Chương 31: Đội trưởng đội 2 chột dạ

Mọi người đã đùa giỡn mấy lượt, nếu cứ tiếp tục thì e là không kịp hoàn thành công việc.

Ai nấy đều cúi đầu chăm chỉ làm việc, không ai nói thêm lời nào.

Tần Vũ tuy vừa nãy còn đùa vui, nói chuyện với hai người kia, còn truyền cho họ chút "canh gà tâm hồn", nhưng tay vẫn không ngừng nhổ cỏ, lật dây khoai lang.

Phần ruộng do Tần Vũ phụ trách chỉ còn một phần ba là xong.

Trong khi đó, thím Lưu và Hoàng Dương Anh mới làm được một phần ba. Vì vừa nãy có chút gián đoạn, tốc độ làm việc của Tần Vũ chậm lại khá nhiều.

Cô vội vàng tăng tốc, hai tay cùng lúc làm việc như bay để hoàn thành phần của mình, còn phải sang giúp Tiểu Thần nữa. Dù sao Tiểu Thần vẫn là trẻ con, làm việc không thể nhanh bằng người lớn.

Ở phía bên kia, đội trưởng số 2 Chu Kiến Gia thì chẳng còn tâm trí đâu mà làm việc.

Hai tay làm việc một cách vô hồn, đầu óc thì bay tận đâu đâu — bay đến chỗ Tần Vũ rồi. Anh ta âm thầm tính toán thời gian, xem còn bao lâu nữa thì có thể sang kiểm tra ruộng lạc do thím Lưu và mấy người kia phụ trách.

Trời ơi! Cái bí mật bị đè nén cả buổi chiều, mong sao đến giờ được hé lộ!

Càng nghĩ càng bực, Chu Kiến Gia làm việc trong ruộng khoai lang mà đầu óc cứ lơ đãng. Một lúc sơ ý, anh ta nhổ nhầm dây khoai lang tưởng là cỏ dại. Lúc nhổ còn thấy kỳ lạ, sao cỏ này to thế, phải dùng sức mà vẫn không nhổ lên được. Lạ thật! Cảm giác như cỏ này vừa to vừa dài.

Chu Kiến Gia đang bực mình, tuy thấy lạ nhưng cũng chẳng buồn nhìn kỹ. Anh ta dùng hết sức cuối cùng để nhổ lên.

Cuối cùng cũng nhổ được, thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khi nhìn kỹ thứ vừa nhổ lên, anh ta chết sững — trời ơi, hóa ra mình vừa nhổ nhầm dây khoai lang, còn kéo theo mấy củ khoai to từ dưới đất lên!

Thật là tai họa! Mấy củ khoai này còn to nữa chứ, chỉ còn một tháng nữa là đến kỳ thu hoạch, nếu để thêm thời gian thì chắc chắn sẽ còn to hơn. Tiếc quá, tim như bị bóp nghẹt.

Làm nông là thế, gieo trồng xong thì ngày ngày chăm sóc, đến khi thu hoạch thì mong có vụ mùa bội thu.

Trừ phần phải nộp lên, phần còn lại đủ để ăn đến kỳ chia lương tiếp theo. Nếu dư còn có thể đổi ra tiền.

Nhưng quan trọng nhất là được ăn no! Mỗi lần chia lương thực, ai nấy đều phải dè sẻn, tiết kiệm từng chút mới đủ sống đến lần sau.

Nhà nào đông người, dù làm nhiều nhưng ăn cũng nhiều. Có nhà nấu cháo loãng đến mức soi gương được, ăn một bát chưa đầy một tiếng đã đói lại.

Những lúc không đi làm, mọi người thường lên núi hái rau dại, nấm, hạt dẻ, hạt thông... để bổ sung lương thực.

Đến mùa đông, để tiết kiệm lương thực, giảm vận động, cả nhà gần như nằm lì trên giường đất cả ngày. Không vận động thì ít đói, cũng giảm được số lần nấu ăn.

Vậy mà giờ mình lại phá hoại lương thực! Là đội trưởng tiểu đội, thường xuyên đi giám sát người khác làm việc, gặp ai phá hoại lương thực thì mắng té tát, còn mắng người ta là mắt mọc sau gáy, không phân biệt nổi cây trồng với cỏ dại. Nghĩ lại thấy mặt nóng ran, thật xấu hổ.

May mà mấy củ khoai vừa nhổ lên vẫn còn nguyên rễ, chưa bị đứt, vẫn nối liền với dây khoai. Chu Kiến Gia vội vàng đào hố sâu hơn, đặt từng củ khoai vào lại, chỉnh lại dây khoai, lấp đất lên.

Rồi lấy bình nước mang theo, đổ ít nước vào chỗ vừa lấp. Hy vọng là không bị ảnh hưởng. Mấy ngày tới phải theo dõi kỹ, cố gắng cứu mấy củ khoai này.

Xử lý xong, Chu Kiến Gia vô thức ngẩng đầu nhìn quanh, thấy mọi người đều đang chăm chỉ làm việc, nhổ cỏ, lật dây khoai. Anh ta thầm thở phào: may quá, không ai thấy. Nếu bị phát hiện thì uy tín đội trưởng tiêu tan mất.

Thở dài một hơi, sau chuyện này, Chu Kiến Gia không dám lơ đãng nữa, sợ lại phá hoại lương thực. Giờ lương thực là mạng sống của anh ta! Lần này anh ta thật sự tập trung, nghiêm túc nhổ cỏ, lật dây khoai.

Làm thêm một lúc, thấy thời gian cũng gần đến. Chu Kiến Gia không có đồng hồ, thường dựa vào trời để đoán giờ. Ở nông thôn, hiếm ai có đồng hồ đeo tay.

Mọi người đều dựa vào vị trí mặt trời, mây trời, và thói quen của gia cầm trong nhà để đoán thời gian.

Phải nói con người thật thông minh, biết tận dụng thiên nhiên để phục vụ cuộc sống.

Chu Kiến Gia nhìn mây trời trôi chậm, mặt trời vốn treo cao giữa trưa giờ đã nghiêng về phía tây, ánh nắng cũng không còn gay gắt. Chiều đã trôi qua một nửa.

Anh ta lại nhìn quanh, thấy những người làm nhanh đã gần xong hai phần ba, người làm chậm cũng được một phần ba.

Còn mấy người làm biếng, đặc biệt là mấy nữ trí thức mới đến, có người vẫn đang làm phần ruộng lạc từ sáng, giờ vẫn chưa xong.

Có người vừa nhổ một nhúm cỏ đã ngồi xoa tay, mắt đỏ hoe như thể bị ai bắt nạt.

Có người thì ngồi bệt xuống đất, đếm lá cây lạc, đến cả giả vờ làm việc cũng không buồn làm, cỏ dại cũng chẳng thèm nhổ lấy một cái.

May mà mấy trí thức trẻ này không thuộc tiểu đội của mình, nếu không thì mình đã không kiềm nổi cơn giận rồi.

Mấy cô gái yếu ớt chẳng biết làm việc, đưa họ xuống nông thôn để làm gì?

Việc thì không biết làm, nhìn là biết cũng chẳng muốn học. Dù có kiên nhẫn dạy, người ta không muốn nghe thì dạy cũng vô ích.

Theo mình thấy, là do gia đình quá nuông chiều, nếu cắt tiền, cắt phiếu, không gửi đồ tiếp tế, để họ đói vài bữa thì sẽ biết quý công việc ngay.

Họ chưa từng đói, nên mới ỷ lại vào việc gia đình gửi tiền, gửi phiếu, gửi đồ, nên mới có thái độ như vậy.

Nhưng nhìn lại mấy năm nay, các trí thức trẻ xuống nông thôn, lúc mới đến thì gia đình tháng nào cũng gửi tiền, gửi phiếu, gửi đồ.

Nhưng thời gian trôi qua, nhiều người không còn nhận được gì nữa.

Nghe nói, dù người thành phố có công việc, có lương hàng tháng, nhưng con cái đông, nhà cửa lại chật chội.

Có gia đình bảy người chen chúc trong căn hộ hai phòng một sảnh do nhà máy phân cho, ba thế hệ sống chung một mái nhà.

Con cái lớn lên càng bất tiện, mà suất nhà ở của nhà máy lại có hạn.

Có người đi làm rồi, không còn cách nào, phải ra ngoài thuê nhà, nếu không thì cưới vợ cũng không có chỗ ở.

Dù có lương hàng tháng, nhưng phải trả tiền thuê nhà, cộng thêm chi phí sinh hoạt, chẳng tiết kiệm được bao nhiêu.

Ở thành phố cái gì cũng phải mua, đến cả bó rau cũng phải tranh giành — đúng vậy, không nghe nhầm đâu, là phải tranh giành.

Người thành phố muốn mua đồ thì phải dậy sớm đến hợp tác xã để giành mua. Mà giá cả ở thành phố thì cao hơn nhiều so với vùng quê. Nghe nói, có lúc rau héo úa cũng bị tranh nhau mua!

Lượng lương thực cung cấp ở thành phố cũng không nhiều, phiếu lương thực mỗi tháng đều cố định.

Mua lương thực ở hợp tác xã thì phải có cả tiền lẫn phiếu. Phiếu không đủ, nhiều người phải lén ra chợ đen mua.

Mua ở chợ đen thì giá cao gấp rưỡi, gấp đôi so với hợp tác xã, nhưng không cần phiếu. Dù chợ đen có rủi ro, có thể bị bắt, nhưng khi nhà đã hết lương thực, thì không đi không được.

Ai còn quan tâm đến rủi ro nữa, chỉ cần cẩn thận là được. Hơn nữa, chợ đen thường có người canh gác, nếu thấy đội tuần tra đến thì sẽ báo động để mọi người trốn đi.

Chợ đen thường chọn nơi kín đáo, có nhiều lối thoát, để dễ trốn khi có người đến kiểm tra.

Trong khi phải gồng mình lo chi phí sinh hoạt hàng ngày, lại còn phải gửi tiền, gửi phiếu, gửi đồ cho con cái xuống nông thôn, thì đa số người nhà đều không muốn.

Lúc con mới xuống nông thôn, vì cảm thấy áy náy nên gửi vài tháng. Nhưng sau vài tháng, khi đối mặt với thực tế tài chính eo hẹp, thì mọi sự áy náy cũng tan biến.

Vì vậy, nhiều trí thức trẻ sau khi xuống nông thôn, gia đình bắt đầu cắt dần tiền và phiếu. Thậm chí có người còn bị yêu cầu gửi một nửa số lương thực được phân về nhà.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip