dduc5
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Theo V.I.Lênin, đạo đức của người cách mạng, người cộng sản phải được thể hiện trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới. Người nói: "đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản" và "Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột..."[4].
Hồ Chí Minh không chỉ là người kế thừa, vận dụng mà còn là người tiếp tục phát triển học thuyết Mác-Lênin về đạo đức cách mạng lên tầm cao mới trên cơ sở kết hợp tư tưởng đạo đức Mác-Lênin với tinh hoa tư tưởng và truyền thống đạo đức phương Đông.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc, cái căn bản, nền tảng của người cán bộ cách mạng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10 năm 1947, ký tên X.Y.Z, xuất bản đầu tiên năm 1948, Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?".
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Quan niệm về vai trò của đạo đức cách mạng:
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai trò của đạo đức cách mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dân tộc và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền. Nguy cơ của đảng cầm quyền đó là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hoá con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng là đạo đức, là văn minh”.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao thượng.
- Các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho độc lập dân tộc đến với Hồ Chí Minh trước hết là đến với tư tưởng đạo đức của Người. “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” là khẩu hiệu chung của người Việt Nam
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của Hồ Chí Minh là kết tinh đạo đức của dân tộc, của nhân loại. Hồ Chí Minh là điểm rực sáng về đạo đức đối với thế giới và đối với Việt Nam. Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng “là đạo đức, là văn minh”, thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao động. Tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng mà Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường Kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, đức và tài quan hệ mật thiết với nhau. Có đức nhưng phải có tài,hồng và chuyên phải kết hợp, tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức – tài nhằm phục vụ nhân dân. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
a. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
c. Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC,
1. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống.
Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên trong lao động, học tập, bảo vệ Tổ quốc XHCN
Biết giữ gìn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những giá trị cao đẹp về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, là “hiện thân của nền văn hóa tương lai”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có nội dung vô cùng phong phú, rộng lớn nhưng lại rất cụ thể, bình dị, gần gũi với cán bộ, đảng viên (CBĐV) và quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh luôi coi đạo đức là “cái gốc”, là “nền tảng” của người cách mạng. Người cho rằng cũng như “sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức cách mạng (ĐĐCM) không tự nhiên mà có, mà là kết quả của một quá trình giáo dục, rèn luyện bền bỉ mà nên, như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức nội hàm sức mạnh to lớn, người có ĐĐCM mới “gánh được nặng” và “đi được xa”. Đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người CBĐV chính là những biểu hiện tổng hòa của những tiêu chí đạo đức trong các mối quan hệ của họ với Đảng, Nhà nước, giai cấp, nhân dân, dân tộc; trong các mối quan hệ đa diện đa chiều của con người (đối với mình,đối với người, đối với việc)... Đó là những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; là tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung... Những phẩm chất ấy được Người đặc biệt quan tâm trong điều kiện Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền và đội ngũ CBĐV là những “công bộc” của nhân dân.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐĐCM có sức mạnh tinh thần to lớn; là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CBĐV, làm tăng sức mạnh của Đảng và chế độ xã hội XHCN. Điều đó cũng có nghĩa đặt ra một yêu cầu, đã là CBĐV thì trước hết phải trở thành một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người CBĐV trước nhân dân là vô cùng cần thiết, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước”.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, để xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN, với quan điểm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác, Đảng ta đã triển khai sâu rộng công tác xây dựng đảng nói chung và giáo dục ĐĐCM đối với CBĐV nói riêng. Từ năm 1987 đến 2004, BCH Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị quyết chuyên đề về xây dựng đảng trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng. Trước những thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, mở cửa hội nhập với thế giới, tuyệt đại đa số CBĐV vẫn tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Họ đã khắc phục gian khổ, khó khăn, vượt qua thử thách, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, được dân tin, dân phục, dân yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế là tình trạng một bộ phận không nhỏ CBĐV suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng.
Nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng đó, không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng thật tốt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nghiêm khắc nhìn nhận thực trạng, nguy cơ đó với tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, theo tinh thần Hồ Chí Minh: “Chúng ta đã không hề che giấu sai lầm, trái lại chúng ta đã thật thà tự phê bình và tích cực sửa chữa”. Trong các biện pháp tích cực sửa chữa, đặc biệt coi trọng các biện pháp giáo dục nhằm làm cho CBĐV thấy rõ vai trò, vị trí của mình trong Đảng và trong xã hội, có nhận thức đúng về những nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải nâng cao tư tưởng chính trị, chăm lo tu dưỡng ĐĐCM, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện sa sút phẩm chất đạo đức. Bảo đảm các nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt Đảng...
Như vậy có thể thấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác giáo dục ĐĐCM cho CBĐV, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng. Những điều Hồ Chí Minh nói về ĐĐCM cách đây đã rất lâu rồi nhưng chúng ta vẫn như thấy đang nói về hôm nay, về tình hình tư tưởng đạo đức của CBĐV hôm nay. Việc không ngừng nghiên cứu sâu sắc các quan điểm của Hồ Chí Minh về ĐĐCM và giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV; vận dụng các quan điểm, tư tưởng đó và thực tiễn hoạt động của Đảng là một công việc căn cốt trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng và xã hội đang đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được hiệu quả hơn, để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu hơn trong từng lời nói và việc làm của CBĐV và quần chúng nhân dân, không chỉ tiến hành bằng một cuộc vận động là đủ mà phải coi đây là sinh hoạt chính trị thường xuyên trong Đảng và trong toàn xã hội, qua đó góp phần nâng cao văn hóa đảng, để Đảng ta mãi mãi là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.
Người quản lý kinh tế giỏi theo Hồ Chí Minh cần phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tri thức, kiến thức chuyên môn vững vàng, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và khoa học, chấp hành đúng pháp luật, hiểu biết về pháp luật. Trong vấn đề quản lý kinh tế, Người đặc biệt quan tâm tới việc chống tham ô, lãng phí, mà cán bộ quan liêu là nguồn gốc phát sinh ra lãng phí, tham ô.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề chống tham nhũng, lãng phí đang là vấn đề nóng hổi nó không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực kinh tế và quản lý kinh tế mà còn là uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước, là sự tồn vong của chế độ xã hội. Và những chỉ dẫn của Người về vấn đề này thực sự là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Thực tế cho thấy lúc nào và ở đâu vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ quản lý kinh tế thì đều tránh được thiếu sót, tiêu cực xảy ra.
đối với gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm Người coi “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân”
phải xây dựng được kế hoạch phát triển kinh tế đúng đắn. Người coi đây là biện pháp hàng đầu, đòn bẩy mang tính phổ quát để phát triển kinh tế nước ta. Trong quá trình xây dựng kế hoạch, Hồ Chí Minh đưa ra yêu cầu, kế hoạch phải có tầm nhìn xa, thấy rộng nhưng khi đi vào thực hiện thì mỗi ngành, mỗi nghề phải rất tỉ mỉ, chu đáo và thật sát với mỗi cơ sở. “Đặt kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao 30 phần. Có như thế mới chắc chắn hoàn thành kế hoạch”.
Thứ ba là coi trọng những động lực về nhu cầu và lợi ích của người lao động. “Có thực mới vực được đạo” - Hồ Chí Minh thấy rất rõ lợi ích cá nhân là “Phải thực hiện ban khoán một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì được thưởng. Có như thế mới kích thích mọi người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt phải công bằng”. Theo Người, chính sách tiền lương chính là một trong những đòn bẩy quan trọng bởi tiền lương chính là thước đo giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra. Tiền lương không phù hợp còn là một trong những nguyên nhân của nhiều căn bệnh như: tham ô, tham nhũng...
Thứ tư là cần thực hiện công bằng xã hội trong phát triển kinh tế. Theo Người, thực hiện công bằng xã hội chính là giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mói thành viên trong xã hội. Bác từng phát biểu “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip