Tạng Hải Hoa quyển 1: Chương 06 - Chương 10
📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/
thuộc ngoại truyện "Tạng Hải Hoa".
🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.
Dịch: Sóc
Chương 06: Khởi đầu mới của số mệnh
Vào một buổi chiều nắng đẹp gió mát, tôi đang nghỉ ngơi trong căn phòng nhỏ râm mát của mình.
Nhưng có thật là nghỉ ngơi không? Có lẽ cũng xem như vậy. Dù thỉnh thoảng vẫn nhớ lại những chuyện khiến tôi đau đầu, nhưng tôi rất rõ ràng rằng tất cả những chuyện đó giờ cũng chỉ là ký ức mà thôi.
Nói cách khác, suy nghĩ về những chuyện đó không có nghĩa là tôi cần phải đối đầu với ai, hay nó sẽ mang đến nguy hiểm gì cho tương lai của tôi. Vì vậy, tôi cứ thoải mái mà suy nghĩ.
Mặc dù trong phòng khá mát, nhưng vẫn bí bách khó chịu. Tôi cảm thấy toàn thân uể oải, mắt díp lại, sắp sửa chìm vào giấc ngủ thì bất chợt nghe thấy tiếng gõ cửa.
Cửa hàng thường đóng cửa nghỉ vào buổi trưa, vốn dĩ cũng chẳng có mấy khách, tôi cũng chẳng muốn mở cửa để phí điều hòa. Tôi gọi Vương Minh mấy tiếng nhưng không thấy cậu ta ra mở cửa hay trả lời, không biết có phải đột nhiên lên cơn đau tim chết rồi không. Nghĩ vậy, tôi đành cố gắng gượng dậy đi xem thử.
Vừa bước ra ngoài, tôi lập tức nhìn thấy một bóng dáng quen thuộc đang đứng trong cửa hàng.
Đó là một ông già. Nhìn thấy tôi, ông ta lập tức nhe răng cười, để lộ một hàm răng đầy vàng.
Tôi gần như rùng mình, quay lại nhìn Vương Minh, thấy cậu ta đang gục đầu ngủ gà ngủ gật trước màn hình máy tính. Tôi lập tức bước tới vỗ mạnh vào người cậu ta để đánh thức.
Lão già kia thấy vậy, định mở miệng nói gì đó, nhưng tôi đã quát lên với Vương Minh vừa bị tôi lay tỉnh: "Có người đột nhập! Dắt chó ra, đuổi hắn ra khỏi đây ngay!"
Chính cái tên khốn này, mấy năm trước đã bước vào cửa hàng của tôi, từ đó thay đổi cả vận mệnh của tôi. Tôi tuyệt đối không cho phép tình huống tương tự xảy ra một lần nữa.
Vương Minh bị đánh thức giữa cơn ngủ mơ, mơ màng bò dậy từ bàn máy tính, ngước mắt nhìn tôi, có vẻ như hoàn toàn không hiểu tôi đang nói gì. Thấy tôi không nói gì nữa, cậu ta lại gục xuống ngủ tiếp. Tôi cũng chẳng thèm giải thích với cậu ta nữa, lập tức nhảy qua quầy thu ngân, gằn giọng quát về phía lão già kia: "Cút ngay! Biến khỏi tầm mắt tôi ngay lập tức!"
Lão già răng vàng cười khà khà, nói: "Chàng trai, lâu rồi không gặp, vẫn khỏe chứ? Tính khí của cậu chẳng thay đổi chút nào, vẫn y hệt như trước."
Tôi đáp: "Bớt nói linh tinh đi! Mẹ nó, cả đời này của tôi coi như bị ông hủy hoại rồi! Ông có biết không? Cả dòng họ tôi, bao nhiêu thế hệ anh hùng liệt sĩ đều chết vì ông! Trước khi tôi nổi sát ý, mau cút khỏi mắt tôi ngay!"
Lão già răng vàng bĩu môi: "Cậu nói quá rồi. Cả dòng họ cậu thì liên quan gì đến tôi?"
Tôi không biết vì sao cơn giận của mình lại bùng lên dữ dội đến vậy, ngay lập tức siết chặt nắm đấm, chuẩn bị lao tới đấm hắn một trận. Thấy tôi không chịu nghe lý lẽ, lão già vội vàng giơ tay lên, nói: "Khoan đã, khoan đã! Tôi có tin quan trọng, tôi tới đây là có lòng tốt muốn báo cho cậu."
Tôi nói: "Tôi không muốn biết bất cứ tin tức nào từ ông. Với tôi, sự xuất hiện của ông là một điềm cực kỳ xui xẻo." Nói rồi tôi lập tức đẩy hắn ra cửa.
Lão già răng vàng bám chặt vào quầy thu ngân, vội hét lên: "Khoan đã! Tôi có tín vật! Nhìn thấy tín vật, cậu sẽ hiểu chuyện này quan trọng thế nào." Vừa nói, hắn vừa thò tay vào túi áo, lấy một chiếc điện thoại ra đưa cho tôi.
Tôi nghĩ thầm: Lần trước hắn đưa tôi xem đồng hồ, lần này lại là điện thoại. Đúng là thời đại đã thay đổi, giờ đến tín vật cũng phải công nghệ cao. Nhìn lướt qua, tôi nhận ra đó là loại điện thoại mà Tiểu Hoa thường dùng. Tôi cầm lấy, mở nắp ra xem, trên màn hình hiển thị một tin nhắn đã được soạn sẵn: "Kim Vạn Đường đến vì quảng cáo trên báo, có vẻ như nắm giữ manh mối quan trọng. Tôi đã nghe qua một lần, thật giả khó phân. Cậu cứ nghe thử xem, tôi xử lý xong việc ở đây sẽ lập tức đến Hàng Châu để bàn bạc kỹ hơn. Giải Vũ Thần."
Tôi gập điện thoại lại, thầm nghĩ: Mẹ nó, so với lời giới thiệu của Lão Dương, lời giới thiệu của Tiểu Hoa còn khó từ chối hơn.
Không thể không nể mặt Tiểu Hoa, tôi đành cân nhắc xem nên làm thế nào. Xem ra vẫn phải nghe thử xem sao. Gã răng vàng này đúng là người hiểu đạo lý đối nhân xử thế, đã có sự chuẩn bị từ trước. Nhưng nhìn bộ mặt của lão, tôi thật sự nhịn không được muốn cho lão một trận.
Thế là tôi bảo gã răng vàng ngồi xuống, còn mình thì vào trong uống mấy ngụm nước để bình tĩnh lại. Vào đến phòng trong, có lẽ do không khí mát mẻ, lửa giận và sự bực bội trong lòng tôi cũng vơi đi phần nào. Tôi nghĩ, dù sao thì nhiều chuyện cũng do chính tôi lựa chọn, trách lão ta cũng chẳng giải quyết được gì. Nói cho cùng, lão ta cũng là một nạn nhân.
Tự an ủi mình một chút, cảm thấy tâm trạng đã dịu lại, tôi bèn bước ra ngoài, nhìn chằm chằm gã răng vàng rồi nói: "Lão già, nếu có manh mối thì nói thẳng luôn đi. Ông đã gặp Hoa Nhi Gia lắm tiền nhiều của rồi, đừng có giở trò rườm rà ở đây nữa."
Gã răng vàng cười nói: "Chàng trai, cậu nói vậy là sao? Tôi đây vì trong lòng áy náy nên muốn đến bù đắp chút mà. Cậu đã đăng báo tìm người biết về con bọ cạp này còn gì? Ôi trời, thứ này đúng là gợi lại một ký ức khó quên của tôi đấy."
Nhìn vẻ mặt của lão, tôi thầm nghĩ: Ông mau nói đi, nói xong tôi còn có thể cho ông một trận.
Gã răng vàng nói tiếp: "Con bọ cạp này có lai lịch vô cùng cổ xưa. Tôi đoán cậu muốn tra về nó, chắc hẳn có liên quan đến một đứa trẻ họ Trương, đúng không?"
Tôi không lên tiếng, sợ bị lão ta lừa vào bẫy. Trong lòng nghĩ, chỉ cần là chuyện liên quan đến Trương gia thì tôi đều có hứng thú, còn có phải là trẻ con hay không thì tôi không chắc.
Kim Vạn Đường tiếp tục nói: "Để tôi kể cho cậu nghe một chuyện. Tôi không biết đã nói với cậu trước đây chưa, nhưng ngày xưa tôi từng làm việc ở Lưu Ly Xưởng(1), kiếm sống bằng nghề thẩm định đồ cổ và dịch văn cổ, kiếm được không ít tiền. Có lần tôi đến nhà một phú ông. Nghe nói người này họ Mã, thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc, sống ở vùng Giang Tô. Hắn đưa tôi xem một cuốn hồi ký của ông nội hắn, muốn tôi ước tính giá trị của nó.
Lúc đó tôi nghĩ, nhà hắn giàu có thế này, chắc chắn là một khách sộp. Nhưng về sau mới biết, thực ra vào thời điểm đó, gia sản nhà hắn đã bị vét sạch gần hết. Hai đứa con trai của hắn nghiện ma túy, một đứa gần như không sống nổi nữa, hắn chỉ đành dùng những món đồ đó đổi tiền để cứu mạng con trai mình.
Kim Vạn Đường hít một hơi thật sâu rồi nói tiếp: "Sau đó, khi thẩm định, tôi đã đọc toàn bộ cuốn hồi ký của người tên Mã Bình Xuyên này. Trong đó có ghi lại một câu chuyện như thế này."
Gã răng vàng vừa nói vừa kể cho tôi một câu chuyện, chính là câu chuyện "chuyện kỳ lạ đầu tiên".
Sau khi nghe xong, trong lòng tôi không vui cũng chẳng buồn. Tôi lập tức nghĩ rằng, rất có thể đứa trẻ trong câu chuyện đó chính là Muộn Du Bình khi còn nhỏ.
Thời điểm đó là khi nào? Trước khi nước Trung Quốc mới được thành lập! Quả nhiên, tên này đã sống qua bao nhiêu năm rồi sao? Nhưng dường như tuổi tác của anh ta còn trẻ hơn so với tôi dự đoán một chút.
Người Trương gia có tuổi thọ rất dài, thể chất đặc biệt, vì vậy chuyện này cũng không khiến tôi quá ngạc nhiên.
"Ông nói lúc đó, nơi đó được gọi là Mã Am? Vậy bây giờ chỗ đó còn tồn tại không?" Tôi hỏi Kim Vạn Đường.
Kim Vạn Đường gật đầu: "Còn. Nhưng nếu cậu định đến đó, tôi thấy không cần thiết. Bởi vì trong cuốn hồi ký có ghi lại rằng, sau đó bọn họ đã khai quật đất mộ tổ, nhưng không tìm thấy cổ mộ nào cả, chỉ đào lên được một con bọ cạp sắt. Hơn nữa, trong hồi ký không có ghi chép gì tiếp theo, các sự kiện sau đó bị ngắt quãng hơn một năm."
"Ý ông là gì?" Tôi hỏi.
"Tôi muốn nói rằng, sau khi họ đào được con bọ cạp sắt đó, họ có tiếp tục đào sâu xuống không? Có tìm thấy địa cung hay không? Trên con bọ cạp sắt có khắc gì không? Có gì kỳ lạ không? Tất cả những điều này đều không được ghi lại. Nhưng có một điều chắc chắn, trong vòng một năm đó, gia tộc Mã từ thời kỳ cực thịnh rơi vào suy tàn. Chắc chắn đã có rất nhiều chuyện xảy ra, mà chắc chắn những chuyện này có liên quan đến con bọ cạp sắt đó."
Kim Vạn Đường nói: "Sau đó, cả gia tộc Mã chuyển sang Nepal."
"Nepal?"
"Đúng, Nepal." Kim Vạn Đường nói: "Tôi vừa trở về từ đó không lâu, tôi có địa chỉ của Mã gia. Tôi cũng đã tận mắt nhìn thấy con bọ cạp sắt đó, hiện giờ bọn họ đang rao bán nó."
"Không phải ông đang lừa tôi đấy chứ?" Tôi hỏi.
"Không đâu." Kim Vạn Đường đáp: "Nếu cậu quan tâm đến những gì tôi vừa nói thì có thể đi một chuyến. Tôi sẽ đi cùng cậu, đảm bảo có thể dễ dàng lấy được con bọ cạp sắt đó."
Tôi suy nghĩ một chút. Có lẽ đây là manh mối duy nhất liên quan đến quá khứ của Muộn Du Bình mà tôi có được đến thời điểm hiện tại. Có lẽ tôi nên đi. Nhưng tôi không thể đi cùng gã răng vàng, sau từng ấy năm buôn bán, tôi thừa hiểu loại người như hắn, chuyên bâu vào những cơ hội béo bở, chẳng khác gì ruồi chỉ đậu vào chỗ có vết nứt. Nếu hắn đi cùng tôi, chắc chắn hắn sẽ cấu kết với Mã gia để lừa tôi một vố. Không biết chừng còn có cả đống bẫy đang chờ sẵn để rút sạch tiền trong túi tôi.
Thế là tôi hẹn Kim Vạn Đường gặp nhau sau một thời gian, nhưng tôi lại lên đường trước hắn. Thậm chí tôi còn không báo cho Tiểu Hoa, cứ thế mà đến Nepal.
Tuy nhiên, lần này tôi hoàn toàn tay trắng trở về. Ngôi nhà của Mã Bình Xuyên ở Nepal rất lớn, nhưng bên trong trống rỗng, nhìn qua cũng biết đã bị dọn sạch hoàn toàn. Tôi hỏi thăm những người xung quanh, ai cũng nói không biết gia đình này đã đi đâu.
Gia đình Mã Bình Xuyên, cũng giống như năm xưa ông ta từng cử người đi tìm Trương gia, đột nhiên biến mất ngay trước khi tôi đến.
Tôi cảm thấy, có thể đây là một vụ lừa đảo mà tôi đã vô tình vạch trần. Tôi khởi hành sớm hơn dự kiến, khiến họ không kịp chuẩn bị. Nhưng cũng có khả năng, sau khi Kim Vạn Đường rời đi, gia đình họ đã gặp phải một biến cố lớn.
Dù thế nào, tôi đã nhìn thấu trò này.
Cuối cùng, chuyến đi tìm kiếm này biến thành một chuyến du lịch. Khi nhận ra không thể tìm thấy gì, tôi bắt đầu ăn uống thỏa thích, thậm chí còn nảy ra ý định mở rộng kinh doanh tại đây.
Sau khi khảo sát, tôi phát hiện ra hệ thống ở đây hoàn toàn không phù hợp để làm ăn, chỉ thích hợp làm trạm trung chuyển. Nhưng sâu trong thâm tâm, tôi không thích quốc bảo bị buôn lậu ra nước ngoài, nên cũng chẳng nghĩ sâu về nó. Dĩ nhiên, tôi có phát hiện được không ít cổ vật ở đây, nhưng thật giả ra sao, hay có thể bán được bao nhiêu tiền trên thị trường sưu tầm trong nước, tôi cũng không rõ. Thế nhưng chính trong lúc lang thang như vậy, tôi lại tìm ra dấu vết của Mã gia.
Trong lúc kiểm kê hàng tại một cửa hàng đồ cổ của người Hoa, tôi tán gẫu với ông chủ về lý do mình đến Nepal. Hóa ra ông ta từng làm ăn với Mã gia, và rõ ràng là họ đã bán đi không ít cổ vật cho ông ta. Ông ta nói rằng, mỗi lần giao dịch với Mã gia, bọn họ luôn vô tình hay cố ý nhắc đến một nơi tên là Mặc Thoát.
Vậy là tôi quyết định đi đến Mặc Thoát, mà chính tại nơi đó, tôi đã nhìn thấy một thứ khiến tôi phải nán lại suốt nửa năm ròng.
-----------
(1) Lưu Ly Xưởng là con phố văn hóa nghệ thuật cổ có lịch sử lâu đời và nổi tiếng bậc nhất ở Bắc Kinh. Đây là một khu vực lâu đời, được biết đến như một trung tâm buôn bán sách cổ, thư pháp, tranh vẽ, đồ cổ và các tác phẩm nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc.
Chương 07: Tranh sơn dầu Tây Tạng
Đó là một bức tranh kỳ lạ.
Vào cuối năm 2010, sau khi từ Nepal về nước, tôi tiến vào Tây Tạng, nghỉ ngơi dưới chân núi Kailash(1) trong vòng một tuần.
Tôi không lập tức bắt đầu tìm kiếm dấu vết của Mã gia, dù sao thì chuyến hành trình lần này cũng đã khiến tôi quá mệt mỏi, theo lời đề nghị của những người làm, tôi quyết định xử lý những thứ lỉnh kỉnh mà mình đã thu thập được từ Nepal trước.
Tôi đã mang về một lượng lớn các món đồ trang sức giả cổ mang phong cách Phật giáo Tây Tạng từ Nepal, dự định dùng chúng làm mẫu trưng bày, đồng thời tìm hiểu xem chúng có liên quan gì đến những món trang sức mà tôi từng thấy trong nhà cổ Trương gia hay không. Tại nơi tên là Mặc Thoát, tôi đã gom toàn bộ số trang sức này lại, đóng thành ba kiện hàng lớn rồi gửi chúng đến ba địa chỉ khác nhau ở Hàng Châu, nhằm giảm bớt gánh nặng cho chặng đường tiếp theo.
Có hai loại "bưu điện" ở Mặc Thoát, là vì Mặc Thoát là một khu vực cực kỳ đặc biệt. Nơi đây gần như bị phong tỏa quanh năm, ra vào vô cùng khó khăn, trước đây, bưu điện chính thức ở đây chỉ nhận thư từ, nhưng không thể gửi đi, mãi đến vài năm gần đây mới có một con đường nhỏ có thể dùng để vận chuyển thư từ ra ngoài, nhưng xe bưu chính chỉ chạy một chuyến một tuần.
Vì thế, ở đây còn có dịch vụ vận chuyển thư tín tư nhân, thực chất là nhờ người thuận đường mang giúp thư từ, bưu kiện ra khỏi vùng núi. Trong cộng đồng người qua lại Mặc Thoát, việc giúp nhau mang theo thư từ, hàng hóa khá phổ biến, thậm chí một số người còn làm trung gian để kiếm chút tiền. "Bưu điện" mà tôi tìm được chính là loại hình dịch vụ này, tuy không đảm bảo an toàn tuyệt đối, nhưng ít nhất có thể chắc chắn về mặt thời gian. Hễ có người rời khỏi Mặc Thoát là có thể tính toán được khi nào bưu kiện sẽ đến bưu điện ngoài khu vực, từ đó tiếp tục được vận chuyển ổn định.
Có ba cách để rời khỏi Mặc Thoát: Đi bằng đường xe, theo đoàn ngựa thồ, hoặc thuê phu khuân vác.
Tuy nhiên, không phải mùa nào xe khách cũng có thể đi qua, và vào thời điểm tôi đến, đường xe bị chặn, gần như đã không còn đoàn ngựa thồ nào, vì thế tôi chỉ đành tìm những khách du lịch bụi hoặc phu khuân vác.
Tất cả thư từ, bưu kiện đều phải được "người đưa thư" gùi trên lưng đi ra khỏi vùng núi, vì vậy trọng lượng của mỗi kiện hàng không thể quá nặng. Tôi đã mất gần ba tiếng đồng hồ để điều chỉnh sao cho ba kiện hàng này có trọng lượng bằng nhau.
Chính lúc đó, tôi đã nhìn thấy bức tranh ấy. Nó được treo ngay sau "quầy giao dịch bưu điện"—một chiếc bàn làm việc với một tấm kính cường lực bên trên.
Bức tường phía sau quầy được sơn màu xanh lá nhạt, một số thứ được treo trên đó: Một bức thư pháp vẽ chim ưng cùng bốn chữ lớn "Bằng trình vạn lý"(2); Ba lá cờ khen thưởng song ngữ, với nội dung kiểu như "Nhặt được của rơi trả người đánh mất", "An toàn và đảm bảo", v.v; cuối cùng là một bức tranh sơn dầu.
Bức tranh đó không giống kiểu tranh mà một họa sĩ chuyên nghiệp vẽ, trông nó rất bình thường, thậm chí nét vẽ còn khá vụng về. Bức tranh vẽ chân dung một người ở góc nghiêng, dựa vào mức độ bong tróc của màu sắc, có thể thấy nó đã được treo ở đây một thời gian rất lâu.
Nhân vật trong tranh là một chàng trai trẻ. Tôi không hiểu nhiều về hội họa phương Tây, nhưng về bản chất, các nguyên lý trong hội họa đều có điểm chung. Dù bức tranh này không được vẽ một cách chuyên nghiệp, nhưng lại mang một cảm giác rất đặc biệt.
Tôi không biết cảm giác ấy đến từ đâu. Nửa thân trên, người trong tranh mặc áo cà sa của lạt ma, khoác một chiếc áo choàng Tây Tạng ở nửa thân dưới. Y đứng giữa núi, phía sau là ngọn núi Kailash phủ tuyết trắng. Không rõ đó là ánh tà dương sắp lặn hay ánh bình minh đang lên, nhưng toàn bộ bức tranh có tông màu chuyển từ trắng sang vàng xám.
Dù kỹ thuật vẽ còn vụng về, nhưng cách sử dụng màu sắc lại vô cùng táo bạo, tạo nên bầu không khí đầy ấn tượng.
Dĩ nhiên, chỉ riêng chuyện đó cũng chưa đủ để khiến bức tranh này có giá trị gì đặc biệt. Tôi thực sự kinh ngạc là vì tôi nhận ra người trong tranh.
Không sai, những đặc điểm trên người y, cùng với vẻ mặt ấy, khiến tôi không có bất kỳ nghi ngờ nào.
Chính là y.
Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao y lại xuất hiện ở đây, bởi vì người này thực sự không có bất kỳ lý do nào để có mặt tại Mặc Thoát, chưa nói đến chuyện xuất hiện trong một bức tranh sơn dầu vụng về treo ở đây.
Đây là một bức chân dung của Muộn Du Bình.
Ban đầu, tôi cố gắng phủ nhận chuyện này, bởi vì chuyện này quá kỳ lạ, khả năng tôi nhìn nhầm rất cao, dù sao thì đây chỉ là một bức tranh, không phải ảnh chụp, những chi tiết trong tranh khá mờ nhạt, một gương mặt có nét tương đồng cũng là chuyện có thể xảy ra.
Nhưng dù vậy, tôi vẫn không thể rời mắt khỏi nó. Mọi chi tiết trong bức tranh đều nói với tôi rằng nó giống quá mức. Nhất là đôi mắt, suốt bao năm qua, tôi chưa từng thấy ai có ánh mắt giống như Tiểu Ca. Bàn Tử từng nói, đó là ánh mắt không có mối liên kết với bất kỳ thứ gì trên thế giới này, trong cuộc đời này, hiếm ai có thể sống đến mức hoàn toàn tách biệt với thế giới.
Nhưng người trong tranh lại có đôi mắt ấy.
Tôi nhìn rất lâu, trực giác mách bảo, chắc chắn người trong tranh chính là y.
Năm năm trước, y đã biến mất khỏi tầm mắt của chúng tôi. Dĩ nhiên, tôi biết sự thật đằng sau việc y mất tích, tôi còn có thể nói rất nhiều điều về y, nhưng tất cả những gì y từng làm trước đây, đến hiện giờ không còn quan trọng nữa, điều đầu tiên tôi nghĩ đến khi nhìn thấy bức tranh này là: Có phải Mặc Thoát là một phần trong hành trình tìm kiếm của y không? Y từng xuất hiện ở đây, có nghĩa là thứ y tìm kiếm có liên quan đến nơi này?
Tôi quay sang hỏi nhân viên bưu điện, đó là một ông lão người Tây Tạng, gương mặt mang những đường nét đặc trưng của dân bản địa, tôi hỏi ông ấy ai là người đã vẽ bức tranh này. Ông lão chỉ về phía đối diện, dùng tiếng Hán cứng nhắc trả lời, người vẽ bức tranh này tên là Trần Tuyết Hàn.
Tôi nhìn theo hướng ông ấy chỉ, thấy một người đàn ông trung niên đang lấy nước sôi trong lò hơi bên kia đường, có vẻ ông ta là người phụ trách trông coi lò hơi, nơi cung cấp nước nóng cho dân cư xung quanh với giá ba hào một ấm nước. So với cái lạnh thấu xương bên ngoài, lò hơi ấm áp đến mức khiến người ta toát mồ hôi, vì vậy, có rất nhiều người đứng vây quanh lò để sưởi ấm, họ đều mặc quần áo giống nhau, trông cứ có nét na ná nhau.
Thấy tôi đang tìm kiếm, ông lão người Tây Tạng nhiệt tình giúp đỡ, lớn tiếng gọi về phía lò hơi: "Trần Tuyết Hàn!"
Tiếng gọi của ông lão người Tây Tạng vang dội đến mức như thể làm tuyết trên mái bưu điện rơi xuống vài phân, người tên Trần Tuyết Hàn nghe thấy tiếng gọi bèn ngẩng đầu lên từ trong đám đông, có vẻ hơi bối rối nhìn về phía chúng tôi.
Tôi lập tức bước tới. Người này có một khuôn mặt rám nắng đen sạm, làn da thô ráp, nhưng khi nhìn gần, trông ông ta lại trẻ hơn so với lúc nhìn từ xa.
Tôi dùng tiếng Hán hỏi: "Chào chú, xin hỏi có phải chú là người vẽ bức tranh sơn dầu trong bưu điện không?"
Trần Tuyết Hàn liếc nhìn tôi, sau đó gật đầu, tôi nhận thấy ánh mắt ông ta trống rỗng, đó là kiểu ánh mắt của những người có cuộc sống bình lặng, vì quá yên bình, họ không cần phải bận tâm quá nhiều vấn đề.
Tôi rút một điếu thuốc đưa cho ông ta rồi hỏi chi tiết hơn về bức tranh. Trần Tuyết Hàn tỏ ra hơi ngạc nhiên, nhìn tôi từ đầu đến chân, sau đó đóng van lò hơi lại rồi hỏi: "Cậu hỏi chuyện này làm gì? Cậu quen người đó à?"
Giọng nói của ông ta khàn đặc, nhưng phát âm lại vô cùng rõ ràng. Tôi kể sơ qua tình hình, cũng nói về thân phận của người trong tranh cũng như mối quan hệ giữa tôi và y.
Trần Tuyết Hàn hơi bất ngờ, khẽ nhíu mày rồi tháo đôi găng tay làm từ khăn lông trắng ra, bước ra khỏi chỗ lò hơi: "Cậu nhận nhầm người rồi, tôi chép lại bức tranh sơn dầu đó từ hai mươi năm trước, khi đó cậu mới mấy tuổi? Hơn nữa, nếu là tranh chép, có nghĩa là còn có một bức tranh gốc, bức đó còn cũ hơn."
Tôi khá ngạc nhiên, không ngờ bức tranh lại có từ lâu như vậy, dù rằng thoạt nhìn nó cũng chẳng còn mới. Câu hỏi của ông ta khiến tôi không biết phải trả lời thế nào, bởi vì chuyện này không thể giải thích chỉ bằng một hai câu.
May mắn là ông ta cũng không thực sự muốn biết thêm gì cả, chỉ nói: "Người trong tranh không liên quan gì đến tôi."
Ông ta chỉ ra phía xa, nơi có một ngọn núi tuyết mờ ảo trong màn sương trắng: "Tôi đã thấy bức tranh đó ở chỗ kia, nếu cậu muốn biết thêm, có thể đến đó hỏi các vị lạt ma."
Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, trong màn tuyết mịt mù, tôi lờ mờ thấy những công trình kiến trúc ẩn hiện giữa nền trời trắng xóa.
"Đó là đâu?" Tôi hỏi.
"Đó là một ngôi chùa lạt ma." Trần Tuyết Hàn đáp: "Tôi đã chép lại bức tranh này ở chính ngôi chùa đó."
"Có chuyện gì kỳ lạ xảy ra lúc đó không? Hoặc là ngôi chùa lạt ma đó có gì đặc biệt không?"
Tôi hỏi, bởi vì nơi nào có y xuất hiện, nơi đó luôn có chuyện bí ẩn xảy ra, hoặc cũng có thể, bản thân ngôi chùa này vốn dĩ đã không bình thường.
Trần Tuyết Hàn lắc đầu, trầm ngâm một lát rồi mới nói: "Không có gì đặc biệt cả, điều kỳ lạ duy nhất là, vị lạt ma kia khăng khăng bắt tôi phải chép lại bức tranh đó."
"Tại sao?"
"Lạt ma có thể nhìn thấu nhân quả, ông ấy bảo tôi vẽ thì tôi vẽ, không có lý do gì cả, ông ấy có thể thấy được mọi thứ sẽ xảy ra sau bức tranh này, còn tôi thì không."
Trần Tuyết Hàn nói với tôi rằng, có lẽ người thanh niên trong tranh từng là thượng khách của ngôi chùa lạt ma. Bản gốc của bức tranh sơn dầu này được một vị đại lạt ma vẽ ba ngày trước khi người kia rời khỏi Mặc Thoát, còn bức tranh hiện tại chỉ là bản chép lại sau này. Mùa đông năm đó, Trần Tuyết Hàn ở trong chùa một thời gian dài, một ngày nọ, ông ta tình cờ nhìn thấy bức tranh gốc trong phòng của vị đại lạt ma, sau đó ông ấy nhất quyết bắt ông ta sao chép lại, thế là ông ta thử vẽ lại bức tranh này.
Chỉ đến hiện giờ, tôi mới hiểu tại sao cách sử dụng màu sắc trong bức tranh lại táo bạo và sống động đến vậy, nhưng nét vẽ lại vụng về.
Ở Tây Tạng, rất nhiều lạt ma có trình độ thẩm mỹ và học thuật rất cao, thậm chí không ít vị đại lạt ma còn sở hữu bằng cấp từ các trường đại học danh tiếng nước ngoài, tôi cho rằng đây là kết quả của việc tập trung rèn luyện tinh thần trong cuộc sống thanh đạm và tu hành khổ hạnh.
Hiểu được điều này, tôi bắt đầu nghĩ đến những gì có thể đã xảy ra trong ngôi chùa lạt ma trên dãy núi tuyết năm đó, đầu óc chợt trở nên trống rỗng.
"Cậu có muốn đi không? Ba trăm tệ, tôi dẫn cậu đi." Ông ta nói. "Nếu không phải là người bản địa thì không thể vào được ngôi chùa đó."
Có lẽ nhân quả mà vị lạt ma nhìn thấy, chính là ba trăm tệ này.
------------
(1) Cách thủ phủ Lhasa của Tây Tạng trên 1.000 km về hướng Tây là núi thiêng Kailash, ngọn núi được thế giới mệnh danh là "vũ trụ tâm linh", nơi mà Kinh tạng Phật giáo gọi là núi Tu Di, cũng là nơi duy nhất ngày xưa Đức Phật và 500 vị A la hán đặt chân đến.
(2) Bằng trình vạn lý: Bay xa vạn dặm
Chương 08: Một ngôi chùa lạt ma
Nhờ Trần Tuyết Hàn dẫn đường, chúng tôi men theo lớp tuyết vụn, từng bước leo lên sườn núi. Trên những bậc thang phủ đầy tuyết, chỉ có một con đường hẹp vừa đủ cho một người đi lên hoặc xuống, bậc thang gần như dốc đứng, tôi dẫn theo hai người, họ nhất quyết đòi đi cùng tôi, nhưng chắc chắn bây giờ đã hối hận đến chết.
Đến giữa trưa, cuối cùng chúng tôi cũng đứng trước cánh cổng chùa lạt ma mà Trần Tuyết Hàn không ngừng nhắc đến suốt dọc đường.
Trước đây, tôi từng ghé thăm nhiều loại đền chùa khác nhau, từ lớn đến nhỏ, trong đó có không ít chùa lạt ma, nhưng kiểu kiến trúc trước mắt tôi hiện giờ, là lần đầu tiên tôi nhìn thấy.
Thứ đầu tiên đập vào mắt là cánh cổng chùa vô cùng xập xệ, cổng chùa rất nhỏ, cánh cửa gỗ chỉ rộng bằng nửa thân người, nhưng bên trong lại là một sân nhỏ, tuyết đã được quét sạch, để lộ ra những chiếc cối xay đá, bàn đá, ghế đá. Cuối sân là một dãy nhà dựa lưng vào vách núi, tòa nhà kéo dài lên cao, thậm chí không thể nhìn thấy điểm tận cùng, mang đến một cảm giác vô cùng hùng vĩ.
Dù vậy, tôi biết rất rõ rằng, bên trong những công trình kiểu này thường không có nhiều không gian, nhìn từ bên ngoài thì có vẻ rộng lớn, nhưng do xây dựng theo địa hình núi, trên thực tế, bên trong vô cùng chật hẹp.
Ba vị lạt ma trẻ tuổi đang ngồi quanh cối xay đá sưởi ấm, nhìn thấy chúng tôi tiến vào nhưng họ không tỏ ra ngạc nhiên, cũng không hề đứng dậy hay hỏi han gì.
Trần Tuyết Hàn bước tới giải thích lý do chúng tôi đến đây, ông ta nói bằng tiếng Tây Tạng, tôi không hiểu được, sau đó một trong ba vị lạt ma đứng dậy, dẫn chúng tôi vào bên trong.
Tòa kiến trúc đầu tiên là tòa lớn nhất, đây là nơi các lạt ma cử hành nghi lễ, sau điện chính có một cầu thang gỗ, kéo dài lên trên. Chúng tôi leo hết tầng này đến tầng khác, đi qua không biết bao nhiêu gian phòng, không biết đã mất bao lâu, cuối cùng, người dẫn đường mới dừng lại. Tôi nhận ra rằng chúng tôi đã đến một căn phòng tối đen như mực.
Trần Tuyết Hàn và vị lạt ma kia cung kính lui ra, để lại tôi và hai người kia đứng giữa bóng tối. Nhìn quanh, tôi nhận ra nơi này giống như một phòng thiền, chỉ có một điểm sáng nhỏ trong căn phòng tối tăm ấy.
Chúng tôi cẩn thận tiến lại gần, khi mắt dần thích nghi với bóng tối trong phòng, tôi bắt đầu nhìn thấy vô số bóng dáng lờ mờ hiện lên xung quanh, toàn là những chồng kinh thư chất đống, chúng tôi lần lượt né tránh, đi đến chỗ ánh sáng phát ra, nhận ra đó là một khung cửa sổ.
Khung cửa được che bằng một tấm chăn lông dày, nhưng do đã quá cũ, lớp vải bị mục, để lộ ra những lỗ nhỏ, ánh sáng bên ngoài len lỏi qua những lỗ thủng ấy chiếu vào trong phòng.
Tôi định kéo chăn ra để cho ánh sáng tràn vào, nhưng ngay lúc tôi vừa giơ tay lên, một giọng nói vang lên trong bóng tối: "Đừng để ánh sáng vào, lại đây."
Tôi nghe thấy thì giật bắn, quay đầu lại, tôi nhìn thấy trong góc tối có một tia lửa nhỏ lóe lên, sau đó, trong thứ ánh sáng mờ nhạt rải rác khắp phòng, tôi mới phát hiện ra bên kia căn phòng có năm vị lạt ma, dần dần hiện ra trước mắt tôi.
Chắc chắn năm vị lạt ma đã ở đây từ trước, nhưng vì căn phòng quá tối nên tôi không thể phát hiện ra họ, có lẽ đây là một kiểu tu hành đặc biệt, và chúng đã tôi vô tình quấy rầy họ.
Nhớ đến câu "lại đây" mà họ vừa nói, tôi bèn tiến về phía họ. Khi đến gần hơn, tôi thấy vài vị lạt ma trẻ vẫn nhắm mắt, chỉ có một vị lạt ma lớn tuổi hơn đang mở mắt, nhìn chúng tôi chằm chằm.
Chúng tôi nói ra lý do đến đây, vị lạt ma lớn tuổi nghe xong, từ từ nhắm mắt lại, chỉ nói một câu: "Là chuyện đó, ta vẫn còn nhớ."
Tôi hơi ngạc nhiên, tôi cứ nghĩ rằng ông ấy sẽ có phản ứng mạnh mẽ hơn, ví dụ như run rẩy mà nói: "Cậu, cậu cũng biết anh ta ư", kiểu vậy.
Nhưng ông ta chỉ nhắm mắt lại, bình thản nói: Là chuyện đó, ta vẫn còn nhớ.
Tôi không để lộ suy nghĩ trong lòng, cố giữ vẻ bình tĩnh.
Sự thật đúng là kỳ diệu như vậy, tôi chợt hiểu ra rằng, rất nhiều chuyện mà bản thân tôi cho là vô cùng quan trọng, đối với người khác, có lẽ còn chẳng đáng để họ bận tâm bằng một cái ngáp.
Tôi thực sự có thể hiểu được.
Trong phòng ngủ của đại lạt ma, chúng tôi uống trà bơ mới pha, chờ ông ấy từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện, trong phòng có một lò than, hơi ấm lan tỏa khắp nơi, tôi vừa lắng nghe về lần xuất hiện của Muộn Du Bình trong nhân gian, vừa cảm nhận mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán.
Đại lạt ma kể rất ngắn gọn, gần như chỉ tóm lược vài câu, nhưng với tôi, đó vẫn là manh mối quan trọng nhất trên đời.
Trong quá trình kể, có một số chi tiết mà chính ông ấy cũng không nhớ rõ, bèn lấy một vài cuộn kinh thư và ghi chép ra để xem lại, sau khi ông ấy nói xong, tôi cũng tự xem kỹ lại nội dung trong những ghi chép đó. Vì vậy, những gì tôi kể sau đây đến từ nhiều nguồn khác nhau, một phần là những gì tôi đọc từ ghi chép, một phần là những chuyện do đại lạt ma kể lại.
Do thông tin quá nhiều và được ghi lại lộn xộn, cả lời kể lẫn ghi chép đều đan xen giữa tiếng Tây Tạng và tiếng địa phương, khiến nhiều tình tiết bị rời rạc, vì thế, khi thuật lại câu chuyện này, tôi đã sắp xếp lại một chút để dễ hiểu hơn.
Năm mươi năm trước, ký ức của đại lạt ma vẫn còn vô cùng rõ ràng, khi đó, đã là tuần thứ ba núi bị tuyết phong tỏa, việc xuống núi đã trở nên cực kỳ nguy hiểm, tất cả các lạt ma trong chùa đều chuẩn bị bắt đầu kỳ khổ tu(1) suốt cả mùa đông.
Lúc đó, đại lạt ma vẫn còn trẻ, chưa phải là người đứng đầu trong chùa, vì vậy, để phân biệt, chúng tôi tạm gọi vị đại lạt ma khi còn trẻ là lão lạt ma.
Theo tập tục của chùa, vào ngày hôm đó, lão lạt ma quét sạch tuyết trước cổng chùa, sau đó đặt ba lò than lớn ngay trước cửa, để tuyết không thể tiếp tục phủ kín mặt đất. Hành động này được thực hiện mỗi mười năm một lần, kể từ khi chùa được xây dựng, lão lạt ma không biết tại sao lại có tập tục này, nhưng các thế hệ lạt ma trước đều tuân thủ nghiêm ngặt, nên ông ấy cũng làm theo.
Chính vào buổi trưa hôm đó, khi đi thêm than vào lò sưởi lần thứ tư, lão lạt ma nhìn thấy Muộn Du Bình đang đứng bên bếp than để sưởi ấm.
Muộn Du Bình mặc một bộ quần áo kỳ lạ, trông giống như áo quân đội rất dày, nhưng trên áo lại có hoa văn Tây Tạng, y đeo một chiếc ba lô rất lớn trên lưng, nhìn qua vô cùng nặng nề.
Trông Muộn Du Bình vô cùng khỏe mạnh, khi đó, y và lão lạt ma đã có một cuộc đối thoại như sau—
Lão lạt ma: "Khách quý từ đâu đến?"
Muộn Du Bình: "Tôi đi ra từ trong núi."
Lão lạt ma: "Khách quý định đi đâu?"
Muộn Du Bình: "Đi ra ngoài."
Lão lạt ma: "Khách quý đến từ ngôi làng bên kia núi sao?"
Muộn Du Bình: "Không, là từ sâu bên trong đó."
Nói xong câu này, Muộn Du Bình chỉ tay về một hướng, đó là khu vực sâu trong dãy núi tuyết. Đối với lão lạt ma và tất cả cư dân ở Mặc Thoát, họ đều biết rất rõ rằng đó là vùng đất hoang vu, không có dấu vết con người.
Không có bất kỳ con đường nào nối liền giữa ngôi chùa và khu vực đó, chỉ có một vực sâu dựng đứng như một vách đá. Dù không phải là vách đá thực sự, nhưng do độ dốc và lượng tuyết tích tụ nên cũng không khác gì một vách núi, chênh lệch chiều cao lên tới hơn hai trăm mét, vô cùng hiểm trở, được coi là khu vực nguy hiểm nhất của ngôi chùa này.
Không ai có thể đến từ hướng đó, lão lạt ma bật cười, nghĩ rằng chắc chắn Muộn Du Bình đã chỉ nhầm hướng. Nhưng ngay sau đó, ông ấy nhận ra có gì đó không đúng, bởi vì tại chỗ Muộn Du Bình đứng, chỉ có duy nhất hai dấu chân đơn độc, không có bất kỳ dấu vết kéo dài nào phía sau.
Trong thời tiết tuyết rơi dày đặc như thế này, nếu muốn xuất hiện tình huống như vậy, trừ phi là Muộn Du Bình rơi xuống từ trên trời, hai là y thực sự đã leo lên từ vách vực.
Lão lạt ma: "Vì sao khách quý lại dừng chân trước cửa chùa chúng tôi?"
Muộn Du Bình: "Ở đây ấm, tôi chỉ sưởi một chút, sẽ đi ngay."
Y chỉ tay về phía bếp than, ngay lúc đó, một suy nghĩ kỳ lạ nảy lên trong đầu lão lạt ma. Ngôi chùa này có một tập tục kỳ bí, rằng cứ mỗi mười năm, phải đốt ba lò than để sưởi ấm trước cổng chùa. Có lẽ nào, mục đích của truyền thống này chính là để nếu có ai đó đi ngang qua, họ sẽ có nơi để sưởi ấm?
Hoặc là có người hy vọng rằng bất kỳ ai đi qua cổng chùa này, sẽ dừng lại vì ba bếp than?
Từ khi ngôi chùa này được xây dựng, tập tục này đã tồn tại, nhưng lão lạt ma luôn cảm thấy có gì đó rất bí ẩn. Chẳng lẽ người xây chùa đã đoán trước được sẽ có ngày như thế này từ rất lâu về trước, nên mới đặt ra quy tắc ấy?
Lão lạt ma nhìn chằm chằm Muộn Du Bình, hai người lặng lẽ đối diện một lúc lâu, cảm thấy hơi khó xử, ông ấy bèn nói: "Bên trong còn ấm hơn, hay là khách quý vào trong nghỉ ngơi một lát, uống chén trà bơ rồi hẵng đi?"
Câu hỏi này vốn chỉ mang tính khách sáo, nhưng Muộn Du Bình lại không hề khách sáo, lập tức gật đầu nói: "Được."
Thế là lão lạt ma dẫn Muộn Du Bình vào trong chùa lạt ma, là chủ nhân của nơi này, hơn nữa đã lâu rồi không có khách ghé thăm, nên tất nhiên ông ấy phải làm tròn đạo tiếp khách. Sau khi để Muộn Du Bình sưởi ấm cơ thể, uống trà bơ, lão lạt ma dẫn y đi dạo quanh chùa.
Trong suốt thời gian đó, lão lạt ma luôn vô tình hoặc cố ý hỏi Muộn Du Bình một vài câu hỏi, kỳ lạ là, Muộn Du Bình cũng không hề giấu giếm, y lặp đi lặp lại rằng mình đến từ vùng núi tuyết, từ giọng điệu đến sắc mặt, hoàn toàn không có dấu hiệu nói dối hay che giấu gì.
Lúc đó, dù lão lạt ma còn trẻ, nhưng dù sao cũng đã trải qua quá trình tu hành, nên biết cách kiềm chế sự tò mò về thế gian, vì vậy, ông ấy không tiếp tục hỏi dồn.
(Lẽ ra, nhiều nhất thì chuyện này cũng chỉ kéo dài đến khi Muộn Du Bình nghỉ lại một đêm, sau đó sẽ kết thúc. Khi Muộn Du Bình rời đi, cuộc sống của lão lạt ma cũng sẽ trở lại bình thường.)
------------
(1) Tu khổ hạnh là một hình thức tu bắt cơ thể phải chịu đói khát đau đớn. Hình thức tu này có trước khi Phật giáo ra đời, chính thái tử Tất Đạt Đa trên con đường sáng lập đạo Phật đã từng tu khổ hạnh trong 6 năm trời, nhưng sau đó Ngài đã phát hiện cách tu này không đem lại sự giải thoát hoàn toàn nên đã từ bỏ.
Chương 09: Manh mối quan trọng về Muộn Du Bình
Tối hôm đó, Muộn Du Bình ngồi trong phòng của lão lạt ma trò chuyện nốt mấy câu cuối cùng. Y nói rằng ngày mai sẽ rời đi, nói lời cảm ơn, lão lạt ma đưa y về phòng.
Cấu trúc của ngôi chùa vô cùng phức tạp, nếu không có người dẫn đường, gần như không thể tự tìm thấy phòng. Hai người men theo lối đi ngoằn ngoèo bên trong chùa, khi đi ngang qua một sân nhỏ, ngọn đèn dầu của lão lạt ma bỗng vụt tắt.
Bóng tối bao trùm, dưới ánh trăng, sân chùa trở nên mờ ảo, tĩnh mịch. Lão lạt ma dừng lại, cúi xuống châm lại đèn dầu, còn Muộn Du Bình thì ngẩng đầu nhìn lên bầu trời.
Bầu trời Tây Tạng rực rỡ với vô vàn tinh tú, đẹp tựa như một giấc mộng. Nhưng đối với lão lạt ma, đây chỉ là cảnh tượng quá đỗi quen thuộc, từ nhỏ đến lớn, ông ấy đã nhìn thấy bầu trời như vậy, nên chưa từng nghĩ rằng có gì đặc biệt trong đó.
Khi ngọn đèn được thắp sáng trở lại, lão lạt ma chuẩn bị tiếp tục lên đường thì nhận ra Muộn Du Bình vẫn đứng yên tại chỗ, chỉ lặng lẽ nhìn bầu trời.
"Khách quý, đi lối này." Lão lạt ma gọi một tiếng, lúc ấy Muộn Du Bình mới hoàn hồn, sau đó quay sang hỏi: "Thượng sư, có phải trong chùa của các ngài có tổng cộng một trăm hai mươi bảy gian phòng?"
Lão lạt ma ngẩn ra, quả thực, ngôi chùa này có tổng cộng một trăm hai mươi bảy gian phòng. Khi ông ấy mới đến đây, đã ghi nhớ điều này rất kỹ. Dù có một số gian phòng rất nhỏ, nhưng tổng số vẫn là một trăm hai mươi bảy. Làm sao mà Muộn Du Bình biết được?
Lão lạt ma gật đầu xác nhận, Muộn Du Bình nói tiếp: "Làm phiền ngài có thể đưa tôi đi xem từng phòng một được không?"
"Khách quý, vì sao đột nhiên lại muốn—" Lão lạt ma định hỏi, nhưng bản năng tu hành đã ngăn ông ấy lại. Không vọng tưởng, không hiếu kỳ, ông ấy không nên để tâm quá nhiều đến những chuyện như thế này.
Lão lạt ma kiềm chế suy nghĩ của mình, nhưng lại thầm suy đoán, có phải Muộn Du Bình là bài kiểm tra mà trời cao gửi đến để thử thách việc tu hành của ông ấy không, vì thế, ông ấy lặng lẽ gật đầu: "Được thôi."
"Tôi nhớ bầu trời sao ở đây." Muộn Du Bình khẽ lẩm bẩm: "Tôi từng đến nơi này từ rất lâu trước đây. Hình như tôi đã để lại thứ gì đó trong một căn phòng nào đó ở đây."
"Mong rằng anh có thể tìm thấy nó." Lão lạt ma nói, nhưng trong lòng ông ấy, sự tò mò đã bị kìm nén đến suýt ói máu.
(Tôi thầm nghĩ, không phải là do chưa tu hành đủ, mà đúng là cách nói chuyện của Muộn Du Bình có thể khiến cả Phật Tổ cũng tức đến mức ói máu mà chết.)
Đêm đó, họ lần lượt mở từng gian phòng, tìm kiếm từng chỗ một. Lão lạt ma không còn nhớ đã đi đến gian phòng thứ bao nhiêu, chỉ biết rằng sau hơn hai tiếng, họ mở cửa một gian phòng bỏ trống. Ngay khoảnh khắc bước vào, Muộn Du Bình bỗng khựng lại, đứng yên bất động.
Lão lạt ma cũng dừng bước, nhưng ông ấy biết chắc chắn trong căn phòng này có thứ gì đó đã khiến Muộn Du Bình chấn động.
Muộn Du Bình tiến vào phòng. Có một chiếc bàn gỗ ở giữa phòng, trên bàn đầy đồ đạc lộn xộn. Y gạt những món đồ trên bàn sang một bên, từ dưới đống đồ ấy, một thi thể khô quắt dần dần lộ ra.
Thi thể nằm úp xuống bàn, đã hoàn toàn biến thành xác khô, bị lấp dưới đống đồ cũ kỹ, lại khoác lên mình tấm cà sa nên không thể nhận ra diện mạo ban đầu.
Lão lạt ma tá hỏa, ông ấy chưa bao giờ nghĩ rằng lại có một xác chết trong một căn phòng bỏ hoang của chùa.
Nhưng tất cả các vị lạt ma trong chùa đều có mặt đầy đủ, vậy người này là ai? Lẽ nào đây là một vị lạt ma trong quá khứ, chết trong phòng này, nhưng không ai hay biết suốt bao năm qua?
"Đây... đây là ai?" Lão lạt ma không thể kìm nén được nữa, lắp bắp hỏi.
"Đây là lạt ma Đức Nhân, là bạn của tôi. Không ngờ ông ấy lại chết ở đây."
"Lạt ma Đức Nhân?" Lão lạt ma sững sờ, chưa từng nghe thấy cái tên này bao giờ.
Muộn Du Bình sắp xếp lại bàn, phát hiện ra xác khô đang nắm chặt một cuộn kinh văn trong tay. Y mở cuộn kinh ra, khẽ thở dài rồi nói với lão lạt ma: "Xin hãy thu dọn căn phòng này, an táng tử tế thi thể của Đức Nhân. Tôi muốn ở lại đây."
Lão lạt ma hoàn toàn ngẩn người, ông ấy đột nhiên cảm thấy mọi thứ xung quanh trở nên xa lạ, dường như chính mình còn không hiểu về ngôi chùa này bằng Muộn Du Bình. Muộn Du Bình ngồi xuống, nhìn chằm chằm vào cuốn kinh, không nói thêm lời nào với lão lạt ma nữa.
Lần ấy, Muộn Du Bình ở lại đó suốt mấy tháng. Sau đó, khi họ tra cứu tư liệu, lão lạt ma càng thêm hoang mang khi phát hiện ra một hiện tượng kỳ lạ: Thực sự có ghi chép về Lạt ma Đức Nhân trong danh sách của chùa, nhưng lần đầu tiên cái tên này xuất hiện là từ khi chùa mới được xây dựng. Tiếp tục tra cứu, ông ấy phát hiện ra gần như mỗi thế hệ lạt ma của ngôi chùa này đều có một người mang tên Đức Nhân, mãi cho đến thế hệ này, cái tên ấy mới biến mất khỏi danh sách.
Chắc chắn không thể nào là cùng một Đức Nhân, mà phải là nhiều thế hệ kế tiếp nhau. Hơn nữa, từ ghi chép trong danh sách, gần như mỗi vị Đức Nhân đều nhận một đồ đệ cũng mang tên Đức Nhân.
Rốt cuộc là thế nào? Một truyền thống khác của chùa sao?
Có vẻ như cái tên Đức Nhân mang một ý nghĩa đặc biệt đối với ngôi chùa này, đến mức mỗi thế hệ lạt ma đều phải có một người mang tên đó.
Mà thi thể đã hóa thành xác khô chính là vị Đức Nhân cuối cùng. Không biết vì lý do gì, ông ấy đã chết trong căn phòng này mà không có người kế nhiệm, khiến cho cái tên Đức Nhân bị đứt đoạn.
Tại sao lại như vậy, liệu đây có thực sự chỉ là một ngôi chùa bình thường không? Lão lạt ma không thể kìm nén sự tò mò của mình thêm nữa. Là một nhà sư, ngoài việc kiểm soát cảm xúc, còn có một điểm rất tốt, nếu nhận ra bản thân tu hành chưa đủ, ông ấy có thể thẳng thắn thừa nhận. Ông ấy nhận thấy chắc chắn Muộn Du Bình có liên quan đến ngôi chùa này, vậy nên cũng không cần phải giữ phép lịch sự mà kìm nén những thắc mắc trong lòng.
Ông ấy tìm đến Muộn Du Bình để hỏi sự thật.
Muộn Du Bình nói cho ông ấy biết, dường như chẳng có ý định che giấu chút nào.
(Tôi nghe đến đây mà suýt ói máu, vì cảm thấy sao Muộn Du Bình có thể thẳng thắn với lạt ma như vậy, còn đối với tôi thì lại keo kiệt từng chút một?)
Muộn Du Bình nói rằng y mắc một căn bệnh, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, y sẽ quên sạch mọi chuyện trước đó, trừ một số ký ức thời thơ ấu, còn lại thì trí não của y không thể lưu giữ những ký ức mới xảy ra.
Y thực sự đến từ dãy núi tuyết và đã mang theo một bí mật từ nơi đó ra, nhưng chẳng bao lâu nữa, chắc chắn y sẽ quên đi bí mật này.
Từ rất lâu trước đây, trước khi tiến vào dãy núi tuyết, Muộn Du Bình và vị Đức Nhân lạt ma cuối cùng này đã có một mối quan hệ rất đặc biệt, họ từng lập ra một giao ước, mười năm sau, y sẽ rời khỏi núi tuyết, mang theo một bí mật khổng lồ. Nhưng khi y bước ra khỏi đó, chắc chắn y sẽ hoàn toàn quên mất lời hẹn ước này. Vì vậy, lạt ma Đức Nhân sẽ đợi y trong ngôi chùa này, và khi y đến, trước khi ký ức bị xóa sạch hoàn toàn, y sẽ kể lại mọi chuyện đã xảy ra trong núi tuyết, để Đức Nhân ghi chép lại.
Lão lạt ma nhớ lại lời Muộn Du Bình nói, mồ hôi lạnh túa ra.
Có phải như thế có nghĩa là, khoảng thời gian mười năm này không phải là ngẫu nhiên? Có phải tất cả các đời lạt ma Đức Nhân đều tồn tại để ghi lại ký ức của những người rời khỏi núi tuyết? Liệu có phải ngôi chùa này đã được xây dựng chính vì có người biết rằng, cứ mỗi mười năm, sẽ có một người mang theo bí mật từ núi tuyết trở về, và sẽ kể lại toàn bộ câu chuyện cho một vị lạt ma mang tên Đức Nhân?
Đáng tiếc thay, vị Đức Nhân đời này đã qua đời trước khi kịp chờ Muộn Du Bình trở về từ núi tuyết. Thậm chí ông ấy còn không kịp tìm một người kế nhiệm.
Có lẽ vì biết rằng mình sắp quên đi tất cả, Muộn Du Bình đã nói cho lão lạt ma nghe toàn bộ những gì y biết. Y nói với lão lạt ma lý do y đặt chân đến vùng cao nguyên tuyết trắng này.
Y đến để tìm một người.
Chương 10: Quá khứ của Muộn Du Bình
Vào đầu thế kỷ hai mươi, sau khi trải qua "Chiến tranh Thế giới thứ nhất", Mỹ bước vào thời kỳ phát triển với tốc độ cao. Khi đó, có thể bắt gặp bóng dáng của các nhà thám hiểm và đoàn khảo sát Mỹ ở khắp nơi trên thế giới. Ở khu vực Đông Nam Á, những quốc gia nhỏ nằm dưới chân Himalaya như Nepal và Bhutan đóng vai trò vùng đệm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, nơi diễn ra các hoạt động thương mại sôi động với vô số dòng chảy hàng hóa đa dạng. Trong đó, người Mỹ chiếm một phần không nhỏ.
Tại một trạm nghỉ, một đoàn ngựa thồ hỗn hợp bao gồm người Ấn Độ, người Bhutan và người Trung Quốc đang dừng chân. Bên trong trạm, những người thuộc nhiều sắc tộc khác nhau tụ tập, thậm chí còn có thương nhân Pháp đến từ Bắc Phi, mang theo những tin tức không rõ thực hư về các cuộc giao tranh ở vùng biên giới lân cận.
Trong đoàn ngựa thồ, dường như có bốn người đóng vai trò trung tâm, có thể suy ra cấu trúc tổ chức của cả đoàn từ họ. Trong nhóm người Ấn Độ, có hai người đứng đầu, họ là hai anh em. Thủ lĩnh của nhóm người Bhutan là một người đàn ông đầu trọc. Chỉ có một người Trung Quốc, tên là Đổng Xán, nhưng đó chỉ là một cái tên giả.
Đổng Xán vốn mang họ Trương, là một thương nhân hoạt động tại khu vực biên giới Trung Quốc, đồng thời cũng là thành viên của một gia tộc lớn ở Trung Quốc. Trước đây, hắn có riêng một đoàn ngựa thồ, nhưng tuyến đường từ Nepal đến Tây Tạng và Tứ Xuyên của Trung Quốc đã bị nhiều thế lực nước ngoài và các thế lực bản địa cắt đứt. Vì vậy, hiện tại hắn đang đi theo đoàn ngựa thồ của người Ấn Độ và Bhutan, chủ yếu thực hiện các hoạt động thương mại nhỏ lẻ tại biên giới.
Hàng hóa mà Đổng Xán mang theo rất đặc biệt, trong thời chiến, chúng không có giá trị quá lớn, nhưng lại không thể giao dịch công khai. Nhiều món hàng có chi phí vận chuyển còn cao hơn giá trị thực tế. Đổng Xán chỉ kiếm được chút hoa hồng từ vận chuyển hàng hóa trong chuyến đi này mà thôi.
Đổng Xán có một gương mặt rất giống người Tây Tạng, mang lại lợi thế lớn cho hắn khi hoạt động trong khu vực. Ở dãy Himalaya, các thế lực phức tạp đan xen, một thương nhân đi một mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm. Nhưng Đổng Xán là một người cực kỳ khôn khéo, hắn có thể sử dụng tiếng Tây Tạng khá tốt, thường xuyên lợi dụng nó để qua mặt những kẻ dò xét.
Đoàn ngựa thồ này dừng lại ở trạm nghỉ suốt mười hai ngày, đến khi chuẩn bị đầy đủ vật tư cần thiết và gặp được một đợt thời tiết tốt hiếm hoi, họ bắt đầu tiến vào khu vực Himalaya, tiến về phía Trung Quốc.
Đây cũng là lần cuối cùng những người quen biết họ nghe được tin tức về họ.
Kể từ đó, đoàn ngựa thồ gồm mười bảy người, bảy người Ấn Độ, chín người Bhutan, một người Trung Quốc, đã hoàn toàn biến mất trong khu vực hoang vu của Himalaya. Thực ra chuyện này cũng không có gì bất thường. Từ xưa đến nay, có vô số đoàn thương nhân bỏ mạng trong khu vực đó. Tuy nhiên, sự mất tích của họ lại khiến chính quyền Ấn Độ vô cùng lo lắng.
Không có lý do rõ ràng cho sự lo lắng này, dĩ nhiên, chắc chắn có một lý do, nhưng chưa ai dám công khai nói ra lúc đó. Lý do được chính quyền Ấn Độ đưa ra vào thời điểm đó là, thực ra hai người Ấn Độ trong đoàn là nhân viên tình báo của Ấn Độ. Họ nắm giữ thông tin về một kế hoạch cực kỳ quan trọng, nhưng giờ cả hai người đều biến mất một cách bí ẩn.
Theo suy đoán, chắc chắn đám Đổng Xán đã tiến sâu vào khu vực Himalaya rồi lạc đường. Không một ai trong số họ xuất hiện trở lại tại bất kỳ lối ra nào, thay vào đó, họ đi thẳng vào vùng sâu nhất của dãy núi, có lẽ đã chết ở trong đó.
Nhưng sự thật lại không phải như vậy. Mười năm sau, hai thương nhân người Bengal bị giết trong một vụ xô xát ở Bengal. Sau khi điều tra, người ta phát hiện ra hai người này chính là hai người Ấn Độ đã biến mất cùng đoàn ngựa thồ năm đó. Họ chết trong một vụ ẩu đả liên quan đến cờ bạc, bị chủ nợ dùng cuốc đánh chết. Thời điểm đó, thân phận của họ đã hoàn toàn thay đổi, họ không còn là những thương nhân nghèo khổ lang bạt trên lưng ngựa, mà đã trở thành hai anh em giàu có nổi tiếng tại đó. Cùng năm đó, vào cuối năm, một người dân ở Sikkim(1) nhận ra một người đàn ông giàu có sống ẩn dật tại địa phương, và người này chính là thủ lĩnh người Bhutan đầu trọc năm xưa.
Đổng Xán không xuất hiện, nhưng sự lộ diện của ba người còn lại đã khiến chính quyền ngay lập tức nhận ra rằng, chuyện này không hề đơn giản.
Có vẻ như đoàn ngựa thồ năm đó không hề chết trong dãy Himalaya. Tất cả bọn họ đều còn sống, hơn nữa đều đã đổi tên, thay đổi thân phận để tiếp tục sống. Kỳ lạ hơn nữa là, tất cả bọn họ đều trở nên vô cùng giàu có.
Nghe nói khi chính quyền bắt giữ người Bhutan đầu trọc, phải cần đến mười chuyến xe tải mới chở hết tài sản trong nhà ông ta.
Khi bị thẩm vấn, người Bhutan này đã khai toàn bộ những gì đã xảy ra trong dãy Himalaya.
Lúc đó, sau khi cả đoàn tiến sâu vào dãy Himalaya, họ gặp phải một trận sạt lở kinh hoàng tại một ngã rẽ trên đường đi. Bị chặn lại, họ buộc phải tìm một con đường khác để tiếp tục tiến lên. Thời điểm đó, gió tuyết trong núi rất lớn, họ không nhận ra rằng sau vài lần đi vòng vèo, họ đã vô tình quay trở lại chính khu vực bị sạt lở lúc trước. Trong lúc leo qua khu vực đó, tất cả bọn họ đều rơi xuống vách đá.
Những ai từng xem các bộ phim tài liệu liên quan sẽ biết rằng, muốn vượt qua đoạn đường này thì chỉ có thể đi bộ, còn tất cả gia súc dùng để vận chuyển hàng hóa đều phải được buộc lại với nhau bằng dây thừng. Kỹ thuật buộc dây và thắt nút vô cùng quan trọng, mỗi kiểu thắt đều khác nhau tùy theo địa hình. Khi gặp đoạn đường quá trơn trượt, bắt buộc phải tháo dây thừng ra để tránh tai nạn. Nhưng đám Đổng Xán đã đánh giá sai tình hình địa hình. Khi một người trượt chân rơi xuống vực, tất cả những người còn lại cũng bị dây thừng kéo theo, cùng nhau rơi xuống.
Đó là một tai nạn thảm khốc, vô số chuyện kinh hoàng không thể ghi chép lại hết được đã xảy ra. Do dây thừng nối với nhau, quá trình rơi xuống vách đá diễn ra vô cùng phức tạp. Nhiều người bị dây thừng mắc vào các mỏm đá, lao mạnh vào vách núi do quán tính, chết ngay lập tức. Một số người khác bị dây siết chặt đến chết ngay trên đường rơi xuống, vô cùng đáng sợ.
Sau vụ tai nạn này, một nửa số người và gia súc trong đoàn đã thiệt mạng. Những người sống sót dừng chân nghỉ ngơi dưới chân vách đá, nhưng họ nhanh chóng nhận ra trèo trở lại là bất khả thi. Không còn cách nào khác, họ buộc phải tìm một con đường khác để quay lên. Kết quả là họ vô tình đi lạc vào một khu vực mà chưa từng có ai đặt chân đến trước đây. Họ phát hiện một nơi vô cùng kỳ lạ ở đó.
Đó là một thung lũng, kỳ lạ là lượng tuyết đọng trong thung lũng này không hề dày như những nơi khác. Ngay giữa trung tâm thung lũng, có một quả cầu khổng lồ, cao khoảng ba đến bốn tầng lầu. Nửa trên của quả cầu bị phủ bởi tuyết, nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ nửa dưới, là một quả cầu kim loại khổng lồ màu đen. Bên cạnh quả cầu kim loại khổng lồ này, trong lớp tuyết mỏng, họ còn tìm thấy vô số quả cầu kim loại nhỏ, có kích thước chỉ bằng một quả trứng gà.
Số lượng của chúng đạt đến hàng nghìn, thậm chí hàng vạn. Những quả cầu này không có kích thước đồng nhất, hơn nữa tuyết phủ che lấp rất nhiều nên không thể xác định chính xác tổng số. Người Bhutan đầu trọc ước tính rằng, nếu dọn hết tuyết đi, cảm giác khi đứng giữa đống cầu kim loại ấy sẽ chẳng khác gì một đứa trẻ đang chơi trong bể bóng nhựa.
Họ không nhớ rõ ai là người đầu tiên phát hiện ra có một số được làm bằng vàng trong số những quả cầu đó. Ngay lập tức, họ bỏ hết hàng hóa ban đầu, đổi tất cả lấy những quả cầu vàng này.
Trong lúc thu gom, họ phát hiện ra các quả cầu ở đây được làm từ nhiều loại kim loại khác nhau, có đồng, có sắt, có chì, thậm chí dường như tất cả kim loại trên thế giới đều có.
Tất cả mọi người đều phát điên, vì có quá nhiều những quả cầu như thế này, nếu muốn tìm ra những quả cầu bằng vàng bên trong, cần phải có đủ kiên nhẫn. Sau đó, một vụ tranh giành đã nổ ra, có người bị thương trong quá trình đó.
Sau vô vàn khó khăn, cuối cùng họ cũng thoát khỏi thung lũng, nhưng chỉ còn lại sáu người sống sót. Ngoài hai người Ấn Độ và một người Bhutan còn có hai người phu khuân vác, cùng với Đổng Xán. Đổng Xán là người duy nhất trong nhóm không mang theo bất kỳ thứ gì rời đi. Khi đó, ánh mắt hắn chỉ tập trung vào quả cầu khổng lồ, như thể bị nó mê hoặc, trong khi cả một ngọn núi đầy vàng xung quanh lại chẳng hề khiến hắn bận tâm.
Người Bhutan kể lại rằng, quả cầu kim loại khổng lồ ấy nằm chính giữa thung lũng, vừa nhìn lướt qua đã biết là do con người tạo ra. Tuy nhiên, mục đích của nó là gì, ai đã đặt nó ở đó thì không thể hiểu nổi. Tất cả những quả cầu kim loại nhỏ ở xung quanh đều bị bào mòn và oxy hóa nghiêm trọng, chứng tỏ chúng đã tồn tại ở đó ít nhất vài nghìn năm.
Sau khi giành lại được tự do, người Bhutan này đã ghi chép lại toàn bộ những chuyện kỳ lạ mà hắn đã trải qua. Hắn viết một cuốn sách, trong đó đưa ra vô số suy đoán thiếu thực tế. Trong sách, hắn khẳng định rằng phần lớn tài sản của mình đều do chính hắn kiếm được, còn số vàng kia chỉ đơn giản là khoản vốn ban đầu.
Những quả cầu vàng mà hai người Ấn Độ đã bán ra dần dần được tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới. Một số đã bị nung chảy và đúc thành đồ khác hoặc đồng xu, nhưng vẫn còn mười hai quả cầu giữ nguyên hình dạng ban đầu khi được phát hiện. Khi đó. chính phủ Ấn Độ đã chi số tiền khổng lồ để thu mua chúng, những quả cầu vàng này trở thành "vàng còn đắt hơn vàng".
-----------
(1) Sikkim, hay Xích Kim, Tích Kim là một bang nội lục của Ấn Độ. Bang nằm trên dãy Himalaya, có biên giới quốc tế với Nepal ở phía tây, với Tây Tạng ở phía bắc và đông, với Bhutan ở phía đông. Sikkim có biên giới quốc nội với bang Tây Bengal ở phía Nam.
Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip