Chương 18: Cuộc tình éo le trong vườn Yên Hoa (1)

Đang nói Đặng Ma La xử án cứu được Nguyễn Bằng ra thì đã gần chết. Vợ con Nguyễn Bằng kêu khóc om sòm. Phạm Hữu bảo:

- Mẹ con cô hãy ra ngoài kia để tôi còn chữa cho chú ấy.

Phạm Hữu nói xong, cầm tay Nguyễn Bằng, thấy mạch trầm hoãn không có lực, người lạnh, thở gấp như hụt hơi, nói:

- Khổ thân chú ấy. Bị bỏ đói đây mà. Chú lính cho tôi ít nước nóng rồi chạy đi mua hộ tí cháo, bảo họ múc cho chỗ loãng loãng thôi.

Người lính vội mang nước đến. Phạm Hữu cho Nguyễn Bằng uống mấy giọt thuốc hồi dương cứu nghịch làm người ấm lên, lại bón cho mấy thìa cháo. Lát sau Nguyễn Bằng tỉnh lại, ai nấy đều mừng rỡ. Nguyễn Bằng thấy Phạm Hữu cùng vợ con quây quần cả bên mình, mừng quá nói:

- Tôi có chết cũng đã gặp được mọi người thế này là...

Hai hàng nước mắt ứa ra, không nói hết được câu. Những người xung quanh cũng rưng rưng cảm động. Phạm Hữu bảo:

- Tôi đến đây, chú muốn chết cũng đâu có được. Bọn quan huyện, quan châu bị bắt cả rồi.

Đặng Ma La đợi mấy ngày cho Nguyễn Bằng khoẻ hẳn mới đưa về kinh yết kiến hoàng thượng. Thánh Tông khen Nguyễn Bằng là người dũng nghĩa, xét công lao phong cho làm tri châu châu Hạ Hồng, thay quan chi châu cũ Hà Phương. Nguyễn Bằng lạy tạ nhưng không nhận chức, chỉ xin được về quê an dưỡng tuổi già. Thánh Tông ban cho năm trăm lạng bạc, hai tấm lụa, chuẩn cho về quê sum họp gia đình.

Xin trở lại với vị tướng trẻ tài ba mà si tình Trần Khánh Dư cùng nàng công chúa xinh đẹp yêu kiều Thiên Thụy. Từ hôm Khánh Dư gặp lại Thiên Thụy bên bờ Tây hồ, chàng như được uống một liều thuốc cải tử hoàn sinh, xua tan mọi nỗi ưu phiền cùng bệnh tật, bởi vì công chúa đã hẹn đúng tối hôm rằm chàng đến vườn Yên Hoa trong khu ngự uyển gặp nàng. Hôm nay chính là ngày hẹn. Từ lúc mặt trời còn cao, Khánh Dư đã ăn mặc rất chải chuốt, đi ra đi vào chỉ mong sao xua được bóng ác vàng bay nhanh qua núi cho giời chóng tối.

(Xưa kia cả Việt Nam lẫn Trung Quốc hai chữ Yên Hoađể chỉ nơi có nhiều kỹ nữ sinh sống và hành nghề)

Vườn Yên Hoa thuộc ngự hoa viên, có từ thời Lý Anh Tông. Lai lịch của nó gắn liền với thú ăn chơi của các vương hầu công tử cùng tao nhân mặc khách chốn kinh kỳ. Trong kinh thành Đại La có xóm Yên Hoa rất nhiều ca kỹ múa giỏi đàn hay lại biết ươm trồng nhiều giống kì hoa dị thảo hương thơm sắc thắm (Ngày xưa kỹ nữ phân theo nghề nghiệp có tới hơn bốn mươi loại như: Vũ kỹ chuyên múa, cổ kỹ chuyên đánh trống, nhạc kỹ chuyên chơi đàn thổi sáo, ca kỹ chuyên hát hầu khách, kỳ nương chuyên đánh cờ với khách... chỉ có dâm kỹ mới có quan hệ chăn gối với khách mà thôi). Các vương tôn, công tử, quan lại thường lui tới ngắm hoa nghe nhạc, nhiều khi thâu đêm suốt sáng. Có người biết nhà vua hay chơi hoa mới xin về dâng lên. Nhà vua thích lắm, thưởng cho rất hậu, lại sai đem cây hoa lạ trồng trong vườn.Về sau người ta đua nhau tìm những loài cây quý dâng cho nhà vua. Tất cả các cây ấy đều được trồng trong khu vườn riêng, cử người chăm sóc cẩn thận, gọi là vườn Yên Hoa với ý là những cây ở đây đều được lấy giống từ xóm Yên Hoa. Đến thời Lý Cao Tông không những chỉ có các giống hoa lạ mà các loại cây hiếm có hình dáng đẹp ở khắp nơi cũng được mang về trồng. Nhà vua lại cho đào một chiếc hồ bán nguyệt rộng mười mẫu, xây thuỷ đình cực kì lộng lẫy. Chung quanh hồ trồng rất nhiều cây liễu, có đường lát gạch phương điều để người của hoàng gia đi dạo ngắm hoa. Đến đời Lý Huệ Tông, Trần Tự Khánh nắm giữ quyền bính cho xây một hòn giả sơn cao bảy trượng giữa hồ. Trong lòng giả sơn có nhiều hang động thông qua một đường ngầm nối liền với những hang động của dãy non bộ trên bờ. Khi Trần Thái Tông lên ngôi cho xây thêm năm ngôi hoa đình tượng trưng ngũ hành và đường đi lối lại liên kết thành hệ thống rất đẹp đẽ. Những cây được trồng từ thời nhà Lý đã thành cổ thụ, nhiều cây cao hơn mười trượng, cành lá sum xuê toả bóng xuống một sân chơi lát gạch men xanh ngọc nhạt. Khu vườn luôn râm mát yên tĩnh, những chiều Hè nắng nóng hoặc đêm trăng thanh gió mát, các công chúa, hoàng tử thường đến đây chơi dạo vui đùa, khi chọi dế đá cầu, lúc kéo co đánh vật, hoặc giả chơi trò trốn tìm đuổi nhau rất vui vẻ.

Mới đầu giờ Dậu, Trần Khánh Dư đã tới hoa viên. Cả khu vườn vắng lặng vì giờ này trong hoàng cung đang là bữa ăn chiều. Khánh Dư đi dạo một mình, lúc lâu sau chàng ngồi xuống ghế đá ven hồ, ngắm trăng lên. Trăng rằm chưa tròn hẳn nhưng trong sáng, từ từ nâng chiếc khuôn vàng vào giữa màn xanh, toả ra một thứ ánh sáng mềm mại dịu dàng (Dân ta cho rằng đêm 16 hàng tháng trăng mới thực tròn. Ca dao có câu: Trăng đến mười sáu trăng tròn; em đến mười sáu em còn đợi ai). Đội minh đăng quân đã thắp xong các dãy đèn trong khắp hoàng cung. Ngự uyển lung linh dưới ánh sáng của hàng trăm ngọn đèn nhiều màu. Khánh Dư có vẻ sốt ruột, chốc chốc lại nhìn về phía con đường từ ngự hoa viên dẫn vào hoàng cung mong kiếm tìm hình bóng giai nhân. Công chúa Thiên Thụy không đi lối ấy, nàng theo cửa nhỏ đi qua phía sau hòn giả sơn, chỉ có một thị nữ theo cùng. Khánh Dư ngoảnh lại đã thấy người đẹp kề bên. Nàng đi giày thêu, áo lửng không tay màu mỡ gà dài gần tới gối bó gọn trong chiếc thắt lưng màu vàng kim tuyến, khuôn mặt rạng rỡ như bức tranh vẽ hình Lạc Thần gặp Hậu Nghệ (Lạc Thần: Nhân vật thần thoại của Trung Quốc, là tình nhân của Hậu Nghệ, bị Ngọc hoàng đày xuống hạ giới ở sông Lạc Thuỷ). Nói sao hết nỗi vui sướng của Khánh Dư. Thiên Thụy hỏi:

- Chú Dư đợi Thiên Thụy đã lâu chưa?

- Gần một trăm năm rồi.

Thiên Thụy vừa đấm nhẹ vào lưng Khánh Dư vừa nũng nịu nói:

- Chú Dư chỉ nói đùa! Chú Dư chỉ nói đùa!

Khánh Dư định nắm lấy tay Thiên Thụy nhưng nàng đã bỏ chạy, nói:

- Đố chú Dư đuổi được Thiên Thụy.

- Đuổi được thì sao?

- Sao cũng được.

Khánh Dư đuổi theo. Thiên Thụy chạy vòng ra sau hòn giả sơn rồi chui tọt vào một cửa hang. Trong hang thắp những ngọn đèn màu rất nhỏ, chiếu ánh sáng mờ mờ lên các vách đá lóng lánh như được gắn muôn ngàn viên ngọc dạ quang bé xíu, rất nhiều nhũ đá thiên hình vạn dạng ghép nối một cách khéo léo rủ xuống chẳng khác gì ở nơi tiên động. Phía trước thấp thoáng bóng Thiên Thụy đang chạy. Đến một ngách ít ánh đèn, nàng chạy chậm lại, bị Khánh Dư tóm được. Chàng ôm nàng trong vòng tay. Thiên Thụy đẩy ra, bảo:

- Đừng! Kìa! Nhỡ ai nhìn thấy.

- Làm gì có ai ở đây! Ta đợi cơ hội này đã lâu lắm rồi.

Nói xong, Khánh Dư hôn tới tấp lên mặt lên môi Thiên Thụy. Nàng yên lặng trong vòng tay chàng. Đôi trai gái như quên hết những gì có thể xảy ra ở xung quanh và trong cái khung cảnh mơ hồ huyền ảo như chuyện thần tiên, họ đã đưa nhau đến miền thần tiên nhất của những người tình. Từ đấy hai người thường hẹn nhau đến đây để được thoả thích làm chuyện mây mưa.

***

Quan tri châu Hà Phương bị điệu về kinh thành chờ xét xử. Khi dẫn tới nhà ngục, có người cháu làm cai ngục là Hà Bình trông thấy gọi nhưng Hà Phương không trả lời. Chiều hôm ấy, cai ngục Hà Bình đuổi hết lính ra, một mình vào thăm Hà Phương. Hà Bình hỏi:

- Chú không nhận ra cháu ư?

Hà Phương bảo:

- Không phải! Chỉ sợ có người làm khó dễ còn gặp nhau thường xuyên sao được. Bây giờ chú phạm tội bị giam ở đây, cháu có cách gì giúp chú không?

- Lần trước cũng có người mắc tội, họ nhờ quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung tâu xin với nhà vua thế nào đó nên được giảm án. Các quan ở bộ hình cũng có vẻ kiêng nể ông ấy lắm nhưng chắc phải mất rất nhiều tiền bạc.

(Đỗ Khắc Chung về sau có công, được đặc cách đổi sang họ vua, tức là Trần Khắc Chung. Trần Khắc Chung nổi tiếng là giảo hoạt, vu hãm quốc phụ thượng tể Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn vào tội phản nghịch. Trong vụ án này, cùng với Quốc Chẩn, hàng trăm người vô tội phải chết oan. Đời sau, Lễ bộ thượng thư Lê Tung trong Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận coi Trần Khắc Chung và Trần Khánh Dư là những kẻ gian tà, tham bỉ)

- Tiền bạc thì không lo. Chú có thể chi đủ nhưng làm thế nào mà gặp được ngài chi hậu cục đây. Bây giờ từ châu huyện đến kinh kì chỗ nào cũng nhan nhản cò mồi, không khéo mất tiền mà chả được việc gì.

- Đúng đấy chú ạ. Có tiền mà không biết đường biết lối cũng không thể thành việc, có khi còn mang vạ thêm. Cháu có một người bạn là Hiếu Ngân làm ở dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư. Ông Trần Khánh Dư được hoàng thượng quý mến, cũng hay đi lại với quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung. Để hết giờ làm việc cháu nhờ thử xem.

Hà Phương như người chết đuối vớ được cọc, bảo:

- Cũng may gặp được cháu ở đây; thôi thì trăm sự nhờ cháu. Chỗ này chú chỉ có ít bạc lẻ, cháu cầm đi mời người ta chén rượu. Tình hình thế nào mau cho chú biết để còn lo liệu.

Hết giờ làm việc, Hà Bình phi ngựa đến dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư, may sao Hiếu Ngân cũng vừa lúc được nghỉ đang định về nhà. Hai người gặp nhau. Hà Bình bảo:

- Này! Có vụ làm ăn đấy. Ông giúp tôi một tay chứ?

Hiếu Ngân nói:

- Giúp thì giúp! Miễn là nặng tay vào. Vịt gầy hay béo?

- Gầy béo gì! Quan tri châu ở châu Hạ Hồng là chú họ tôi chứ ai.

- Chú họ chú ruột gì cũng phải có ăn mới làm được chứ, uống nước lã đi nói hộ à?

- Ai đã để ông uống nước lã. Ta đến tửu quán nào đó nói chuyện đi.

- Đến phường Yên Hoa hay ra hồ Lục Thuỷ?

- Xóm Yên Hoa hát toàn hành vân với lưu thuỷ chán bỏ mẹ. Ta ra hồ Lục Thuỷ, các kỹ nữ hát nhạc ngoại Hồi Kê, Đại Lý rồi cả nhạc Chiêm, nhạc Thiên Chúc nữa, miệng hát chân nhảy, rốn lúc lắc thế mới thích.

(Những dân Tống chạy quân Nguyên, sang Đại Việt, tự nhận là người Hồi Kê để tránh sự lùng bắt của quân Nguyên)

- Ôi giời! Bây giờ đâu phải hát nhạc ngoại nó mới phơi rốn ra. Ông thích thì không mặc gì đứng hát nhạc cổ nó cũng chiều. Nhiều đứa đầu óc tóc tai cắt cum cúm như đồ ăn cắp.

Hôm sau Hà Bình vào nói với Hà Phương:

- Bạn cháu nó nhận lời giúp cho rồi đấy. Nhưng qua cửa phiêu kị tướng quân không có lễ hậu thì không xong được.

Hà Phương liền viết một lá thư giao cho Hà Bình về nhà ở huyện Bàng Hà lấy vàng bạc để lo việc.

(Chí Linh, Hải Dương ngày nay. Sách Phương Đình dư địa chí viết: "Huyện Chí Linh: Xưa là Bàng Châu (cũng gọi là Bàng Hà) thuộc nhà Minh đổi là Chí Linh." - Trang 393, bản dịch của NXB Văn Hoá Thông Tin. ĐVsktt, bản dịch của NXB Khoa Học Xã Hội 1998 ghi: "Bàng Hà: đất huyện Thanh Hà cũ nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Tiên Lãng, Hải Phòng"- Chú thích số 5, tr 51, tập II)

Buổi chiều, Trần Khánh Dư đang chải đầu, định tối đi gặp công chúa Thiên Thụy trong ngự hoa viên, nàng đã hẹn đợi chàng bên hồ bán nguyệt. Hiếu Ngân chạy vào báo:

- Trình tướng quân! Bạn của hạ chức đã đến rồi, đang đợi ở cổng sau.

Khánh Dư tươi cười nói:

- Tốt! Tốt. Ngươi bảo chúng đem cả vào đây. Để ý xem có ai nhìn ngó gì không đấy.

Hiếu Ngân đi ra, lát sau dẫn Hà Bình cùng một tên đầy tớ vác chiếc hòm nặng vào. Hà Bình quỳ xuống nói:

- Quan tri châu Hà Phương có chút lễ mọn dâng lên. Xin đại nhân che chở cho.

Khánh Dư bảo mở ra. Chiếc nắp hòm được nâng lên. Bên trong đầy ắp mấy chục thoi vàng ròng lấp lánh. Khánh Dư cười mỉm bảo:

- Ngươi cứ về đi, mọi việc để ta lo.

Tối hôm ấy Khánh Dư vào hoàng thành nhưng không đến gặp Thiên Thụy mà tìm gặp Đỗ Khắc Chung. Khắc Chung nể Khánh Dư nên nhận lời nói giúp. Khánh Dư đưa cho Khắc Chung một cái túi gấm, nói:

- Đây là lễ của quan tri phủ Hà Phương gửi biếu.

Khắc Chung mở ra thấy có hai thoi vàng, gật gù bảo:

- Cũng biết điều đấy. Lộc bất tận hưởng. Ông hãy nhận lấy một thoi.

Khánh Dư xua tay, nói:

- Không không! Người ta biếu ông. Còn tôi là chỗ đồng hương chỉ giúp vô tư thôi.

- Tướng quân chối từ thì tôi đâu dám nhận một mình.

- Có gì mà không dám? Ông cứ cho Dư này mấy chén rượu là được rồi.

Hai người cùng cười. Khánh Dư theo Khắc Chung đến kỹ viện Phúc Tình bên hồ Lục Thuỷ, chẳng còn nhớ gì đến lời hẹn hò với công chúa Thiên Thụy.

Quan tri châu Hà Phương vì được Đỗ Khắc Chung và Trần Khánh Dư nói đỡ nên thoát tội chết, chỉ bị giáng xuống làm huyện lệnh huyện Đông Triều. Các quan trong triều tuy không đồng tình với cách luận tội của bộ hình nhưng e dè thế lực của Khánh Dư và sợ Khắc Chung là cận thần của nhà vua, lại không có bằng chứng về việc ăn hối lộ của hai người ấy nên đành nhẫn nhịn.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip