Chương 3: Kính Nhi Cung

本来死人对于陈皮阿四来说,是最平常不过的东西,不说墓穴里出来的干尸粽子,就是他杀过的人,随便数数恐怕也数不清楚。他翻身一看是具尸体,心里已经一松,心说哪里来的倒霉鬼死在这里,都成鱿鱼干了还吓唬人。

Đối với Trần Bì A Tứ, gặp người chết là chuyện hết sức bình thường. Không phải xác ướp bánh tông mò ra từ cổ mộ thì cũng là kẻ xấu số do chính ông ta giết hại, đếm sơ sơ cũng không hết. Ông ta quay ra nhìn thấy cái xác, tinh thần liền thả lỏng, bụng nhủ thầm chả biết thằng quỷ xui xẻo nào lại lăn ra chết ở chỗ này, đã thành con mực khô rồi mà còn đi hù dọa người ta.

虽然这样想着,陈皮阿四手里还是卡着那颗铁弹,他这一手空手打铁弹子的功夫是他从小自己锻炼出来,可说是百发百中,而且他甩出铁弹的速度极快,普通人可能连他手里的动作都没有看到就已经给打瞎眼睛了。

Tuy nghĩ vậy nhưng Trần Bì A Tứ tay vẫn kẹp một viên đạn sắt. Tuyệt chiêu tay không bắn đạn sắt ông ta đã khổ luyện từ bé, đến giờ có thể nói là bách phát bách trúng, hơn nữa, viên đạn ông ta búng ra bay đi với tốc độ cực nhanh, người thường có lẽ còn chưa kịp nhìn thấy động tác của ông ta thì đã bị bắn cho mù mắt luôn rồi.

看这苗人的装扮,死了没有十年也有两三年了,衣服基本上都已经破烂,亏的给大量的蕨类植物和爬地细藤裹住,苗人服饰的特征才保存下来。可是日晒雨淋的,怎么这尸身就没有烂光,反而有一点脱水的感觉?

Nhìn trang phục của thi thể người Mèo này, có thể chắc chắn anh ta đã chết không mười năm thì cũng phải đôi ba năm rồi. Về cơ bản, quần áo đều đã mục nát hết, chẳng qua phần lớn thi thể bị mấy loại cây họ dương xỉ, ba địa* và rong rêu mục bao phủ nên phục sức đặc trưng của người Mèo vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng trải qua bao nhiêu năm dầm mưa dãi nắng như thế, không hiểu sao thi thể này vẫn chưa bị phân hủy hết, mà trông chỉ như bị hao đi chút nước thôi?

* Ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens.

尸体的肚子还在鼓动,陈皮阿四越看越觉得不妥。他这种人,有自己一套特别的行事方式,如果是我,当时肯定砖头就跑了。可是陈皮阿四从小就信奉先下手为强,心里转念一想间,手里已经"啪啪啪"连打出三颗铁弹子,全数打中尸体的肚子,心说管你是什么,打死再说。

Phần bụng thi thể vẫn còn hơi cử động, Trần Bì A Tứ càng nhìn càng thấy quái lạ. Ông ta là người có cách hành sự đặc biệt. Ví như nếu là tôi lúc ấy thì chắc chắn đã quay đầu bỏ chạy từ lâu rồi, nhưng Trần Bì A Tứ từ nhỏ đã tôn thờ câu "tiên hạ thủ vi cường", ông ta trong đầu vừa nghĩ, tay đã "Bụp bụp bụp" búng ra ba viên đạn, cả ba viên đều nhắm vào trúng vùng bụng của thi thể, trong lòng nghĩ, mặc kệ mày là cái quái gì, cứ đánh chết đã rồi tính.

铁弹子力道极大,几乎将尸体打成两截,下半身一脱落,陈皮阿四就看到里面一团黄色的不知名黏液,裹着大量的卵,不少卵已经孵化了出来,成堆的白色虫子在里面扭动,四周还挂着一些他非常熟悉的东西——蜂房,紧接着从尸体身上的破口处爬出了大量的地黄蜂。

Lực bắn của viên đạn sắt cực mạnh, hầu như khiến thi thể bị đánh nát làm hai nửa. Nửa người dưới vừa tách ra, Trần Bì A Tứ tức thì nhìn thấy bên trong trào ra một loại chất nhầy màu vàng không biết tên, bọc bên ngoài một lượng trứng rất lớn. Không ít trứng đã được ấp nở, biến thành một đống sâu màu trắng giãy dụa trong chất nhầy. Nhìn thoáng qua, trông nó có vẻ giống một thứ mà ông ta vô cùng quen thuộc: tổ ong. Ngay sau đó, từ vết thủng trên thi thể người túa ra một đàn ong địa hoàng*.

* Ong địa hoàng: một loại ong thuộc tỉnh Quảng Đông, loại này chủ yếu chia ra làm hai giống. Một giống gọi là "ong quỷ đầu" vì phần bụng eo có màu đen, hung dữ, độc tính rất mạnh. Loại còn lại là "ong hoàng yêu" vì phần bụng eo màu vàng, không chỉ hung dữ và độc tính rất mạnh mà còn có thể làm tổ ở trên mặt đất nữa. Loại trong truyện nhắc đến chính là loại ong hoàng yêu này.

陈皮阿四骂了一声,心说倒霉,原来是地黄蜂在尸体里做了窝。地黄蜂毒性猛烈,而且非常凶横,这下子他要倒霉了。

Trần Bì A Tứ chửi một tiếng, trong bụng thầm than thật xui xẻo, hóa ra là ong địa hoàng làm tổ trong thi thể này. Nọc của ong địa hoàng có độc tính rất mạnh, lại cực kỳ hung dữ, đúng là số ông ta quá đen.

眼看着一层黑雾腾起,地黄蜂开始密集起来。陈皮阿四急中生智,从包里翻出他随身携带的解放军折叠铲,猛地从地上铲起一把湿泥,往那尸体的断口一拍,将涌出的地黄蜂全部封住,然后转身便跑。

Mắt trông thấy ong địa hoàng bắt đầu túa ra thành cả một màn sương đen đặc, Trần Bì A Tứ bỗng cái khó ló cái khôn, lôi từ trong ba lô đồ tùy thân ra một cái xẻng gấp của quân giải phóng, xúc một xẻng đầy đất bùn ẩm, hất mạnh lên vết thủng của thi thể hòng lấp hết đám ong địa hoàng đang ào ào túa ra, sau đó xoay người bỏ chạy.

已经冲出的地黄蜂蜂拥而上,他一边用衣服拍打,一边没头没脑的四处乱跑。幸亏他一铲子速度很快,才只付出了几个包的代价。等他喘着气停下来,拍掉身上残余的地黄蜂,已经不知道自己跑到哪个地方了。

Đám ong địa hoàng đã ở bên ngoài liền ùa lên, ông ta vừa dùng quần áo đập liên tục, lại vừa chạy loạn không cần nhìn phương hướng. May mà ban nãy nhanh tay xúc một xẻng đất bùn nên mới chỉ mất có mấy cái túi. Chờ đến khi ông ta dừng lại để thở gấp, phủi phủi mấy con ong địa hoàng còn bám lại trên người, nhìn quanh quất thì không biết mình đã chạy đến nơi nào rồi.

陈皮阿四将身上中的蜂刺拔出,疼得他直咧嘴巴,心里还在奇怪,怎么会有地黄蜂在人的尸体里面做窝。这种毒蜂一般都是在地下,像蚂蚁一样,在广西的雨林深处,有时候还能看到像山包一样的蜂窝。别人以为是蚂蚁窝,翻开去找蚂蚁,还没等明白过来,就给裹成蜂球了。

Trần Bì A Tứ rút mấy con ong đã kịp đâm vào người mình, cơn đau buốt ập đến khiến ông ta phải nghiến răng. Trong bụng vẫn thấy quái lạ, tại sao trong xác chết lại có ong địa hoàng làm tổ nhỉ? Loài ong độc này thường sống dưới lòng đất, giống như loài kiến vậy. Vào sâu trong rừng mưa Quảng Tây, đôi khi còn có thể nhìn thấy hàng đống tổ ong nhấp nhô như những ngọn đồi con con. Người đi đường không biết, lại tưởng tổ kiến, đào lên tìm kiến, thế là trong khi anh ta còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị đàn ong xâu xé đến mức biến thành một quả bóng gai.

广西云南这种地方,对于虫子的事情,不被世人了解的太多了,陈皮阿四只能怪自己倒霉。他一边处理蛰伤,一边四处查看。翻过一个山丘后,他突然愣住了。

Ở mảnh đất Vân Nam, Quảng Tây này, đối với kiến thức về côn trùng sâu bọ thì người thường cũng không hiểu biết nhiều, Trần Bì A Tứ chỉ có thể tự trách số mình quá xui. Ông ta vừa tự xử lý vết thương, vừa quan sát xung quanh. Sau khi leo lên một gò núi, ông ta bỗng ngây ngẩn cả người.

只见一座巨大的石塔,就倒在他前面的山丘根部,塔身估计是六角形(无法辨认),气势磅礴,密檐宽梁。用刀刮开上面的青苔和缠绕植物,塔身上的浮雕石刻非常精美,但是明显这座塔给人焚烧过,所有的部分都有黑色的灼烧痕迹,可能是发生过火灾。

Chỉ thấy một ngọn tháp bằng đá rất lớn sụp xuống ngay trước mặt, dưới chân gò núi mà ông ta đang đứng. Có vẻ như thân tháp vốn có sáu cạnh đều nhau (không thể thấy rõ được), đồ sộ hùng vĩ, xà rộng, mái xen mái. Dùng dao gạt hết lớp rêu xanh và cây leo quấn trên bề mặt ra, ông ta mới thấy trên thân tháp có khắc những bức phù điêu bằng đá vô cùng tinh tế. Tuy nhiên, tòa tháp này rõ ràng đã từng bị thiêu hủy, cho nên tất cả các bộ phận còn lại của tòa tháp đều có những vết cháy sém màu đen, có thể vụ cháy chỉ là do tai nạn.

塔身、塔顶和塔刹全部已经开裂倒在地上,并且断成了n节。因为塔身太重,很大一部分压进了雨林的泥土里,塔下面给压倒的树木更是不计其数。

Toàn bộ thân tháp, nóc tháp và chóp tháp đều rạn nứt cả, sau cơn sụt lún đã đổ vỡ thành nhiều khối đá lớn. Thân tháp quá nặng, một phần của tháp lún hẳn xuống lớp bùn đất của khu rừng mưa. Từ dưới chân tháp, cây cối chen nhau mọc lên nhiều không kể xiết.

陈皮阿四经验丰富,知道塔一般由地宫、塔基、塔身、塔顶和塔刹组成。最上头的塔刹,因该有须弥座、仰莲、覆钵、相轮和宝珠,也有在相轮之上加宝盖、圆光、仰月和宝珠的,总之塔上面应该有一个珠形的东西,颇有价值。

Trần Bì A Tứ mình đầy kinh nghiệm, biết loại tháp này gồm có địa cung, chân tháp, thân tháp, đỉnh tháp và chóp tháp cấu tạo nên. Chóp tháp nằm ở nơi cao nhất của ngọn tháp, trên chóp có tu di tọa, ngưỡng liên, phúc bát, tương luân và bảo châu. Phía trên tương luân còn có bảo lọng, viên quang, ngưỡng nguyệt và bảo châu. Nói chung, trên đỉnh tháp này hẳn là có một thứ gì đó như châu ngọc, cực kì có giá trị.

他顺着塔身来到塔刹边上,塔刹在倒下的时候,中途可能撞倒了一棵巨大的"云杉"树,结果塔刹在半空就断了,塔刹头朝下插进了地里,须弥座碎裂。陈皮阿四看了看损坏程度,确定宝珠肯定成"宝饼"了,报废了。

Ông ta đi dọc theo thân tháp, đến bên cạnh chóp tháp. Có lẽ khi bị đổ, chóp tháp đã đụng trúng phải một cây Vân sam cao lớn, kết quả là chưa rơi xuống đất đã gãy, đầu chóp cắm ngập vào đất, tu di tọa thì vỡ vụn. Trần Bì A Tứ xem xét mức độ hư hại, xác định bảo châu chắc chắn giờ đã biến thành "bảo bánh" rồi, chả còn giá trị gì nữa.

他回到塔基出,半截断墙还在,爬进去,里面一片乱石头,下面肯定就是地宫。可惜这里不仅在修建宝塔的时候已经给人封死,而且上面还压了坍塌时候散落的大量碎石和碎砖,自己一把折叠铲,挖进地宫可能要半年时间。

Ông ta lại đi xuống phía chân tháp, ở đây có một phần của đoạn tháp vẫn còn nguyên vẹn. Bò vào thì chỉ thấy bên trong toàn đá vụn, phía dưới chắc chắn có địa cung. Đáng tiếc, đường xuống địa cung đã bị phong kín ngay từ khi bảo tháp được dựng nên, hơn nữa, tháp sụp xuống khiến cả tấn gạch đá vùi lấp mất đường xuống, chỉ với một cái xẻng, muốn đào đến địa cung có khi phải mất nửa năm là ít.

陈皮阿四看了看罗盘,他下来的时候是傍晚,天色已经非常昏暗,现在月亮已经挂了上来,自己没打火炬,走了这么远,也不知道如何回去,看样子还是装成迷路的样子,等那些苗民来救好。想着,他先在塔基用撞断的树枝和枯叶,烧起一大团篝火,来吸引别人的注意力,一边爬到塔基参与部分的最高点,想看看,四周到底是一个什么样子的情况。

Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắc trời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, mà giờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờ bị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm một cành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ý của người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.

根据从"卧佛岭"上看下来的和他现在所见的,此时他所处的区域,应该就是树木长势非常凌乱的那一片地带。地面应该是比四周要低一点,那是因为回填地宫"杂填土"的时候,因为广西的特殊气候,土层水分太多,没有结实,随着水分的下渗,泥土里面形成很多气泡,一发生大的震动,像发泡馒头一样的泥层就塌了。

Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cối mọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phía xung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưng của Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơi nước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đập bẹp một cái bánh bao không nhân.

如此说来,陈皮阿四判断出了两件事情,一就是,地宫很大,但是不深,不出二十分钟肯定能挖到。二就是,泥土应该比较松软,不会耗费太大的体力。

Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đào xuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.

此时他陷入了犹豫,到底是现在就进这个地宫,还是以后再来。现在看来,再回来一次也不是太困难。但是,陈皮阿四和所有的盗墓人一样,明知道下面有东西,是绝对无法忍住好奇心。

Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung này rồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũng không phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả những tên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối không thể kìm được lòng hiếu kỳ.

最后他一咬牙,妈拉个b的,管他娘的,这下面的东西老子要定了,要是等一下那群庙蛮子找到这里来,老子就把他们全杀了,丢进地宫里去,谁也不会知道。

Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩ nhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữa đám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vào địa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.

陈皮阿四拆开折叠铲子,他没有带洛阳铲,也没办法定位,而且佛塔到底是罕见之物。里面没有棺材,定出来也没有,他凭着直觉,贴着塔基就开始挖盗洞。

Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng Lạc Dương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy cho cùng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứ của nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào một lối vào ngay sát chân tháp.

很快他便挖到地宫的顶板,不是石头的,是曲木的整条树干割方了做的木顶。他心中大喜,用线锯开掉一个角,凋落的木块落入地宫之中,不久便传来落地声,他忙不迭的用手电往里照。

Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại không dùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góc khúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, không lâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soi vào bên trong.

"镜儿宫"上下是对称的,就是说上面有多少层塔,下面也应该有多少层地宫,所以地宫极其深。从上往下望去,每一层之间没有楼板,最下面一片漆黑。

Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặt dưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trên cao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.

手电照过去,有一团白白的雾气一样的东西,实在无法说出是什么。

Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.

陈皮阿四想起那几个苗人说的,塔下面镇着妖怪的说法,不由得也有了一丝担心。但是这一丝担心转瞬即逝,他现在头热血涨。当下感觉地宫空气没问题,一边双脚搭住曲木宫顶,以一个倒挂金钩,头朝下倒进了地宫里,全身的力量全部压在了两只脚上。

Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp để trấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắng qua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông ta liền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móc hai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình như một cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đều dồn cả vào hai chân.

倒进去后,他先调整了一下动作,先照了照地宫曲木宫顶的另一面,这种地宫是功能性的,不讳像古墓一样设置机关,或者搞很多装饰。陈皮阿四照了一圈后,却发现曲木宫顶的另一面,天花板的位置,有着大量的经文。

Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế một chút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợt phát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.

经文是刻在曲木上的,里面封了朱漆,是梵文。陈皮阿四汉字都不认识几个,是什么经文当然看不懂。

Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn. Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiên là xem không hiểu.

但是他本能感觉到,这应该是镇魔或者是伏妖的那一类东西,心里也不由的犯起嘀咕,难不成这下面真封着什么东西?

Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn ma hay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địa cung này để phong ấn thứ gì đây?

再看下面,他看的更清楚,每一层,都有一圈突起的外延,从上往下,一层一层看上去有点像楼梯,每一层上都有一圈等身的僧袍彩雕罗汉像,颜色流光溢彩,非常精致。所有的雕像面部向下,俯视着地宫的最底部,整个地宫一共有十几层,摆满了各种动作的罗汉像,足有百来具。

Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có một vòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từng tầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều có những bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắc sặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuống dưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng, mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế, phỏng chừng phải hơn trăm pho.

最近的罗汉像离他并不远,陈皮阿四倒挂着,看到罗汉像的表情时,突然感觉到一阵寒意,原来所有的罗汉像竟然都翻着眼白,表情有一种说不出的森然,和平时看到的那些不一样。

Tượng La Hán gần nhất cách hắn không xa, Trần Bì A Tứ đang treo ngược người, khi nhìn thấy vẻ mặt của pho tượng ấy thì bỗng cảm thấy một luồng lạnh buốt chạy dọc sống lưng. Hóa ra tất cả các tượng La Hán ở đây đều trợn trừng mắt trắng dã, nét mặt toát ra một vẻ âm u khó tả, hoàn toàn khác hẳn với những pho tượng La Hán bình thường mà người ta vẫn thấy.

仔细一看,才知道是眼睛的眼拄因为图色太过真实,给手电光一照,反光太强烈,造成的错觉。但是他的手电光扫过,那些罗汉像瞬间变得狰狞无比,好比他们的表情发生了变化一样,看上去无比的骇人,真怀疑当初他们设计的时候是不是就是这样考虑的。

Nhìn kỹ mới biết là do đôi mắt (con ngươi) vì men màu quá chân thực, gặp ánh đèn pin nên phản quang quá mạnh, tạo thành ảo giác. Nhưng khi ánh đèn pin quét qua, những pho La Hán ấy lập tức trở nên dữ tợn vô cùng, như thể nét mặt họ vừa đổi khác, trông cực kỳ ghê rợn, khiến người ta thực sự nghi ngờ liệu lúc thiết kế họ có cố ý làm như vậy hay không.

所以陈皮阿四看着这些罗汉,心里非常的不自在,但是他又不明白自己到底在怕什么,不由产生了退却的念头。

Vì thế, Trần Bì A Tứ nhìn những pho tượng La Hán ấy mà trong lòng vô cùng bất an, nhưng ông ta lại không hiểu rốt cuộc mình đang sợ điều gì, bất giác nảy sinh ý muốn rút lui.

他的手电继续在地下划动,想看到一些出了罗汉像之外的东西。这个时候,他的手突然一僵,手电的光斑停在一个位置。

Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xem ngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tay ông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vị trí.

在离他大概有六七层的那一层突起处,他照到了一个奇怪的罗汉像,这个罗汉像和其他的都不同,他的脸不是俯视的,而是抬着头,脸正对着陈皮阿四,直勾勾盯着他的眼睛。手电光照上去,一闪间露出了一张狰狞的白脸,要不是一动不动,几乎要以为遇到鬼了。

Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có một bức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn không giống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung mà lại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theo dõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếu tới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bức tượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp quỷ rồi.

陈皮阿四顿时吓得浑身冰凉,一下子连动也动不了,直觉得自己的双脚开始发软,人开始往下滑去。

Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dám động đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.

说到鬼,陈皮阿四倒是真的不怕,自己杀了这么多人,可以说罪大恶极,怎么也不见一个半个来报复?但是他们那个年代的人,或多或少都有写迷信思想,陈皮阿四就认为自己这么多年能够混下来,是靠祖先保佑。

Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giết quá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình có thể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.

(人总要有点信仰,外八行的人是拜关公的。盗墓的人,北派拜的是钟馗,南派一般不来这一套,但是长沙那一带有说法,说是拜过一段时间的"黄王"。)

(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hành nghề bất chính* thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc phái bái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giải thích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.

* Nguyên văn là "ngoại bát hành", thời cổ đại có ba trăm sáu mươi nghề, thì "ngoài bát hành" không thuộc nghề nào trong số này, không thuộc loại nghề nghiệp đứng đắn, không thuộc loại công nông binh học thương. "Ngoại bát hành" gồm có: kim điểm, khất cái, cướp đường, ăn trộm, đổ đấu, sơn tặc, lĩnh hỏa, thải thủy, xưng là "ngũ hành tam gia". Kim điểm là bọn tướng số, đổ đấu là bọn trộm mộ, sơn tặc mánh khóe bịp người, lĩnh hỏa thông thạo thuật dùng cổ/ trùng độc, thải thủy làm quan kỹ.

(黄王是什么?黄王就是黄巢,"满城尽带黄金甲"那位。为什么拜此人?听长辈们说,有几个理由,一是,这人可以说是杀人冠军。民间流传:黄巢杀人八百万,在数者在劫命难逃。什么意思?就是他杀人是有指标的,不杀到八百万,他不算完成任务。还有不知道是笔记小说还是中国特色化的民间传说,黄巢是目楗连罗汉<不是易建连>转世,这位主为救老妈放尽地狱八百万饿鬼,所以佛祖让他转世,一个一个杀回来,也就是说他回去是给佛祖招聘农民工的。)

Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, "Mãn thành tận đái hoàng kim giáp", chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậc trưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻ giết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn (8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ý gì?  Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, không biết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian Trung Quốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (không phải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngục mà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyển thế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngài trở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động.

这具雕像脸朝上他并不害怕,但是这张脸这么巧正对着他,他就觉得不对劲了。难道当时的修建者,算准了他会从这个位置开盗洞下来,特地摆了这么个东西在这里吓唬他?

Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy có nét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoán được vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ông ta sợ mất mật chơi?

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip