con quy va ba no
Con quỷ và bà nó
Ngày xưa xảy một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính bèn rủ nhau đào ngũ.
"Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm thế nào bây giờ?", người thứ nhất nói.
Người thứ hai nói:
- Cách anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta trốn trong đó thì không ai có thể tìm thấy được chúng ta. Quân đội không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã chuyển quân đi nơi khác.
Thế là họ chui vào ruộng lúa, nhưng quân đội không di chuyển đi đâu mà ở nguyên vị trí chung quanh đó. Ba người lính trốn trong ruộng lúa hai ngày, hai đêm. Họ đói lả như sắp chết đến nơi. Họ không dám ló ra vì sợ chết. Họ bảo nhau: "Trốn trong ruộng lúa này không được tích sự gì cả. Chúng ta sẽ chết và thối rữa ra ở đây mất
thôi".
Đúng lúc đó, có một con rồng lửa bay trên trời qua đó. Nó xà xuống gần họ và hỏi tại sao lại trốn ở đấy. Họ trả lời: "Chúng tôi là ba người lính, chúng tôi đào ngũ vì lương ít quá. Giờ thì chúng tôi sẽ chết đói ở đây hoặc người ta sẽ treo cổ chúng tôi nếu chúng tôi ra khỏi đây"
- Nếu các anh đồng ý phục vụ ta bảy năm, Rồng nói, - ta sẽ đưa các anh lên cao, bay qua cả cánh quân lớn mà không ai chạm được vào các anh.
- Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn, đành bằng lòng thôi - Họ trả lời.
Rồng quắp họ vào móng, đưa họ khỏi cánh quân khá xa, rồi lại để họ xuống đất. Rồng đâu phải ai khác, chính nó là con quỷ. Nó đưa cho họ một cái roi nhỏ và bảo: "Các anh hãy tự đánh vào người bằng cái roi này, ở trong người các anh sẽ tuôn ra số tiền mà các anh cần có; các anh sẽ sống sung sướng như ông hoàng, tha hồ lên
xe xuống ngựa. Nhưng sau bảy năm, các anh sẽ thuộc về ta". Nó đưa cho ba người lính một quyển sách và bảo ký tên vào đó. Nó lại nói thêm:
- Lúc đó sẽ ra cho các anh một câu đố, nếu giải được thì các anh sẽ được tự do và thoát khỏi quyền lực của ta". Nói xong, con rồng bay đi.
Ba người lính bắt đầu sử dụng cái roi. Họ có nhiều tiền, họ đi may quần áo sang trọng và đi chu du thiên hạ. Ở đâu họ cũng sống vui và xa hoa, lên xe xuống ngựa, ăn uống thỏa thích nhưng họ không làm điều gì xấu. Thời gian trôi đi rất nhanh, và bảy năm sắp qua. Hai người lính cảm thấy tim thắt lại vì sợ hãi. Trong khi đó,
người thứ ba vẫn còn nhìn mọi việc với khía cạnh tốt. Anh nói: "Các cậu ạ, đừng sợ! Tớ có phải là đồ ngu đâu! Tớ sẽ giải được câu đố!"
Họ cùng đi ra cánh đồng, ngồi xuống. Hai người đầu mặt mày rầu rĩ. Lúc đó, có một bà già đi tới. Bà hỏi tại sao họ buồn thế? - "Dào ôi! Cụ biết thì có ích gì cho cụ đâu? Dù sao, cụ cũng không giúp gì được chúng tôi!"
- Biết đâu đấy! - Cụ trả lời - Các anh hãy tin ta, hãy kể ta nghe nỗi lo lắng của các anh.
Họ kể với bà cụ là đã thành người hầu của con quỷ trong bảy năm. Nó đã cung cấp cho họ tiền tiêu tha hồ, và họ sẽ thuộc hẳn về nó nếu sau bảy năm, họ không giải được một câu đố. Bà già nói:
"Nếu các anh muốn ta giúp đỡ, thì một người trong các anh phải vào rừng. Anh ta sẽ đến một tảng núi bị sập, nom như một cái nhà. Anh ta phải vào trong nhà ấy và sẽ được giúp đỡ".
Hai người lính đầu buồn rầu nói: "Có làm việc đó cũng không đi đến đâu cả", rồi ngồi ỳ ra. Người thứ ba luôn luôn vui vẻ, đứng dậy đi vào rừng; anh đi mãi cho tới khi tới cái nhà ở tảng núi sập. Trong nhà có một cụ già ngồi như phỗng đá. Đó là người đàn bà của quỉ. Cụ hỏi anh, ở đâu đến và muốn gì. Anh kể cụ nghe những việc đã
qua. Vì anh được lòng bà cụ nên cụ thương hại anh và hứa sẽ giúp anh. Cụ nhấc hòn đá to che lối vào một cái hầm và bảo: "Anh hãy trốn vào đấy. Anh sẽ nghe thấy mọi lời nói. Hãy bình tĩnh và đừng có bị kích thích, khi rồng về, ta sẽ hỏi nó về câu đố. Nó sẽ nói hết với ta. Còn anh, anh hãy lắng nghe các câu nó trả lời".
Đến nửa đêm, rồng về và đòi ăn. Bà nó dọn ra bàn ăn rượu và đồ nhắm để nó vui lòng. Họ cùng nhau ăn uống. Trong khi nói chuyện, bà nó hỏi nó về các chuyện xảy ra trong ngày, và nó đã chiếm được bao nhiêu linh hồn. "Hôm nay, cháu không gặp may - nó trả lời. Nhưng cháu đã bắt được ba thằng lính, chắc chắn cháu
sẽ chiếm được linh hồn những thằng này" - "Ba người lính à! Bà cụ hỏi, đó là những trai tráng, có thể chúng nó sẽ thoát tay mày".
Con quỉ nói với giọng khinh miệt: "Chúng thuộc về cháu mà. Cháu sẽ ra cho chúng một câu đố mà chúng không giải được" - "Câu đố thế nào?" Bà hỏi.
- Để cháu nói và nghe: ở biển Bắc bao la có một con mèo biển chết, nó sẽ được mang rán và cháu sẽ cho chúng ăn. Một cái xương sườn cá voi sẽ dùng làm thìa và một cái móng ngựa cũ dùng làm cốc cho chúng uống rượu vang.
Khi con quỉ đi ngủ, người bà nhấc hòn đá lên, cho người lính ra.
- Anh đã nghe thấy hết chưa?
- Thưa cụ rồi ạ, cháu đã biết kha khá và cái đó sẽ giúp cháu.
Anh lính trèo qua cửa sổ không một tiếng động, và vội vào đi tìm các bạn. Anh kể cho họ nghe là người bà sẽ giương bẫy lừa con quỷ thế nào và anh đã học được cách giải câu đố. Cả bọn đều vui vẻ, mặt mày hớn hở, cầm roi đánh vào người và tiền vung ra khắp bốn phía. Bảy năm đã trôi qua. Con quỉ mang quyển sách đến, chỉ cho họ những chữ ký và bảo:
- Ta sẽ dẫn các anh xuống địa ngục, ở đấy các anh sẽ được ăn một bữa. Nếu các anh đỗán sẽ được ăn thịt gì rán, thì các anh sẽ được tự do và được giữ lại cả cái roi nữa. Lúc đó người lính thứ nhất bắt đầu nói:
- Ở biển Bắc bao la, có một con mèo biển chết. Chắc chắn nó sẽ được rán cho bọn tôi ăn.
Con quỷ nổi giận, nói "Hừ! Hừ! Hừ!" và hỏi người lính thứ hai:
"Nhưng các anh lấy gì làm thìa?" - "Một cái sườn con cá voi sẽ dùng làm thìa".
Con quỉ tái mặt đi, lại làu nhàu ba lần: "Hừ! Hừ! Hừ!" và bảo người lính thứ ba: "Anh có biết là cái gì sẽ dùng làm cốc uống rượu vang không?" - "Một cái móng ngựa cũ sẽ dùng làm cốc uống rượu vang cho chúng tôi".
Quỷ liền bay đi và thét to lên. Nó không còn quyền lực gì đối với ba người lính. Còn ba người lính thì giữ lại được cái roi, họ làm ra rất nhiều tiền tùy theo ý muốn và sống sung sướng đến hết đời.
Các em vừa đọc được câu chuyện nói về sự thông minh của con người. Không có thế lực nào có thể thắng được con người cho dù đó là quỷ, một nhân vật huyền thoại có sức mạnh siêu nhiên.
Ả Grê-ten thông minh
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grê-ten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi, ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình cũng vào loại xinh đấy chứ. Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm rượu vang; ả nếm tất cả các món ngon nhất ả đã nấu, nếm đến no nê. Ả nói :
- Người đầu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị ra sao chứ ?
Một hôm, ông chủ bảo ả :
- Grê-ten này, tối nay nhà có khách. Mày hãy thịt hai con gà mái mà nấu cho ngon nhé.
- Thưa ông, xin ông hãy để cháu lo - Grê-ten trả lời.
Ả giết hai con gà mái, nhúng nước sôi, làm lông, xiên vào xiên, đến chiều thì mang quay trên lửa. Gà vàng dần và đã vàng rộm đều mà khách vẫn chưa đến. Grê-ten thưa với chủ :
- Thưa ông, nếu khách chưa đến thì cháu phải nhấc gà ra khỏi lửa. Thật là đáng tiếc. Gà vừa chín tới, tí nữa ăn ngay thì ngon thật.
Chủ nói :
- Thôi để tao chạy đi gọi khách ngay.
Chủ vừa quay lưng đi thì Grê-ten nhấc gà ra khỏi lửa và nghĩ :" Đứng gần lửa mãi vừa nóng vừa khát, biết bao giờ khách mới đến ? Trong khi chờ, mình phải xuống hầm uống ngụm rượu vang đã.
Ả chạy xuống hầm, lấy đầy một vò rượu rồi nói : "Lạy chúa phù hộ cho con", rồi uống một hơi dài. "Rượu đã chạy là chảy mạnh, - ả nói - khó mà ngừng đựơc", ả lại uống tiếp một cách thoải mái. Ả lại chạy lên bếp, đặt gà lên lửa, phết bơ và vui vẻ quay cái xiên. Gà quay thơm điếc mũi. Ả nghĩ bụng hãy còn thiếu cái gì đó phải nếm xem sao. Ả nhúng ngón tay vào nước sốt, liếm và nói :
- Ồ, những con gà mái này ngon tuyệt ! Không ăn ngay thì thật là có tội, thật đáng xấu hổ.
Ả chạy ra cửa sổ nhìn xem ông chủ và khách đã về chưa. Nhưng ả chẳng thấy ai cả. Ả lại quay về với những con gà và nghĩ : "Một cánh bị cháy, tốt nhất là chặt đi". Ả chặt cái cánh và ăn ngon lành. Ăn xong một cánh, ả tự bảo : "Mình phải chặt nốt cái cánh kia đi nếu không ông chủ về thấy có gì thiếu". Ả xơi cả cái cánh rồi ra cửa sổ xem chủ về chưa nhưng không thấy ai ! Ai mà biết ông ấy nghĩ ra cái gì ? Không thấy họ về, có thể là họ đi đâu đấy.
Ả nói : -"Này, Grê-ten ạ, việc gì mà phải thắc mắc ! Khi bắt đầu ăn một con gà thì hãy uống nữa đi và chén nốt đi ! Sau đó thì sẽ yên tâm. Tại sao lại phí của giời thế". Ả lại chạy xuống hầm, uống ra trò rồi chén nốt con gà một cách vui vẻ.
Thế là ăn sạch một con gà. Chủ thì vẫn chưa về. Grê-ten liếc nhìn con gà thứ hai và nói :
- "Phải cho con này đi theo con kia thôi, không thể tách chúng ra được. Đối xử với con kia thế nào thì hẳn là đối với con này cũng phải thế. Mình cho là nếu có uống thêm một chút thì cũng chẳng hại gì". Ả lại phấn khởi uống , con gà thứ hai cũng chạy theo con thứ nhất. Khi ả đang ăn ngon lành thì ông chủ về.
- Nhanh lên, Grê-ten - ông chủ gọi to - khách đến ngay giờ đấy.
- Thưa vâng, - Grê-ten trả lời - xong ngay đây ạ.
Ông chủ đến bàn ăn xem sắp xếp đủ chưa. Ông mang con dao để cắt thịt đi mài. Đúng lúc đó, khách gõ cửa khe khẽ và lịch sự. Grê-ten ra cửa, thấy khách thì đưa ngón tay lên môi ra hiệu và nói :
- Khẽ chứ ! Khẽ chứ ! Ông hãy mau chạy ngay đi ! Nếu chủ tôi trông thấy ông thì nguy cho ông đấy. Chủ tôi đã mời ông đến ăn, nhưng cốt để xẻo đôi tai ông đấy. Ông có nghe tiếng mài dao không ?
Khách nghe quả là đúng có tiếng mài dao, vội ba chân bốn cẳng chạy xuống thang. Grê-ten lúc đó cũng vội chạy đến chỗ ông chủ mồm loa mép giải :
- Ông ơi, khách của ông sao quý hoá thế !
- Ồ, mày nói gì lạ vậy, Grê-ten ?
- Ông ta đã cướp của cháu hai con gà đặt trên đĩa rồi chạy biến đi.
- Tệ quá - ông chủ nói, tiếc rẻ hai con gà mái ngon lành - ít ra thì ông ta cũng phải để lại một con cho mình chứ !
Ông gọi to mời khách trở lại, nhưng khách giả đò không nghe thấy. Ông liền chạy theo khách, dao hãy còn cầm ở tay và réo : "Một thôi ! Một thôi ! - ý nói là khách ít ra cũng phải để lại một con gà. Nhưng khách lại hiểu là chủ đòi một cái tai, nên chạy lao đi như gió, để mong giữ được cả hai tai nguyên vẹn về nhà./.
nho em yeu nu cua tui wa!
Người da gấu
Xưa có một anh thanh niên đi lính, rất dũng cảm, luôn luôn xung phong dưới mũi tên hòn đạn. Trong thời chiến, mọi việc đều ổn nhưng đến thời bình, anh bị thải hồi. Tên đại úy chỉ huy bảo anh tùy ý muốn đi đâu thì đi. Cha mẹ chết cả, quê hương không có, anh phải đến xin các anh cho ở nhờ, đợi đến khi nào lại có chiến chinh. Nhưng các anh đều nhẫn tâm nói:
- Chúng tôi không thể giúp chú được, chú phải tự lo liệu lấy thôi.
Anh lính có độc một khẩu súng, vác lên vai ra đi, anh đến một bãi đất hoang rộng, chỉ có mỗi một lùm cây. Anh buồn bã ngồi xuống gốc cây, nghĩ tủi thân: - Mình không có tìên, chỉ biết nghề đi lính, nay thiên hạ thái bình, chúng đuổi mình về, trông chừng chết đói đến nơi.
Chợt nghe tiếng động, anh ngoảnh cổ lại thì thấy ở bên mình có một người lạ mặt, mặc áo xanh, trông lịch sự, chỉ phải có một cái chân ngựa ghê tởm. Người ấy nói:
- Ta biết anh thiếu gì rồi. Anh cần bao nhiêu tiền ta cũng cho, nhưng trước hết ta muốn biết anh có thật là tay gan dạ không vì ta không muốn tiêu uổng tiền.
Anh đáp:
- Đã làm lính lại còn nhát à? Ông cứ việc thử thách tôi đi.
- Được lắm, anh hãy trông lại đằng sau.
Người lính ngoảnh lại thì thấy một con gấu to gầm gừ chạy đến. Anh thét:
- Ái chà, ông ngoáy cho mày buồn lỗ mũi, để mày hết cảu nhảu nhé.
Rồi anh ngắm bắn trúng mũi gấu, gấu ngã lăn ra.
Người lạ nói:
- Ta công nhận anh gan dạ, nhưng còn điều kiện khác nữa.
Người lính biết rõ đây là quỷ, bèn đáp:
- Muốn điều kiện gì cũng được, miễn là không mất phần hồn.
Người áo xanh nói:
- Cái đó tùy anh. Trong bảy năm, cấm anh sờ đến nước, chải đầu, cạo râu, cắt móng chân móng tay, cầu Chúa; phải mặc chiếc áo ngoài và chiếc áo khoác ta đưa cho đây. Trong thời gian đó, nếu anh chết thì anh là người của ta; nếu anh sống thì anh sẽ được tự do và giàu có suốt đời.
Người lính nghĩ đến thân mình cùng khổ, đã bao phen vào sinh ra tử, nên cũng nhận liều. Con quỷ cởi áo xanh đưa cho anh mà nói:
- Anh mặc áo này thì trong túi lúc nào cũng có vàng.
Rồi nó lột da gấu và nói:
- Da gấu này, anh sẽ trùm làm áo khoác và làm giường nằm, không được nằm giường nào khác. Từ nay anh mặc áo này, nên ta đặt tên anh là "Da Gấu".
Nói xong con quỷ biến mất.
Người lính mặc áo, thò tay vào túi thấy tiền thì biết là con quỷ nói đúng. Anh bèn khoác da gấu, đi chu du thiên hạ, hưởng mọi thú vui, không bỏ qua cái gì khoái trá, tiêu tiền như rác.
Năm đầu, người anh trông còn tàm tạm được, nhưng đến năm thứ hai, trông anh như một con quái: tóc mọc che gần khắp mặt, râu xồm xồm xoàm như chổi xể, móng chân móng tay y như nanh vuốt, mặt cáu ghét giá như làm đất trồng rau cũng được. Ai thấy anh cũng tránh; nhưng anh đi đến đâu người ta cũng vẫn xếp chỗ cho ở, vì anh trả nhiều tiền và anh vung tiền ra làm phúc cho người nghèo để người ta cầu nguyện cho anh được sống qua thời hạn bảy năm.
Năm thứ tư, anh đến một quán trọ. Chủ quán không muốn cho anh trọ thậm chí chuồng ngựa cũng không cho ở, e rằng ngựa trông thấy anh thì khiếp.Thế nhưng khi "Da Gấu" móc ở túi ra một nắm tiền vàng thì chủ quán xiêu lòng, cho anh ở một buồng phía sau, nhưng cấm anh không được ló mặt ra cho người khác thấy để quán trọ của hắn khỏi mang tiếng.
Một buổi tối, Da Gấu đang ngồi trong buồng, mong mỏi bảy năm chóng qua, thì nghe thấy tiếng khóc ở buồng bên cạnh. Anh vốn tốt bụng, chạy ra mở cửa thì thấy một cụ già tay ôm đầu khóc lóc thảm thiết. Da Gấu đến gần cụ già. Khi thấy anh, cụ đứng phắt dậy định chạy trốn. Nhưng nghe thấy anh nói tiếng người, cụ mới yên tâm. Da Gấu ngọt ngào dỗ cụ, cụ kể lể cho anh nghe là cụ đã tiêu hết vốn liếng, bây giờ cụ và ba cô con gái lâm vào cảnh nghèo khổ. Cụ không có tiền trả nhà trọ nên bị người ta bỏ tù.
Da Gấu nói:
- Nếu chỉ là vấn đề tiền, thì cháu có thừa thãi để giúp cụ.
Anh cho gọi chủ quán đến, trả tiền trọ cho ông cụ, lại còn cho ông cụ đáng thương thêm một túi vàng đầy.
Thế là ông cụ hết lo, nhưng không biết lấy gì trả ơn anh. Cụ nói:
- Anh hãy đến nhà tôi. Các con gái tôi rất đẹp, anh muốn lấy đứa nào thì lấy. Nếu nó biết anh là ân nhân của tôi thì tất nó không từ chối đâu. Tuy anh trông có vẻ kỳ quặc thật, nhưng nó sẽ biết cách chải chuốt cho anh dễ coi.
Da Gấu thích lắm, đi theo cụ già.
Cô gái lớn trông thấy anh, khiếp sợ, rú lên và chạy trốn. Cô thứ hai không chạy, nhìn anh từ đầu đến chân rồi nói:
- Con chịu thôi, ai lại lấy một con vật không có mặt người làm chồng được? Gấu cạo lông, mặc áo như người ở đám xiếc hôm nọ còn thích hơn, vì ít nhất nó cũng diện áo kỵ binh và đeo bao tay trắng. Trông nó chỉ xấu xí, nhưng rồi cũng quen mắt.
Con gái út nói:
- Thưa cha, người đã cứu cha trong lúc hoạn nạn hẳn là người tốt. Nếu đã hứa trả ơn mà gả con gái cho người ta, thì cha phải giữ lời hứa.
Tiếc thay mặt Da Gấu bẩn thỉu và lông lá, nên nhìn không thấy vẻ vui mừng đang tràn ngập trong lòng anh. Anh rút nhẫn ở ngón tay, bẻ làm đôi, đưa cho người yêu một nửa. Anh khắc tên anh vào nửa đưa cho nàng, dặn nàng giữ kỹ. Còn nửa nhẫn anh giữ, thì anh khắc tên người yêu. Khi từ giã người yêu, anh dặn:
- Em ơi, anh còn phải đi chu du thiên hạ ba năm nữa. Nếu anh về thì chúng ta tổ chức lễ cưới. Nếu anh không về thì là anh đã chết, em được tự do lấy chồng khác.
Dặn xong, anh ra đi.
Cô dâu đáng thương mặc đồ tang. Mỗi khi nghĩ đến anh, cô lại giàn giụa nước mắt; còn hai chị thì dè bỉu mỉa mai cô.
Chị lớn nói:
- Cẩn thận kẻo mà nát mất tay khi nó giơ cẳng bắt tay đấy!
Chị thứ hai nói:
- Liệu đấy. Gấu thích của ngọt, nếu nó thích cô, nó sẽ xơi cô mất.
Chị cả nói:
- Nhất nhất cô phải chiều theo ý nó, không thì nó cảu nhảu đấy!
Chị thứ hai lại nói:
- Đám cưới sẽ vui lắm nhỉ. Gấu là nhảy chúa giỏi.
Cô em mặc cho hai chị nói, không hề nao núng chút nào.
Còn Da Gấu thì vẫn đi lang thang đây đó làm điều thiện, bố thí cho người nghèo rất nhiều.
Ngày cuối cùng năm thứ bảy, Da Gấu lại đến ngồi ở lùm cây giữa bãi hoang. Một lát sau, anh nghe thấy gió ào ào rồi con quỷ hiện lên hầm hầm nhìn anh. Nó vứt trả anh áo cũ và đòi anh cái áo xanh.
Da Gấu nói:
- Hẵng hượm, anh phải tắm rửa cho tôi sạch sẽ đã.
Bất đắc dĩ, con quỷ phải lấy nước tắm cho Da Gấu, và chải đầu, cắt móng cho Da Gấu. Da Gấu lại ra vẻ một chiến sĩ anh dũng và đẹp trai hơn trước nhiều. Khi con quỷ đã đi xa, anh thấy mình như trút được một gánh nặng.
Anh ra tỉnh mua một chiếc áo nhung đẹp, rồi ngồi một cỗ xe bốn ngựa trắng đi về nhà vợ. Không ai nhận ra anh. Ông bố vợ tưởng anh là một võ quan cao cấp, đưa anh vào buồng ba cô gái. Hai cô chị ngồi hai bên, mời anh ngồi giữa, rồi rót rượu, lấy món ngon nhất mời anh. Hai cô chưa từng thấy người đàn ông nào đẹp như anh. Cô em mặc tang phục, ngồi trước mặt anh, cúi gầm mặt xuống không nói năng gì. Khi anh ướm hỏi ông cụ có thuận gả một cô cho anh không, thì hai cô chị đứng phắt dậy, chạy vào buồng sắm sửa, vì cô nào cũng tưởng là mình sẽ được chọn làm vợ.
Khi người khách lạ còn lại một mình với cô em, thì người ấy lấy nửa nhẫn trong túi ra, bỏ vào một cốc đầy rượu vang và đưa cốc mời cô. Cô đỡ lấy cốc, uống cạn, và khi thấy nửa nhẫn ở đáy cốc, cô hồi hộp quá lấy nửa nhẫn đeo ở cổ ra chắp với nửa kia thì thấy ăn khớp như in.
Da Gấu liền nói:
- Em ơi, anh là chồng chưa cưới của em đây mà. Trước kia, anh đội lốt gấu đến đây, nay anh lại mang hình người, sạch sẽ như xưa.
Rồi anh ôm chầm lấy cô hôn.
Bấy giờ, hai cô chị ăn mặc thật sang bước vào. Khi rõ chuyện công tử đẹp trai này là Da Gấu khi trước, hai cô tức giận vùng vằng bỏ đi.
Bà lão chăn ngỗng
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay
với, vác cả lên lưng về nhà. Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp ai cũng chào hỏi niềm nở:
- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh nặng của mình trên lưng.
Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông khẽ bảo con:
- Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là một mụ phù thủy đấy.
Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ
nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại. Chàng nói:
- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?
Bà già đáp:
- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."
Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:
- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì đến ngay đấy mà.
Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:
- Quả tôi không phải là nông dân, mà là một vị bá tước giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.
Bà già nói:
- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!
Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:
- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!
Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:
- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!
Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà nói mỉa:
- Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn thôi.
Bà nói tiếp:
- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.
Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát
sống lưng. Chàng nói:
- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.
Bà già đáp:
- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.
Bá tước nói:
- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.
Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra được. Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách khoái trá. Bà nói:
- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ thưởng cho xứng công.
Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói. Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng không chịu đi thì bà lấy roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh
khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta bảo bà lão:
- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?
Bà lão đáp:
- Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ và luôn luôn đùa giỡn với nhau.
Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:
- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất định là có thôi.
Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng:
- Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có thể mê con đấy.
Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho mình rung động được. Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một
đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới nước. Chàng nghĩ bụng:
- Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất rồi.
Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo:
- Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không cần đến, để ta cho thứ khác.
Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một viên ngọc xanh nguyên khối và dặn:
- Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho chàng.
Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại. Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng. Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết
và bà nói:
- Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai buộc lên lưng cô út một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô vào rừng hoang.
Hoàng hậu nói tiếp:
- Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa
con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng
được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.
Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.
Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu nữ. Hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên nhìn một tí rồi bảo:
- Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ.
Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng hồng mịn dịu như hoa táo. Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào.
Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió thổi tắt. Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo:
- Mẹ biết hết cả rồi.
Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch sẽ. Bà bảo cô:
- Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.
Cô bảo:
- Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ định làm gì?
Bà già hỏi:
- Thế con không biết mấy giờ rồi à?
Cô đáp:
- Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi.
Bà nói tiếp:
- Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không thể cùng ở với nhau nữa.
Cô gái sợ hãi hỏi:
- Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!
Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra. Bà bảo cô:
- Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con.
Cô gái lại hỏi:
- Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra.
- Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.
Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:
- Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ kia cũng không thoát được đâu.
Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy nàng nữa.
Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại
những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi
yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa. Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ cửa sổ. Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm nở:
- Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.
Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:
- Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ
được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì đã sống trong lo sợ.
Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:
- Con ơi ra đi con.
Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính nàng cũng không biết tại sao.
Vua bảo:
- Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, cha đã cho đi hết rồi.
Bà lão nói:
- Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.
Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy lại tới tấp.
Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém quá nên quên mất đoạn sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như
tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi. Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu có.
Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có thể đoán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.
Lon roi con doc truyen con nit,dung la yeu nu dom
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip