Hồi 8: Lan can uốn khúc nhàn tựa suông

1. Cống cử

Gia Hựu năm thứ hai, công chúa tròn hai mươi, theo phong tục Đại Tống, con gái qua năm này mà còn chưa lấy chồng sẽ bị liệt vào hàng gái lỡ thì. Vì vậy, kim thượng bắt đầu sai người lo liệu việc hạ giáng của công chúa, hôn kỳ định vào nửa cuối năm, trước đó tiến phong công chúa, Miêu thục nghi mẹ công chúa cũng được nhờ ân thăng vị.

Miêu thục nghi có hi vọng trở thành tần ngự đầu tiên ngồi vào vị trí bốn phi sau Trương quý phi, đó là chuyện đáng mong đợi duy nhất có thể khiến nét mày chau ủ hiện tại của bà giãn ra được đôi chút. Kể từ bận kim thượng nói chuyện với công chúa, công chúa không còn tỏ ý phản kháng mối hôn sự phụ thân an bài cho mình nữa, nhưng theo hôn kỳ ngày một tới gần, tâm trạng nàng càng lúc càng héo hắt, Miêu thục nghi từng mừng rỡ đề cập với nàng chuyện kim thượng muốn long trọng cử hành lễ tiến phong cho nàng, đó là vinh dự công chúa quốc triều chưa từng có, vậy nhưng cũng chẳng thể khơi gợi được không khí vui mừng nơi nàng.

Kim thượng cũng không quên nỗi uất ức sầu não của nàng, từng ân cần hỏi: "Huy Nhu, con không vui à?"

Công chúa chỉ xua tay, nhỏ nhẹ đáp: "Cả ngày không có việc gì làm nên hơi bức bối thôi ạ."

Kim thượng bèn mỉm cười đề nghị: "Nghi Xuân Uyển năm nay hoa nở đẹp lắm, con đi ngắm đi."

Thế nên tháng Ba, kim thượng lệnh Đặng Bảo Cát điều vài chục thị vệ Hoàng thành ty cùng người hầu theo nghi trượng thường ngày của công chúa hộ tống nàng đi Nghi Xuân Uyển.

Cành thưa chim lảnh lót, nước lặng đón hoa rơi, Nghi Xuân Uyển vẫn mang dáng vẻ thuờ xưa cũ, ngọn liễu bóng oanh phi, ngập đường dương hoa múa. Nhưng cảnh xuân rực rỡ ấy lại chẳng rọi được chút ánh sáng nào lên con ngươi công chúa, nàng đứng một mình nơi đầu cầu đỏ thẫm trong vườn, mắt đăm đăm nhìn dòng xuân thủy chảy dưới chân, giữ tư thế bất động suốt một thời gian dài, để mặc bóng mình lay động trong nước, cánh hoa lạc vào áo đơn.

Đến giữa trưa, nàng xoay người nhìn ta, nói: "Chúng ta về thôi."

Đường về cũng chẳng quá thông thuận, lúc đi tới phố Phồn Đài, phía trước có người tụ tập ồn ào, người qua đường dừng chân vây xem, làm con phố tắc nghẽn, dầu kẻ hầu liên tục la hét dọn đường, song ngựa xe vẫn chẳng thể lăn bánh.

(*) Nội hàn là cách gọi tôn kính dành cho hàn lâm học sĩ. (chú thích của tác giả).

Nghe vậy, công chúa vén rèm, cùng ta liếc nhau, cũng hiểu được đại khái tình hình nơi đây.

Tháng Giêng năm nay, kim thượng lệnh hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu đảm nhiệm chức tri cống cử, làm quan chủ khảo kỳ thi lần này. Những năm gần đây, học trò Thái học viện chuộng lối viết quái dị tối nghĩa, dẫn tới chúng học giả bắt chước noi theo, thậm chí còn trở thành trào lưu nhất thời trong nước, gọi là "thể Thái học". Nghe nói Âu Dương Tu rất ghét kiểu văn phong này, quyết ý dốc sức ngăn chặn, phê duyệt bài thi mà bắt gặp "thể Thái học" là thẳng tay loại sạch. Thế nên, ngày Lễ bộ cống viện tỉnh (*) công bố kết quả, cả thiên hạ đều lấy làm kinh ngạc, bởi những kẻ trước đó được người đời ca tụng đều không nằm trong nhóm trúng tuyển. Mà nay kỳ thi đình đã kết thúc, danh sách tiến sĩ quan khảo thí lựa chọn đã được trình lên hoàng đế, kết quả cuối cùng sẽ được xướng danh tuyên bố trong cung ngày mai, Âu Dương Tu đã cởi bỏ trạng thái tỏa viện, hiện giờ hẳn là vừa tan triều trở về, đám sĩ tử thi rớt có thể đã canh sẵn thời gian, cố ý gây khó dễ với y tại đây.

(*) Cơ quan quản lý việc thi cử, tiến cử học trò.

"Hoài Cát," Công chúa phân phó ta, "Huynh đi xem xem."

Ta ứng lời, lập tức giục ngựa chạy lên.

Lúc này, Âu Dương Tu đã bị sĩ tử trùng trùng vây kín, tuy có vài tùy tùng và lính tuần đường phố hộ vệ, song nhân số sĩ tử gây chuyện quá nhiều, kẻ nào kẻ nấy đều cố sức chen lên muốn sấn lại gần y. Binh lính tùy tùng chỉ có thể bao bọc quanh con ngựa y cưỡi mỗi buổi lên triều, cố gắng không để sĩ tử chạm tới y.

Chúng sĩ tử có người nổi giận đùng đùng, có người lườm nguýt khinh miệt, có người cười mỉm trào phúng, đều đang anh một lời tôi một câu ầm ĩ nhao nhao.

"Thể Thái học không có cảm giác dài dòng cứng nhắc của văn biền ngẫu, lại cũng chẳng bình dị thông tục, tầm thường nhạt nhẽo, lựa từ dùng câu đều mới mẻ, đủ để thể hiện tài sáng tạo của sĩ tử, có gì không được? Người đời đều tôn sùng kiểu văn phong ấy, cớ gì chỉ mỗi nội hàn là không dung?"

"Cống cử là để thiên tử chọn người tài khả dụng, không phải là để Âu Dương nội hàn ông chọn môn sinh, ông há có thể vì yêu ghét cá nhân mà loại bỏ tài tuấn Thái học được người đời công nhận?"

"Nghe nói, trong lúc tỏa viện, Âu Dương nội hàn thường xuyên cùng mấy vị quan khảo thí Vương Khuê, Mai Chí, Hàn Giáng, Phạm Trấn còn lại, thêm cả quan tiểu thí (*) Mai Nghiêu Thần ngâm thơ điền từ, số thơ sáng tác ra đủ để soạn nguyên một tập thơ rồi. Sa vào xướng họa như vậy liệu có còn lòng dạ mà xem xét chấm kỹ bài thi của bọn tôi không?"

(*) Có thể hiểu đơn giản là chức quan phụ tá cho quan khảo thí chấm thi.

"Nghe nói lúc xướng họa, mấy vị quan khảo thí các ngài phun vàng nhả ngọc dữ dội lắm. Âu Dương nội hàn ông còn từng tả cảnh trường thi là 'Chiến sĩ vô thanh chí ngậm tăm (*), xoàn xoạt tiếng bút dâu ăn tằm', còn Mai Thánh Du thì hình dung: 'Vạn kiến tranh đua ngày xuân ấm, ngoài ánh năm sao mờ đêm thâm.' Chậc chậc, các ông tự so mình với năm sao, so chúng tôi với kiến tằm, đủ để thấy quan khảo thí có đức khiêm nhường thế nào rồi!"

(*) Thời xưa khi hành quân bí mật, binh sĩ mỗi người phải ngậm trong miệng một chiếc đũa để khỏi lên tiếng làm lộ bí mật.

...

Những lời lẽ như vậy nổi lên liên tiếp, mà từ đầu tới cuối Âu Dương Tu chỉ duy trì tư thái trầm mặc, ghìm ngựa đứng đó, không câu đáp trả.

Lát sau, lại có người bắt đầu nghi ngờ học vấn của y: "Nội hàn ông ra đề thi hội là 'Thấu tỏ biến hóa mà giúp dân không mỏi', kỳ ghê cơ, sao tôi lại nhớ nguyên văn trong 'Dịch truyện' là 'Thấu tỏ biến hóa giúp dân không mỏi' ấy nhỉ?" (*)

(*) Nguyên văn trong "Dịch truyện": "通其变,使民不倦 (thông kỳ biến, sử dân bất quyện)", ý diễn giải đầy đủ ra là "Thấu tỏ sự biến hóa không ngừng của thời đại mà giúp cho cuộc sống của người dân không cứng nhắc đến nỗi làm nảy sinh tâm lí chán nản".

Câu này vừa buông, lập tức có người tiếp lời: "Có gì mà kỳ đâu, thời nay ai chẳng biết, 'Mà quan thi đây sính ngoại kia'! Ha ha..."

Sĩ tử chung quanh nghe thấy cười ầm lên, thần thái Âu Dương Tu còn tính là bình tĩnh, nhưng sắc mặt cũng không khỏi khẽ đổi.

Âu Dương Tu quả thực thích dùng chữ "mà" trong văn. Y từng nhận lời nhờ cậy của người ta, làm một thiên "Tương Châu họa cẩm đường ký", trong đó có câu: "Làm quan làm đến tướng, phú quý về cố hương." Viết xong gửi đi rồi, sau cân nhắc lại thấy không thích hợp, bèn sai người cưỡi khoái mã đuổi theo lấy bản thảo về, sửa rồi lại gửi đi. Người nhận đọc bản thảo đã sửa, phát hiện ra y chỉ đổi câu trước thành "Làm quan mà làm tới tướng, phú quý mà về cố hương".

Đương nhiên, sĩ tử nói câu này bây giờ không phải là đang thảo luận sở thích hành văn của y mà là mượn chữ "ngoại" ám chỉ lời đồn y tư thông với cháu gái ngoại.

Câu này lập tức dẫn hứng thú của chúng sĩ tử dời sang chuyện khuê thất của y, có người cười hỏi dạo này Trương thị thế nào, có người bắt đầu ngâm nga "Vọng Giang Nam", kế đó, một sĩ tử áo sồng đứng ngay trước Âu Dương Tu xướng cao một bài "Túy Bồng Lai": "Thấy mắt thẹn mày chau, mặt non phớt hồng, eo thon lả lướt. Bên hiên thược dược, buồn bực chẳng cho qua. Che hờ thẹn e, giọng run thâm thấp, hỏi đã ai biết hay chăng? Gắng giữ váy la, trộm đáp sóng mắt, vờ đi vờ ngồi. Hỏi chi nếu như, chuyện đã thành rồi, tóc mây loạn rối, mẹ nhà mắng la..."

Lời ý bài từ này ô uế đáng khinh, tả việc nam nữ yêu đương vụng trộm, mà kẻ áo sồng vừa hát vừa giơ tay cong ngón, diễn vẻ nữ nhi thẹn thùng từ chối, càng chọc mọi người cười giỡn. Hát đến đoạn sau, có vài người cất giọng hát theo, xem ra bài từ này cũng không phải mới sáng tác tại đây mà hẳn đã truyền xướng được một thời gian rồi.

"Bài từ này cũng là Âu Dương nội hàn điền?" Trong người vây xem có người hỏi.

Kẻ áo sồng dừng lại, cười đáp: "Nếu chẳng có 'Trời sinh tính ngông cuồng' thì ai mà hiểu được cảnh giới trong từ, tất bật bận vì hoa chứ."

"Trời sinh tính ngông cuồng" và "tất bật bận vì hoa" là câu chữ trong một bài "Vọng Giang Nam" khác của Âu Dương Tu. Ngụ ý của người này ắt chỉ bài diễm từ mới hát cũng là của y.

Âu Dương Tu cau mày, nhưng nhất thời cũng không lên tiếng bác bỏ. Tiếng cười càng thêm rộn rã, ta đang nghĩ xem nên giải vây cho Âu Dương nội hàn thế nào thì đã có một kẻ sĩ áo xanh bước ra.

Người này trên dưới hai mươi, vóc dáng cao ráo, mày thưa mắt sáng, gương mặt xương xương. Khóe miệng khẽ nhếch về phía bên phải, ngậm nụ cười như có như không, chàng bước tới cạnh kẻ áo sồng, hỏi: "Các hạ là Lưu Kỷ đất Diên Sơn?"

Lưu Kỷ đất Diên Sơn, ta cũng từng nghe đến cái tên này, trước kỳ thi hội, hắn là một tú tài nổi trội với sở trường viết thể Thái học, được coi là nhân tuyển hàng đầu cho vị trí trạng nguyên, mà sau kỳ thi, người đời kinh ngạc đến thế, có phân nửa cũng là bởi thấy hắn thi rớt.

Kẻ áo sồng cũng chẳng che giấu, hất cằm cười ngạo nghễ: "Chính là kẻ hèn đây."

"Thất kính thất kính." Kẻ sĩ áo xanh mỉm cười thi lễ, chậm rãi nói tiếp: "Bài 'Túy Bồng Lai' này của Lưu huynh lời ý kiều diễm, mềm mại uyển chuyển, có thể nói là kiệt tác giữa hoa, đủ để lưu danh hậu thế, tội gì phải quy sang danh nghĩa Âu Dương nội hàn, để y cướp danh mình đâu?"

Lưu Kỷ quan sát chàng từ trên xuống dưới vẻ ngờ vực, đang định đáp lại thì bị người nọ mở miệng ngăn: "Tại hạ thấy, bài từ này đã đạt đến trình độ hoàn mỹ, nhưng Lưu huynh lại cứ khiêm tốn, đắn đo đi đắn đo lại suốt mấy ngày, liên tục hỏi ý kiến người khác, không khéo, lại hỏi đến anh bạn cùng tuổi của tôi, anh bạn này lại đem sang hỏi tôi, tôi đọc xong vô cùng bái phục, đứng trước châu ngọc, chẳng dám sửa xằng chữ nào..."

Lưu Kỷ nghe vậy không phản bác mà chỉ cười nhạt, chắc hẳn bài "Túy Bồng Lai" này đúng như kẻ sĩ nói, là sáng tác dưới ngòi bút Lưu Kỷ, cố ý khiến người ta hiểu lầm là Âu Dương Tu tự viết về chuyện mình.

Thấy Lưu Kỷ không nói gì, kẻ sĩ lại khoan thai đi tới trước mặt người vừa nghi ngờ Âu Dương Tu viết sai đề thi, nói: "Đề thi cống cử tuy mỗi câu đều có xuất xứ nhưng cũng chẳng phải lần nào cũng nhất thiết cần đúng nguyên văn, không sai một chữ. Thêm một chữ 'mà' vào 'Thấu tỏ biến hóa giúp dân không mỏi' không làm thay đổi ý nghĩa, ngược lại đọc lên còn thuận miệng hơn, trầm bổng du dương, làm nổi bật vẻ đẹp của thi phú âm luật, có gì là không được?"

Đợi thoáng một chớp mắt, không nghe thấy người kia biện hộ, chàng lại đưa mắt nhìn kẻ sĩ chung quanh, cao giọng nói: "Khi xưa thủy tổ Tây Côn Lý Nghĩa Sơn (*) lừng danh thi văn khắp thiên hạ, một ngày nọ bái yết Bạch Lạc Thiên (**) đàm luận về thể văn lối thơ, giọng điệu tương đối khoe khoang. Giữa chừng hỏi Bạch Lạc Thiên lấy tứ diệu ý hay từ đâu, Lạc Thiên đáp: 'Viết thơ không theo đuổi tứ diệu mà truy cầu chất lượng câu từ – mộc mạc đại chúng, rõ ràng dễ hiểu, khiến người ta đọc là hiểu ngay; ngôn ngữ trực tiếp súc tích – viết đúng sự việc, sát với lí lẽ, làm người nghe khắc sâu lời khuyên; cốt lõi thực tế – nội dung chân thực, dẫn chứng có giá trị tham khảo, để người sưu tập có thể truyền lại; thể thức theo đó mà tùy ý – câu chữ mạch lạc, dễ dàng ngâm xướng, có thể truyền bá thành nhạc khúc ca dao.' Nghĩa Sơn nghe vậy, xấu hổ trở ra. Mà giờ, từ thời Ngũ Đại đến nay, văn hóa giáo dục suy bại, phong tục tập quán tha hóa. Thánh thượng bùi ngùi thở dài, muốn thanh lọc ngọn nguồn tệ nạn, vời gọi những kẻ sĩ hùng dũng khôi ngô đôn hậu bộc trực, trừ bỏ thứ văn học phù phiếm hoa mỹ lòe loẹt kềnh càng, bởi thế báo rõ thiên hạ, mà kẻ sĩ lại chẳng biết lòng thiên tử, đòi hỏi quá đáng, mỗi lần gọt giũa câu từ đều dùng lối viết quái dị tối nghĩa, đọc lên chẳng nên câu cú. Đến mạch lạc súc tích còn chẳng làm được thì nói gì đến cái khác? Thói cũ Tây Côn còn sót lại chưa tan, tệ mới Thái học đã ùn ùn kéo đến. Âu Dương nội hàn chấp chưởng quyền văn, quyết chí cải tạo tệ nạn trường thi, tất phải cất nhắc tài sĩ thiên hạ cung ứng cho thiên tử, đây là kính cẩn nhận lệnh vua sai, hành động theo ý hoàng đế, có tội chỗ nào?"

(*) Tức nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường, ông tổ của thể văn Tây Côn; Nghĩa Sơn là tên tự.

(**) Tức nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường.

Lưu Kỷ nghe thế giễu cợt, liếc xéo hỏi vặn: "Huynh đài biện giải khắp nơi khắp chốn cho Âu Dương nội hàn, hẳn cũng là một trong 'tài sĩ thiên hạ' được y vời gọi rồi. Chẳng biết ngày mai có được xướng danh, vị trí hạng mấy đây?"

Kẻ sĩ áo xanh cười đáp: "Trước khi thi hội, tôi sống tại miền hoang vu, chuyến này đi thi là lần đầu vào kinh. Kẻ chốn quê mùa, tin tức không nhạy, chuyện Âu Dương nội hàn muốn cải tổ tệ nạn Thái học viện, tôi cũng chỉ mới biết sau khi thi hội xong, lúc làm bài thi dùng văn phong nhất quán, vẫn chưa đón ý theo hùa, lại càng chẳng quen biết Âu Dương nội hàn, hôm nay ngẫu nhiên qua đây, mới biết dung mạo nội hàn ra sao, mà nhân số sĩ tử thì nhiều, nội hàn cũng không biết tôi họ ai tên gì. Khi thi hội tôi cũng giống chư vị huynh đài đây, bài thi được niêm phong dán tên rồi sao lại, không thể ăn gian. Tuy miễn cưỡng được Lễ bộ tấu danh, tham gia thi đình, song cũng chẳng nắm chắc được kết quả xướng danh ngày mai, có khi thi rớt như chư vị huynh đài cũng chưa biết chừng."


2. Văn phạm

Đại khái, hai chữ "thi rớt" này đã chọc trúng nỗi đau của đám sĩ tử không đậu, họ đều trợn mắt trừng kẻ sĩ áo xanh, có người trong đó còn không ngại ác ý phỏng đoán mục đích của chàng: "Nếu hai người vốn không quen biết trước thì bây giờ anh chủ động biện hộ cho quan khảo thí tất là muốn lấy lòng y, kết giao qua lại, cầu y cho anh đỗ cao!"

Kẻ sĩ áo xanh xua tay: "Tuy đến mai mới xướng danh yết bảng nhưng hiện giờ thứ tự tiến sĩ đã định xong, sao có thể thay đổi? Nếu tôi có lòng kết giao với nội hàn thì đã tới cửa bái yết từ trước khi trường thi tỏa viện khảo thí rồi, tội gì phải chờ tới bây giờ?"

Chúng sĩ tử nào chịu nghe chàng giải thích, nhao nhao nói: "Ai biết được trước đây anh đã tới cửa bái yết y hay chưa?"

"Nếu ăn gian mà công khai ra ai cũng biết thì còn gọi gì là ăn gian."

"Hai người có chưa từng qua lại trước đây thì sau này làm đồng liêu ắt cũng sẽ kết bè kết đảng."

Đám sĩ tử càng nói càng kích động, quay sang vây lấy kẻ sĩ áo xanh, bắt đầu nhốn nháo xô đẩy chàng.

Ta thấy tình thế không ổn, lập tức vung roi ngựa lên, vụt xuống đánh "chát" một tiếng vào cây dương ven đường, cao giọng quát: "Dừng tay!"

Chúng sĩ tử nghe tiếng sửng sốt, đều dừng lại, quay đầu nhìn ta.

Ta đưa mắt liếc họ một vòng, nói: "Quân tử không tranh chấp, có tranh cũng tranh cho đúng đạo quân tử. Chư vị đều là người đọc sách, mắng mỏ sư trưởng, vây đánh đồng niên ở đây, há chẳng phải bôi nhọ cái tiếng ăn học!"

Họ kinh ngạc nhìn ta một lượt từ trên xuống dưới, phỏng chừng đang suy đoán thân phận của ta, nhất thời chưa ai đáp lại, ta bèn nói tiếp: "Khổng Tử nói: Đạo quân tử có bốn: giữ mình thì khiêm cung, thờ trên thì kính cẩn, nuôi dân thì có ơn, sai dân thì hợp nghĩa. Mà nay chư vị tụ tập làm ồn trên phố, đức hạnh khó xưng cung khiêm; công nhiên trách mắng sư trưởng, thất kính với bậc tôn giả. Chư vị đi thi, mục đích chẳng ngoài về sau ra làm quan, phụ tá quân vương, mưu cầu phúc lợi cho dân chúng. Nhưng nếu bây giờ đến 'giữ mình khiêm cung, thờ trên kính cẩn' còn chẳng làm được thì tương lai nói gì đến 'nuôi dân có ơn, sai dân hợp nghĩa'?"

Có người phản bác: "'Trên' trong thờ trên kính cẩn là chỉ quân vương, thánh thượng, anh há có thể thay bằng quan khảo thí?"

Ta đáp: "Quan khảo thí là thầy của sĩ tử dự thi, thầy ngang hàng với trời đất vua cha, đáng được sĩ tử thiên hạ kính trọng. Không tôn sư chẳng khác nào làm người khôn giữ đạo hiếu đễ. Khổng Tử nói: 'Tròn đạo hiếu đễ, lại hay phạm thượng, hiếm ai như thế; không hay phạm thượng, lại thường tác loạn, chẳng ai như thế' Đã không biết đạo tôn sư hiếu đễ thì cách phạm thượng tác loạn cũng chẳng xa."

Lúc này, Lưu Kỷ cười khẩy, đi tới trước ngựa ta, nói: "Y quan của tiên sinh dường như là vật trong cung?"

Ta cúi người: "Tại hạ đích thực nhậm chức trong cung."

Lưu Kỷ liếc xéo ta, nói: "Trung quý nhân nói có sách, mách có chứng, tại hạ bội phục. Có điều, tôi cũng nghĩ đến một câu của thánh nhân, dùng để miêu tả trung quý nhân, kể cũng chuẩn xác lắm."

Ta biết hắn chẳng có lời gì hay, nhưng vẫn gật đầu: "Xin được lắng nghe."

Hắn chợt vung tay trỏ vào ta, lạnh lùng nói: "Hoa ngôn xảo ngữ, giả bộ ôn hòa, hiếm có lòng nhân."

Không đợi ta phản ứng, hắn đã liên thanh: "Hạng thiến hoạn như ngươi, khom lưng uốn gối đã quen, chỉ giỏi nói lời lấy lòng chủ tử, bên trong cầu vua sủng ái, bên ngoài ton hót đại thần, vì mưu tư lợi mà không màng khí tiết, lại dám mượn lời thánh nhân chỉ trích kẻ sĩ thiên hạ!"

Sĩ tử quanh hắn hùa theo, đều quay mũi giáo về phía ta:

"Hoàng môn nội thị cũng dám đọc xằng kinh thư thánh nhân?"

"Thiến hoạn hèn mọn, đọc sách là muốn làm chi? Không phải là muốn tham chính hại đời đấy chứ?"

"Nội thần triều trước cậy ơn hoành hành, bọn ta còn nói quốc triều lấy đó làm gương mà tránh, sẽ không để xảy ra tai họa như thế, nhưng cái ngữ tiểu hoàng môn nhà ngươi hôm nay đã dám công kích sĩ tử thì tương lai vượt chính hại dân cũng có khả năng lắm."

"Thiên hạ nhà Hán bốn trăm năm, thiên hạ nhà Đường ba trăm năm, họa mất nước hai triều đều bắt nguồn từ hoạn quan mà ra. Thái Tông hoàng đế triều ta đã răn dạy rõ ràng, không cho phép hoạn quan tham dự chính sự, để phòng ngừa cẩn thận, bây giờ có tru diệt ngươi tại chỗ cũng chẳng quá đáng!"

Họ ùn ùn kéo tới, từng bước ép sát. Ta bất giác dắt ngựa lùi ra sau, đối mặt với tiếng la rầy quở mắng như thủy triều, ta choáng đầu ù tai, hai má nóng bỏng, không sao nén được cảm giác nhục nhã rỉ ra lớp lớp từ bên trong như mồ hôi lạnh đổ khắp người.

Bỗng, không xa phía sau có người cao giọng quát: "Đặng đô tri, bắt hết bọn phạm thượng tác loạn này lại cho ta!"

Là giọng của công chúa. Ta kinh ngạc quay đầu lại, thấy nàng đã xuống khỏi xe, chẳng biết đã tới đằng sau ta từ lúc nào, không có thị nữ theo hầu lấy quạt lông che chắn, khuôn mặt lấy mũ quây ẩn giấu.

Đặng Bảo Cát đi theo nàng lĩnh mệnh, vung tay lên, thị vệ Hoàng thành ty thủ giữ cách đó không xa lập tức thúc ngựa chạy tới. Mấy chục kỵ binh xông lên hất tung bụi mù, ngựa hí chó sủa, người đi đường kinh sợ la hét, sau một trận náo động ngắn ngủi, mười sĩ tử gây chuyện đã bị ấn quỳ xuống đất.

Đám Lưu Kỷ không phục, quỳ đó ra sức vùng vẫy, căm giận nói: "Bọn tôi chỉ muốn xin quan khảo thí một lời giải thích, sao có thể nói là phạm thượng tác loạn?"

Công chúa chỉ vào ta, đáp: "Các ngươi mạo phạm huynh ấy chính là mạo phạm ta, mạo phạm ta chính là mạo phạm cha ta, mạo phạm cha ta chính là phạm thượng tác loạn!"

Lưu Kỷ sửng sốt, hỏi: "Cô là ai?"

Đặng Bảo Cát đứng bên cạnh cất lời giải thích: "Đây là Phúc Khang công chúa."

Âu Dương Tu nghe thế, lập tức xuống ngựa qua thi lễ, bách tính chung quanh cũng lục tục hạ bái, đám sĩ tử gây chuyện đa số đều ngậm miệng nín thít, chỉ duy Lưu Kỷ là còn giận dữ chất vấn: "Kim thượng đối đãi với văn sĩ luôn thiện lành kính trọng, chưa từng lạm dụng hình phạt, mà nay công chúa lại làm nhục bọn tôi để xả giận tư, đã làm trái lời dạy của vua cha, còn vi phạm đạo khoan dung của quân tử!"

Công chúa cười: "Ta không phải quân tử, là nữ tử, chính thánh nhân các ngươi đã nói rồi còn gì, nữ tử cũng khó nuôi như các ngươi vậy đấy."

Lưu Kỷ còn muốn tranh cãi, công chúa trừng mắt hạnh, buông lời áp chế trước: "Còn nói nhảm nữa, ta sẽ lập tức bảo họ điệu ngươi đến Đại lý tự hỏi tội!"

Lưu Kỷ phẫn nộ cúi đầu, không nói gì nữa.

Ta thấy thế muốn mở miệng khuyên bảo, nhưng vừa mở miệng đã bị công chúa chặn lại: "Huynh cũng đừng nói gì hết... Ban nãy luống sức nói lý với họ thế, có được miếng tác dụng nào không? Còn chẳng bằng ta trực tiếp báo oán, lấy bạo chế bạo, gọn lẹ bao nhiêu... Đám người này càng đọc nhiều sách càng tráo trở điêu ngoa, huynh nói lý mà nói thông được thì chúng đã chẳng bao vây Âu Dương nội hàn rồi..."

Nàng còn chưa dứt lời, lại nghe có tiếng vó ngựa nổi lên, bọn ta đều đưa mắt nhìn sang, thấy là một con ngựa chưa buộc chắc đột ngột lồng lên tung vó, thế chạy rất hung, đạp chết một con chó vàng nằm trên đường.

Âu Dương Tu trông thấy, như có điều đăm chiêu, ngay sau đó bước lên vái chào công chúa, nói: "Xin công chúa cho phép thần nói mấy câu với chúng sĩ tử."

Công chúa gật đầu đồng ý, Âu Dương Tu bèn quay người về phía chúng sĩ tử, chỉ vào con chó vừa bị ngựa tháo chạy đạp chết, nói: "Chư vị hiền tuấn hẳn đều đã chứng kiến tình cảnh mới rồi. Chư vị đã có lòng mượn đường cống cử làm quan, tương lai rất có thể sẽ vào quán các biên sách soạn sử. Tu mời chư vị thử viết về sự việc này, khái quát chỉ trong một câu. Nếu hiền tuấn dùng từ lời ít ý nhiều, cô đọng súc tích hơn cách nói của Tu, ngày mai Tu sẽ lập tức từ chức Hàn uyển, tự xin điều ra ngoài, không tham dự vào việc văn giáo nữa."

Chúng sĩ tử nhìn nhau, vẻ mặt khấp khởi. Trầm ngâm đôi chốc, một người mở miệng đáp lại trước: "Có chó vàng nằm trên đường, ngựa hãi, tháo chạy xông tới, vó giẫm mà chết."

Âu Dương Tu mặt không biến sắc, rất nhanh có một người khác đưa ra cách nói thứ hai: "Có chó nằm trên đường lớn, ngựa lồng mà giết chết."

Âu Dương Tu cười mỉm nói: "Soạn sử mà soạn như vậy, vạn quyển khó nói xong việc một sáng."

Lưu Kỷ nghe vậy, cao giọng đề đáp án của mình: "Xích thố bôn, vượt đường lớn, vện nằm toi."

Câu ấy vừa thốt lên đã có người phì cười thành tiếng, theo tiếng trông lại, là kẻ sĩ áo xanh ban nãy.

Lưu Kỷ cả giận: "Ta nói nực cười lắm sao?"

Kẻ sĩ áo xanh mỉm cười khom người: "Nào có. Tôi chỉ là đột nhiên nghe thấy một câu tuyệt cú thể Thái học, mừng rỡ khôn xiết, sơ xuất thể hiện ra thôi."

Lưu Kỷ "hừ" một tiếng, nói: "Nói vậy hẳn huynh đài còn có câu hay khác, tại hạ kính cẩn lắng nghe."

Kẻ sĩ áo xanh từ chối: "Âu Dương nội hàn đã sớm liệu sẵn trong lòng, tôi không dám múa rìu qua mắt thợ, vẫn là mời nội hàn chỉ giáo cho thôi."

Âu Dương Tu bèn chậm rãi nói ra đáp án của mình: "Ngựa lồng giết chó trên đường."

Sáu chữ lời ít ý nhiều, bút pháp nghiêng về lối thái sử công (*). Sau một chớp mắt im lặng, công chúa mở miệng khen hay trước tiên, đám người vây xem cũng dần dần rộ lên tiếng hoan hô.

(*) Tên gọi chức quan phụ trách ghi chép sử liệu chính thống của nhà nước xuất hiện từ thời Tây Hán, quyền hạn ngang ngửa chức phó thừa tướng, về sau chức quyền dần suy yếu đi rất nhiều, cuối cùng chỉ còn là quan lại lo liệu văn thư. Thái sử công nổi tiếng nhất là tác giả của "Sử ký", Tư Mã Thiên, bút pháp thái sử công ở đây cũng chính là chỉ lối hành văn của Tư Mã Thiên trong "Sử ký".

Âu Dương Tu lại quay sang Lưu Kỷ, ôn hòa nói: "Vào triều làm quan, bất kể nhậm chức quán các hay đảm nhiệm ngôn quan, bất kể soạn sử sách hay viết tấu chương, cũng đều phải nhớ lấy bốn chữ 'câu từ lưu loát', hành văn cần ngắn gọn mẫu mực, trôi chảy tự nhiên, không nên trau chuốt thái quá, cũng không nên tối nghĩa quái dị. Mộc mạc rõ ràng mới có thể diễn ý chuẩn xác, giúp người đọc dễ dàng lý giải. Ngôn từ chuyển tải sự việc, mà văn vẻ là để tô điểm cho ngôn từ, quan trọng nhất là lời lẽ phải hàm ý sâu xa, đầy đủ nghĩa lý. Nghĩa lý xác lập được rồi thì khó gì thể hiện văn vẻ. Lý lẽ đã rõ thì chẳng cần dụng tâm trau chuốt cũng tự sáng chói rực rỡ."

Lưu Kỷ im lặng, như bị lay động, cụp mắt trầm ngâm, không tranh luận nữa. Những sĩ tử còn lại cũng vậy, đều ngơ ngơ ngẩn ngẩn, tựa hồ còn đang suy ngẫm lời Âu Dương Tu nói.

Âu Dương Tu lại thay mặt chúng sĩ tử cầu tình với công chúa, xin công chúa thả họ. Công chúa tuy không vui song vẫn chấp thuận, lệnh thị vệ Hoàng thành ty thả người.

Đợi đám sĩ tử gây chuyện lần lượt lui đi rồi, công chúa hỏi Âu Dương Tu: "Họ mạo phạm ông như vậy, sao không quở trách thêm đôi câu?"

Âu Dương Tu đáp: "Dùng hình phạt trị dân, tuy có thể khiến dân biết e sợ, nhưng trong lòng chưa chắc đã cảm hóa, chẳng có lợi ích gì cho nước nhà, không bằng lấy lý làm rõ, lấy lễ đồng hóa, lấy đức chỉ dẫn, khiến họ cảm được mà tự hóa."

Công chúa nói: "Đành rằng như thế, nhưng bữa nay sĩ tử đắc tội với nội hàn quá đông, chưa chắc ai cũng có thể được nội hàn cảm hóa, chỉ e sẽ còn có người rình rập sinh sự. Để ta sai vài thị vệ hộ tống ông về nhà thì hơn."

Âu Dương Tu thi lễ bái tạ, công chúa mỉm cười: "Nội hàn chớ nên đa lễ. Nếu thật sự muốn cảm ơn ta thì về sau viết thi văn bớt bớt lại chút."

Thấy Âu Dương Tu không hiểu ra sao, ta bèn ngậm cười giải thích với y chuyện kim thượng bắt công chúa học thuộc danh tác của y, Âu Dương Tu tỉnh ngộ, không khỏi cười khà, cúi thấp người xin lỗi công chúa.

Công chúa khoát tay lia lịa, cười nói: "Ta nói đùa vậy thôi. Trong triều nhiều đại thần như thế mà ta vẫn thích đọc thi từ văn luận của nội hàn nhất đấy."

Âu Dương Tu đi rồi, công chúa lên xe, ta chợt nhớ đến kẻ sĩ áo xanh kia, tức khắc nhìn quanh, thấy chàng rũ tay áo sải bước, đã đi xa được mấy thước, vội giục ngựa đuổi theo. Tới bên cạnh chàng, ta xuống ngựa, chắp tay nói: "Tú tài luận bàn tuyệt diệu, tại hạ bội phục sâu sắc. Có thể cho tại hạ được hay tôn húy của tú tài chăng?"

Kẻ sĩ nọ mỉm cười hoàn lễ, đáp: "Học trò Tô Thức đất Mi Sơn."

Ta cũng báo tên của mình cho chàng, lại bảo: "Tôi còn chuyện này, muốn thỉnh giáo Tô tú tài: Mới nãy lời huynh kể Lý Nghĩa Sơn bái yết Bạch Lạc Thiên là xuất xứ từ đâu?"

Tô Thức cười to, phất ống tay áo: "Không cần xuất xứ!"

Thì ra chàng hư cấu thật. Ta không khỏi bật cười.

"Bên cạnh trăm ngàn sĩ tử, chỉ có mình huynh nghi ngờ chất vấn, đủ thấy tiên sinh tài cao." Chàng cười nói, lại giải thích ngắn gọn, "Nếu nói viết văn trước tiên cần có ý thì kinh sử đều là cung cho mình sử dụng, huống hồ là điển cố nửa thật nửa giả!"


3. Sách lễ

Trở lại trong cung, công chúa cáo trạng với phụ thân vụ đám sĩ tử thi rớt gây sự, kể lại việc họ vây công Âu Dương Tu, cũng thuật chuyện Âu Dương Tu ra đề, có điều, lược bỏ không đề cập đoạn nàng dọa dẫm đám Lưu Kỷ. Đặng đô tri nghe rồi cùng ta nhìn nhau cười, nhưng đều không lắm miệng bổ sung thêm.

Kim thượng được cho hay vụ việc Âu Dương Tu, không khỏi thở dài: "Đám sĩ tử thi rớt này cũng càn quấy quá rồi. Chuyện công kích quan khảo thí cũng chẳng phải lần đầu tiên. Nghe nói hôm trước Âu Dương Tu vừa mới từ trường thi về nhà, đã có người từ ngoài tường ném một quyển văn thư vào sân nhà y, y nhặt lên xem, thấy nguyên một thiên 'Văn tế Âu Dương Tu'..."

Công chúa nhướng mày: "Sĩ tử gây chuyện bậc này, chẳng bằng bắt một tên lại, giết một răn trăm, ít nhất cũng chặt phứt một chân của hắn đi, hoặc nhốt lại dăm tháng một năm, phỏng chừng chúng sẽ đàng hoàng lại ngay thôi."

"Làm vậy, họ sẽ càng lấy ngòi bút làm vũ khí, đến đại thần trong triều cũng sẽ hùa theo, tả cha con thành bạo quân muốn kìm chặt miệng lưỡi người ta, đốt sách giết học trò." Kim thượng cười xua tay, ôn tồn chỉ bảo: "Con gái, trên đời có hai thứ nhất định không được động vào, trông thấy cũng phải đi vòng, một cái là tổ ong vò vẽ, cái còn lại chính là người đọc sách tụ tập thành đám."

Công chúa chớp mắt ngẫm nghĩ, bỗng lăn ra cười bò: "Đúng nhỉ, dáng vẻ Âu Dương học sĩ hôm nay còn chẳng phải giống y hệt chọc trúng tổ ong vò vẽ sao!"

Cười xong, nàng cũng không quên nói hộ Âu Dương Tu: "Lần này Âu Dương học sĩ đắc tội quá nhiều người, ngày mai xướng danh sẽ lại có một đám sĩ tử tham gia thi đình thi rớt nữa, khó mà đảm bảo được về sau chuyện này không tái diễn. Dù sao cha cũng phải nghĩ cách, đừng để ông ấy lại bị ong vò vẽ đốt nữa đấy nhé!"

Kim thượng suy tính, mỉm cười: "Ừ, ta vẫn đang nghĩ đây."

Hôm sau xướng danh, chúng ta mới phát hiện, để bảo vệ Âu DươngTu, ngài đã ra một quyết định không tầm thường đến nhường nào: Phàm là người tham gia thi đình năm nay đều ban thưởng thi đỗ tiến sĩ, không ai trượt rớt.

Thế là, mấy trăm tên người được xướng lên từng cái, khiến nghi thức xướng danh lần này đặc biệt lê thê. Cung quyến trên Thái Thanh Lâu xem mà mất hết hứng thú, vài người ngáp dài, nhỏ giọng oán thán đứng quá mệt mỏi, hơn nữa, tướng mạo vị trạng nguyên hôm nay cũng chẳng lấy gì làm xuất sắc.

Trạng nguyên khóa này là Chương Hành đất Kiến An, tuổi ngoài ba mươi, già giặn trang trọng, nhưng luận về dung mạo phong độ, tất nhiên là kém xa Phùng Kinh năm xưa.

Nhưng đối với công chúa và ta, lễ xướng danh cũng có một điểm sáng bất ngờ: Tiến sĩ đỗ hạng hai chính là kẻ sĩ áo xanh đã đứng ra biện hộ cho Âu Dương Tu một ngày trước – Tô Thức đất Mi Sơn.

Xem chừng công chúa cũng rất có hảo cảm với chàng, thế nên khi chúng tiến sĩ bái tạ hoàng hậu trước lầu Thái Thanh, nàng đặc biệt sai người thưởng nhiều thêm cho chàng cái bánh tiền hào (*).

(*) Không rõ chính xác là bánh gì, theo tư liệu thời Tống thì chỉ biết đây là một món ăn hoàng hậu ban thưởng cho các tiến sĩ đỗ đạt sau lễ xướng danh.

Hoàng hậu thấy thế, hỏi: "Huy Nhu cũng từng nghe đến văn danh của Tô Thức?"

Công chúa đáp không, có lẽ do nhất thời không tiện kể lại cụ thể căn nguyên, nàng bèn đơn giản tìm một lí do: "Con nom hắn thuận mắt."

Câu này vừa nói ra đã làm rộ lên một trận cười của cung nhân, nàng cũng lười biện giải, trong lòng chẳng giữ điều gì thầm kín nên thần sắc tương đối tự nhiên.

Hoàng hậu mỉm cười, cũng nhìn Tô Thức, nói: "Cậu Tô Thức này tài trí mẫn tuệ, văn phong có chỗ tương tự Âu Dương học sĩ. Cậu ta có một đứa em trai, tên là Tô Triệt, hôm nay cũng đỗ tiến sĩ. Hiện giờ trong kinh hai anh em nổi danh lắm, mấy ngày trước cha con xem bài thi đình của họ xong mừng rỡ khôn xiết, đặc biệt nói với ta: 'Âu Dương Tu quả nhiên có mắt nhìn người, cống cử bận này lựa được không ít kẻ sĩ có tài văn chương, trong đó có một cặp huynh đệ, tên là Tô Thức, Tô Triệt, đều có tài đảm đương tể chấp, bài của Tô Thức đáng khen hơn cả. Chẳng qua, ta đã có tuổi rồi, e rằng không dùng đến hai nhân tài này, có điều, giữ họ lại cho đời sau cũng là một ý hay.'"

Công chúa ngạc nhiên: "Cha đã thích vậy, sao không chọn Tô Thức làm trạng nguyên?"

Hoàng hậu đáp: "Ta cũng không biết, lát nữa con tự hỏi cha con đi."

Sau, công chúa hỏi kim thượng chuyện này thật, kim thượng cười than: "Việc này kể ra đúng là một hiểu lầm. Bài thi đình do quan khảo thí duyệt trước, sau đó trình lên cho ta phê duyệt theo thứ tự quan khảo thí đề xuất. Ban đầu Âu Dương Tu phê duyện bài thi đình, đọc bài của Tô Thức tỏ ra rất khen ngợi, có ý chọn cậu ta đứng nhất, nhưng khi đó bài thi bít tên, y không biết ai là tác giả, lại thấy người này văn phong vừa vặn đúng kiểu mình thích, sợ bài văn này là của học trò mình Tằng Củng, nếu chọn làm trạng nguyên, chỉ e ngày sau sẽ rước lấy người khác chê trách, bèn đặt xuống hạng hai, xếp bài của Chương Hành lên đệ nhất. Lúc ta chấm bài, tuy thấy bài người đứng hai khá hơn người đứng nhất, nhưng lại nghĩ, Âu Dương học sĩ định vậy ắt có cái lý riêng của y, nếu không có sai khác gì lớn thì cứ tôn trọng ý kiến của y là hơn. Thế nên, cuối cùng vẫn giữ thứ tự theo Âu Dương học sĩ đề xuất, để Tô Thức chịu thiệt thòi làm bảng nhãn. Nào ngờ xướng danh xong, tiến sĩ vào điện tạ ơn, ta thấy Âu Dương Tu nhìn Tô Thức chằm chằm thì vô cùng ngạc nhiên, hỏi y nguyên nhân, y mới thấp giọng nói cho ta biết việc này. Hai ta nhìn nhau im lặng, đều cảm thấy tiếc nuối..."

Công chúa quốc triều khi sơ phong đều lấy mỹ danh hai chữ, đến lúc hạ giáng hoặc tân đế lên ngôi mới thụ ân nâng bậc, đổi thành phong hiệu tên nước, lễ ngộ bổng lộc đều tăng thêm. Tháng Sáu năm nay, kim thượng tấn phong Phúc Khang công chúa làm Duyện quốc công chúa. Khi ấy Âu Dương Tu là hàn lâm học sĩ được kim thượng trọng dụng nhất, sau tri cống cử, kim thượng lại ủy thác trọng trách cho y, lệnh y kiêm chức lễ bộ thị lang, lãnh đạo chư bác sĩ Lễ viện, sắp xếp nghi chế cho sách lễ và hôn lễ của công chúa.

Sở dĩ phải xếp đặt lại nghi chế hôn lễ là bởi kim thượng muốn lấy đại lễ trang trọng quy mô hoành tráng xưa nay chưa từng có để gả con gái, chi tiết sách lễ của công chúa lại càng phải thiết kế dụng tâm, bởi quốc triều trước giờ chưa có một vị công chúa nào từng hành sách lễ.

Thế nên, việc công chúa hành sách lễ không sao tránh được bị đại thần phê bình, nhất là sau khi kim thượng phong Miêu thục nghi lên làm hiền phi, hiền phi từ chối sách lễ, kim thượng chấp thuận thỉnh cầu của bà.

Hàn lâm học sĩ Hồ Túc tiến gián vì chuyện này: "Bệ hạ lên ngôi tới nay, từng tiến phong Sở quốc, Ngụy quốc hai vị đại trưởng công chúa, đều chưa một lần hành sách lễ, nay tiến phong Duyện quốc công chúa đã là vượt quá đại trưởng công chúa. Huống hồ Hiền phi cũng từ chối lễ thăng vị, hai mẹ con một hành một không, lễ nghĩa càng thêm không tương xứng. Viết vào sử sách, hậu thế sẽ có lời chê bai, nhất định sẽ nói bệ hạ thiên vị tình thân, uổng danh thánh đức."

Nhưng lần này, kim thượng hoàn toàn bỏ ngoài tai lời can gián của y, vẫn lệnh chuẩn bị sách lễ cho công chúa, không chút che giấu công khai việc mình thiên vị con gái cho cả thiên hạ biết.

Rất nhanh đã tới đinh dậu tháng Bảy (*), ngày Duyện quốc công chúa nhận sách phong.

(*) Tính theo can chi, đây là ngày 23 tháng 7 âm lịch năm 1057.

Theo lễ nghi mới quy định, bách quan sẽ dâng tấu chúc mừng ở Văn Đức Điện, hộ bộ thị lang, tham tri chính sự Vương Nghiêu Thần và xu mật phó sứ, lễ bộ thị lang Điền Huống nhận nhiệm vụ sách sứ, bưng sách ấn từ Văn Đức Điện tới Nội Đông Môn, trước đó nhập nội đô tri giữ chức vụ nội cấp sự (*) sẽ tới Nghi Phượng Các, mời công chúa thay phục sức, mặc áo du địch (**), sách sứ lại tuyên bố phụng chế trao sách ấn cho công chúa, nội cấp sự nhận sách ấn vào trong, bưng ấn quỳ gối trao cho công chúa, công chúa bái tạ thụ ấn, nhận lời chúc tụng thăng vị của nội mệnh phụ, sau đó đến điện đế hậu bái tạ phụ mẫu.

(*) Chức vụ nội thị giữ vai trò liên hệ trong ngoài cung.

(**) Tên loại lễ phục cấp bậc cao nhất của mệnh phụ trong cung thời cổ đại, chỉ dưới lễ phục của hoàng hậu (gọi là huy y).

Ngày ấy, nội mệnh phụ trong cung đến bên ngoài Nghi Phượng Các từ rất sớm, lần lượt xếp hàng chỉnh tề, đợi công chúa đi ra, nhận sách ấn trong sân, nhập nội đô tri cũng đúng giờ có mặt ở gác, tuyên thỉnh công chúa thay phục sức, du địch, song mãi lâu sau vẫn không thấy công chúa xuất hiện, đô tri vô cùng kinh ngạc, cao giọng mời lại hai lần, cũng không thấy nàng có phản ứng gì.

Miêu hiền phi thống lĩnh nội mệnh phụ trong sân, không tiện rời đi, bèn đánh mắt ra hiệu bảo ta vào xem.

Ta vào rồi, hỏi thị nữ hầu hạ bên cửa phòng công chúa trước, họ nói công chúa đã sớm trang điểm xong, nhưng chẳng biết tại sao lại làm biếng nằm xuống, không chịu khoác lễ phục cài trâm miện.

Công chúa mặc áo đơn bằng vải sa trắng lót trong du địch, nằm trên giường quay người vào trong, búi tóc được ty sức chải chuốt công phu thì vẫn chưa rối loạn sợi nào.

Ta đi qua khẽ khàng gọi nàng, nàng cũng không xoay người lại, chỉ rầu rầu nói: "Ta không muốn hành sách lễ, huynh ra ngoài nói với họ, bảo họ giải tán đi."

Ta tất nhiên không nhận lệnh, nói: "Công chúa muốn miễn sách lễ phải từ chối từ trước. Nay chư thần và mệnh phụ đã vào vị trí mà công chúa đóng cửa không ra sẽ thành thất lễ."

"Huynh nói ta không từ chối từ trước à? Là cha nói thế nào cũng không đồng ý." Nàng nghiêng đầu nhìn ta, hai mắt tối tăm đờ đẫn, "Ta cứ không muốn ra đấy, huynh bảo họ đi đi, ta mặc kệ, cùng lắm thì lát nữa huynh viết hộ ta cái sớ tạ tội dâng lên cha là được."

Ta mỉm cười: "Thần chỉ là nội thị hầu hạ sinh hoạt hằng ngày của công chúa, thảo sớ không thuộc chức trách của thần."

"Hử? Không phải huynh từng xin ta bổ huynh làm hàn lâm học sĩ à?" Công chúa ngồi dậy, vén vạt áo làm bộ thi lễ vạn phúc với ta, nói: "Kính nhờ Lương nội hàn thảo một thiên sớ tạ tội thay bản vị (*)."

(*) Nghĩ chắc mọi người có thể không biết từ này vì ít gặp, nhưng đại loại đây là cách tự xưng giống như hoàng hậu, thái tử xưng "bản cung", tướng quân xưng "bản tướng" hay quan lại các cấp xưng "bản quan" với người dưới vậy đó, ở đây công chúa xưng "bản vị".

Ta bèn ứng đối theo lời nàng: "Chiếu lệnh của công chúa không hợp lý, thần không dám thay mặt viết sớ, kính xin hoàn trả chức danh, mong công chúa thứ tội."

Công chúa vỗ tay cười: "Đến tính xấu này của đại thần trong triều huynh cũng học được rồi!"

Ta chỉ cười không đáp. Nàng vẫn chưa từ bỏ ý định, chợt lại nói: "Không phải huynh nói, làm văn thay viết chữ hộ cho ta đều là chuyện vui vẻ sao? Huynh còn nói, huynh sẵn lòng làm tất thảy những điều ta muốn huynh làm..."

Sau đêm đó nói những lời này với nàng, quan hệ của chúng ta xuất hiện chút biến hóa rất đỗi vi diệu, dường như gần gũi hơn trước đây, song cả hai đều ăn ý không bàn đến chuyện này, đây là lần đầu tiên nàng đề cập tới lời nói khi ấy của ta. Tình cảm gắn bó ấm cúng giữa hai người trong đêm mưa theo câu nói một lần hiện lên, phất qua trái tim ta tựa một cơn gió xuân, niềm vui thích điềm tĩnh ấy khiến người ta lâng lâng như uống rượu, may mà lý trí sót lại của ta hãy còn biết đường nhắc nhở ta cự tuyệt dẫn dụ của nàng.

"Ơ? Thần từng nói vậy à?" Ta hỏi ngược lại như chuyện chưa từng xảy ra.

"Có, huynh có nói thế!" Nàng lập tức khẳng định.

Ta hé cười nhạt nhòa: "Thần nói khi nào ấy nhỉ?"

"Đêm hôm đó, trời mưa, ta đang khóc thì huynh đi vào..." Nàng hơi khựng lại, đại khái là ý thức được điều gì, lập tức ngậm miệng không nói nữa, gương mặt láng bóng như gốm sứ mơ hồ ửng lên sắc son hồng.

Ta cố ý ngó lơ sự khác thường của nàng, hời hợt nói: "Thật ư? Thần không nhớ."

Đoạn quay đầu gọi Tiếu Diệp Nhi và Gia Khánh Tử đứng cạnh cửa, phân phó: "Hầu hạ công chúa thay y phục đi."

"Ta có nói là muốn thay y phục hả?" Công chúa bất mãn chọi lại ta một câu.

Ta mỉm cười: "Cáo văn sách phong Duyện quốc công chúa là do Âu Dương nội hàn chấp bút, thần đoán công chúa nhất định sẽ có hứng thú ra ngoài nghe."

"Chỉ toàn mấy lời ca tụng thôi, có gì hay mà nghe?" Công chúa than thở, nhưng nói thì nói vậy, nàng vẫn để thị nữ đỡ mình đến bên bàn trang điểm, đội miện cửu huy tứ phượng, tô điểm với chín đóa hoa, bận du địch xanh sẫm vạt dài tay rộng, đeo cặp bội bạch ngọc, choàng thêm đôi dải lụa đỏ thuần...

Cuối cùng cũng khoác xong lớp phục sức long trọng kia lên người, nàng nhìn mình trong gương, chợt nở nụ cười với ta sau lưng qua tấm kính: "Nhìn ta xem, có giống Ma Hát Lạc mặc người định đoạt trong đêm thất tịch không?"

Ta không lời đối đáp.

Nàng quay người nhìn thẳng vào ta, dùng giọng bình tĩnh nói ra một câu khiến người ta thương cảm: "Họ cũng coi ta là tượng đất, đóng gói thành món lễ vật xanh đỏ sặc sỡ rồi đem tặng cho con thỏ ngốc kia đó."


4. Xuất giáng

Ngày mậu thân tháng Tám năm Gia Hựu thứ hai (*), Duyện quốc công chúa xuất giáng. Rạng sáng hôm ấy, Thu Hòa tự mình trang điểm cho nàng, dùng than vỏ ốc họa dáng mày vầng ngược (**), dán bông bích sợi vàng lên hai bên lúm đồng tiền nàng, thái dương gắn hoa cài ngọc trai kiểu trăng non, má phớt ráng hồng, trán vẽ vàng tơ, tỉ mỉ họa xong từng nét, lại điểm thêm giữa hai chân mày một đóa hoa được tạo hình tinh vi từ đá vân mẫu và châu vàng. Cộng thêm thời gian đội miện cửu huy tứ phượng và đính giấy thếp vàng lên hai bên tóc mai, chỉ riêng trang điểm đầu mặt thôi đã tốn hai canh giờ, trong đó có không ít thì giờ là để che đi dấu vết quầng thâm dưới mắt công chúa.

(*) Tính theo can chi, đây là ngày 4 tháng 8 âm lịch năm 1057.

Công chúa rất phối hợp, ngồi yên không nhúc nhích, mãi đến khi trang điểm xong mặc du địch lên người, thắt đai da vàng và khuyên lụa ngọc, ánh mắt mới lướt qua cung nhân thị nữ, tìm đến ta, hỏi: "Có đẹp không?"

Có đẹp không ư? Ta cười với nàng, đáp: "Đương nhiên."

Âu Dương Tu và chư bác sĩ Lễ viện thiết kế nghi thức thành hôn của công chúa theo cổ chế, sắp xếp cho nhà phò mã bày những món nhạn, tiền, ngọc, ngựa bên ngoài Nội Đông Môn, để nhập nội nội thị mang vào trong cung. Phò mã Lý Vĩ cưỡi ngựa đến từ sáng sớm, vào trong Đông Hoa Môn thì xuống ngựa, lễ trực quan dẫn hắn vào, đứng ngoài Nội Đông Môn, khom người về hướng tây, đợi công chúa.

Công chúa đi Phúc Ninh Điện bái biệt phụ thân trước. Bản thân kim thượng còn đang lặng lẽ lau lệ nhưng vẫn mỉm cười không ngớt khuyên công chúa: "Đừng khóc, đừng khóc, hôm nay Thu Hòa trang điểm cho con đẹp lắm, đừng khóc mà hỏng mất."

Lúc này, lỗ bộ (*), nghi trượng công chúa đã sắp đặt xong xuôi ngoài Nội Đông Môn. Sau khi ra ngoài từ Phúc Ninh Điện, công chúa chậm rãi đi tới Nội Đông Môn, lên xe yếm địch (**) trong vòng vây của mấy trăm cung nhân.

(*) Đội danh dự hộ tống xa giá của đế vương hoặc hậu phi, hoàng tử công chúa.

(**) Tên gọi xe liễn của hoàng hậu, phi tần và công chúa.

Xa giá yếm địch dùng sáu thớt ngựa xích thố kéo, buồng xe màu đỏ thẫm, trang trí bằng lông trĩ, màn che bụi đất màu tím, lưới rủ tơ hồng, đai đính la màu, trướng gấm mành kép. Trong ngoài buồng xe gắn trang sức vàng, giữa điểm ngũ sắc, hai bên vách có cửa sổ che màn bằng lụa mỏng, xung quanh khắc vân phượng, khổng tước, chạm hoa văn rùa thần, trên nóc xe dựng tượng một con phượng vàng, trên càng xe thì dựng tám con. Trong xe đặt đệm ngồi vải đào, có hòm hương đầu li, bày lư hương, nhang thơm. Toàn bộ thân xe nguy nga lộng lẫy, tinh xảo hệt hộp trang sức đẹp đẽ chói lòa.

Ma Hát Lạc xinh đẹp được thị nữ trái phải đỡ vào hộp trang sức ấy, rèm cửa buông xuống, hoàn thành bước đóng gói cuối cùng của món lễ vật.

Đợi công chúa lên xe rồi, Lý Vĩ bái lạy một lần nữa, dẫn ngựa về dinh trước. Chờ đến giờ lành, xa giá công chúa khởi hành. Nghi trượng đi trước nhất, có mấy mươi binh lính Nhai đạo ty, ai nấy cầm dụng cụ quét dọn và thùng nước mạ bạc vàng, dẫn đường vẩy rót, gọi là "thủy lộ". Kế đến là hai nhóm người hầu thân bận áo tím, đội khăn chít đầu cánh cuộn, gánh mấy trăm rương đồ cưới của công chúa. Theo sau là mười mấy cung tần cưỡi ngựa, đều khoác khăn choàng la đỏ đính vàng, cài thoa trân châu, đội miện vải la, dàn hàng đi song song hai bên đường dẫn kiệu, hàng ngũ ấy gọi là "đoản đăng". Lui ra sau nữa là vài chục cung nhân nội thị hồi môn theo hầu cùng xe ngựa của công chúa và hậu phi.

Trước sau xe yếm địch của công chúa dùng quạt tấm la hồng đính vàng che chắn, quạt vuông bốn cây, quạt tròn bốn cây, hoa dấu mười cành, đèn lồng hai mươi ngọn, hành chướng, tọa chướng (*) mỗi loại một chiếc. Hoàng hậu ngồi kiệu cửu long đích thân đưa công chúa đi, Miêu hiền phi và nội mệnh phụ có phẩm cấp trong cung cũng ngồi xe liễn theo sát phía sau. Đội xe ngựa dàn hàng trùng trùng, kéo dài mấy dặm, một đường tuần hành, người trong kinh đổ xô ra đường, vây xem dày đặc.

(*) Đây là hai loại bình phong di động có thể mang theo lúc xuất hành.

Trước đó, ta cũng được ban ân tiến cấp, bậc quan thăng lên nội thị điện đầu, đế hậu sau khi thương nghị đã quyết định cho ta một chức vụ mới – chủ quản phủ công chúa, thống lĩnh cung nhân nội thần hồi môn của công chúa, kiêm quản lý sự vụ cụ thể trong phủ công chúa. Giờ đây, ta đang mặc công phục sắc xanh, cưỡi ngựa đi bên xa giá của nàng, có lẽ do phục sức khác với màu áo nâu của nội thị phía trước nên người xem chung quanh đặc biệt để ý tới ta.

"Vị lang quân này mặc áo bào xanh lục, không phải là phò mã đấy chứ?" Có người chỉ vào ta hỏi vậy.

Lễ phục thành hôn của đàn ông quốc triều dùng công phục tương ứng với phẩm cấp của mình, không phải quan viên thì mặc áo bào xanh, bởi vậy nên người nọ mới có suy đoán này.

Lập tức có người bác bỏ y: "Không có kiến thức! Phò mã đô úy là tòng ngũ phẩm, mặc áo bào đỏ mới đúng. Tiểu lang quân này da dẻ trắng mịn, mặt không có râu, quá nửa là quan viên hoàng môn hầu hạ công chúa."

Người hỏi nổi cơn tò mò nhìn ta chăm chú, cười nói: "Hóa ra là một hoạn quan! Trông cậu ta mắt mày thanh tú thế kia, đáng tiếc..."

Ta ngoảnh mặt làm ngơ, hơi dựng thẳng lưng, dõi mắt nhìn thẳng, mặt không đổi sắc, tiếp tục giục ngựa đi về phía trước.

Đội nghi trượng đi đầu bước chân chậm rãi, dây dưa hơn một canh giờ mới đến được phủ đệ mới của công chúa và phò mã. Lý Vĩ đã sớm chờ trước cổng, chờ công chúa xuống xe, có người giúp đỡ tiến lên dẫn phò mã hạ bái làm lễ với công chúa, đón công chúa vào trong, công chúa đến trước cửa phòng ngủ, Lý Vĩ lại vái lạy, đồng thời dìu đỡ lên thềm, mời nàng vào phòng rửa mặt.

Công chúa chỉnh lý lại trang dung xong, người chủ trì hôn lễ mời công chúa và phò mã ngồi xuống đối diện nhau, Lý Vĩ một lần nữa vái lạy công chúa rồi mới ngồi xuống cùng nàng, đối ẩm ba lần, lại bái, sau đó nhận tiệc ngự hoàng hậu ban tặng.

Tiệc ngự tổng cộng chín tuần, từng tuần nhất nhất hành xong, hoàng hậu và chư nội mệnh phụ bịn rịn chia tay công chúa, khởi giá hồi cung. Công chúa lưu luyến Miêu hiền phi nhất, đuổi theo ra tận sân ngoài, kéo tay áo mẫu thân rơi lệ ròng ròng. Miêu hiền phi cũng rất đau lòng, song cũng chỉ có thể rưng rưng ngậm cười an ủi nàng, nói ngày sau có thể thường xuyên vào cung, mẹ con gặp mặt cũng chẳng khó. Dưới sự thúc giục của nội thần, hiền phi cắn răng đẩy công chúa ra, rảo bước ra cửa, vội vã lên xe rời đi, không ngoái lại nhìn con gái nữa.

Công chúa khóc lóc thảm thiết, cơ hồ ngã khuỵu xuống đất. Nhũ mẫu Hàn thị vội gắng sức đỡ nàng, ta cũng định bước lên nâng, chẳng ngờ một vị phu nhân đột ngột xuất hiện, giành trước ta kẹp lấy bên kia công chúa.

Đó là mẹ chồng công chúa, quốc cữu phu nhân Dương thị.

"Công chúa đừng khóc nữa. Hiện giờ tuy con và Miêu nương tử phải xa nhau, nhưng đã vào cửa nhà mẹ thì cũng giống như con gái mẹ, mẹ sẽ thương yêu con như mẹ ruột con vậy." Dương phu nhân cười nói với công chúa.

Công chúa nghẹn ngào, cau mày nhìn bà. Dương phu nhân dán mắt vào mặt nàng, lắc đầu: "Chậc chậc, khóc thảm quá kìa, son cũng nhòe hết cả rồi..."

Vừa nói vừa kéo tay áo, muốn lau lệ cho công chúa, công chúa chán ghét kiên quyết nghiêng đầu né tránh, bà ta vẫn chưa chịu thôi, tiếp tục cười bảo: "Mặt toàn nước mắt thôi, để mẹ lau cho con..."

Công chúa né trái tránh phải, có phần giận dữ. Ta lập tức gọi vài thị nữ qua, sai họ đỡ công chúa vào phòng chỉnh trang. Lúc này, một người sải bước đi tới, xá Dương phu nhân, nói: "Theo nghi chế quốc triều, sau ngày lại mặt, công chúa mới gặp mặt cha mẹ chồng, phu nhân nói chuyện với công chúa bây giờ là không hợp lẽ."

Người nói là đô giám phủ công chúa Lương Toàn Nhất, thầy giáo dạy ta thuở thiếu thời. Mấy năm nay thầy làm việc ở Tiền tỉnh, đã thăng đến cung phụng quan. Công chúa xuất giáng, theo thông lệ cần chọn một nội thần dày dặn kinh nghiệm cấp bậc cung phụng quan đi theo làm đô giám phủ công chúa, chức trách là hướng dẫn ngôn hành cử chỉ cho công chúa và phò mã, quan sát trạng thái sinh hoạt của họ, định kỳ thông báo cho hoàng đế. Lương Toàn Nhất phẩm hạnh xuất chúng, thanh danh tốt đẹp, lúc kim thượng tuyển chọn đô giám phủ công chúa, cảm thấy cung phụng quan Hậu tỉnh không tìm được ai thích hợp, ta bèn tiến cử Lương tiên sinh với ngài, kim thượng cũng vui vẻ bằng lòng, nhanh chóng hạ lệnh, bổ Lương Toàn Nhất làm đô giám phủ công chúa.

Hiện giờ, Dương phu nhân nghe Lương đô giám nói vậy, đành phải thôi, hậm hực lui về hậu viện. Trong lòng đại khái rất không thoải mái, vừa đi bà vừa càu nhàu: "Hoàng gia thật lắm quy củ, cưới con dâu về, mẹ chồng chủ nhà muốn gặp mặt sớm cũng không được..."

So với Dương phu nhân niềm nở thái quá, biểu hiện của phò mã Lý Vĩ thận trọng hơn nhiều, có phần hơi câu nệ, mọi cử chỉ động tác đều nghe đúng theo lời Lương đô giám và người phụ giúp phân phó. Sau đó, lúc làm lễ đồng lao (*) với công chúa, đến cắn một miếng thịt dê thôi hắn cũng hết sức dè dặt, thỉnh thoảng lại nhìn người phụ giúp, như sợ góc độ miếng cắn của mình không hợp nghi chế.

(*) Một nghi thức trong hôn lễ thời cổ đại Trung Quốc, tân lang tân nương cùng ăn một phần thịt, rất có thể là trong cùng một bát, tỏ ý bắt đầu ăn ở cùng nhau.

Trong quá trình ấy, công chúa một mực mặt không biểu cảm, cũng không một lần đưa mắt nhìn phu quân đối diện mình.

Ta trước sau vẫn hầu hạ bên công chúa cùng nội thần cung nhân tùy tùng, thẳng đến đêm, khi tân lang tân nương về gác ngủ, mới ngồi vào bàn đón nhận tiệc mừng công chúa.

Đám cung nhân bận rộn cả một ngày bấy giờ rốt cuộc cũng được thả lỏng, ai nấy mặt mày hớn hở, hết chơi đoán số lại uống rượu mừng, tận sức hưởng lạc, linh đình cỗ yến, duy độc mình ta hồn chẳng tại đây.

Ta trân trân nhìn hướng tân phòng công chúa, nhưng lại không dám nghĩ sâu. Để che giấu bản thân mất hồn mất vía, ta kéo một cốc rượu lớn Gia Khánh Tử vừa rót đầy, ngửa đầu nốc cạn.

Động tác uống rượu dứt khoát ấy được mọi người hoan hô nhiệt liệt, Trương Thừa Chiếu lại tiến lên mời ta một ly, ta cũng không chối từ, mỉm cười một hơi cạn sạch. Điều này càng thêm khơi dậy ở họ hứng thú thăm dò tửu lượng của ta, hầu như mỗi người đều châm rượu mời ta, mà ta ai đến cũng không cự tuyệt, uống xong mỗi một ly trước mặt, trong lúc đổi hướng thấy Lương Toàn Nhất đang khó xử đối mặt với chén rượu người ngoài tới kính, bèn đi tới, nhận lấy ly rượu kia, cười nói với người mời: "Lương đô giám không uống được nhiều, rượu này để tôi uống thay thầy đi."

Thế là, ta lại có thêm lý do tiếp tục nốc. Nhưng kỳ thực, ta cũng chẳng phải người giỏi uống rượu. Mấy mươi ly rượu mạnh trút xuống một bụng sầu, cuối cùng đổi lấy cơn say mèm trong dự liệu của ta.

Công chúa bây giờ... thế nào rồi?

Ta mơ hồ nghĩ vậy, trước khi hơi rượu hừng hực tràn vào não, xóa đi ý thức ta.


5. Đêm đầu

Trọn một đêm say đượm giấc nồng. Trong đầu vụt lướt những mộng cảnh vụn vặt hỗn độn, cảnh nào cảnh nấy tựa thật mà giả, mờ mịt không rõ, hệt như những bản nháp phác thảo dưới ngòi bút các họa học sinh mà ta chỉnh lý ở Họa viện khi còn nhỏ. Thứ duy nhất rõ ràng là cảm giác nóng cháy bức bối nơi đáy lòng, như có ngọn lửa bừng bừng thiêu đốt lục phủ ngũ tạng. Ta chạy băng băng trong giấc mộng hỗn loạn ấy, mãi đến khi có gì đó ẩm ướt mát rượi chạm lên da mặt bỏng rẫy của ta.

Xúc cảm mát lạnh duy trì hồi lâu, từng giọt từng giọt bắn tóe lên ấn đường, tựa như nước suối bất ngờ gặp được giữa hè khi đương đi trong núi rừng.

Ta mở mắt trong cảm giác sung sướng ấy, trước mặt phe phẩy một đoạn tay áo đỏ thắm, tiếp đó, đập vào mi mắt là dung nhan mỹ lệ của công chúa.

"Huynh tỉnh rồi?" Nàng mỉm cười nói, lại dùng khăn bông trong tay lau trán cho ta.

Sau một chớp mắt sững sờ, ta nhanh chóng ngồi dậy, quay đầu nhìn quanh, thấy mình nằm trên sập trong gian phòng của bản thân tại phủ công chúa, sắc trời mới chỉ hưng hửng, sân viện không tiếng động, mà trong buồng ngoài công chúa ra thì chỉ có Bạch Mậu Tiên, cậu bé tiểu hoàng môn phục dịch ta, đang đứng hầu bên cửa.

Ta chật vật động não trong cơn đau đầu dữ dội, từ từ nhớ lại chuyện hôm qua, không khỏi cả kinh, chẳng kịp hành lễ mà hỏi trước: "Công chúa, sao người lại tới đây?"

"À, ta muốn gặp huynh nên tới thôi. Là Tiểu Bạch mở cửa cho ta." Nàng nói, nhúng khăn vào chậu nước lạnh cạnh người, vắt ráo rồi lại mở ra định lau mặt cho ta, tự nhiên như thể đây là chuyện thường làm hằng ngày, "Sao uống nhiều thế? Mặt đỏ rực hết cả lên rồi, khó chịu lắm đúng không."

Ta ghìm khăn của nàng lại, thấp giọng nói: "Công chúa, không nên tự tiện ra khỏi gác ngủ trong ngày đại hỉ. Mau trở về đi thôi."

"Trở về? Huynh muốn ta trở về trông coi con thỏ ngốc ấy hả?" Công chúa ủ rũ nói, thấy ta không cất tiếng, nàng bỗng nhướng mày, cười hỏi: "Huynh biết ta trải qua đêm tân hôn thế nào không?"

Câu hỏi này khiến ta khó lòng đáp lại, ta cúi đầu, không tiếp lời. Nàng cười nhạt nhòa, thủ thỉ: "Trước đó ta có dặn Vân nương và bọn Gia Khánh Tử ngủ ngoài phòng ta, nếu Lý Vĩ vô lễ với ta, ta mở miệng hô hoán, họ sẽ lập tức xông vào. Cơ mà, con thỏ ngốc đúng là ngốc thật, thấy trong phòng chỉ còn lại hai ta, hắn còn khẩn trương hơn cả ta, đứng không đứng nổi ngồi không ngồi xong, tay chân chẳng biết phải để vào đâu. Ta bèn nói với hắn, ta không quen dùng chung chăn gối với người khác, bảo hắn lấy một bộ chăn nệm, chọn một chỗ khác ngoài màn trải ra mà ngủ. Hắn cũng không ý kiến gì, ôm chăn nệm trải dưới mặt sàn bên cửa sổ, ngủ luôn chỗ đó."

"Phò mã ngủ dưới sàn cả đêm?" Ta kinh ngạc, bật thốt.

Công chúa gật đầu: "Đúng vậy."

Ta im lặng hồi lâu, rồi mới nói: "Công chúa hà tất phải như thế."

"Há lại để người khác ngủ ngáy bên giường?" Nàng trả lời.

Đây vốn là câu nói nổi tiếng của Thái Tổ hoàng đế, năm đó ngài xuất binh tấn công Nam Đường, hậu chủ Nam Đường Lý Dục cầu xin bảo toàn quốc gia, ngài đã đáp vậy. Bây giờ công chúa lấy đó ra trích dẫn, không khỏi có phần dở ông dở thằng, ta nghe vào, không nhịn được phì cười.

"Phò mã là phu quân công chúa, không phải 'người khác'." Ta nói với nàng.

"Đối với ta, từ đầu tới cuối hắn chỉ là một người xa lạ." Công chúa nói, nhìn ta chăm chú, chợt đổi chủ đề sang ta: "Ta tưởng rằng nói cho huynh biết chuyện này, huynh sẽ cảm thấy vui vẻ."

Ta ngượng ngùng, quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ: "Chuyện này liên quan gì tới thần đâu?"

"Không liên quan à?" Nàng phản vấn, cũng nghiêng người qua, nhất định đòi mắt đối mắt với ta, cười nói: "Ta vừa không để ý đã phát hiện ra có người đêm qua uống rượu sầu rồi."

Công sự phòng thủ trong lòng không đỡ nổi một kích này, ta liên tiếp bại lui.

Lý trí nhắc nhở ta công chúa làm vậy là không đúng, từ thái độ nàng cư xử với phò mã đến ngôn hành trong phòng ta, ta hẳn là nên khuyên can, ngăn cản. Nhưng, nếu nói ta không hề cảm nhận được chút khoan khoái và ấm áp nào trong đây thì cũng giả dối quá rồi.

Biết rõ nối tiếp chủ đề trước mắt là một việc nguy hiểm, song lại không hạ nổi quyết tâm mời nàng ra ngoài, ta ngoảnh đầu chạm đến ánh mắt nàng, nở nụ cười đắng chát với nàng trong cảm giác mâu thuẫn ấy.

"Người ra ngoài tìm thần, phò mã có biết không?" Ta hỏi.

"Không biết. Lúc ta đi ra, hắn ngủ như heo ấy." Nàng đáp. Dưới cái nhìn chăm chú của ta, ý cười ung dung của nàng dần tan biến, nói tiếp: "Hắn còn 'ngủ ngáy' thật cơ. Đêm qua ta để nguyên quần áo đi ngủ, trằn trọc hồi lâu mới miễn cưỡng thiếp đi được, nhưng đến nửa đêm lại bị tiếng ngáy của Lý Vĩ đánh thức. Ta mở mắt, nương ánh nến long phượng quan sát hoàn cảnh xa lạ mới dần nhớ ra mình đã lấy người ngủ dưới sàn kia, không thể trở về bên cha mẹ được nữa.

"Tiếng ngáy của hắn vang lên từng trận. Ta khẽ khàng đi tới cạnh hắn, nhìn kỹ hắn. Thấy dáng vẻ hắn đầu mập bụng phệ, vô tâm vô tư nằm ngủ say sưa, miệng còn chẳng khép lại, nước miếng chảy ra lấp lánh lóe sáng dưới ánh trăng rọi vào qua cửa sổ...

"Ta yên lặng đứng bên hắn hồi lâu, nghĩ đây chính là người sẽ sống chung với mình kiếp này, mấy chục năm từ nay về sau, mỗi ngày đều phải sớm chiều bên hắn, vậy thì cả đời này còn điều gì đáng kỳ vọng nữa? ... Ta quay đầu nhìn bóng đêm ngoài song, cảm thấy mặt trời hôm nay cũng chẳng mọc nổi."

Giọng điệu nàng yên ả, trong mắt cũng ráo hoảnh, ấy nhưng lời nói ra lúc này còn khiến ta xót xa hơn cả khi nàng khóc thảm thiết ly biệt mẫu thân vào ban ngày.

"Khoảnh khắc ấy, ta thực sự muốn trở lại mười năm trước, một lần nữa làm một tiểu cô nương không biết muộn phiền, ngâm vịnh 'Dưới hiên khoai sọ tròn' với huynh trong đêm trăng." Nàng cười gượng, "Thế nên, ta muốn gặp huynh, xem huynh có còn củ khoai sọ nào dưới trăng không."

Ta bất đắc dĩ cười với nàng, "Xin lỗi, hiện giờ chỗ thần không có khoai sọ."

Nàng lắc đầu: "Không sao. Nhìn thấy huynh là có cảm giác hãy còn ở nhà rồi."

Ta rất muốn ôm nàng vào lòng, an ủi nàng, đáp lại nàng, nói cho nàng biết những cảm xúc phức tạp lắt nhắt trong mình lúc này. Nhưng, cảm nhận được nắng sớm càng lúc càng sáng tỏ trong phòng, chung quy ta vẫn không có hành động gì, sau cùng chỉ tìm chủ đề khác, ôn hòa kiến nghị: "Cây hoa trong vườn phủ công chúa tươi tốt lắm, không khí ban mai trong lành, hay là công chúa chuyển không hầu vào đó luyện đàn, có lẽ sẽ giải tỏa được phần nào nỗi lòng."

Công chúa đồng ý, ta bèn mời nàng vào vườn trước. Đợi nàng rời đi rồi, ta lập tức khoác áo đội mão, qua loa rửa mặt rồi cầm sáo ra cửa, bấy giờ mới phát hiện chẳng biết Tiểu Bạch đã tránh ra xa từ lúc nào, đang đứng trong sân, trông thấy ta lập tức chạy qua thỉnh an, hỏi ta có gì phân phó.

Tiểu Bạch năm nay mười hai, thanh tú lanh lợi, thích đọc sách, hành sự cũng chững chạc. Ta bảo nó tìm người chuyển không hầu vào vườn hoa, sau đó tự mình đi sang vườn, vừa đi vừa nghĩ, thằng bé đúng là một đứa trẻ thông minh.

Hiển nhiên, đêm thứ hai, công chúa và phò mã cũng trải qua như thế. Hôm kế, thị nữ của công chúa xì xào bàn tán, thậm chí còn cười nói dưới sàn quá lạnh, không bằng kê cho phò mã một cái sập mềm trong góc phòng công chúa.

Chi tiết chuyện khuê phòng của công chúa truyền ra ngoài với tốc độ chóng mặt, trở thành đề tài tán gẫu chủ yếu của người hầu nội nhân trong phủ. Đương nhiên, người quan tâm tới tình trạng chung sống của cặp vợ chồng son này nhất cũng chẳng phải họ.

"Quốc cữu phu nhân đang mắng phò mã ở sân sau kìa." Buổi chiều, Trương Thừa Chiếu báo với ta cảnh tượng hắn bắt gặp với vẻ cười trên nỗi đau của người khác, "Mắng hắn không có phu quyền, đến vợ cũng chẳng dám đụng vào, không ra dáng đàn ông. Nói đến phát cáu, còn thò tay nhéo tai phò mã, giọng cũng càng lúc càng lớn, đám a hoàn chung quanh nghe thấy đều che miệng cười."

Ta ngập ngừng, hỏi hắn: "Phò mã phản ứng thế nào?"

"Ôi dào, Lý đô úy của chúng ta đích thị một cái hũ nút, còn có thể thế nào được nữa?" Trương Thừa Chiếu cười: "Còn chẳng phải là bụm tai cúi gằm mặt nghe mẹ già giáo huấn, nửa ngày không hé răng sao."

Dương thị và Lý Vĩ tuy là mẹ con, song ngoại hình và tính cách lại một trời một vực. Lý Vĩ chất phác đôn hậu, Dương thị mặt nhọn môi mỏng, trong mắt lập lòe vẻ tinh ranh. Lý Vĩ chấp nhận tất thảy an bài của công chúa, mà mẫu thân hắn đối với chuyện này hẳn sẽ không khoanh tay đứng nhìn.

Suy đoán ấy nhanh chóng được chứng thực. Sau bữa tối hôm đó, ta đang bàn bạc hành trình lễ nghi phục diện bái môn ngày lại mặt của công chúa và phò mã cùng Lương Toàn Nhất thì Hàn thị đi vào, lấy ra một mảnh lụa trắng, nhỏ giọng nói với chúng ta: "Quốc cữu phu nhân vừa đưa cho tôi cái này, muốn tôi trải lên giường công chúa."

Ta và Lương đô giám nhìn nhau, nhất thời đều không biết phải nói gì.

Thân là nội thị, song ta cũng có nghe nói về mảnh vải trắng trải trên giường cưới, lấy làm tập tục nghiệm xét trinh tiết của tân nương, nhưng chi tiết này không thích hợp trong hôn lễ của công chúa.

"Bà đã giải thích với quốc cữu phu nhân là công chúa hạ giáng không có nghi chế này chưa?" Lương đô giám hỏi Hàn thị.

Hàn thị than thở: "Đương nhiên là nói rồi, nhưng bà ấy lại cười bảo, bà ấy không dám nghi ngờ tiết tháo của công chúa, chỉ là tập tục dân gian nó vậy, gia quy nhà họ Lý cũng thế, trước đây anh trai phò mã cưới chị dâu cũng đều làm thế này, công chúa nếu đã gả vào nhà họ Lý thì hành sự theo gia quy họ Lý cũng không có gì quá đáng, quan gia biết hẳn cũng sẽ đồng ý. Nói xong kiên quyết dúi vào tay tôi, bỏ lại câu ngày mai bà ta sẽ tới lấy rồi đi mất. Tôi thật sự không biết phải làm thế nào nên mới đành chạy sang tìm hai người, xin hai người nghĩ cách cho."

Ta cũng tin rằng hành động này của Dương thị không phải là nghi ngờ tiết tháo của công chúa mà chỉ nhân đây bức ép, gây áp lực cho công chúa, hi vọng tạo thành kết quả gạo nấu thành cơm. Nhưng với tính tình công chúa, đời nào nàng chịu để yên cho bà ta chi phối?

Nghĩ vậy, ta bèn nói với Hàn thị, "Không được để công chúa biết việc này. Người tất sẽ cho rằng đây là hành vi sỉ nhục người, nếu vì thế mà tổn thương hòa khí với quốc cữu phu nhân thì hậu quả khó mà lường được."

"Nhưng mà," Lương đô giám trầm ngâm: "Quốc cữu phu nhân đã ra lệnh rõ ràng phải trải lụa trắng lên giường cưới, nếu không làm vậy, bà ta ắt sẽ yêu cầu đi yêu cầu lại, thậm chí tự mình đề ra với công chúa, nếu không nói rõ với công chúa, chỉ sợ đến lúc đó tình thế sẽ càng khó dẹp yên."

Lời thầy tất nhiên cũng có lý. Ta chỉ thở dài: "Nhưng muốn nói rõ chuyện này với công chúa nào có dễ vậy."

"Khỏi phải khó xử, ta đã biết rồi." Tiếng công chúa vang lên ngoài song, sau đó, gấu váy xoay tròn, nàng đã xuất hiện bên cửa.

Bọn ta còn chưa kịp thể hiện được bao nhiêu biểu cảm kinh ngạc, ai nấy đã vội vàng đứng dậy, hành lễ với nàng.

Sắc mặt nàng vẫn bình thản, không có vẻ gì là xấu hổ giận dữ, chỉ đi thẳng tới trước mặt Hàn thị, chìa tay với bà: "Đưa lụa đây cho ta."

Hàn thị nghe lời đưa mảnh lụa cho nàng, nàng nhận lấy, cụp mắt nhìn, khóe miệng nhếch một nụ cười trào phúng.

Hôm sau, công chúa về cung phục diện bái môn, giấu bớt đi phần nào tâm trạng trước mặt cha mẹ, cũng không tỏ ra quá lạnh lùng với phò mã, nhất là khi đối mặt với lời hỏi han của phụ thân, hết lời bày tỏ mọi chuyện đều tốt, khiến kim thượng cười đến là sung sướng, như thở phào nhẹ nhõm.

Song, vừa quay lại phủ công chúa, nỗi ưu sầu ngầm ẩn trong mối hôn nhân này đã mau chóng hiển lộ.

Từ trong cung trở về, công chúa theo nghi chế quốc triều, buông rèm ngồi ngay ngắn trong sảnh đường dinh thự, tiếp kiến cha mẹ chồng.

Quốc cữu đã qua đời, người cần gặp bây giờ thực chất cũng chỉ có mình Dương thị. Dương phu nhân đã lễ phục tươm tất từ sớm, trang điểm lộng lẫy, hoan hỉ vào sảnh, thi lễ với công chúa ngoài rèm, nói đôi câu chúc tụng rồi hấp tấp hỏi han ân cần: "Công chúa ở nhà mẹ mấy ngày nay đã quen chưa? Hạ nhân trong nhà phục vụ công chúa có vừa lòng? Chúng nó có gì không ổn công chúa cứ nói với mẹ, cần đánh mẹ sẽ đánh cần mắng mẹ sẽ mắng, nhất định sẽ dạy dỗ tử tế rồi mới trả lại cho công chúa sai bảo."

Công chúa chưa lý tới bà ngay mà quay sang hỏi Trương Thừa Chiếu bên cạnh: "Ai đang nói chuyện dưới sảnh đấy?"

Trương Thừa Chiếu khom người đáp: "Bẩm công chúa, là mẫu thân của phò mã đô úy, Dương thị."

"Ồ, thì ra là thím Dương." Công chúa ra chiều tỉnh ngộ, lại nói với dưới sảnh: "Ban tọa cho thím đi."

"Thím?" Dương phu nhân lẩm bẩm lặp lại xưng hô này.

Trương Thừa Chiếu đi ra ngoài rèm, cười nói với Dương phu nhân: "Quốc cữu phu nhân, theo lệ, nhà thượng chúa (*) phải hạ vai vế xuống một bậc để tỏ lòng cung kính. Hiện giờ, bà là thím của công chúa, chớ xưng 'mẹ' với công chúa mà làm rối loạn vai vế."

(*) Cách gọi nam tử cưới công chúa thời xưa.

Thấy Dương phu nhân có vẻ giận dữ, Lương đô giám bèn giải thích với bà: "Nghi chế quốc triều quy định như vậy, phu nhân hẳn đã từng nghe nói đến rồi? Lễ nghi là thế, không tiện thay đổi, có chỗ nào không hợp tình hợp lý cũng mong phu nhân rộng lượng thứ cho."

Dương phu nhân miễn cưỡng gượng cười, nói: "Tôi biết. Xưng 'mẹ' với công chúa chẳng phải là muốn để người cảm thấy thân thiết hơn, như có mẫu thân bên cạnh sao. Nếu công chúa không thích, tôi sửa là được."

"Quốc cữu phu nhân quả nhiên thấu tình đạt lý." Trương Thừa Chiếu ngậm nụ cười chẳng mấy nghiêm túc, lại nhắc nhở bà một chuyện khác, "Còn có việc này, cũng mong phu nhân chú ý: chi phí đất đai xây dựng phủ công chúa và mọi tiêu dùng đều là của quan gia ban cho, dinh thự này vốn là một trong số của hồi môn quan gia ban tặng công chúa, công chúa là chính chủ nơi này chứ không phải vào ở nhà quốc cữu phu nhân. Quốc cữu phu nhân vốn là khách, theo phò mã vào đây, nếu thấy có chỗ nào không thoải mái thì cứ nói với công chúa, công chúa tất sẽ tận tâm an bài thỏa đáng cho phu nhân."

Sắc mặt Dương phu nhân càng thêm sa sầm, nhưng không tiện phản bác, chỉ đành nuốt giận đáp: "Vậy mụ đây xin cảm ơn công chúa trước, công chúa hao tâm rồi."

Công chúa nghe vậy mỉm cười: "Thím đừng khách khí." Lại quay sang phân phó người hầu: "Tặng lễ gặp mặt cho quốc cữu phu nhân."

Kế tiếp, hai nhóm nội thần mỗi người nâng một lễ vật, tấp nập từ ngoài cửa đi vào, đặt từng món trong sảnh.

Lễ vật công chúa tặng cho cha mẹ chồng không tệ, có ba trăm lượng bạc, năm trăm xếp gấm, vài tráp nữ trang, một bộ lễ phục, một bức danh thiếp, một túi tảo đậu... Những thứ này đều là quà tặng quy định trong nghi chế. Nhưng cái cuối cùng nội thần mang vào lại là một khay phủ nhiễu điều, tạm thời nhìn không ra trong đó đựng vật gì.

Mỗi lần đưa vào một lễ vật, nội thần đều cao giọng xướng tên món đồ, song đến lúc mang món cuối cùng vào, nội thần lại ngậm miệng, không xướng danh nữa.

Đến đây, công chúa vén rèm đi ra, chậm rãi bước tới trước mặt Dương phu nhân, lại mở nhiễu điều phủ trên khay ra, cho Dương phu nhân xem món quà trong đó.

Dương phu nhân quay đầu nhìn, tức thì biến sắc – Đó là một mảnh lụa trắng, sạch sẽ y như lúc bà đưa cho Hàn thị.

"Ta chuẩn bị món quà này tặng thím, thím có vừa lòng?" Công chúa cụp mắt hỏi Dương phu nhân.

Không đợi bà trả lời, công chúa đã nắm lấy một góc mảnh lụa, phất ống tay áo, lụa trắng mở ra trong không trung như cầu vồng, phác nên một đường cong gợn sóng duyên dáng, lại tà tà hạ xuống – mỗi tấc trên mảnh lụa đều trắng tinh, không có bất kỳ một dấu vết nhuốm màu sắc nào khác.

Liếc thấy đầu cuối mảnh lụa trắng quét qua khuôn mặt kinh ngạc của Dương thị, ánh mắt công chúa từ từ ngước lên, nhìn chòng chọc vào mắt bà, gửi đến bà một nụ cười lạnh nhạt tựa như khiêu chiến.


6. Nạp thiếp

Lẽ đương nhiên, Dương phu nhân không thể chịu đựng được thái độ của nàng dâu với mình, hôm sau lập tức vào cung, cầu kiến đế hậu.

Lương đô giám thấy tình thế không ổn, cũng vào cung theo, mong có thể giải thích được đôi điều thay công chúa dưới lời oán trách phàn nàn của Dương phu nhân. Ta ở lại phủ đợi tin tức, không khỏi cũng có phần thấp thỏm không yên, không biết Dương thị sẽ nói thế nào về công chúa trước mặt đế hậu.

Lúc sắp hoàng hôn, Lương đô giám và Dương phu nhân đồng thời trở về. Sắc mặt Dương phu nhân khó coi, chẳng buồn hành lễ buổi tối với công chúa theo nghi chế mà trực tiếp về thẳng phòng mình. Lương đô giám thì qua tìm ta trước, thuật lại tình hình trong cung.

"Dương phu nhân vào cung vừa đúng lúc quan gia bãi triều trở về. Khi đó quan gia tay cầm một cuốn tấu chương, ưu tư thất thần, sầu não không vui, Dương phu nhân ân cần hỏi han ngài, ngài cũng không nghe lọt, Dương phu nhân gọi liền mấy tiếng ngài mới có phản ứng, tuy miễn cưỡng cười tươi nhưng dáng vẻ vẫn mặt ủ mày chau, câu đầu tiên mở miệng hỏi Dương phu nhân chính là: 'Công chúa vẫn ổn cả chứ' Thế nên Dương phu nhân đại khái cũng không dám tùy tiện phàn nàn về công chúa, chỉ khúm núm thưa mọi việc vẫn ổn, trong nhà bình an vô sự, bà tới là để tạ ơn đế hậu.

"Nhưng hoàng hậu lại nhìn ra được Dương phu nhân vào cung là có lời muốn nói. Đợi quan gia đi rồi, bà ôn hòa nói với Dương phu nhân, công chúa nguyên là con gái duy nhất của quan gia, đó giờ vẫn luôn được cha mẹ sủng ái, tính tình so với con gái gia đình bình thường khó tránh khỏi có vài phần hiếu thắng. Nếu ngôn hành có chỗ nào không thỏa đáng, mong quốc cữu phu nhân gắng thông cảm, sau này bà cũng sẽ bảo ban nhiều hơn, để công chúa thu bớt tính nết, giữ đạo nữ tắc. Dương phu nhân nghe xong đắn đo chần chừ, muốn nói lại thôi, sau cùng không nói gì. Hoàng hậu lại ban thưởng tơ lụa châu báu cho bà ấy, còn mời Miêu nương tử qua ngồi với bà ấy một lúc rồi để bà ấy về."

Nghe vậy, ta mới yên lòng, thở phào một hơi. Lương đô giám không xem nhẹ động tác thả lỏng nhẹ nhõm này của ta, cẩn thận nhìn ta, nói: "Tuy vậy, song công chúa và phò mã là vợ chồng, cứ thế này lâu dài chung quy vẫn không ổn... Cậu là cận thị của công chúa, cố gắng tìm nhiều cơ hội khuyên nhủ người, nếu đã thành hôn thì vẫn nên nhẫn nại hành đạo phu thê chung sống. Thường ngày chớ nhắc đến khuyết điểm của phò mã trước mặt công chúa, người có oán thán gì, cậu cũng phải biện giải thay phò mã nhiều nhiều vào. Vợ chồng chủ tử tuế nguyệt tốt lành mới là có phúc với đám nội thần hầu hạ chúng ta."

Ta im lặng thụ giáo, gật đầu bằng lòng từng câu, nhưng cũng không muốn tiếp tục thảo luận với thầy về vấn đề này. Lát sau, hỏi thầy một chuyện khác: "Hôm nay quan gia không vui, tiên sinh có biết là do đâu không?"

Lương đô giám nói: "Sau ta có hỏi Đặng đô tri vào triều theo quan gia, ông ấy nói với ta, hôm nay Âu Dương Tu dâng sớ xin hoàng đế chọn con cháu tông thất nhận làm hoàng tử, công khai nói trên triều, trước đây quan gia không có hoàng tử nhưng còn có tình thương của công chúa an ủi thánh nhan, bây giờ công chúa đã xuất giáng, chẳng còn bên người, những bận nhàn rỗi giữa tháng ngày chính sự bận rộn, trong thâm cung còn ai có thể trò chuyện, còn ai có thể san sẻ tâm sự cùng hoàng đế đây? Chẳng bằng chọn lấy hiền lương trong tông thất, thu làm hoàng tử, cho có người cùng ra cùng vào, vấn an phụng dưỡng, an ủi lòng vua. Quan gia nghe xong trầm mặc không tỏ thái độ gì, nhưng có vài thần tử hùa theo, đều xin ngài chính thức hạ chiếu chọn lập hoàng tử. Trước sau quan gia vẫn chưa nhận lời, cũng chẳng còn tâm trạng gì, dọc đường về lại cung, chân mày cứ nhíu suốt."

Sau hôm lại mặt, công chúa thẳng thắn mời Lý Vĩ ra khỏi gác ngủ của công chúa, sang nơi khác ngủ một mình. Hàn thị lo lắng phò mã không tiếp thu được, sau khi được Lương đô giám ngầm đồng ý đã đặc biệt đi nói với Lý Vĩ, quốc triều có quy định, phò mã cần phải có công chúa tuyên triệu mới có thể ở chung với công chúa. Lý Vĩ cũng không hỏi nhiều, từ đó về sau phân ra ở riêng với công chúa, mỗi người một gác, mỗi buổi tối dùng bữa cùng công chúa xong đều quay về phòng mình, không quấy rầy đến nàng.

Dương phu nhân xem mà bực mình, thường bóng gió nói trong nhà chẳng giống cưới con dâu gì cả mà giống thỉnh thần linh hơn. Công chúa cũng không so đo với bà, phớt lờ làm lơ, coi như gió thoảng bên tai. Cuối cùng, vẫn là Dương thị mất kiên nhẫn, dứt khoát đến trước mặt công chúa thẳng thừng nói muốn nạp thiếp cho con trai: "Trước đây phò mã vốn có hai nàng hầu, nhưng sau tôi sợ công chúa vào cửa rồi không ưng nên bán cả đi. Nay trong phòng phò mã không ai chăm nom, lộn xộn bừa bãi, chung quy chẳng ra sao. Công chúa cao quý, tôi vốn chẳng dám lấy chuyện này ra làm phiền công chúa để tâm, muốn tự tìm một đứa a hoàn đặt trong phòng phò mã, làm chút việc phụng dưỡng vẩy nước quét nhà, không biết ý công chúa thế nào?"

Hàn thị trợn mắt: "Công chúa xuất giáng mới được mấy ngày mà phu nhân đã muốn nạp thiếp cho phò mã rồi?"

Công chúa xua tay với bà, ra hiệu bảo bà đừng cãi cọ, lại bình tĩnh chấp thuận yêu cầu của Dương phu nhân: "Tốt thôi. Thím cứ đi tìm người thích hợp đi, tiền tiêu hằng tháng của nàng hầu tương lai để ta chi cho."

Dương phu nhân thực sự bắt tay vào hành động ngay, tìm kiếm người thích hợp. Cuối cùng, bà nhìn trúng một thị nữ nuôi lớn từ nhỏ, Xuân Đào mười sáu tuổi. Xuân Đào dung mạo khả ái, tính cách cũng ngoan ngoãn, nào hay vừa nghe Dương phu nhân nói muốn nạp mình làm thiếp cho phò mã, nó khóc không thành tiếng, quỳ xuống lạy lục cầu xin, nói thế nào cũng không chịu bằng lòng.

Dương phu nhân khuyên nhủ Xuân Đào mấy lần mà không thấy nó hồi tâm chuyển ý, không khỏi nổi nóng, kéo nó tới cạnh gác ngủ của công chúa, công nhiên chỉ dâu mắng hòe: "Mày vào cửa nhà bà, bà cung phụng mày ăn ngon mặc đẹp, lại chẳng ngờ nuôi ra một tổ tông khó ăn khó ở! Con bà là con trai quốc cữu, huyết mạch hoàng đế còn có mấy phần tương đồng với nó, có chỗ nào không xứng với cái đĩ ngữ mày? Mày tưởng mình quý hóa lắm đấy hả, mắt mọc trên đỉnh đầu, ai cũng khó lọt mắt xanh tiên nữ nhà mày đúng không! Mày đã muốn vào nhà bà làm liệt nữ thì bà đây thành toàn cho mày, hôm nay đánh chết mày tại chỗ, ngày mai xin quan gia lập đền thờ cho mày..."

Bà vừa chửi vừa đánh, tiếng roi vun vút, Xuân Đào bị đau khóc thét liên hồi. Ta nghe mà lòng dạ bứt rứt, đưa mắt nhìn công chúa, vừa gọi một tiếng "Công chúa", nàng đã hiểu ý, phân phó: "Hoài Cát, huynh ra mang Xuân Đào vào đây."

Ta tức khắc ra ngoài, sai người ngăn Dương thị lại, bảo hai thị nữ đỡ Xuân Đào lên, dẫn nó tới trước mặt công chúa.

Xuân Đào nơm nớp lo sợ, quỳ xuống dưới gối công chúa, khẽ giọng thút thít. Công chúa dịu dàng trấn an, tự mình kiểm tra thương thế cho nó, lại sai người lấy thuốc tốt, hầm đồ bổ, chữa thương cho Xuân Đào.

Xuân Đào cảm kích vô cùng, khấu đầu liền mấy cái với công chúa. Công chúa nâng nó dậy, mỉm cười: "Cô không muốn làm thiếp phò mã là do e sợ ta đúng không? Thực ra không cần phải lo lắng đâu, cô hầu hạ phò mã tử tế cũng coi như tận tâm làm việc cho ta, ta sẽ đối xử tốt với cô."

Xuân Đào liều mạng lắc đầu, vẫn khóc lóc không nói.

"Chẳng lẽ cô không bằng lòng không phải vì chuyện này?" Công chúa ngạc nhiên, thấy Xuân Đào không đáp, nàng rất nhanh có phỏng đoán mới: "Hay là cô ghét bỏ phò mã nên mới không muốn lấy hắn?"

"Không ạ, không ạ!" Xuân Đào vội vàng phủ nhận, nhỏ giọng thỏ thẻ: "Phò mã hiền lành, đó giờ vẫn luôn rất tốt với nô tì."

Công chúa cười rộ: "Đã vậy, cô lấy hắn có gì không ổn đâu?"

Xuân Đào do dự khôn kể, một mực cúi đầu, lại bắt đầu rơi lệ.

Thấy dáng vẻ nó vậy, công chúa chợt hiểu ra: "Ồ, nhất định là cô có người trong lòng rồi!"

Công chúa bình lui tùy tùng, chỉ chừa lại ta và Hàn thị bên người, một lần nữa mỉm cười nói với Xuân Đào: "Đừng sợ, cô cứ nói ẩn tình với ta, ta nhất định sẽ giúp cô."

Xuân Đào trù trừ hồi lâu, sau nghe Hàn thị khích lệ, rốt cuộc cũng nói ra nguyên do trong này. Thì ra bữa trước nó về nhà thăm song thân, từng vô tình gặp được anh họ nhà dì, sau mấy lần tiếp xúc, hai người dần nảy sinh tình cảm, tư định chung thân, anh họ cũng bắt đầu buôn bán làm ăn, muốn sớm ngày chuộc thân cho nó, kết mối lương duyên, ai ngờ bây giờ Dương phu nhân lại muốn nó làm thiếp, thế nên nó thà chết không theo.

Công chúa yên lặng lắng nghe, đến cuối, có lẽ là liên tưởng đến chuyện mình quá vãng, trong mắt cũng dâng lên ánh nước.

"Ta sẽ chuộc thân cho cô." Nàng hứa hẹn với Xuân Đào, "Ta sẽ thực hiện tâm nguyện cho cô, nhất định sẽ cho cô được ra khỏi nhà này, lấy người mình thích."

Sau đó, nàng sai người đi mời Dương phu nhân. Chẳng bao lâu sau Dương thị vào trong gặp công chúa, đi theo bà còn có phò mã Lý Vĩ.

Công chúa dứt khoát nói thẳng muốn chuộc thân cho Xuân Đào, bảo với Dương phu nhân, bất kể trước kia đã bỏ bao nhiêu tiền mua Xuân Đào, nàng cũng sẽ trả lại cho Dương phu nhân gấp mười.

Dương phu nhân nghe rồi cười lạnh, nói: "Tôi nuôi con bé nó mười năm rồi, mất không biết bao nhiêu tâm huyết dạy dỗ nó, sao có thể dùng tiền tính toán! Công chúa muốn mua, tôi lại cứ không muốn bán đó. Bây giờ nó sống là người của tôi, chết là ma của tôi. Nó không chịu làm thiếp tôi cũng không thả đi, tôi muốn nhìn xem con đĩ con này có ba đầu sáu tay gì mà dám đấu với tôi!"

Công chúa cũng chẳng khách khí, nói thẳng: "Hôm nay mời thím tới không phải là muốn thương lượng với thím. Ta là chủ nhân phủ này, tất thảy nô tì trong phủ đều do ta xử trí, do ta định đoạt. Ta đã đồng ý cho Xuân Đào về nhà, bây giờ chỉ thông báo với thím một tiếng thế thôi, ngày mai sẽ thả con bé đi. Tiền ta đã chuẩn bị xong xuôi rồi, lấy hay không là việc của thím."

Dương phu nhân nổi sùng lên, giọng đáp càng thêm chanh chua: "Tôi mua con bé nó bằng vàng ròng bạc trắng, khế ước bán thân vẫn đang ở chỗ tôi, sao thoắt chốc đã thành người của công chúa rồi? Công chúa nói phủ đệ của công chúa tôi cũng chịu, lại chẳng ngờ đến một nô tì công chúa cũng muốn cướp của tôi, nói ra không sợ người khác chê cười ư! Hôm nay tôi nói cho hay, Xuân Đào là người của tôi, công chúa không có quyền làm chủ thay nó. Công chúa không phục thì cứ đi tìm người phân xử. Tôi tin có bẩm lên quan gia, ngài cũng sẽ không cảm thấy công chúa có lý."

"Đủ rồi!" Lý Vĩ vẫn giữ im lặng nãy giờ bất đồ mở miệng, nói với mẫu thân: "Con có nói là muốn nạp thiếp đâu, mẹ ép Xuân Đào làm gì? Công chúa muốn thả nó đi thì để nó đi đi, có gì hay mà tranh chấp?"

Dương phu nhân sửng sốt quá đỗi, mất một lúc mới lấy lại được tinh thần, tức thì quở mắng con trai: "Bà đây tốn tâm tốn sức thế làm gì? Còn không phải là vì cái thằng đốn mạt nhà mày sao! Giờ mày giỏi lắm, cưới vợ quên mẹ, răm rắp nghe nó, cũng chẳng thèm nghĩ xem người ta có để mày vào mắt không..."

Lý Vĩ không muốn nghe bà càm ràm, đứng dậy đi tuốt ra ngoài, Dương thị còn chưa nguôi giận, một đường đuổi theo, vừa đi vừa nạt Lý Vĩ, thỉnh thoảng còn tát hắn mấy cái, tiếp tục liến thoắng mắng chửi.

Ta và công chúa đều tưởng là Dương thị không chịu thả người, sẽ gây trở ngại chuyện Xuân Đào chuộc thân, nhưng kết quả lại nằm ngoài dự đoán của chúng ta.

Đến bữa tối, Lý Vĩ tới muộn hơn thường ngày một lát, cũng có vẻ hơi mệt mỏi. Thấy công chúa, hắn lấy một cuộn giấy trong tay áo ra đưa cho nàng, lúng ta lúng túng: "Đây, là khế ước bán thân của Xuân Đào."


7. Mực cổ

Ngày kế, Xuân Đào nhận khế ước bán thân công chúa hoàn trả, trở về bên cha mẹ. Trước khi đi có đến bái biệt công chúa, công chúa sai người lấy một trăm xâu tiền cho nó, còn dặn dò nếu sau này gặp chuyện gì khó khăn, đừng ngại quay lại nhờ cậy, nàng ắt sẽ giúp đỡ. Xuân Đào tất nhiên cảm kích vô cùng, rưng rưng quỳ xuống khấu đầu, liên tục tỏ lòng biết ơn. Công chúa đỡ nó dậy, cười nói: "Không cần phải cảm ơn ta. Chứng kiến bản thân có thể thúc đẩy một mối duyên lành, có khi ta còn vui sướng hơn cô đấy."

Chuyện này giúp nàng duy trì tâm trạng tốt suốt cả ngày, đây là lần đầu tiên sau khi xuất giáng, nàng tươi cười vui vẻ đến vậy.

Buổi chiều, nàng triệu tập thị nữ mình mang từ trong cung theo đến trước mặt, nói với họ: "Các em hầu hạ ta nhiều năm, bây giờ đều đến tuổi xuất giá cả rồi, nếu có ý trung nhân thì cứ nói cho ta biết, ta sẽ thả các em về nhà lấy chồng, cũng cho các em một khoản hồi môn không bạc."

Bọn thị nữ rối rít tạ ơn, nhưng tạm thời chưa có ai xin về nhà. Công chúa hỏi lại lần nữa, cũng chỉ có Hương Duyên Tử đứng ra, ấp úng thưa: "Nô tì không có ý trung nhân, nhưng cha mẹ trong nhà tuổi tác đã cao, nô tì lại không có anh em, chị gái đều đã xuất giá, thế nên..."

Công chúa tỏ tường, không đợi con bé nói xong đã nói: "Được, vậy em về nhà đi. Ta ban thưởng em thêm chút tiền, tạo điều kiện cho em mua vài thửa ruộng hoặc mở hàng buôn bán, sau này kén lấy một tấm chồng ở rể, phụng dưỡng cha mẹ cùng em."

Hương Duyên Tử cả mừng, tạ ân không ngớt. Sau đó lại có hai cô bé tỏ ý muốn về nhà, công chúa cũng đồng ý thả người, thưởng hậu tiền của. Đợi đến lúc không còn ai bày tỏ thái độ, công chúa một lần nữa xác nhận ý muốn trả tự do cho họ, cũng hứa với họ một cam kết dài hạn: "Bất cứ lúc nào, chỉ cần các em tìm được người thích hợp, hoặc là nhớ cha mẹ muốn về nhà, đều có thể nói với ta, ta sẽ lập tức thả các em đi."

Chúng thị nữ đều mừng rỡ khôn xiết, cùng nhau bái tạ, hết lời ca tụng công chúa nhân ái. Đợi họ lui xuống rồi, ta cười mỉm hỏi công chúa: "Công chúa thả hết chúng nó đi rồi, sau này còn ai hầu hạ công chúa đây?"

"Không phải vẫn còn huynh à?" Công chúa làm bộ nguýt ta, sau đó lại buồn bã thở dài: "Ta hi vọng mỗi người trong số họ đều có thể tìm được lang quân như ý, tương lai rời khỏi phủ công chúa, giúp chồng dạy con, sống đời vui vẻ, đừng như ta, bị vây hãm cả đời ở đây, không thoát thân được."

Chẳng ngờ niềm vui hôm nay của nàng lại kết thúc bằng chủ đề về khốn cảnh này, nụ cười của ta cũng đông cứng lại theo đó.

"Nhưng huynh chẳng tốt số được như họ đâu." Thấy ta lặng thinh không nói gì, nàng vờ tỏ ra thoải mái, dùng giọng vui đùa, trêu: "Ta còn lâu mới thả huynh đi. Ta mà bị nhốt ở đây cả đời thì huynh cũng phải ở đây với ta cả đời!"

Câu nói như cơn gió xuân thơm ngát, thổi vào lòng ta hơi ấm lan tỏa như sóng gợn. Ta chắp tay xá nàng một vái dài, nói: "Thần lĩnh chỉ tạ ân."

Sau khi xuất giáng, thời gian công chúa cần ta bầu bạn nhiều hơn hẳn so với trước đây. Lúc còn trong cung, mỗi ngày nàng đều phải đi vấn an cha mẹ, hầu hạ dưới gối, bản thân cũng có rất nhiều bạn nữ, tỷ như nhóm con gái nuôi của chư hậu phi hay những tần ngự còn trẻ tầm tầm tuổi nàng như Thu Hòa, giao du với họ cũng đủ để lấp đầy khoảng trống rỗi rảnh nơi khuê phòng của nàng. Mà nay, nàng thân là nữ chủ nhân cao quý nhất trong phủ công chúa, không cần đảm nhận nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ chồng, huống hồ sau vụ việc Xuân Đào, Dương thị càng thêm không vừa mắt nàng, lảng tránh nàng khắp nơi khắp chốn, ngoài những lúc vấn an theo lệ và gia yến ra thì tuyệt không chủ động đến nói chuyện với nàng, anh em phò mã đều có dinh riêng, giữa chị em dâu cũng không qua lại thường xuyên, thế nên công chúa khá cô quạnh, ngoại trừ luyện không hầu thì cũng chỉ có thể mượn thú vui thưởng ngoạn giết thời gian, mà những lúc ấy, thông thường đều yêu cầu ta làm bạn bên mình.

Cảm giác xa lạ ban đầu đối với hoàn cảnh từ từ biến mất, hai ta dần thích ứng với cuộc sống hoàn toàn mới này, gảy đàn thổi sáo, đánh cờ đấu trà hoặc ngâm thơ điền từ trong tình huống ít ai quấy nhiễu, thi thoảng ta cũng sẽ chỉ điểm nàng viết chữ vẽ tranh. Hiện giờ đối với bút nghiên đan thanh, biểu hiện của nàng kiên nhẫn hơn hẳn thuở thiếu thời, không còn qua quýt nguệch ngoạc được hai nét đã muốn chạy ra ngoài chơi nữa, để hoàn thành một tác phẩm hài lòng, nàng có thể khóa mình trong thư phòng luyện cả ngày. Ta kinh ngạc trước thay đổi của nàng, hỏi: "Trước đây không phải công chúa nói luyện thư họa quá phí thời gian, chỉ có lão đồ gàn mới làm thế thôi sao?"

Nàng trả lời: "Đúng vậy. Nhưng huynh thấy rồi đấy, ta có quá nhiều thời gian, vả lại, người cũng già rồi."

Tuy không sống chung song Lý Vĩ đến thăm công chúa khá thường xuyên, nhưng hai người nói chuyện với nhau rất ít, kể cả khi dùng bữa, Lý Vĩ cũng chỉ có thể tìm được vài câu vô thưởng vô phạt hỏi han công chúa, tỷ như món này món kia có hợp khẩu vị nàng không. Công chúa thường thuận miệng đáp qua loa lấy lệ, song mỗi câu nàng nói Lý Vĩ đều dụng tâm nhớ kỹ. Có lần công chúa chẳng qua chỉ bảo một câu rượu ngâm Giang Nam mùi vị không tệ, nhưng trong cung đã hết hàng tồn, hôm sau, trên mâm cơm của nàng đã có ngay một âu rượu ngâm Giang Nam, cũng chẳng biết Lý Vĩ tìm được từ đâu.

Vì muốn lấy lòng công chúa, hắn thể hiện vô vàn thành ý, nhưng nhiều khi lại đâm biến khéo thành vụng.

Hôm ấy tâm trạng công chúa không tốt, ở lì trong gác không ra cửa, Lý Vĩ vào vấn an, dè dặt kiến nghị nàng ra vườn hoa giải sầu, công chúa biếng nhác đáp: "Cái vườn chỉ to có chừng đấy, góc nào cũng đi cả rồi, có gì xem nữa đâu?"

Lỹ Vĩ nghĩ ngợi rồi nói: "Hôm trước ta đi Nghi Xuân Uyển, thấy cạnh đó có một mảnh đất hoang lớn, to phải hơn gấp ba cái vườn nhà mình. Để chốc nữa ta hỏi thăm xem mảnh đất ấy của ai, mua đứt về rồi xây một vườn hoa có đình đài lầu tạ cho công chúa dạo chơi."

Công chúa từ chối: "Thôi, đợt trước xây phủ công chúa này đã tốn bao nhiêu chi phí công sức rồi, muốn làm vườn to hơn gấp ba, mua đất cất lầu đều sẽ phải bỏ ra rất nhiều tiền, hao tài tốn của, tiết kiệm đi thì hơn."

"Không ngại," Lý Vĩ lập tức tiếp lời, "Ta không thiếu khoản tiền này."

Có thể hắn không có ý gì, nhưng đến ta nghe câu này còn thấy chói tai nữa là công chúa. Công chúa hơi nhíu mày, nhìn chòng chọc hắn một lát, sau cùng hờ hững buông lời: "Được, anh tự xem mà làm đi."

Lý Vĩ tựa hồ vẫn chưa ý thức được công chúa không thích mình ở điểm nào, vẫn liên tiếp lấy tiền của mà mình không thiếu nhất ra dâng tặng công chúa. Thấy công chúa hay luyện bút nghiên, rất nhanh lại đưa một bộ dụng cụ thư phòng tới: nghiên mực mã não, bút cán ngà, tráp đựng nghiên bằng vàng và chặn giấy ngọc.

"Thật đúng là chỉ hận không thể lấy vàng lấy bạc ra làm mực." Nhìn đống quà tặng lấp lánh lóa mắt, công chúa nhận xét, có phần khinh thường.

Không lâu sau, Lý Vĩ lại tặng một thỏi mực danh tiếng cho công chúa, tuy không phải bằng bạc vàng nhưng cũng tương tự những lần trước, chẳng thoát được kiếp biến khéo thành vụng.

Ngày đông chí, như thường lệ, thiên tử sẽ nhận bách quan chầu mừng, tất thảy quan viên có quan hàm trong kinh đều phải mặc triều phục đội mão tua vào cung tham gia triều hội, trang trọng như đại lễ tế tự, nghi thức này gọi là "bài đông trượng". Sau khi bài đông trượng kết thúc, hoàng đế sẽ mở tiệc chiêu đãi quần thần, đồng thời ban thưởng cho họ quà các áo mới.

Phò mã đô úy Lý Vĩ cũng vào cung tham gia triều hội, tiệc rượu vừa tan, hắn đã hào hứng chạy về dự gia yến, bước chân vào cửa liền lập tức lấy một thỏi mực Đình Khuê ra dâng lên công chúa bằng cả hai tay: "Công chúa, đây là lễ thưởng quan gia ban hôm nay. Ta vốn muốn tìm một thỏi mực cổ cho công chúa từ trước nhưng mãi vẫn không tìm được thỏi nào thích hợp, bây giờ vừa may có cái bù vào."

Lý Đình Khuê đất Hấp Châu là danh gia làm mực đời Nam Đường, mực ông làm có thể vót gỗ, rơi xuống mương một tháng cũng không hỏng, lại có hương thơm độc đáo, luôn được sĩ phu tôn sùng, hơn nữa mực Lý do Lý Đình Khuê tự tay chế tạo càng ngày càng hiếm, trong cung cũng chẳng còn tồn bao nhiêu, người đời ai cũng coi được ban thưởng mực Đình Khuê làm vinh. Thỏi Lý Vĩ dâng tặng hiện giờ có hình sống lưng đôi rồng, trên thân khắc hai chữ "Đình Khuê", quả đúng là vật báu Lý Đình Khuê tiến cống năm xưa.

Công chúa nhận lấy xem, từ chối cho ý kiến, chỉ hỏi Lý Vĩ: "Cha thật sự ban cho anh thỏi này?"

"Cũng không phải." Lý Vĩ thành thật trả lời: "Vốn quan gia ban thưởng cho ta thỏi khác, xem tên khắc trên thân thì cũng là do một người họ Lý chế tạo, tên là 'Lý Siêu', đại khái là hậu nhân của Lý Đình Khuê..."

"Ồ," Công chúa mặt không biến sắc hỏi tiếp: "Thế sao anh lại cầm mực Đình Khuê về?"

"Sau, ta phát hiện ra các học sĩ bên cạnh đều được ban mực Đình Khuê, chắc là mực Đình Khuê còn lại không bao nhiêu, quan gia trước nay vẫn luôn kính trọng văn sĩ nên ban cho các học sĩ." Lý Vĩ giải thích: "Ta mượn thỏi mực Đình Khuê của Thái Quân Mô Thái học sĩ ngồi cạnh xem thử, đại khái y thấy ta thích nên chủ động đề xuất trao đổi với ta..."

Công chúa không khỏi cười nhạt: "Thế nên anh đổi mực Lý Siêu lấy mực Đình Khuê?"

Lý Vĩ gật đầu, không quên tán thưởng Thái Tương: "Thái học sĩ bằng lòng buông tay món đồ yêu thích, thật đúng là hào phóng. Đương nhiên, ta không thể nhận không nhân tình của y vậy được, về sau ắt sẽ chuẩn bị chút lễ vật tặng y."

Công chúa cạn lời, đặt thỏi mực Đình Khuê lên bàn, đẩy trả về trước mặt Lý Vĩ rồi đứng dậy, yên lặng rời đi.

Phản ứng của nàng tất nhiên không nằm trong dự liệu của Lý Vĩ, điều này làm hắn lúng túng hoang mang, đứng lên trân trân nhìn công chúa đi xa rồi mới quay lại ngó ta, bất an hỏi: "Lương tiên sinh, có phải ta nói sai điều gì rồi không?"

Ta đắn đo một hồi, cuối cùng vẫn quyết định nói cho hắn biết chân tướng: "Đô úy, Lý Siêu là phụ thân Lý Đình Khuê."

Lý Vĩ sửng sốt, ngây ra như phỗng. Mà Dương phu nhân đó giờ vẫn bàng quan lúc này lại có hứng thú với mực cổ, cất tiếng hỏi ta: "Lương tiên sinh, thế mực của Lý Siêu chế tạo đắt hơn hay của con ông ta chế tạo đắt hơn?"

Ta trả lời: "Người đời thích cất giữ mực cổ, tinh phẩm của các thế gia làm mực, niên đại càng lâu đời thì số lượng còn lại càng thưa thớt, càng đắt giá hơn."

Dương phu nhân nhất thời nổi cơn tam bành, dí trán con trai mắng: "Cái thằng phá gia chi tử này, ai lại cầm đồ tốt đi đổi hàng rẻ tiền thế chứ! Không biết làm ăn như vậy thì của cải có nhiều nữa cũng đến ngày bị mày phá sạch mất thôi, bảo sao công chúa chướng mắt mày!"


8. Thư họa

Trước mồng một Tết hằng năm, đế hậu sẽ thưởng lễ tân niên cho tôn thất ngoại thích, cuối năm nay, công chúa đã sớm dặn ta, phải chuẩn bị cẩn thận, ra ngoài lựa mua một vài món đồ thưởng ngoạn tao nhã trong cung không có để hoàn lễ.

Dương phu nhân biết được việc này, sang nói với công chúa: "Lễ vật công chúa và phò mã tặng vào cung là đưa chung, không bằng giao cho phò mã sắm. Sau khi đón công chúa về, nó còn chưa có cơ hội nào tỏ lòng hiếu kính với quan gia và nương nương, bây giờ để nó tự mình chuẩn bị lễ hậu cũng là điều nên làm."

Công chúa nói: "Trước đây Hoài Cát ở trong cung thường xuyên theo hầu đế hậu, biết rất rõ sở thích của họ, để huynh ấy chọn lễ vật thích hợp hơn."

Dương phu nhân không vui: "Phò mã là con rể quan gia, lẽ nào mắt chọn quà lại không bằng kẻ dưới? Những năm qua nó chuẩn bị quà biếu thay mặt phủ quốc cữu cũng đã nhiều lần, có lần nào quan gia không thích đâu."

Thấy công chúa hoàn toàn biến sắc, ta lập tức giành trước mở miệng: "Quốc cữu phu nhân nói có lý, lễ vật do phò mã tự mình chọn mua có thể thể hiện được lòng hiếu kính của công chúa và phò mã, quan gia trông thấy sẽ yêu thích hơn."

Lương đô giám bên cạnh cũng tán thành khen phải, cố gắng khuyên công chúa chấp thuận kiến nghi của Dương phu nhân, cuối cùng, công chúa đành phải bằng lòng.

Thái độ của Lý Vĩ khiêm tốn hơn mẹ hắn, trước khi ra cửa chọn mua, hắn tới trưng cầu ý kiến của ta, hỏi mua loại quà gì thì hợp.

Ta nói với hắn: "Trong cung không thiếu kỳ trân dị bảo, đế hậu thường ngày chủ trương tiết kiệm, không thích đồ vật xa hoa nhưng đều rất thích bút nghiên đan thanh. Nếu đô úy có thể dâng biếu vài tác phẩm tinh hoa thư họa, ắt hẳn họ sẽ rất vui lòng."

Lý Vĩ theo lời đi mua, hơn mười ngày sau, mang về sáu bức thư họa, giao cho ta và công chúa xem.

Ta mở từng bức ra nhìn, sau đó im lặng đưa cho công chúa, công chúa xem bức thiếp chữ của Vương Hi Chi đắt giá nhất trong đó trước, nghiền ngẫm đôi chốc, bỗng khẽ nhíu mày, đánh mắt lườm Lý Vĩ.

Lý Vĩ cả kinh, hoảng sợ nhìn sang ta như đang hỏi: "Chữ này có vấn đề gì à?"

Ta mỉm cười thân thiện với hắn, nói: "Đô úy vất vả rồi, quay về nghỉ sớm đi ạ. Những chuyện vụn vặt còn lại cứ để Hoài Cát lo liệu cho."

Đợi hắn đi rồi, công chúa ném bức thiếp trong tay xuống, giận dữ ra mặt: "Con thỏ ngốc này lại ném tiền qua cửa sổ rồi, bỏ một đống tiền ra mua một bức mô phỏng về."

Khi ấy Bạch Mậu Tiên cũng ở bên hầu hạ, nghe vậy nhặt bức thiếp chữ lên tỉ mỉ đánh giá, sau đó thỉnh giáo công chúa: "Sao công chúa xác định được là bản mô phỏng ạ?"

Công chúa đáp: "Khi còn trẻ Vương Hữu Quân viết chữ đa phần dùng giấy tím, trung niên trở đi thì thường dùng giấy nhám, sau dùng giấy do Trương Vĩnh Nghĩa chế tạo. Bức thiếp này tuy đã được dày công làm cũ nhưng vẫn nhìn ra được là giấy trúc quết sáp. Đến quốc triều, kẻ sĩ mới dùng giấy trúc viết chữ, người thời Tấn đâu đã dùng giấy trúc, chắc chắn là hàng giả."

Đoạn, nàng hỏi ta: "Mấy cuốn còn lại cũng là giả?"

Ta rút hai cuốn trong số thư họa Lý Vĩ mang tới đưa cho công chúa.

Công chúa xem tranh tố nữ thượng uyển mang danh nghĩa là của Trương Huyên trước, suy xét chốc lát, nhìn ra sơ hở trong đó.

"Chất liệu và hoa văn trên váy nữ tử này xem chừng là lụa hoa hồ sen, đây là loại vải quốc triều mới có." Nàng chỉ vào người trong tranh.

Ta gật đầu, lại chỉ vào một nhân vật mang dáng dấp nội thần, nói: "Trương Huyên sống vào thời Đường Huyền Tông, nội thần thời ấy đội khăn chít đầu dạng tròn, mà người trong tranh này lại đội khăn vấn sa màu, kiểu ấy đến cuối thời Đường mới xuất hiện."

Bạch Mậu Tiên cũng nhẹ nhàng lại gần xem bức họa: "Lương tiên sinh từng nói về Trương Huyên với thần, kể rằng ông ấy vẽ nữ tử hay thoa một lớp hồng phớt lên tai họ, vả lại sở trường của ông ấy là vẽ trẻ con, vừa phác được nét thơ ngây vừa họa được thần thái sống động. Nhưng bức tranh này lại chẳng có hai đặc điểm đó, đứa bé thị nữ ôm bế trong lòng mắt mày già giặn, chẳng khác nào mặt mũi người trưởng thành thu nhỏ..."

Ta liếc thằng bé, nó lập tức cúi đầu im bặt, công chúa trông thấy, bảo ta: "Lời Tiểu Bạch nói có sai đâu, huynh ngăn nó nói hết làm gì? Tranh này đúng thật là người đời sau giả danh ngụy tạo, đến Tiểu Bạch cũng nhìn ra được mà Lý Vĩ vẫn hồ đồ không soi ra."

Nàng thở dài xua tay, mở một bức khác nghe đâu là "Độc bi khoa thạch đồ" của danh họa Lý Thành nổi tiếng vẽ tranh sơn thủy thời Ngũ Đại ra, lần này trầm ngâm một lúc lâu vẫn chưa phát hiện ra khả nghi chỗ nào, bèn hỏi ta: "Tranh này cảnh sắc âm u, cấu tứ phóng khoáng, nét bút mảnh nhẹ, vẽ cây đá phác trước tô sau, trong trẻo lưu loát, phong nhã thanh tao, đích xác là bút pháp của Lý Thành. Thuốc màu dùng để vẽ tranh lụa cũng không có gì khác thường. Làm thế nào mà huynh nhìn ra được là hàng giả thế?"

Ta đáp: "Người mô phỏng làm giả bức họa này hiển nhiên kính nghiệp hơn hẳn hai người trước, mô phỏng y như đúc, đến con dấu danh tính trên tranh cũng làm giả được. Nhưng chính bởi quá kính nghiệp nên đã giữ đúng nguyên tắc đứng đầu của cao thủ ngụy tạo: cố ý để lại một chỗ sơ hở trong bản mô phỏng để người xem có thể phân biệt được. Sơ hở trong bức họa này nằm trên bia đá. Bề mặt bia đá trong nguyên tác có một hàng chữ nhỏ có thể loáng thoáng đọc ra, viết 'Vương Hiểu nhân vật, Lý Thành thụ thạch', đó chính là ký hiệu của Lý Thành, thuyết minh rằng nhân vật trong bức họa là nhờ bạn mình Vương Hiểu vẽ. Mà bức tranh này thì lại không có hàng chữ ấy, thế nên thần kết luận là mô phỏng."

"Nhưng sao huynh biết bản gốc có hàng chữ ấy?" Công chúa truy vấn.

Ta nói nàng hay duyên cớ: "Mấy năm trước, Bùi thừa chế sưu tầm được từ dân gian bản gốc của bức tranh này, đã cất vào Bí các, thần cũng từng trông thấy."

Hôm sau, ta dẫn Bạch Mậu Tiên rời phủ công chúa, đi thẳng tới nhà Thôi Bạch.

Hiện giờ, Thôi Bạch đã là họa sĩ tiếng tăm vang khắp kinh sư, rất được sĩ phu tán thưởng, thường qua lại tụ tập hội nhã cùng văn nhân mặc khách, chỗ ở của gã cũng chuyển từ con ngõ chật hẹp khi xưa sang chốn giai cảnh gần chùa Tướng Quốc.

Ta tìm đến dinh họ Thôi qua sự chỉ dẫn của người đi đường, sau mấy cái gõ cửa, cửa nhà kẽo kẹt mở, một đứa bé chừng hơn mười tuổi thò đầu từ trong ra, mắt đảo tròn đánh giá ta, lại chẳng nói tiếng nào.

"Nguyên Du, khách tới là ai?" Ta nghe thấy tiếng Thôi Bạch vọng từ trong ra.

Ta bèn tự báo danh tính cho đứa bé kia, nhờ nó truyền báo thay mình.

Đứa bé gật đầu, chạy về, lát sau, Thôi Bạch đích thân ra đón, tươi cười xá dài với ta, liên thanh chào hỏi: "Đã lâu không gặp, Hoài Cát vẫn khỏe chứ?"

Sau hồi hàn huyên, gã dẫn ta vào, ta bận lòng việc mua tranh, vừa đi giản lược tự thuật nguyên do cho Thôi Bạch hay, hỏi gã có bằng lòng chọn vài tân tác cho ta dâng lên đế hậu không. Nghe xong, gã cười bảo: "Tôi vốn là người bị gạt bỏ khỏi Họa viện, sao dám trình mấy bức thô thiển này lên dâng cung ngự thưởng thức? Cơ mà kể cũng khéo thay, tôi đang uống trà thưởng họa, so tài đàm đạo cùng hai vị bằng hữu trong vườn, họa kỹ của họ đều không tục, cũng có tân tác ở đây, cậu đi xem xem, có bức nào hợp thì xin họ vài cuộn."

Đang định hỏi lại gã hai vị bằng hữu ấy là ai, hành lang trước mắt đã quẹo ngoặt, gã dẫn ta vào sân vườn sau nhà.

Diện tích sân sau không lớn, nhưng bên trong trồng tùng trúc ngô đồng, ở giữa đào mương dựng cầu, thoáng đãng thanh vắng, đi mà như lạc vào trong tranh.

Bên cầu có một tòa đình nghỉ chân cất bằng tre trúc, bằng hữu Thôi Bạch đều ở trong đó, một vị tuổi ngoài năm mươi, đầu chít khăn dáng cao, thân bận áo giao lĩnh, đang vén tay áo, nhấc bút điểm tô cuộn tranh trên bàn, một vị khác xấp xỉ Thôi Bạch, tuổi chừng ba mươi, đầu chít khăn cao sĩ, thân bận áo tay rộng, ngồi bên bếp lò như đang đợi tiếng ấm đun sôi để rót nước hãm trà.

Thôi Bạch dẫn ta vào đình, giới thiệu ta với hai người kia trước, họ đều đi qua chào. Ta hỏi Thôi Bạch xưng hô với hai vị tiên sinh ra sao, gã cười không đáp, chỉ nói: "Cậu xem đại tác phẩm của hai vị tiên sinh đi đã."

Ta dời gót tới bên bàn, xem tác phẩm vẽ dở của vị tiên sinh vừa mới chấp bút. Y vẽ một cội mẫu đơn, hoa không dùng bút phác mà lấy bột chu sa tô thành, kiều diễm tươi tắn, lại không mang khí khái bút mực, rất khác phép vẽ phác đắp màu của phái Hoàng thị thịnh hành trong họa viện.

Ta có ngay đáp án: "Họa hoa điểu không xương, mang phong vận cổ xưa, lại có sắc thái mới, tiên sinh hẳn là Sùng Tự tiên sinh, trưởng tôn Kim Lăng Từ thị."

Kim Lăng Từ thị chỉ họa gia hoa điểu Từ Hi thời Nam Đường, Thôi Bạch vẫn luôn yêu thích phong cách tự do thanh nhàn của ông. Con cháu Từ Hi đều thiện tài đan thanh, trong đó có trưởng tôn Sùng Tự vẽ hoa cỏ theo "lối không xương", kết hợp phong vận còn sót lại của tổ tiên với khí chất sang quý của Hoàng thị, đem lại sáng tạo mới cho giới hội họa quốc triều.

Ta đoán không sai, vị tiên sinh kia mỉm cười khom người: "Hổ thẹn quá, chính là Từ Sùng Tự bất tài tôi đây."

Thôi Bạch lại cho ta xem một bức sơn thủy treo trên vách, nói đó là tác phẩm của vị tiên sinh còn lại. Ta ngắm nghía tỉ mỉ, chỉ thấy nét bút y khéo léo phong phú, mang chút âm hưởng của Lý Thành, vẽ non nước bốn mùa, gần xa, sâu cạn, mưa gió, sáng tối, sớm chiều mỗi cảnh một vẻ, núi non thanh tú, mây khói bảng lảng, ẩn trong sương là muôn hình vạn trạng, bút pháp bố trí rất độc đáo.

Ta ngẫm ngợi đôi chốc, cũng phỏng đoán được đại khái: "Cảnh núi bốn mùa dưới ngòi bút tiên sinh khôn cùng kỳ diệu, non xuân tươi tắn như đang cười, non hạ xanh biếc như giọt nước, non thu trong vắt như điểm trang, non đông tiêu điều như thiếp ngủ, bút lực bậc này ắt phải là Hà Dương Quách Hi."

Ta tiếp tục đoán trúng. Quách Hi trợn tròn mắt, vô cùng kinh ngạc: "Tôi là phường áo vải quần đay, cư trú ở quận ngoài đã lâu, lại chẳng có xuất thân thế gia, tiếng lành đồn xa như Từ tiên sinh, sao trung quý nhân biết được tính danh kẻ hèn này?"

Ta ngậm cười đáp: "Mười năm trước, Tử Tây từng ca ngợi tiên sinh bút ý tinh tuyệt với tôi, mấy năm gần đây, một người bạn cũ ở Họa viện cũng đề cập đến mấy lần, trước đây tôi cũng từng có may mắn được thưởng thức danh tác của tiên sinh."

Nửa ngày còn lại của hôm ấy trôi qua trong sự tiếp đãi nồng hậu của ba vị họa gia. Ngoài đình nước chảy lững lờ dưới kẽ đá, gió trúc vờn nuốt lẫn nhau, trong phòng khói bếp vấn vương, rèm quyện hương mực, bọn ta thưởng trà bình họa, nói cười vui vẻ, đến Tiểu Bạch và đứa bé tên Nguyên Du cũng vừa gặp đã thân, hai đứa nhỏ ngồi bên bờ nước, Nguyên Du tay nắm cành cây, lúc lúc lại vạch lên mặt đất, dạy Tiểu Bạch vẽ quạ trên cây.

Giữa chừng, ta trình bày ý định tới thăm, hai vị tiên sinh Từ, Quách mỗi người lấy ra vài tác phẩm mới, hào phóng đưa tặng, tất nhiên ta không chịu nhận không khoản đại lễ này, lệnh Tiểu Bạch lấy tiền bạc đưa họ, họ từ chối mấy lượt, thấy ta khăng khăng mới bằng lòng nhận về dăm đồng.

"Tử Tây thật sự không chịu tặng tôi bức tân tác nào đấy à?" Ta hỏi Thôi Bạch.

Gã cười cười, gọi Nguyên Du lại, nhỏ giọng dặn mấy câu, thằng bé chạy đi như muốn lấy vật gì.

Đứa nhỏ này lanh lợi thật. Ta nhìn bóng lưng nó mỉm cười, lại hỏi Thôi Bạch: "Đây là lệnh lang?"

Thôi Bạch phá ra cười, nói: "Nguyên Du họ Ngô, là học trò tôi."

Sau đó, nụ cười gã phai nhạt, bổ sung: "Tôi vẫn chưa lấy vợ."

Ta cụp mắt lặng thinh, mang biểu cảm lễ độ hòa nhã lẳng lặng nghe Từ Sùng Tự và Quách Hi cười trêu Thôi Bạch tầm mắt quá cao, thiên hạ trăm ngàn má hồng hiền đức mà gã chẳng coi trọng được một ai đón về làm vợ.

Lát sau, Nguyên Du mang một cuộn tranh tới, đưa cho ta bằng cả hai tay. Ta mở ra xem, thấy tranh vẽ phong cảnh sông thu, một con nhạn cô độc đứng bên bờ nước thưa thớt lau sậy, ngẩng đầu trông về phương xa, sắc thái tịch liêu.

Xế chiều, ta cáo từ nhóm Thôi Bạch, họ ra sức giữ lại, nói hiếm khi gặp được người hợp ý như vậy, không bằng ở lại một đêm, khuya nay bốn người nâng cốc tâm tình, ngày mai lại về cũng không muộn.

Đúng lúc này, chùa Tướng Quốc gần đó văng vẳng tiếng trống chiều, ta nghĩ đến một chuyện, chợt nảy ý khác, bèn gật đầu bằng lòng.

Sáng sớm hôm sau, ta vừa về tới trước cổng phủ công chúa đã thấy Trương Thừa Chiếu và Gia Khánh Tử song song ra nghênh, đồng thanh nói: "Cảm tạ trời đất, cậu về rồi!"

Ta kinh ngạc: "Hai người chờ tôi ở đây suốt đêm à? Xảy ra chuyện gì thế?"

Trương Thừa Chiếu vừa dắt ngựa cho ta, vừa kể: "Sau khi cậu đi, phò mã hẹn mấy người bạn chơi bóng trong sân gõ viên sau vườn. Bên sân đó vốn là lầu nghỉ của công chúa, công chúa nghe tiếng, bèn ra lan can xem thử. Trong đám bạn của phò mã có một gã đại khái đoán được bóng người sau rèm trên lầu là công chúa, nảy ý cợt nhả, cố tình phát lực đánh bóng vào một cuộn rèm trúc bên cạnh công chúa. Công chúa nổi giận, lập tức sai vài tiểu hoàng môn xuống dưới đuổi hết bạn bè phò mã đi. Phò mã ngẩn người đứng trong sân hồi lâu, không nhiều lời câu nào, nhưng quốc cữu phu nhân nghe được chuyện này lại không vui, chạy tới chỉ vào mặt bọn tiểu hoàng môn nhiếc mắng, văng tục chửi bậy, giọng lại to, công chúa nghe tức đến rơi lệ. Tôi vốn định dẫn mấy người xuống dưới đáp trả quốc cữu phu nhân vài câu, lại bị Lương đô giám quát ngưng, bảo tôi đừng sinh sự. Tôi đành nghe lệnh, nhưng cứ để thế sao công chúa nguôi giận cho được. Sau đó người ngồi trên lầu hờn dỗi cả ngày, mà cậu thì mãi không về, người chờ đến nửa đêm, lại lo cậu gặp chuyện không may, phái rất nhiều người ra ngoài tìm kiếm, bản thân thì càng chờ càng cuống, nhịn không được khóc nức..."

Ta lập tức tăng tốc độ, hỏi: "Công chúa giờ đang ở đâu?"

Gia Khánh Tử đáp: "Trong sảnh gác ngủ ạ, thức trắng một đêm, bây giờ hãy còn đang đợi tiên sinh đấy."

Lúc trông thấy công chúa, nàng quả thực hốc hác võ vàng, hai mắt sưng đỏ như trái đào, làn da xám xịt thiếu ánh sáng, đầu vẫn để kiểu tóc hôm qua, giờ đã có vài sợi bung xõa.

Thấy ta tiến vào, ánh mắt nàng chớp lóe, vô thức đứng dậy, song sắc mặt thoắt sa sầm, quở ta: "Đã có chỗ tiêu dao bên ngoài thì còn về làm gì?" lại nhìn tả hữu, ra lệnh: "Lôi hắn ra đánh chục hèo cho ta!"

Nội thần thị nữ chung quanh đều trộm cười, không ai bước lên lôi ta ra ngoài.

Ta tủm tỉm lại gần, tay nâng một bọc giấy đưa tới trước mặt nàng. Nàng cáu kỉnh nghiêng đầu, nhưng hẳn là đã ngửi thấy hương vị tỏa ra từ đó, do dự đôi lát, cuối cùng vẫn hỏi ta: "Cái gì đây?"

"Thịt lợn nướng của vị đại hòa thượng viện Thiêu Chu chùa Tướng Quốc đó ạ."

Quả nhiên gợi lên được lòng hiếu kỳ của nàng, nàng cụp mắt nhìn. Ta vừa mở gói đồ, vừa giải thích: "Chỗ thần tìm mua tranh ở ngay cạnh chùa Tướng Quốc. Bàn bạc xong xuôi rồi thì sắc trời đã tối, thần nhớ ngày trước công chúa từng nhắc đến thịt nướng viện Thiêu Chu, nảy ra ý định đợi đến hừng đông, mua một miếng nóng hổi về cho công chúa, bèn nhận lời bạn bè ngủ lại một đêm. Hôm nay, trời còn chưa sáng thần đã sang viện Thiêu Chu, chờ miếng đầu tiên nướng xong là mua ngay về."

Nàng lập tức hỏi vấn đề mình quan tâm: "Huynh gặp được đại hòa thượng chưa? Ông ta trông thế nào?"

"Tiếc là vẫn chưa." Ta than thở, "Người ta làm ăn lớn rồi cũng kiêu ngạo ghê lắm, bây giờ thịt toàn để đồ đệ nướng thôi, bản thân dứt khoát không tiếp khách nữa."

"Ôi..." Đáp án này làm nàng buồn thiu.

Ta nhân cơ hội đưa cho nàng một que trúc đã xiên sẵn thịt nướng, nàng cũng nhận lấy, nhìn nhìn, lại ngửi ngửi thăm dò, tựa hồ chuẩn bị thưởng thức, vẻ mặt làm ta không khỏi rộ cười, bấy giờ nàng mới hồi thần lại, ý thức được mình đáng ra phải đang cáu giận mới đúng, thế là vừa thẹn vừa tức ném miếng thịt xuống đất, "hứ" một tiếng, ngồi xuống quay đầu đi không nhìn ta.

Bốn phía rộn lên khe khẽ tiếng cười vụn. Công chúa cả giận: "Cười cái gì? Lui xuống hết cho ta!"

Mọi người ngậm cười ưng thuận, lần lượt hành lễ rồi rời đi, chỉ có Gia Khánh Tử là không đi xa mà đứng hầu ngoài cửa.

Thấy trong phòng chỉ còn lại ta và công chúa, ta mới đặt thịt nướng sang một bên, thành khẩn xin lỗi nàng: "Lần này thần chưa xin phép công chúa đã ngủ lại bên ngoài, ấy là tội thứ nhất; tự ý rời cương vị, không bảo vệ công chúa kịp thời, ấy là tội thứ hai; cả đêm không về, làm công chúa lo lắng, ấy là tội thứ ba. Thần thực sự biết tội, xin cam đoan với công chúa, về sau sẽ không tái phạm nữa, mong công chúa lượng thứ."

Ta đợi một lúc, thấy nàng vẫn bất động, không có ý định đáp lời, bèn nói thêm: "Nếu công chúa không bằng lòng khoan thứ cho thần thì xin hãy cho thần tạm thời cáo lui, đợi thu xếp xong xuôi việc mua thư họa rồi sẽ cởi mão lột giày, qua đây quỳ gối tạ tội với công chúa."

Nói đoạn, ta lùi ra sau mấy bước rồi xoay người định ra cửa, công chúa vẫn trầm mặc nãy giờ chợt rảo bước nhào tới, ôm lấy hông ta từ đằng sau.

Ta không khỏi run lên, bước chân dừng sững. Gia Khánh Tử ngoài cửa nghe tiếng, ngoái đầu nhìn lại, cũng bị dọa cho hết hồn, đỏ mặt quay đầu tránh đi.

"Không phải ta giận huynh," Công chúa ôm chặt ta, áp một bên má lên lưng ta, thầm thì: "Là ta sợ không gặp lại huynh được nữa... Huynh ra ngoài một ngày mà ta ở đây như sống mòn một năm. Giả sử huynh rời bỏ ta, ta thà tức khắc chết luôn đi cho rồi."

Ta im lặng đứng yên bất động, nhất thời không có bất kỳ hồi đáp nào. Nỗi bi thương của nàng như cơn mưa bất chợt giữa hạ, một lần nữa làm ướt cõi lòng ta. Một niềm thương cảm không thể gọi tên hòa cùng nước mắt nàng men theo nếp áo ta, từ từ thấm vào trái tim ta.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip