Chương 91: Đêm thứ ba: Phù điêu
我们几乎把所有能用的东西都搬了过来,还准备了几桶淤泥。不敢点大篝火了,做了一个小碳堆,晚饭胖子煮罐头也不敢在里面煮,把灶台搭在废墟外面。
Chúng tôi gần như chuyển hết tất cả những gì có thể sử dụng đến đây, còn chuẩn bị cả mấy xô nước bùn nữa. Không dám đốt lửa trại lớn nữa, chỉ đắp một đống than nhỏ, bữa cơm tối Bàn Tử đun đồ hộp cũng không dám đun ở bên trong, mà vác bếp lò ra ra ngoài bãi phế tích mà đun.
我们估计那些蛇肯定会在雾气弥漫之后开始活动,所以黄昏的时候并不慌,我帮胖子烧饭,闷油瓶在上面看着帮我们望风。
Chúng tôi dự đoán lũ rắn chắc chắn sẽ bắt đầu hoạt động sau khi sương mù tràn ngập, cho nên hoàng hôn buông xuống nhưng vẫn không hoảng hốt, tôi giúp Bàn Tử nấu cơm, Muộn Du Bình ở phía trên canh chừng cho bọn tôi.
但是胖子动作很快,我其实帮不上什么忙,开完罐头就在边上发呆。
Động tác của Bàn Tử rất nhanh, còn tôi kỳ thực chả giúp đỡ được gì mấy, mở nắp đồ hộp xong là chỉ có ngồi đờ ra bên cạnh.
胖子最烦我这个样子,他说我就是个林黛玉,整天不知道在琢磨东西,这人世间的东西哪有这么多好琢磨的,没心没肺地活着也是蹬腿死,你机关算尽也是蹬腿死,反正结局都一样,你管他妈的中间那个羁绊干什么。
Bàn Tử phiền nhất là nhìn thấy tôi như thế này, anh ta nói: "Cậu chính là một cô em Lâm Đại Ngọc, cả ngày cứ ngồi nghĩ ngợi chả biết nghĩ cái gì, trên đời này làm gì mà có lắm thứ để suy nghĩ thế, cứ vô tâm vô phế mà sống, đến cuối cũng chết thẳng cẳng, mà có suy tính kế này mưu nọ đến cuối cũng là chết thẳng cẳng, dù sao kết cục cũng như nhau, cậu xoắn xuýt cái ràng buộc ở giữa hai hòn dái kia làm gì."
我听了有点意外,胖子竟然会用羁绊这个文绉绉的词,一回味才发现他说的是"J巴蛋",不由苦笑。
Tôi nghe xong có chút ngạc nhiên, Bàn Tử thế mà biết dùng cái từ "ràng buộc" nho nhã này cơ đấy, lúc sau đã thấy anh ta phun ra hai từ "hòn dái", không khỏi cười khổ.
正琢磨着,就听到胖子叫我:"我说天真,你看小哥这是干什么?"
Đang suy nghĩ, chợt nghe Bàn Tử gọi: "Tôi nói này Thiên Chân, cậu xem Tiểu Ca đang làm gì thế?"
我收回神,抬头看到神庙内的闷油瓶正在用什么东西擦上面的石壁,就叫道:"怎么了?"
Tôi hồi thần lại, ngẩng đầu lên nhìn thấy Muộn Du Bình ở trong đền thần đang dùng vật gì chà sát lên vách tường đá, bèn nói: "Sao thế?"
闷油瓶没理我道,继续干着,也有可能是没听见。
Muộn Du Bình không để ý lời tôi gọi, vẫn tiếp tục làm, cũng có thể là không nghe thấy.
我这里的事情已经做的差不多了,也来了兴趣,放下罐头刀就爬了上去。从神庙的回廊绕到他的身边,就看到他正在用篝火的里的碳抹墙壁,好像是想拓印什么东西。我问他干嘛,他指了指边上的石头,"我刚发现的。"
Việc ở chỗ này tôi đã làm gần xong rồi, hứng thú nổi lên, bèn bỏ đám đồ hộp xuống, trèo lên đền thần xem. Tôi đi theo hành lang gấp khúc của ngồi đền vòng sang bên cạnh hắn ta, liền nhìn thấy hắn đang dùng miếng than trong đống lửa trại chà lên vách tường, như thể đang in rập cái gì đó. Tôi hỏi hắn làm vậy làm gì, hắn chỉ vào mặt đá nói: "Tôi vừa phát hiện ra."
墙被涂黑了一大块,我用嘴吹了一下,发现这些石壁上,有着已经几乎被磨平的浮雕。
Trên mặt tường bị bôi một mảng lớn đen sì, tôi phồng miệng thổi phù một cái, phát hiện trên mặt tường này có chạm khắc một bức phù điêu đã mòn vẹt.
"在日光下基本上看不见了,只有涂上碳粉,才会有阴影出来,还能分辨一下。"他道,说着又从篝火中拣出一块来涂抹。
"Dưới ánh nắng gần như không nhìn thấy gì, chỉ có bôi than lên thì hình mới hiện, còn có thể nhìn ra một chút." Hắn nói, nói đoạn lại lấy một mảnh than từ trong đống lửa ra tô vẽ lên tường.
黑色的碳黑抹上岩石,光影变化,我晃动了一下,找了一个合适的位置,石头上的浮雕显现了出来。第一眼我便看到了大量的蛇。很难分辨了,光影攒动,蛇影飘忽好像是活的一样。
Màu than đen bôi lên mặt đá, ánh sáng phản chiếu có thay đổi, tôi di chuyển một lúc tìm vị trí thích hợp, phù điêu trên mặt đá mới hiện lên rõ ràng. Vừa nhìn, đập vào mắt tôi là một đống rắn. Rất khó để phân biệt, ánh sáng nhốn nháo, bóng rắn loang loáng cứ như là đang sống vậy.
闷油瓶继续涂抹,我们就看到了一幅幅古老的浮雕出现这里的岩石上,虽然经过这么多年下来,但是依然形神俱在,在闷油瓶的涂抹下如同魔术一般浮现了出来。
Muộn Du Bình tiếp tục tô vẽ lên tường, chúng tôi liền thấy từng bức phù điêu cổ xưa lần lượt xuất hiện trên mặt đá, qua nhiều năm đến vậy nhưng vóc dáng và thần thái vẫn còn đó, dưới mỗi lần tô vẽ của Muộn Du Bình, chúng dần dần hiện lên như ảo thuật vậy.
他涂完后就站立不稳,我立即扶住他,看了一遍,他就道:"这里讲的是那些蛇的事情。"
Hắn tô than xong, loạng choạng không đứng vững. Tôi lập tức tiến đến đỡ lấy hắn. Nhìn một lượt, hắn nói: "Tranh này miêu tả chuyện lũ rắn."
"讲的什么?"我问道。因为我不是很能看的清楚。
"Chuyện gì?" Tôi hỏi. Bởi tôi không nhìn rõ cho lắm.
"一下子没法看懂。"他道:"得慢慢琢磨。"
"Tạm thời xem chưa hiểu." Hắn nói: "Để từ từ suy nghĩ đã."
对于这些我很有兴趣,而且一路过来也实在没看到多少关于这里的历史遗存。对于这里一无所知就是我们现在这种境况最直接的原因,所以我移动身子寻找着最好的角度,下了功夫仔细去看。
Tôi rất có hứng thú với những thứ này, hơn nữa, suốt dọc đường cũng không được nhìn thấy nhiều di vật lịch sử liên quan đến nơi này cho lắm. Hoàn toàn không biết chút gì về nơi này chính là nguyên nhân trực tiếp nhất khiến chúng tôi rơi vào cảnh ngộ này, cho nên tôi nhích người tìm kiếm vị trí tốt nhất để xem cho kỹ càng.
一幅一幅看过来,全部都不知所云,根本不知道是什么意思,浮雕上表达的东西很多,有的似乎是祭祀,有的又似乎是一场仪式,要说还真说不出什么来。
Từng bức từng bức phù điêu hiện lên, nhưng chả hiểu là cái gì, không hiểu rốt cuộc nó có ý nghĩa gì. Trên phù điêu vẽ rất nhiều thứ, có cái hình như là cúng tế, có cái lại như là nghi lễ, có muốn nói ra cũng không biết phải nói cái gì nữa.
半猜半琢磨的看着,感觉有几幅似乎是在说这里的先民,供奉着这些带着鸡冠的毒蛇,他们将一个一个陶罐丢进一些孔洞里,好像就是路上看到的那种带着方孔的石塔,大量毒蛇开始钻入破碎的陶罐。有祭祀在主持仪式,很多人跪在四周。
Nửa đoán mò nửa suy luận mà xem, cảm giác có vài bức là đang nói về những người dân trước kia của nơi này, họ thờ phụng lũ rắn độc mào gà ở đây, họ ném những vò gốm vào trong một số lỗ thủng, hình như chính là những tháp đá có lỗ hình vuông mà chúng tôi gặp dọc đường, một lượng lớn rắn độc bắt đầu chui vào trong những vò gốm vỡ nát. Có thầy tế đang chủ trì nghi thức cúng tế, rất nhiều người quỳ ở xung quanh.
原来这些祭品祭祀的就是这里的蛇,难道这里的人把这种毒蛇当成神了吗?不过,这倒不稀奇,毒蛇崇拜非常普遍,古人不知道毒蛇的毒性,只知道被咬一口后就会死去,看着这么小的伤口致死人命,都会认为这是魔力所致。中国少数民族里有很多都崇拜蛇。
Hóa ra thứ được thờ cúng ở đây chính là lũ rắn này, chẳng lẽ người nơi này coi lũ rắn độc đó là thần thánh sao? Nhưng điều này cũng không đáng kinh ngạc cho lắm, tín ngưỡng sùng bái rắn độc rất phổ biến, người cổ đại không biết nọc độc của rắn độc, chỉ biết hễ bị cắn một cái là chết, vết thương nhìn nhỏ mà lại trí mạng đến thế, vì thế mà họ cho rằng đó là do phép thuật gì đó. Nhiều dân tộc thiểu số ở Trung Quốc đều có tín ngưỡng sùng bái rắn.
这些鸡冠蛇可能喜欢食用尸鳖王的卵,不过尸鳖王的卵应该毒性剧烈,这蛇和尸鳖到底哪个更毒一点?
Có thể lũ rắn mào gà thích lấy trứng của bọ ăn xác làm thức ăn, có điều, trứng của bọ ăn xác chúa có độc tính rất mạnh, không biết rốt cục là con nào độc hơn nữa?
闷油瓶移动身形,边上的浮雕,是很多拿着长矛的人物,和先民打扮的厮杀在一起,很多人的身体被长矛刺穿了,似乎是一场战争。
Muộn Du Bình di chuyển thân mình, trên bức phù điêu có rất nhiều nhân vật tay cầm trường mâu, cùng với những hình người có vẻ như là dân chúng ở đây đang chém giết lẫn nhau, nhiều người bị trường mâu đâm xuyên qua cơ thể. Hình như đây là một cuộc chiến tranh.
战况看来对西王母国这一方不利,因为西王母的人数显然比对方要少的多。而西王母国全部都是步兵,对方的队伍中还能看到骑兵。敌方的统帅在队伍的后面,坐在一辆八匹马的拉的车上。浮雕里不见西王母的身影。所有的浮雕造型精致,连五官都有细致的琢磨,惟妙惟肖,显然出自顶级工匠的手艺。
Xem tình hình chiến đấu thì thấy phe của nước Tây Vương Mẫu đang ở thế bất lợi, bởi quân số của nước Tây Vương Mẫu rõ ràng ít hơn phe địch rất nhiều. Mà quân của nước Tây Vương Mẫu toàn là bộ binh, mà trong đội quân của phe địch còn nhìn thấy cả kỵ binh. Thống soái chỉ huy của quân địch đứng phía sau đội quân, ngồi trên chiếc xe tám ngựa kéo. Trong bức phù điêu không thấy bóng dáng của Tây Vương Mẫu. Tất cả các bức phù điêu đều được tạo hình hết sức tinh tế, ngay đến cả ngũ quan trên gương mặt cũng được chạm khắc tỉ mỉ, sinh động như thật, hiển nhiên chúng đến từ tay những người thợ thủ công có tay nghề xuất sắc nhất.
"这是,战争......"闷油瓶喃喃道。
"Đây là, chiến tranh......" Muộn Du Bình lẩm bẩm nói.
"看来西王母国被侵略了,而且对方是一只比较强大的文明,有可能是楼兰或者北匈奴。"我道。"这些人看不出服装的款式,不过兵器的样子形似中原,应该是楼兰的军队。这个在战车上的,应该是楼兰王。"
"Xem ra nước Tây Vương Mẫu đã từng bị xâm lược, hơn nữa, kẻ địch lại là một nền văn minh tương đối hùng mạnh, có lẽ là Lâu Lan hoặc Bắc Hung Nô." Tôi nói. "Không nhìn ra được kiểu dáng trang phục, có điều hình dạng binh khí tương tự vùng Trung Nguyên, chắc là quân đội Lâu Lan. Người ngồi trên chiến xa này, chắc là vua Lâu Lan."
说完我感觉很有道理,但是闷油瓶却没有注意我的话,而是用手摸那个战车上的统帅,皱起了眉头。
Nói xong, tôi cảm thấy lời của mình rất có lý, nhưng Muộn Du Bình lại không chú ý đến lời của tôi, mà sờ lên hình thống soái trên chiến xa kia, nhíu mày.
我心说:怎么了?他忽然抬起手指着那敌方首领,对我道:"我认识这个人。"
Tôi nghĩ thầm thế là sao? Bỗng hắn giơ một ngón tay lên chỉ vào vị thống soái trên chiến xa đó, nói với tôi: "Tôi biết người này."
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip