ hồ cảm giác được rằng thân phận của Huy Nhu không đơn giản như ta tưởng tượng trước đây.
"Ngươi rõ ràng là bị sai sử nên mới bất chấp thiên uy, dám bày trò kiểm chứng!" Trương mỹ nhân ép từng bước về phía ta, đưa tay lên, đầu ngón tay dài nhọn như muốn đâm thẳng vào mặt ta, rồi lại cười gằn sâu xa, ánh mắt làm như vô tình cố ý đảo sang hoàng hậu: "Nói, là ai sai sử ngươi? Là Huy Nhu hay còn có người khác?"
Khí thế hừng hực của ả làm ta hơi co quắp, lùi ra sau hai bước, nhưng vẫn kiên trì nói: "Thần không dám vọng ngôn, nói ra đều là lời thật."
Một cú bạt tai rơi xuống má ta như chớp giật, âm thanh trong nháy mắt đó còn bén nhọn hơn cả giọng ả. Ả thu tay về, ôm chặt con gái, cao ngạo giương cằm với ta, cười khinh miệt: "Giờ thì sao? Có còn là lời thật nữa không?"
Ta thờ ơ cúi đầu. Ta sống trong cung mấy năm nay cũng đã chẳng còn lạ gì với những màn làm nhục tương tự. Làm thế nào để lặng lẽ không dấu vết hóa giải cảm giác nhục nhã tức giận vào những thời điểm thế này là một phần trong những gì chúng ta được dạy bảo. Về nhịn nhục, ta vẫn chưa tu luyện được đến trình độ cao nhất, chủ tử đánh má trái, ta không sao chúm chím mà dâng nốt má phải lên cho nổi, nhưng ít nhất cũng có thể duy trì được vẻ mặt bình tĩnh, tư thái trầm lặng.
"Đủ rồi." Hoàng hậu mở miệng, "Động thủ với nội thần là cô đang tự hạ thấp thân phận của mình đấy."
Trương mỹ nhân nhếch mép vẻ coi khinh.
Hoàng hậu liếc nhìn ta rồi bảo Trương mỹ nhân: "Cậu ta là nội thần Lương Hoài Cát của Tiền tỉnh, hôm trước vào cung lần đầu, đến khuê danh của Phúc Khang công chúa còn chẳng biết, sao có thể chịu ai sai khiến?"
Phúc Khang công chúa, trưởng nữ của kim thượng, nữ tử tôn quý nhất trong cung ngoài hoàng hậu ra.
Chút nghi hoặc trong lòng nhân vậy mà tiêu tan, thay vào đó là mờ mịt ngỡ ngàng. Lời hoàng hậu như gió, bỗng chốc thổi bay bóng hình trắng ngần của bé gái nhân gian ra khỏi ký ức ta, thổi nàng bay lên tận chín tầng trời xanh xa vời vợi.
Hồi thần lại, ta quỳ rạp xuống đất, xin hoàng hậu thứ cho tội không biết tị húy.
Trương mỹ nhân đứng bên cạnh vẫn cười lạnh như cũ, nghiến răng: "Hay cho một vở hát xướng diễn trò!"
Hoàng hậu nói người không biết không có tội, bảo ta bình thân, lại phân phó Trương Duy Cát: "Mời Phúc Khang công chúa lại đây."
Lát sau, vang tiếng ngọc bội leng keng, ngoài điện có hai người phụ nữ trưởng thành bước vội vào. Hai người đều vấn cao tóc, bận áo bào vạt cân ống tay hẹp, chất liệu tinh xảo, một người vải sa xanh quận Tiêu, một người sa Tương Châu họa tiết chìm hình hoa mẫu đơn, khác hẳn cung nữ nội nhân bình thường, hẳn là thuộc tần ngự.
Hai người vội vàng thi lễ với hoàng hậu rồi gấp gáp cùng nhau biện giải cho Phúc Khang công chúa, đều nói việc này không phải do công chúa gây ra. Trong đó, vẻ mặt người mặc áo sa xanh âu lo đau lòng hơn cả, thi lễ xong quỳ hoài không dậy, rưng rưng lặp đi lặp lại: "Huy Nhu còn nhỏ, nào hiểu được những thứ vu cổ này! Huống hồ nó vẫn hằng thương yêu em gái, tuyệt đối không thể làm ra chuyện như thế. Kính mong hoàng hậu làm chủ, trả lại trong sạch cho con bé."
Hoàng hậu sai người đỡ bà dậy, ôn tồn khuyên bà: "Miêu chiêu dung đã tin tưởng Huy Nhu thì đừng nên lo lắng." Rồi đánh mắt bảo tùy tùng, "Ban tọa cho Trương mỹ nhân, Miêu chiêu dung, Du tiệp dư."
Hai vị nương tử tới sau cũng là sủng phi của kim thượng, đều từng sinh hoàng tử hoàng nữ nên ta cũng có nghe qua danh hiệu. Miêu chiêu dung là con gái của nhũ mẫu kim thượng, mẹ đẻ của Phúc Khang công chúa, quan hệ rất thân thiết với Du tiệp dư. Đáng tiếc là hoàng tử do Du tiệp dư và Miêu chiêu dung sinh ra đều lần lượt chết yểu, đến nay kim thượng vẫn không có người nối dõi, đến các tiểu công chúa cũng liên tiếp qua đời, hiện giờ dưới gối quan gia chỉ có hai con gái: trưởng nữ Phúc Khang công chúa và hoàng nữ thứ tám do Trương mỹ nhân sinh hạ, tên Ấu Ngộ, hiệu Bảo Từ Sùng Hữu Đại Sư.
Vẻ ưu sầu trên mặt Miêu chiêu dung dịu đi, lần lượt ngồi xuống cùng Du tiệp dư, Trương mỹ nhân nghe nội nhân khuyên nhủ cũng miễn cưỡng nhập tọa, nhưng dáng vẻ vẫn không cam lòng thỏa hiệp, mắt nhìn Miêu chiêu dung, cười khẩy.
Đúng lúc này, nội thị vào báo Phúc Khang công chúa đến, công chúa theo sau chậm rãi đi vào, hai mắt đỏ hoe, còn vương ngấn lệ, nhưng xiêm y chỉnh tề, tóc búi trái đào gọn gàng ngay ngắn, dưới cái nhìn chăm chú của mọi người, lông mi hơi rũ, song đầu không cúi thấp, đặc biệt là khi đi qua trước mặt Trương mỹ nhân, nàng thậm chí còn hơi ngẩng mặt, cằm và cổ tạo thành một góc giương lên, mắt nhìn thẳng tắp, thần sắc lạnh lùng.
Đi tới trước mặt hoàng hậu, công chúa trịnh trọng nâng tay ngang mày, hành đại lễ bái lạy hoàng hậu, lại nhún người nói vạn phúc với mẫu thân và Du tiệp dư, sau đó thõng tay đứng thẳng, không bày tỏ bất kỳ ý gì với Trương mỹ nhân, hoàn toàn như nhìn không thấy.
Hoàng hậu mỉm cười bảo nàng: "Huy Nhu, bái kiến Trương mỹ nhân đi."
Công chúa khe khẽ đáp dạ, song vẫn không nhúc nhích, không chút ý định hành lễ. Trương mỹ nhân liếc xéo nàng, lạnh nhạt kháy: "Thôi khỏi, cũng chẳng phải lần đầu tiên... Thấp kém như ta đây vốn cũng nhận không nổi lễ của công chúa."
Công chúa nghe Trương mỹ nhân nói xong, vẫn không có phản ứng gì, hoàng hậu mở lời hỏi nàng: "Huy Nhu, đêm hôm trước con có tới Hậu uyển không?"
Nàng gật đầu thừa nhận: "Có ạ."
"Tới đó làm gì?"
Công chúa do dự, nhất thời không đáp. Hoàng hậu hỏi lại lần nữa, nàng lặng im chốc lát rồi mới lên tiếng, nhưng là một câu hỏi nhỏ: "Cha...đã khỏe hơn chưa ạ?"
Hoàng hậu dời sang nhìn Trương Duy Cát, mắt lộ vẻ trấn an. Trương Duy Cát cười khom người, chắc là tỏ ý câu công chúa hỏi ngầm khớp với lời chứng của ta, có thể chứng minh nàng trong sạch.
Hoàng hậu bèn hòa ái hỏi lại công chúa: "Con ra Hậu uyển là để xin trăng, cầu phúc cho cha?"
Công chúa ngạc nhiên, bật thốt: "Sao nương nương biết?"
Hoàng tử và hoàng nữ quốc triều gọi phụ hoàng là "cha" như gia đình thứ dân, gọi mẹ cả là "nương nương", mẹ đẻ đứng hàng tần ngự thì gọi "tỷ tỷ".
Ngoài Trương mỹ nhân ra, người trong điện ban nãy có nghe được lời ta nói đều mỉm cười. Trương Duy Cát giải thích lại một lượt nguyên do khi trước, Miêu chiêu dung nghe thấy, đưa mắt nhìn ta tỏ vẻ cảm kích, Du tiệp dư cũng thở phào, cùng Miêu chiêu dung nhìn nhau cười.
Trương mỹ nhân không kiềm chế được, lại đứng dậy, trỏ vào con rối trên mặt đất lớn tiếng hỏi công chúa: "Con rối hình người đâm kim này phải giải thích ra sao? Tại sao lại vừa vặn xuất hiện ngay sau khi cô đi Hậu uyển?"
Công chúa nhíu mày, hơi nghiêng mặt đi, không thèm lý tới.
Trương mỹ nhân lại không chịu thôi, dứt khoát nhặt con rối lên, chìa thẳng ra trước mặt công chúa: "Thường nghe công chúa dám làm dám chịu, sao bây giờ lại không nói tiếng nào?"
Công chúa mím môi, trước sau vẫn coi ả là người vô hình. Trương mỹ nhân tiếp tục ép sát truy vấn, hoàng hậu thấy thế bèn khuyên công chúa: "Nếu việc này không liên quan tới con thì con giải thích đôi câu với Trương mỹ nhân đi."
Công chúa cắn môi cụp mắt, hồi lâu sau mới phun ra bốn chữ: "Con không biết làm."
"Không biết làm?" Giọng hoàng hậu dịu dàng, muốn dẫn dắt nàng giải thích nhiều hơn, "Không biết làm gì?"
Lần này, công chúa không chịu nói thêm nữa. Miêu chiêu dung xem mà nóng ruột, ngồi một bên liên miên khuyên nàng trả lời, công chúa vẫn không hé răng.
Hoàng hậu không nói gì, Trương mỹ nhân đầy mặt giận dữ, Miêu chiêu dung khuyên nhủ chốc lát, thấy người trong điện đều không mở miệng, tiếng mình khuyên bảo thành ra nổi bật hẳn lên, vội im bặt. Trong điện lại chìm vào một trận trầm mặc bứt rứt.
Cuối cùng, người đánh vỡ sự im lặng này chẳng ngờ lại là ta.
"Nương nương, công chúa đã trả lời rồi." Khi câu này vang lên, thực ra bản thân ta cũng kinh ngạc như những người còn lại: Một tiểu nội thị không đáng nhắc tới lại tự ý xen lời thảo luận nghi án hậu cung những hai lần, dũng khí lấy đâu ra?
Nhưng dù sao cũng đã mở miệng rồi, ta chỉ có thể kiên trì nói cho bằng hết: "Khi xưa Triệu Phi Yến tố Ban tiệp dư trù ếm, Hán Thành Đế tra vấn tiệp dư, tiệp dư đáp rằng 'Thiếp nghe nói, sống chết có số, nghèo sang do trời. Người ở hiền còn chẳng rõ phúc phận, làm chuyện sai quấy vọng cầu chi? Quỷ thần có linh thiêng, ắt sẽ không nghe lời xin xỏ hại người; nếu không linh thì trù ếm phỏng có ích gì? Thiếp nghĩ còn chẳng nghĩ đến.' Thần cả gan đoán, ban nãy công chúa nói 'Con không biết làm' cũng cùng ý với câu 'Nghĩ còn chẳng nghĩ đến' của Ban tiệp dư."
Ta nói xong, cảm giác được công chúa dời mắt chăm chú nhìn mình, tầm mắt ta và nàng chạm nhau trong khoảnh khắc, chỉ thấy ánh mắt nàng long lanh, nổi lên một tầng ý cười nhàn nhạt, hai má ta thoắt nóng lên, cúi đầu thật thấp.
Mọi người nhất thời đều không nói gì. Một chốc sau mới nghe Du tiệp dư cười khen: "Tiểu hoàng môn lanh lợi lắm, nói rất có lý, hẳn là như vậy."
Hoàng hậu gật đầu mỉm cười, Miêu chiêu dung và Trương Duy Cát cũng nhìn ta vẻ ôn hòa, chỉ duy Trương mỹ nhân là càng thêm căm tức, chòng chọc ngó ta trách mắng: "Ngươi so ta với Triệu Phi Yến?"
Ta sửng sốt, ban đầu chỉ muốn biện giải thay công chúa Phúc Khang nên mới viện dẫn chuyện Ban tiệp dư, vốn không có ý so sánh Trương mỹ nhân với Triệu Phi Yến, nhưng giờ xem ra, khó mà thanh minh được.
May mà đúng lúc này, một tin tức nội thần gian ngoài truyền vào đã cứu ta: "Quan gia tỉnh lại rồi, cho vời Phúc Khang công chúa!"
Cung quyến trong điện nhao nhao đứng dậy, hoàng hậu dắt tay Phúc Khang công chúa, nói: "Đi thôi, đi gặp cha con." Hai người lập tức rời điện, Miêu chiêu dung và Du tiệp dư cũng bám sát theo sau. Trương mỹ nhân ngớ ra rồi cũng vội vàng ôm con gái đuổi theo.
Những người còn lại trong điện dần tản đi, ta nán tại chỗ hồi lâu, thấy không ai lý gì tới mình nữa mới ra khỏi điện, theo đường cũ trở về họa viện.
6. Thu Hòa
Mấy ngày sau đó, cuộc sống ở họa viện vẫn sóng êm gió lặng như thế, cũng không thấy nội cung có tin tức gì trọng đại truyền ra. Ta nhịn không được hỏi thăm đồng bạn nhỏ tuổi được điều vào Nhập nội nội thị tỉnh, họ nói với ta, quan gia long thể đang dần hồi phục, nghe nói Phúc Khang công chúa bái trăng cầu khấn, nguyện lấy thân thay cha khi ông bệnh ốm nên vô cùng cảm động, từ đó càng yêu thương công chúa hơn. Trương mỹ nhân tuy kiêu ngạo với người khác, song trước mặt quan gia thì lại rất biết đường xem mặt đoán ý, giờ thấy ông coi công chúa là con gái yêu, chẳng tiện nhắc lại chuyện vu cổ, hơn nữa bệnh tình của Ấu Ngộ đã có chuyển biến tốt đẹp, ả cũng tạm thời thôi kiếm chuyện với công chúa.
Ngày Thôi Bạch rời họa viện, ta tiễn gã tới cửa cung. Trước khi đi, gã dẫn ta tới chỗ yên tĩnh, lấy một quyển trục ra đưa cho ta bằng cả hai tay, hỏi: "Hoài Cát có thể thay ta tặng bức 'Thu phố dung tân đồ' này cho một người bạn chăng?"
Ta không chút suy nghĩ nhận lời, nhận tranh rồi mới cảm thấy kinh ngạc: Thì ra trong cung này, Tử Tây còn có bạn bè khác.
Mở ra xem, chỉ thấy gã vẽ mép nước bờ thu, hoa sen gãy nửa, phù dung nở rộ, đôi ba con chim chìa vôi lướt nước đậu giữa hoa lá, trong đó có một cặp nhạn thu kết đôi, một con nghển cổ về phía bên phải, một con giương cánh hướng sang bên trái, nối nhau bay liệng. Cảnh vật sống động có hồn, màu sắc thanh đạm nhã nhặn.
Ta không khỏi tán tụng, hỏi gã muốn tặng người nào.
Gã cười xán lạn, nói: "Năm trước quan gia từng lệnh cho người họa viện cùng vẽ một cuốn hành lạc đồ, chuẩn bị xong bản phác nền rồi quan gia lại không hài lòng, nói: 'Kiểu dáng nhà cửa không tệ, nhưng phục sức cung nhân bên trong thì không hợp thời', bèn phái nữ quan nội nhân Thượng phục cục và Sức ty tới giảng giải cho bọn tôi nghe về đặc điểm phục sức trong cung, cũng biểu diễn cách vấn tóc cho bọn tôi xem. Nội nhân chải đầu chia hai người một tổ, người này vấn tóc thêm mũ cho người kia. Trong đó có một tiểu cô nương mười hai, mười ba tuổi, dung mạo khả ái có duyên, chẳng biết tại sao mà vừa chải tóc vừa rơi lệ. Tôi lấy làm lạ, hỏi em nguyên do, em nói: 'Sáng nay, con chìa vôi trắng em nuôi chết mất rồi', giọng nói mềm nhẹ làm tôi thấy mà thương. Sau đó tôi hứa với em rằng ngày mai sẽ tặng em một con chim không bao giờ chết. Đêm đó vẽ ngay một con chìa vôi, hôm sau đưa cho em. Em rất mừng rỡ, cảm ơn rối rít. Nước da em trắng trong, khi ấy đôi gò má hây hây đỏ, lan rộng đến cả sống mũi cũng đượm một màu son thơ ngây, tựa phù dung sớm thu, rạng rỡ khôn xiết. Tôi bèn cười hỏi em: 'Cô nương dùng son gì vậy? Kiểu trang điểm này có tên chăng?' Em lại thẹn thùng không đáp, tôi cũng không truy hỏi nữa, chỉ xin em ngày sau tiếp tục trang điểm màu sắc này, tôi muốn họa em vào hành lạc đồ. Mấy ngày kế, em thực sự trang điểm y vậy, mãi cho đến khi tôi vẽ xong."
Ta gật đầu: "Thượng phục cục và Sức ty phụ trách cao dầu tắm gội dưỡng da, khăn lược, y phục, trang sức, trang điểm hẳn cũng là một phần trong chức trách."
Thôi Bạch cười, nói: "Nhưng về sau tôi mới biết, má hồng nơi em không phải do vẽ mà ra... Ngày cuối cùng nội nhân Thượng phục cục đến Họa viện, em vắng mặt. Tôi hỏi đồng bạn em, họ cho tôi hay da em tuy trắng nõn, khác với người thường, song vô cùng nhạy cảm, thời tiết thay đổi hoặc ăn uống không hợp là sẽ xuất hiện hiện tượng mặt đỏ. Hôm tôi hỏi em về kiểu trang điểm, trước đó em đi chải đầu cho Miêu chiêu dung, Miêu chiêu dung tiện tay thưởng cho em một quả lựu bóc dở. Em vốn không ăn được đồ chua nóng, nhưng ngại thể diện chiêu dung nên đành phải ăn, sau đó hai gò má liền ửng hồng như thoa son."
Ta hiểu được phần nào: "Mấy ngày kế đó là cô ấy cố ý ăn đồ chua nóng để duy trì má hồng cho huynh vẽ?"
Thôi Bạch gật đầu, thở dài: "Kết quả là khí nóng ứ đọng, khiến em khó chịu toàn thân, cuối cùng đổ bệnh. Từ đó về sau tôi không còn thấy em nữa. Tôi cứ áy náy mãi chuyện này, đến hôm nay thì vẽ bức tranh, muốn tặng cho em bày tỏ ân hận."
Ta bèn hỏi họ tên cô nương này, Thôi Bạch nói: "Em họ Đổng, tôi nghe các nội nhân khác gọi em là 'Thu Hòa'."
Ta một lần nữa hứa hẹn nhất định sẽ tặng tranh tận tay. Bởi đã rất thân với gã nên thuận miệng nói đùa: "Vừa nãy thấy huynh lấy trục tranh ra tôi còn tưởng là tranh này tặng tôi kia đấy."
Thôi Bạch cười to: "Sao tôi dám làm lơ trung quý nhân! Vốn định lựa một bức đặc sắc biếu cậu, tiếc rằng xem tới xem lui mà chẳng chọn được bức nào ra hồn. Nhưng tôi nhất định sẽ chú ý việc này, ngày khác sẽ vẽ một bức thật đẹp tặng cậu."
Thôi Bạch đi rồi, ta lập tức đến Thượng phục cục tìm Đổng nội nhân, nhưng khi ấy cô không có mặt ở đó. Thượng phục cục giống các cục Thượng dược, Thượng uấn, Thượng liễn, đều nằm phía đông bắc cung thành, cách Nội thị tỉnh không xa. Sau đó ta lại đi mấy bận, song đều không tìm được cô. Nghe các nội nhân khác nói, Đổng nội nhân tâm tư ý nhị, tài nghệ rất khá nên tần ngự trong cung đều thích mời cô đến chải đầu, thường dây dưa mãi đến tận tối mịt mới về.
Ta tuy là nội thị nhưng đêm tối đi tìm một cung nữ cũng không hay, thay người ngoài cung tặng tranh cuốn lại dễ gây hiềm nghi trao nhận vụng trộm, cũng không tiện để lại tranh trục nhờ nội nhân chuyển hộ, việc này đành tạm thời bỏ ngỏ.
Một ngày nọ, hầu hạ trong họa viện xong, ta quay về chỗ ở ở Nội thị tỉnh, lúc đi tới cửa hông thông giữa Nội thị tỉnh, Thượng thư nội tỉnh và nơi hoàng đế phê duyệt tấu chương thì thấy đằng trước có một tiểu hoàng môn tuổi tầm tầm ta, một tay ôm một hộp gấm, tay kia ấn bụng, khom người từ từ dựa tường ngồi xổm xuống, vẻ mặt đau đớn chịu không thấu.
Ta vội đi tới, hỏi hắn khó chịu chỗ nào, hắn nói bụng đau như xoắn, sợ là bệnh đường ruột phát tác. Ta định dìu hắn đi Thượng dược cục, hắn lại cuống quít xua tay, nói: "Đại lý bình sự mới nhậm chức, trực giảng Quốc tử giám (*) Tư Mã Quang tài đức có tiếng nên quan gia vời y vượt cấp vào cung đàm luận, hôm nay sau khi nghe y giảng bài ở Di Anh Các, long nhan cả mừng, ban thưởng cho y một cái đèn lưu ly. Ý chỉ ban thưởng giao cho Hợp đồng bằng do ty xét duyệt mất một lúc lâu, đến mãi vừa rồi tôi mới lấy được đèn lưu ly từ trong kho ngự ra. Hiện giờ quan gia đã trở về Phúc Ninh Điện, Tư Mã tiên sinh hãy còn chờ ở Di Anh Các, tôi vốn định đi nhanh đưa cho y, không biết làm sao lại đột ngột phát bệnh... Huynh có thể mang đèn lưu ly qua đó giúp tôi không? Thượng dược cục ngay gần đây, tự tôi đi từ từ qua đó là được."
(*) Đại lý bình sự là chức quan phụ trách xử án, trực giảng là chức quan hỗ trợ giảng dạy nghiên cứu ở Quốc tử giám.
Ta hơi do dự, hắn lại thúc giục không ngừng, dáng điệu sốt ruột, cuối cùng ta đồng ý, nhận lấy hộp gấm, chuyển hướng đi Di Anh Các.
Trong gác có một vị tiên sinh gầy gò đang thẳng lưng ngay ngắn ngồi chờ. Gương mặt rất trẻ, hẳn còn chưa tới tuổi thành gia lập thất, nhưng thần sắc nghiêm túc, già giặn từng trải. Thấy ta đi tới, y ngước mắt nhìn ta, hai mắt sáng ngời có thần.
Ta ngập ngừng gọi khẽ "Tư Mã tiên sinh", thấy y gật đầu mới yên lòng đến gần, khom người dâng hộp gấm cho y.
Y xoay người về phía Phúc Ninh Điện, bái tạ đúng nghi thức rồi mới tiếp nhận, chậm rãi mở hộp gấm ra.
Trong chớp mắt khi nắp hộp mở ra, y bỗng giật mình. Ta thấy thần sắc y khác thường, bèn thò đầu ngó vào hộp, thình lình như bị sét đánh, ngây người tại chỗ, luống cuống không biết làm sao.
Đèn lưu ly trong hộp sắc men trong vắt, rực rỡ óng ánh, song, đã nứt thành hai nửa.
Trong đầu phút chốc trống không, tiếp đó ùa vào vô vàn ý nghĩ lộn xộn rối rắm: Không phải ta, không phải ta, suốt dọc đường ta bưng hộp gấm rất vững, chưa từng đánh rơi... Ban nãy lại quên không hỏi tên tiểu hoàng môn kia... Tìm được hắn cũng vô dụng, ta căn bản không thể chứng minh đèn lưu ly vỡ trước khi giao cho ta...
Đúng lúc này, cửa gác bỗng bật mở, vài nội thị đi vào, người cuối cùng tiến tới là phó đô tri Nhập nội nội thị tỉnh Nhậm Thủ Trung.
Nhậm Thủ Trung chắp hai tay sau lưng, chậm rãi bước đến cạnh ta.
"Ranh con giỏi lắm, làm vỡ vật báu ngự tứ của quan gia..." Ông ta sầm mặt nói, chợt nghiêng đầu, đánh mắt ra hiệu cho nội thị đi theo, lập tức có người tiến lên ấn ta quỳ xuống mặt đất.
Nhậm Thủ Trung lại khom người với Tư Mã Quang, nói: "Theo lệ trong cung, nội thị làm hỏng vật ngự tứ đại thần sẽ để tùy đại thần xử trí. Thằng nhóc này cần đánh hay đuổi, tiên sinh phân phó một câu là được."
Ta hoàn toàn không cách nào biện giải. Cảm giác như trở về lần bị nhốt trong phòng tối khi còn bé, tầm mắt nhạt nhòa, suy nghĩ phai mờ, không khí hít vào tràn ngập hơi thở chết chóc, ta cúi đầu đờ đẫn nhìn trân trân ánh tà dương hắt từ cửa sổ, chẳng rõ còn có thể thấy ánh mặt trời ngày mai hay không.
Đợi hồi lâu, cuối cùng, có tiếng nói vang lên.
"Thả cậu ta ra đi." Tư Mã Quang bảo.
"Gì cơ?" Nhậm Thủ Trung sững sờ, ngờ rằng mình nghe lầm.
"Thả cậu ta ra." Tư Mã Quang lặp lại, giọng thêm phần rõ ràng, ngữ khí bình tĩnh khác thường.
Nhậm Thủ Trung nhíu mày, vẫn không sao tin được: "Cứ thế thả nó đi? Làm hỏng vật ngự tứ, có xử tội chết cũng chẳng quá đáng."
"Vật thưởng ngoạn há lại quý hơn mạng người." Tư Mã Quang bình thản nói, "Vị trung quý nhân này hãy còn nhỏ tuổi, vô ý đánh rơi làm vỡ đèn lưu ly cũng không coi là tội nặng."
Nhậm Thủ Trung lấy làm khó xử: "Nhưng, quan gia..."
"Nếu quan gia hỏi đến, xin hãy đáp bằng hai câu này." Tư Mã Quang thoáng dừng lại rồi nói: "Cầm ngọc tước (*) chớ nên vung vẩy, trong lễ nghi dẫu nghe là vậy; mây ráng chiều chóng tản dễ tan, sự đã rồi khoan thứ đi thôi."
(*) Tước là cốc uống rượu ba chân thời cổ.
Đại lý bình sự là chức quan sơ đẳng trong kinh thành, chỉ đứng hàng bát phẩm, đối với thủ lĩnh nội thị Nhậm Thủ Trung đã nhìn quen đại thần tể chấp (*) mà nói, e rằng căn bản chẳng đáng để vào mắt. Giọng Tư Mã tiên sinh bình thản, sắc mặt cử chỉ nhũn nhặn, cũng không ỷ thế hiếp người, song dăm ba câu ít ỏi lại có sức mạnh kỳ diệu, nghe vào chỉ cảm thấy lời đã nói ra không dung kháng cự.
(*) Danh từ gọi chung tể tướng và quan chấp chính – những chức quan quan trọng đứng đầu triều đình.
Nhậm Thủ Trung quan sát Tư Mã Quang dăm bảy lượt, mấy phen muốn nói lại thôi, cuối cùng hậm hực rút đi.
Trong gác chỉ còn lại ta và Tư Mã tiên sinh, ta rưng rưng vái dài: "Ơn cứu mạng của Tư Mã tiên sinh, Hoài Cát cảm kích khôn xiết, trọn đời khắc ghi."
Hai tay y đỡ ta dậy, mỉm cười: "Không cần phải vậy... Có điều sau này phải cẩn thận hơn."
Ta gật đầu: "Hoài Cát xin ghi nhớ lời tiên sinh dạy bảo."
"Hoài Cát?" Y trầm ngâm, ngay sau đó hỏi, "Cậu là trung quý nhân Lương Hoài Cát của Hàn lâm thư nghệ cục?"
"Phải ạ, tôi từng làm việc ở thư nghệ cục mấy năm, sau được điều sang Hàn lâm họa viện." Ta trả lời, lại kinh ngạc nói, "Sao tiên sinh biết..."
"Ta nghe Tôn Chi Hàn tiên sinh nhắc đến." Y đáp, ánh mắt nhìn ta càng thêm hiền hòa.
Mùa đông năm đó ta vẫn còn nhậm chức ở Hàn lâm thư nghê cục, một trong số các công việc là sao chép lại tấu sớ của chư thần trước kia, đưa cho Bí các (*) chỉnh lý cất kho lưu trữ. Gián quan Tôn Phủ (tự Chi Hàn) vì trời đổ tuyết đỏ, trong nước lại gặp họa động đất nên từng dâng sớ tâu vua, chỉ thẳng rằng Trương mỹ nhân chịu sủng ái mà phóng túng bừa bãi, gây họa lại ỷ được che chở, coi thường cách biệt địa vị trưởng thứ, dùng vật lạm quyền, dẫn đến thiên biến cảnh báo.
(*) Bí các là nơi lưu trữ bản gốc thư tịch của Sử quán, Chiêu văn quán, Tập hiền viện và tranh cổ, thiếp tranh thư pháp cung đình.
Trong sớ, ông trích dẫn lời tể tướng Trương Hành Thành can gián Đường Cao Tông tránh xa nữ sắc tiểu nhân trong "Đường thư": "Khủng nữ yết dụng sự, đại thần âm mưu, nghi chế vu vị ấm." (*), nhất thời viết nhầm chữ Yết (谒) thành chữ Át (遏), lúc ta sao chép phát hiện ra, lén lút sửa lại chữ này, về sau Bí thư tỉnh thẩm tra lại nguyên văn và bản sao, thấy bị sửa đổi, hỏi ý kiến Tôn Phủ, Tôn tiên sinh liền xưng "hổ thẹn", thừa nhận là mình lỡ bút, đối với việc ta tự tiện chủ trương sửa chữ ông viết không chỉ không cho là ngang ngược mà còn rất đỗi tán dương, đề cập với không ít người.
(*) Câu này có nghĩa là "E nữ nhân nắm quyền, đại thần mưu toan, cần phải hạn chế, không thể bao che."
"Trung quý nhân từng đọc 'Đường thư'?" Tư Mã tiên sinh hỏi ta, giọng ẩn chứa ý tán thưởng.
Ta hơi do dự rồi cúi đầu đáp: "Lúc Giả tướng công biên sửa thư tịch trong Tư thiện đường có giảng kinh sử tử tập (*) cho nội thị Hàn lâm viện, tôi từng đi dự thính, mượn đọc một hai bộ sách mà chư thần thường nhắc đến khi dâng sớ..."
(*) Cách phân loại nội dung sách vở thời xưa: kinh là kinh thư tức tác phẩm kinh điển của nho gia, sử là lịch sử, tử là chư tử tức sáng tác của các trường phái học thuật thời Tiên Tần, tập là văn tập tức thi từ tổng hợp.
Tư thiện đường là nơi hoàng tử quốc triều học bài, tể tướng Giả Xương Triều trong lúc biên soạn thư tịch Tư thiện đường từng triệu tập một số văn thần giảng bài cho nội thị Hàn lâm viện, muốn để họ tham dự vào công tác biên sách. Nhưng sau đó gián quan Ngô Dục dâng tấu phản đối, nói hành động này là "giảng dạy nội thị", dễ gây ra họa thiến hoạn tham gia vào việc triều chính, kim thượng bèn cho dừng khóa dạy nội thị.
Kể từ đó, nên bồi dưỡng nội thị thành nho sinh, văn nhân vui thú đọc sách hay để họ giữ nguyên trạng thái làm đầy tớ nhà thiên tử dốt đặc cán mai vẫn luôn là một đề tài gây tranh luận giữa hai phái trong triều.
Nghe ta nhắc lại chuyện này, nụ cười Tư Mã tiên sinh hơi sững, im lặng chốc lát mới nói: "Sách không cần đọc nhiều. Nhiệm vụ chủ yếu của hoạn giả là hầu hạ thiên gia, chữ biết dăm ba, đủ để cung ứng trong cung đình là được rồi."
Ta gật đầu đáp phải. Y nhìn ta chăm chú, lại hỏi: "Cậu bao tuổi rồi?"
"Năm nay mười bốn ạ." Ta trả lời.
Y tỏ vẻ cảm khái, khẽ gật đầu, than: "Đáng tiếc."
Ta đương nhiên biết "Đáng tiếc" là có ý gì. Nếu không phải ta đã tịnh thân làm nội thị thì y chắc chắn sẽ khuyên ta đọc nhiều sách, sau này làm rường cột quốc gia, đáng tiếc, khi ta bước chân vào cửa cung cũng là lúc cuộc đời định sẵn, vô vọng với nước nhà.
Ta nghĩ Nhậm Thủ Trung hẳn là đã bẩm tấu với quan gia, nhưng chưa thấy quan gia hạ lệnh trừng phạt ta cái gì, Nội thị tỉnh chỉ trừ của ta ba tháng bổng lộc coi là khiển trách, điều này đối với ta gần như không chút ảnh hưởng, bởi ta ở trong cung đã nhiều năm, về cơ bản chẳng có chỗ đâu mà dùng đến tiền. Bổng lộc mấy năm nay dành dụm được cũng không ít, có đôi khi ta sẽ ngẩn người ngồi đực trước tráp tiền đầy ắp, hồi tưởng kiếp sống ngày trước và tương lai, cảm thấy mình căn bản là trắng tay, nghèo đến mức chỉ còn mỗi tiền.
Ta kể chuyện đèn lưu ly với bạn thân Trương Thừa Chiếu. Trương Thừa Chiếu đó giờ vẫn làm việc ở thư nghệ cục, nghe tận tai thấy tận mắt nên hiểu khá tường tận tính khí các vị đại thần, nghe xong tấm tắc than: "Cũng may cậu gặp được Tư Mã Quang, người này từ nhỏ đã biết đập vò cứu người (*), có tiếng người tốt, nếu gặp phải cái loại ba gai như Ngô Dục thì không chết cũng rớt một lớp da. Lần trước ông ta lại tranh chấp với Giả tướng công trên triều, hai người ầm ĩ gay gắt lắm, chỉ thiếu điều xắn tay áo lên nhào vào đánh nhau. Làm quan gia sốt ruột đến độ ba phen mấy bận định xuống khỏi ngai ngự đi khuyên giải, sau lại bị Nhậm đô tri ngăn cản..."
(*) Đây là một tích về Tư Mã Quang, rằng khi ông còn nhỏ, chơi cùng một đám trẻ con trong đình, một đứa bé trèo lên trên lu lớn, trượt chân rơi vào lu bị nước ngập đầu, những đứa trẻ khác đều chạy mất, chỉ có Tư Mã Quang cầm đá đập lu, nước chảy ra, đứa bé mới sống được.
Nói đến đây, hắn chợt nhướng mày, ý thức được một vấn đề: "Cậu vừa kể là, Tư Mã tiên sinh vừa mở hộp ra, Nhậm đô tri đã dẫn người vào?"
Ta đáp phải, cũng mơ hồ cảm thấy chỗ này có gì đó không đúng.
"Làm gì có chuyện trùng hợp như vậy! Nhậm đô tri cũng có phải áp ban Di Anh Các mà ở đó cả ngày đâu, nhưng vì sao hai người vừa phát hiện ra đèn lưu ly bị vỡ, ông ấy đã dẫn người đến bắt cậu rồi? Rõ ràng là có người gài bẫy cậu."
Ta lặng thinh, Trương Thừa Chiếu lại hỏi: "Có phải gần đây cậu đắc tội với ai không?"
Có ư? Nghĩ tới nghĩ lui, có thể gọi là đắc tội cũng chỉ có Trương mỹ nhân.
Ta kể việc Phúc Khang công chúa ra, Trương Thừa Chiếu kinh hãi trợn tròn hai mắt: "Cậu làm Trương mỹ nhân bẽ mặt, còn so sánh bà ta với Triệu Phi Yến? Trong cung ai mà chẳng biết bà ta là một vị chủ tử có thù tất báo!"
Ta nói: "Tôi đã thấy tình hình khi đó như thế, không nói sự thật ra, chẳng lẽ lại để mặc Trương mỹ nhân đổ oan cho công chúa?"
Trương Thừa Chiếu thở dài: "Công chúa là ái nữ của quan gia, chưa kể chuyện không phải do cô ấy làm, dù cho cô ấy có hại Trương mỹ nhân thật thì cậu nói xem quan gia có thể thế nào với cô ấy? Chủ tử tranh đấu tới lui, thua thiệt luôn là kẻ dưới, những tình huống như vậy cậu cứ im lặng đi."
Ta cụp mắt thụ giáo, cũng không phản bác, chỉ nói: "Tôi không nghĩ được nhiều vậy."
Trương Thừa Thiếu nhìn ta bất đắc dĩ, vẻ mặt thương hại: "Hèn chi cậu ở trong cung càng lăn lộn càng hỏng việc."
Ý hắn chỉ việc ta bị "giáng chức" từ thư viện xuống họa viện, đồng thời khẳng định ta về sau sẽ còn bị chèn ép, nhưng kết quả tiếp đó lại khiến hắn giật mình: Một tháng sau, ta được điều đến ban nội thị Xu mật viện, làm công tác chỉnh lý và chuyển giao công văn.
Xu mật viện nằm ở phía tây nam cung thành, cùng với Trung thư môn hạ và Tam ty, là những cơ quan trung ương quan trọng nhất, Trung thư chủ dân, Xu mật viện chủ binh, Tam ty chủ tài vật, làm việc chữ nghĩa cho các trọng thần triều đình ở những nơi ấy gần như là nguyện vọng của tất thảy nội thị biết chữ trong Hàn lâm viện, thế nên lần điều chuyển này chẳng khác nào là ta được thăng chức.
Sau nữa ta được biết, là Tư Mã Quang tiên sinh đề bạt ta với phó sứ Xu mật viện Bàng Tịch mà y quen biết, nói Xu mật viện chủ trì sự vụ quân cơ trọng yếu, chữ nghĩa càng không thể có sai lầm, mà bản lĩnh của ta thì không tệ, đủ để đảm nhiệm công việc tương quan.
Do đó, ta càng thêm dạt dào cảm kích Tư Mã tiên sinh, lòng biết ơn và sùng bái y duy trì suốt rất nhiều năm, dẫu cho về sau có một ngày, y phê bình ta trước mặt hoàng đế là "tội ác như núi, đáng chịu cực hình", ta vẫn chẳng mảy may hận y.
7. Hòa thân
Một lần nữa nghe người ta nhắc đến Phúc Khang công chúa là ở Xu mật viện.
Cuối xuân năm này, binh mã Khiết Đan áp sát biên cảnh, quốc chủ sai tuyên huy nam viện sứ Tiêu Anh và hàn lâm học sĩ Lưu Lục Phù đến triều kiến truyền tin, muốn đòi của Đại Tống hai châu Doanh, Mạc "đất quan nam".
Hai châu Doanh, Mạc là một phần của mười sáu châu Yên Vân, năm đó bị "vua bù nhìn" Thạch Kính Đường cắt nhường cho Khiết Đan, đến thời Chu Thế Tông thì giành lại, quốc triều tiếp quản đến nay. Nhiều năm qua Khiết Đan luôn muốn bắt Đại Tống "trả lại" hai châu, sau, vua Minh Chân Tông xứ Thiền Uyên chấp nhận cống nạp, Khiết Đan liền từ bỏ ý định đòi đất, nhưng nay nhắc lại chuyện xưa, giọng điệu sứ thần mang tư thế nhất định phải thành.
Chư thần bàn bạc trên triều, không đồng ý cắt đất, quyết định mượn hòa thân để giảng hòa với Khiết Đan, lấy mối kết duyên giữa nữ nhân tôn thất Đại Tống và hoàng trưởng tử Khiết Đan Gia Luật Hồng làm tiền đề hóa giải chuyện đòi đất.
Nữ nhân tôn thất được chọn là con gái của Tín Cảnh Hi Giản vương Doãn Ninh.
Quan gia phái tri chế cáo (*) Phú Bật tiếp đãi, Giả Xương Triều làm bạn, nghênh sứ thần Khiết Đan tới sứ quán cùng nhau hòa đàm.
(*) Chức quan thuộc Hàn lâm viện, chuyên soạn thảo chiếu lệnh.
Sứ thần Khiết Đan vốn cũng có ý hòa thân, nhưng vừa nghe kim thượng phong nữ nhân tôn thất làm công chúa gả cho Lương vương, Tiêu Anh tức thì tỏ vẻ không vui: "Không phải hoàng đế Đại Tống có con gái ruột sao? Nghe nói Phúc Khang công chúa xinh đẹp tuyệt trần, thần dân nước tôi vô cùng ngưỡng mộ."
Phú Bật giải thích rằng con gái hoàng đế còn nhỏ tuổi, chuyện thành hôn phải đợi thêm chục năm nữa. Lưu Lục Phù cười, nói: "Lương vương cũng chỉ mới mười tuổi, niên kỷ tương xứng với Phúc Khang công chúa, chờ thêm mười năm cũng không hề gì. Đã là hòa thân thì đương nhiên phải là trai gái ruột thịt của hoàng đế hai nước mới biểu hiện được thân tình nồng hậu. Lương vương là hoàng trưởng tử nước tôi, hoàng đế quý quốc lại chỉ gả nữ nhân tôn thất, lẽ nào là chê xứ tôi nước nhỏ dân yếu, sánh không đặng?"
Phú Bật và Giả Xương Triều tấu rõ việc này, kim thượng lập tức khước từ, bất kể thế nào cũng không chịu đưa công chúa Phúc Khang đi hòa thân. Bèn cử Phú Bật đi sứ Khiết Đan, gặp mặt đàm luận với quốc chủ, đồng ý tăng cống nạp hằng năm, nhưng nhất định từ chối việc hòa thân của công chúa. Phú Bật cũng bằng lòng, nói; "Chúa ưu thần nhục. Thần đi chuyến này ngoài việc cống nạp, quyết không hứa xằng một chuyện gì."
Trước ngày khởi hành, kim thượng phong Phú Bật làm lễ bộ viên ngoại lang, xu mật trực học sĩ, ông lại không nhận. Sau khi tan triều, Phú Bật đến Xu mật viện bàn bạc chi tiết việc đi sứ và nội dung hòa đàm cùng chư thần. Nghị sự tất, mọi người xuất cung, ông vẫn nán lại viện, lao tâm khổ tứ nghĩ sách lược ứng đối.
Chợt có nội thị Hậu tỉnh mang bút mực quý tới, đều là vật báu trong kho ngự, nói là quan gia đặc biệt ban thưởng cho Phú Bật.
Vừa vặn khi ấy là ta trực trong viện, Phú Bật bái tạ xong sai ta nhận lấy vật ngự tứ, rồi lại im lặng ngồi xuống, nhăn mày trầm tư.
Ta đã biết được đại khái diễn biến sự việc, qua đôi câu nghe thấy lúc hầu hạ chư đại thần Xu mật viện và một phần công văn phải sao chép, ta hiểu Phú Bật phiền muộn điều gì. Giờ đây nhìn vật báu trong tay, một ý nghĩ lóe lên trong lòng, bèn lựa thỏi mực trong đồ ngự tứ ra, xếp lên chỗ dễ thấy nhất rồi mới bưng qua đặt lên bàn con cạnh Phú Bật.
Những năm gần đây, theo lệ trong cung, mực thưởng cho chư thần là mực Lý Hấp Châu. Lý thị ở Hấp Châu là thế gia sản xuất mực, mực cứng như ngọc, hoa văn rõ ràng, thớ dày vân sánh, sáng bóng như sơn, nổi tiếng thiên hạ, được liệt vào cống phẩm. Mực Lý ban cho đại thần đều được đặt trong tráp gỗ tử đàn, trên tráp chạm trổ tinh xảo, có dấu ấn của kho ngự. Nhưng hiện giờ ban cho Phú Bật lại không phải mực Lý mà là mực Vương Địch đất Tây Lạc đựng trong túi da báo.
Đặt đồ vật xuống phát ra chút động tĩnh, Phú Bật nghiêng đầu nhìn, cũng nhận ra chỗ khác thường, bèn nhặt một thỏi mực Vương Địch lên xem.
"Bây giờ mực Lý không còn là cống phẩm nữa à?" Ông hỏi ta.
Ta biết nguyên do trong đó, bèn nhất nhất nói ra: "Mực Lý vẫn là cống phẩm, nhưng năm nay gỗ tử đàn thiếu thốn, không thể làm tráp, Lý thị xin đổi sang tráp quế, quan gia không cho, nói mực thưởng cho đại thần theo lệ đều đựng bằng gỗ tử đàn, nếu đổi sang tráp quế, chỉ sợ quần thần có công sẽ hoài nghi bị cắt giảm, nên dứt khoát không lấy. Mực Vương Địch Tây Lạc chỉ dùng cao hươu hun khói, thơm mùi long xạ, cũng là mực tốt hiếm có, lại dùng túi báo ngàn vàng để đựng, vì lẽ đó quan gia ra lệnh năm nay đổi ngự thưởng thành mực Vương Địch."
Phú Bật nói: "Người đời đa phần thích mực Lý, nếu vì tráp mà bỏ, há chẳng phải lấy gùi bỏ ngọc?"
Ta đáp: "Hoài Cát cả gan xin được hỏi học sĩ câu này, mực Lý Hấp Châu là loại mực đại nhân thích nhất ạ?"
Phú Bật cười: "Cái đó thì không! Riêng ta chuộng mực Sài Tuần Đông Dao."
"Chính thế," Ta tiếp lời, "Mực Lý tuy tốt, song cũng chẳng phải không thay thế được, có người ưa mực Vương Địch Tây Lạc hơn, cũng có người thích dùng mực Sài Tuần Đông Dao, mực Thịnh thị Tuyên Châu, hay mực Trần thị Đông Sơn. Ưa chuộng vật gì là tùy tính từng người, nhưng nói đến ngự tứ ngự thưởng, người đời đều thích hỏi mực Lý, tráp tử đàn lại càng đặc biệt được coi trọng, lấy ra là biết vật ngự tứ, nếu ban thưởng mực Lý mà không phối với tráp tử đàn, tất sẽ có người vô cớ hoài nghi, chẳng bằng đổi sang mực nhà khác."
"Không sai, không sai, đồng liêu trong triều tuy thích hỏi mực Lý, nhưng nhiều người không dùng, ngược lại, tráp tử đàn thì không ai không thích." Phú Bật gật gù, rất là tán thành, "Có người còn từng bông đùa, chẳng bằng xin quan gia chỉ thưởng tráp tử đàn cho chúng ta, cái khác thưởng bằng tiền bạc, để chúng ta tự mua loại mực mình thích bỏ vào..."
Ông cười vui vẻ, tâm trạng tốt lên, ta cũng nhẹ nhàng cười theo, không nói thêm nữa.
Lát sau, ông tắt cười, lại như đột nhiên nghĩ đến điều gì, vỗ bàn reo: "Đúng thế, đúng thế, sao trước đây lại không nghĩ ra nhỉ?"
Ông đứng dậy, trịnh trọng xá ta một vái: "Đa tạ trung quý nhân nhắc nhở."
Sau đó ông đi sứ Khiết Đan, nói với quốc chủ, hoàng tử công chúa chưa chắc đã hợp tính, kết hôn dễ nảy sinh tranh chấp, tình vợ chồng khó bề bền chặt, ký thác vào chuyện hòa thân chẳng phải kế vững chắc, về sau dễ sinh biến số, chẳng bằng tăng lượng vàng gấm. Huống hồ, chuyện xưa nam triều gả trưởng công chúa, của cải tiễn đưa chỉ mới mười vạn xâu, dù là hoàng đế gả con gái ruột cũng sẽ chẳng vượt qua mức này, lợi lộc kém xa việc cống nạp.
Quốc chủ Khiết Đan vốn cũng mong muốn lấy được nhiều vàng gấm, nghe nói của cải tiễn đưa công chúa không quá mười vạn, lập tức đồng ý kiến nghị tăng thêm mười vạn hai lượng bạc, mười vạn xếp lụa. Vì vậy, hai nước cùng sai sứ thần một lần nữa thực hiện minh ước, không nhắc đến chuyện hòa thân và cắt đất nữa.
Phú Bật đi sứ trở về chừng hơn tháng, một người phụ nữ tuổi chừng băm mấy, tự xưng là nhũ mẫu Hàn thị của Phúc Khang công chúa, ôn hòa nói với ta: "Phú học sĩ không làm nhục sứ mệnh, quan gia rất đỗi vui mừng, khen ngợi đại nhân hết lời, đại nhân lại đề cập với quan gia việc được con gợi ý. Sau, quan gia nói với hoàng hậu và Miêu chiêu dung, hoàng hậu cũng rất tán thưởng con, nhưng lại nói: 'Thằng bé này thông minh, nếu ở lại Xu mật viện dài lâu, chỉ sợ đài gián (*) có lời chê trách, không bằng điều vào Hậu tỉnh.' Miêu chiêu dung bèn xin hoàng hậu cho con tới hầu hạ Phúc Khang công chúa, nói con từng hai lần giúp công chúa thoát khỏi khốn cảnh, cũng là có duyên. Vậy nên hoàng hậu bảo ta tới hỏi ý kiến con, con bằng lòng thì điều con vào... Con trai, con có bằng lòng không?"
(*) Triều đình thời Tống thiết lập chế độ gián quan và ngự sử, thường gọi là đài gián, ngự sử phụ trách thu thập ý kiến dân gian; gián quan nghị luận chỗ hay chỗ dở của những ý kiến này đối với triều đình cho hoàng đế tham khảo, có lúc còn có thể uốn nắn sai lầm của hoàng đế; cơ quan phụ trách đài gián là Gián viện.
Ta đồng ý, không do dự gì nhiều.
Không lâu sau đó, ta chính thức được điều vào Nhập nội nội thị tỉnh, thăng chức một bậc, trở thành nội thị cao ban, thuộc quyền Miêu chiêu dung, hầu hạ Phúc Khang công chúa.
Chỗ ở của ta cũng dời từ Tiền tỉnh vào nội cung. Ngày chuyển nhà, Trương Thừa Chiếu đến tiễn ta, nắm tay ta bịn rịn lưu luyến, dặn đi dặn lại: "Phú quý rồi xin chớ tương vong."
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip