Chương 21 - Chốn thiên đường

QUYỂN 3

LỜI AI OÁN CHO PROSPERO


Chương 21

Thứ gì đó của riêng mình

Chốn thiên đường

Sự phản bội lộ diên

LEMUEL    TÌM THẤY MAHAVASTU Kallimakus ngồi ở mép tường thành đồ sộ của Tizca.    Ông lão đang ngủ trong một chiếc ghế đệm, trên đùi đặt cuốn sổ phác   thảo  đang mở. Lemuel bước nhẹ, không muốn đánh thức bạn mình nếu chưa   cần  thiết. Năm tháng trên Prospero thật sự rất tốt với Mahavastu, không   khí  biển trong lành và khí hậu ôn hòa đã hồi phục thân thể tàn tạ của   ông  già và làm cơ thể ông đầy đặn trở lại.

Prospero   thật sự  là một nơi rất thân thiện với tất cả bọn họ. Lemuel cũng đã   giảm đi phần  lớn số cân thừa, và giờ đây mang theo sự tự tin của một   người biết mình  có thể trạng tốt hơn trước rất nhiều. Dù đó là nhờ lối   sống dễ chịu ở  Prospero hay nhờ kỹ năng thao túng Thiên Không ngày  càng  tiến bộ của  mình, anh cũng chẳng rõ nữa.

Lemuel  phóng  tầm mắt ra  phía xa, rồi lại cúi nhìn vào những nét vẽ than chì  trên sổ  phác thảo  của Mahavastu. Cảnh vật hiện ra thật hùng vĩ: núi  non cao  vút, rừng cây  bạt ngàn, và bầu trời xanh thẳm trải rộng khôn  cùng. Ở  phía xa tận chân  trời, những đỉnh tháp lởm chởm đánh dấu tàn  tích của  một trong những  thành phố cổ đã mất của Prospero. Tuy nhiên,  bức phác  họa của Mahavastu  thì chẳng mấy ấn tượng.

"Tôi đã nói tôi chẳng phải họa sĩ rồi mà," Mahavastu lên tiếng mà không mở mắt.

"Ồ, tôi cũng không biết nữa," Lemuel đáp. "Nó có nét mộc mạc riêng đấy chứ."

"Liệu cậu có muốn trưng nó lên tường nhà không?"

"Bản gốc của Kallimakus à?" Lemuel hỏi, rồi ngồi xuống. "Tất nhiên là có. Nếu không làm thế thì tôi bị điên rồi."

Mahavastu bật cười khô khốc.

"Cậu xưa giờ vẫn là kẻ nói dối dở tệ, Lemuel à," ông nói.

"Đó là lý do tôi là một người bạn tốt. Tôi sẽ luôn nói thật, vì ông sẽ luôn nhận ra nếu tôi không phải."

"Một    người bạn tốt và một người Tưởng Nhớ đại tài," Mahavastu nói, siết  lấy   tay Lemuel. Những ngón tay ông lão gầy guộc như cành khô, không  còn  chút  sức lực. "Ở lại chút nếu cậu rảnh."

"Tôi có  hẹn ăn  trưa  với Kallista và Camille, nhưng với ông thì lúc nào tôi  cũng có  thời  gian, bạn già ạ. Vậy, bỏ qua mấy tài năng khác của ông  đi, điều gì  khiến  ông bỗng dưng muốn vẽ vậy?"

Mahavastu  cúi nhìn  cuốn sổ  phác thảo rồi cười buồn. Ông lật sổ lại, và Lemuel  thấy thoáng  nét đau  đớn khắc khoải hiện lên trên gương mặt bạn mình.

"Tôi    muốn có một thứ gì đó của riêng mình," ông già nói, liếc nhanh ra sau    vai. "Một thứ mà tôi biết chính tay mình đã làm ra. Cậu hiểu không?"

"Tôi    cho là mình hiểu," Lemuel đáp thận trọng, nhớ lại những lời đầy hoảng    loạn mà họ từng trao nhau trên Aghoru, trước trận chiến kinh hoàng  của   Thousand Sons với bọn khổng lồ Syrbotae ở Ngọn Núi.

"Tôi    nhớ cái ngày rời khỏi Prospero cùng Quân Đoàn đã được tái thiết, từ   rất  lâu rồi," Mahavastu nói. "Đó là một ngày huy hoàng, Lemuel à. Cậu   chắc  sẽ rơi lệ nếu được thấy nó. Hàng ngàn hàng vạn chiến binh hành   quân qua  những đại lộ lát đá cẩm thạch, trong khi cánh hoa hồng rơi từ   bầu trời  rộng mở và tiếng hoan hô của dân chúng vang vọng bên tai.   Magnus ban cho  tôi vinh dự được tham gia đoàn diễu hành khải hoàn, và   chưa bao giờ tôi  thấy tự hào đến thế. Tôi không thể tin rằng mình,   Mahavastu Kallimakus  lại là người ghi chép biên niên sử cho Magnus Đỏ.   Không thể có vinh  quang nào lớn lao hơn thế."

"Tôi ước mình được chứng kiến, nhưng có lẽ khi đó tôi còn chưa chào đời."

"Chắc chắn là chưa rồi," Mahavastu gật đầu, mắt rơm rớm. "Một Quân Đoàn bên rìa diệt vong đã được đoàn tụ với Primarch    thất lạc của mình. Ngài ấy đã cứu họ khỏi bờ vực. Tôi luôn trân trọng    ký ức ấy, nhưng quãng thời gian từ đó đến nay cứ như là một người  khác   đang sống cuộc đời của tôi vậy. Tôi nhớ được từng mảnh, nhưng  chẳng  điều  gì trong số đó là thật. Tôi đã viết ra số sách đủ để chất  đầy một  thư  viện, nhưng đó không phải lời của tôi. Tôi thậm chí còn  không thể  đọc  nổi chúng."

"Đó chính là lý do tôi đến  tìm ông, bạn  của  tôi," Lemuel nói. "Tôi nghĩ mình có thể giúp được  ông. Ông còn nhớ  tôi  từng nói có một bản chép một phần của Liber Loagaeth trong thư viện ở Terra, nhưng chưa từng tìm được Cloves Angelicae, quyển song hành chứa các bảng ký tự không?"

"Có, tôi nhớ."

"Tôi đã tìm thấy một bản rồi."

"Cậu tìm thấy thật sao? Ở đâu?"

"Trong    thư viện của phái Corvidae," Lemuel đáp. "Từ khi chúng ta trở về    Prospero, Ahriman đã tăng cường huấn luyện tôi. Ngài ấy gần như trói tôi    vào bàn học, dưới sự kèm cặp của Ankhu Anen, một học giả vượt xa bất   kỳ  ai mà tôi từng biết. Phải thú thật, lúc đầu tôi không ưa ông ta,   nhưng  ông ta đã giúp tôi rất nhiều trong việc học. Tôi hỏi ông ta về   cuốn  sách, và ông chỉ đơn giản là sai một con servitor mang nó tới như   thể đó  là một cuốn sách tầm thường."

"Vậy cậu định dịch những gì tôi đã viết à?"

"Rồi    sẽ đến lúc, đúng vậy," Lemuel đáp. "Đó là một thứ ngôn ngữ rất khó   giải  mã, ngay cả khi đã có bảng ký tự. Có cả những nhóm từ trông chẳng   giống  ngôn ngữ thật chút nào. Tôi định nhờ Camille dùng khả năng   psychometry  (Khả năng tâm linh khi chạm vào đồ vật) của cô ấy để hỗ   trợ."

Mahavastu thở dài rồi nói:
"Tôi ước gì cậu đừng làm thế."

Lemuel sửng sốt.

"Ông không muốn biết mình đã viết gì suốt thời gian qua sao?"

"Tôi cho là, tôi sợ phải biết."

"Sợ điều gì chứ?"

"Tôi    là một ký lục gia, Lemuel. Là một ký lục xuất sắc, và tôi không bao   giờ  phạm lỗi. Trong tất cả mọi người, cậu là người biết rõ điều đó   nhất.  Vậy tại sao lại giao tôi nhiệm vụ viết lách, nhưng lại không cho   tôi  biết điều mình đang viết là gì? Tôi tin rằng những lời tôi đã ghi   chép  không dành cho con mắt phàm trần."

Lemuel hít một hơi sâu, choáng váng trước nỗi sợ hãi mà mình nghe thấy trong giọng nói của Mahavastu.

"Tôi    là một lão già, Lemuel à, và tôi mệt mỏi với cách sống này rồi. Tôi    muốn rời khỏi cuộc Đại Viễn Chinh và trở về quê hương. Tôi muốn được    thấy Uttarpatha trước khi chết."

"Hồ sơ về cuộc Đại Viễn Chinh sẽ kém trọn vẹn nếu thiếu ông, bạn già."

"Hãy    đi cùng tôi, Lemuel," Mahavastu hạ giọng khẩn khoản. "Có một lời   nguyền  rủa đang bao phủ thế giới này, cậu phải biết điều đó."

"Lời nguyền rủa? Ông đang nói gì vậy?"

"Thế    giới này từng bị hủy diệt một lần rồi, bởi sự kiêu ngạo của chính   người  dân nơi đây, và cả lịch sử nhân loại đều cho ta thấy con người   không  bao giờ học được gì từ sai lầm, kể cả những kẻ tiến bộ như   Thousand  Sons."

"Nhưng người xưa đâu có hiểu rõ năng lực của mình," Lemuel nói. "Còn Thousand Sons thì đã làm chủ được sức mạnh."

"Đừng    quá chắc chắn như thế, Lemuel," Mahavastu cảnh báo. "Nếu họ thật sự   làm  chủ được sức mạnh, tại sao Hoàng Đế lại cấm họ sử dụng? Tại sao   Người  lại ra lệnh họ trở về Prospero, nếu không phải để giải tán hoàn   toàn  Librarius của họ?"

"Tôi không biết," Lemuel nói.   "Nhưng  thử nghĩ xem, bị buộc phải chấp nhận rằng tất cả những điều vĩ   đại họ đã  làm, mọi tri thức họ đã tích lũy đều là vô giá trị và bị cấm   đoán,  chẳng phải là điều đau đớn lắm sao?"

"Đó chính  là  điều  tôi muốn nói," Mahavastu đáp. "Họ đã bị cấm theo đuổi những   khuynh hướng  huyền bí, nhưng họ vẫn cứ làm. Việc huấn luyện cậu vẫn   đang diễn ra là  đi ngược lại sắc lệnh của Hoàng Đế! Cậu đã từng nghĩ   đến điều đó chưa?"

Một cơn nóng bừng lan khắp bụng Lemuel    khi nghĩ đến việc mình đang chống lại ý chỉ của Hoàng Đế. Anh chưa   từng  nghĩ theo cách đó, vì anh không thấy có gì sai trái trong những kỹ   năng  mình đang học. Cuộc hành trình dài trở về quê nhà của Thousand   Sons là  một quãng thời gian nghỉ ngơi cho những Người Tưởng Nhớ, nhưng   ngay khi  đặt chân đến Prospero, việc huấn luyện của họ còn khắc nghiệt   hơn bao  giờ hết.

"Quân đoàn này đang trên đà diệt   vong,"  Mahavastu nói, siết chặt tay Lemuel khiến anh ngạc nhiên vì sức   mạnh còn  lại trong đó. "Nếu họ cứ tiếp tục bước trên con đường này,   chẳng bao  lâu nữa sự phản kháng của họ sẽ bị phơi bày, và khi ngày ấy   tới..."

"Thì sao?"

"Hãy ở bất kỳ nơi nào trong dải ngân hà này, nhưng đừng có mặt ở trên Prospero," Mahavastu đáp.

****

Cuộc    gặp với Mahavastu khiến Lemuel bất an, và đầu óc anh vẫn còn vẩn vơ    những suy nghĩ rối bời khi rảo bước qua thành phố để tới chỗ hẹn với    Camille và Kallista. Những tòa nhà cao tầng màu trắng và vàng xếp dọc    theo các đại lộ rộng rãi, được viền hai bên bằng hàng cây tỉa tót gọn    gàng. Những tán lá xanh mướt buông rủ xuống phố, nặng trĩu trái cây đỏ    và vàng.

Như thường lệ, mặt trời vẫn tỏa nắng ấm áp, và    những cơn gió nhẹ mang hương biển thổi qua các con phố đông đúc người    qua lại. Dân cư Tizca đều cao lớn và đồng đều về mặt vẻ đẹp hình thể.  Họ   đã chào đón sự trở về của những thành phần thuộc Thousand Sons  trong   Hạm đội viễn chinh số 28, cũng như những Người Tưởng Nhớ đi cùng  họ.   Lemuel đã tìm thấy nhiều điều đáng yêu nơi Prospero và cả ở người  dân   của nó.

Tizca là một thành phố tuyệt diệu  với   kiến trúc huy hoàng, không gian rộng mở, nhà hát sôi động và công  viên   xinh đẹp. Những ngọn Núi Trắng và pháo đài Acropolis Magna tạo  nên một   phông nền tráng lệ phía sau thành phố, còn kim tự tháp khổng  lồ và các   tòa tháp bạc của những hệ phái của Thousand Sons thì vươn  lên trên mọi   công trình khác. Ở bất kỳ thành phố nào khác, kiến trúc  to lớn áp đảo   như thế hẳn sẽ gây cảm giác nặng nề, nhưng ở đây, nhờ sự  hài hòa trong   thiết kế, các kim tự tháp như một phần tự nhiên của  cảnh quan, chẳng   khác gì dãy núi phía sau. Ngay cả kim tự tháp của phái Pyrae, với tượng thần hộ vệ khổng lồ và đỉnh chóp luôn bốc cháy cũng hòa quyện vào nét thẩm mỹ chung của thành phố.

Những    tháng ngày sống trên Prospero đã giúp Lemuel nắm khá rõ địa lý thành    phố, và nhờ vào thiết kế rất trực quan của nó, chỉ cần một thời gian    ngắn là anh đã có thể thông thạo các ngả đường.

Hiện    tại, anh đang đi về hướng đông, tới đường Một Ngàn Sư Tử và tiệm bánh    Voisanne. Nằm khuất trong một nhánh đường tỏa ra từ Quảng trường    Occullum, Lemuel đã tình cờ phát hiện ra tiệm Voisanne trong một lần tản    bộ buổi sáng, một tiệm bánh kiêm quán ăn khiêm tốn nhưng có món bánh    ngọt ngon đến kinh ngạc. Dù anh đã giữ được phần lớn số cân mình đã  giảm   được từ thời còn ở Aghoru, anh vẫn cho phép mình thỉnh thoảng  thưởng   một chút vị ngọt ngào mỗi khi thấy cần được xoa dịu.

Hôm nay là một trong những ngày như thế.

Mahavastu    đã khơi lại một vết thương mà Lemuel thậm chí còn không nhận ra là nó    đang tồn tại. Giống như mọi thần dân trong Đế chế, anh đã biết đến  Sắc   lệnh Nikaea và những hệ quả của nó. Dù sắc lệnh đó đến trực tiếp  từ   Hoàng Đế, đã có những tiếng nói bất đồng đặt câu hỏi rằng liệu có  bao   nhiêu Quân đoàn Astartes thật sự sẽ tuân theo phán quyết ấy.

Đó    là vấn đề dành cho kẻ khác lo, và Lemuel chẳng lấy gì làm lạ khi    Ahriman vẫn tiếp tục đào tạo anh trong suốt chuyến trở về Prospero.

Lemuel    từng cho rằng việc Thousand Sons tiếp tục đào tạo những Người Tưởng   Nhớ  chỉ đơn giản chứng minh rằng họ hoàn toàn tin tưởng vào năng lực   của  chính họ. Nhưng giờ thì anh bắt đầu hoài nghi điều đó. Phải chăng   họ  đang can thiệp vào những quyền năng lẽ ra phải bị ruồng bỏ?

Lemuel    từng nghe kể về sự sụp đổ của Prospero, nhưng chưa bao giờ thật sự   nghĩ  đến lý do tại sao nó sụp đổ. Ahriman vẫn nói về Đêm Trường Tăm Tối   như  một tai họa không thể tránh khỏi, nhưng điều đó có thật không?   Liệu  những thiên niên kỷ kinh hoàng ấy có thể đã được tránh nếu loài   người  đừng dây vào những thế lực mà chính bản thân anh nay đã sử dụng   một cách  thành thạo?

Anh ngẩng nhìn về phía Kim tự tháp   Photep,  ngọn tháp lấp lánh khổng lồ ánh lên trong làn hơi nóng phản   chiếu từ lớp  vỏ gương. Primarch Magnus đang ngự trong tòa kiến trúc vĩ   đại ấy, với  những đường viền vàng bạc rực sáng như bốc cháy dưới ánh   nắng giữa trưa.

Lemuel  bước vào một con đường nơi hai   bên được trang trí bằng tượng sư tử bạc  dựng đứng. Mỗi bức tượng lại   hơi khác nhau về tư thế và kích thước, như  thể một bầy sư tử khổng lồ   được dát bạc rồi mang tới Tizca và đặt lên  những bệ đá cẩm thạch bóng   loáng. Anh khẽ chạm vào con sư tử bên trái để  lấy hên, và mỉm cười với ý   nghĩ rằng con này có thể đem lại may mắn hơn  con khác.

Hai   con sư tử oai vệ hơn hết thảy đứng canh  lối vào một mảnh công viên   nhỏ, và Lemuel dừng lại, ngắm một nhóm công  dân Tizca đang luyện thái   cực quyền dưới sự quan sát của một chiến binh  Thousand Sons. Anh tìm   thấy sự bình yên trong những chuyển động chậm  rãi, chuẩn xác ấy, để cho   nhịp điệu êm dịu và sự hài hòa trong từng cử  chỉ xoa dịu tâm trí đang   rối loạn của mình.

Lemuel hít  một hơi thật sâu khi  lớp  học hít thở, đôi tay anh bất giác chuyển động  mô phỏng theo. Anh  mỉm  cười, và tâm trạng u ám tan biến. Lemuel tiếp tục  đi xuống phố và  bước  vào một quảng trường rộng lớn, dù gọi là quảng  trường cũng không  chính  xác, vì khoảng không gian ấy hoàn toàn tròn  trịa.

Vô  số  con đường, chính xác là tám mươi mốt con  đường đang tỏa ra từ  Quảng  trường Occullum và ở trung tâm là một cột trụ  cao theo phong  cách Doric  với một bình lửa rực cháy trên đỉnh. Một bức  phù điêu lớn  khắc trên bệ  vuông bên dưới miêu tả hình ảnh của một người  phụ nữ được  nhân cách  hóa cho Prospero đang than khóc cho nền văn minh  đã mất của  mình, trong  khi một hình tượng bọc giáp chỉ có một mắt đang  nâng bà  ta lên. Có  người nói tòa tháp ấy là phần còn sót lại của một  thiết bị  từng được  người xưa trên Prospero dùng để liên lạc với Terra  trước  thời kỳ Đêm  Trường Tăm Tối, nhưng chưa ai có thể làm nó hoạt động  trở  lại.

Hôm nay là ngày họp chợ, và quảng trường đầy ắp những quầy hàng, thương nhân cùng những cuộc mặc cả vui vẻ, khi dân cư Tizca    trao đổi để lấy lụa, nông sản và đồ thủ công. Khung cảnh ấy khiến    Lemuel nhớ nhà, và anh bỗng thấy nhói lòng vì hoài niệm những khu chợ    nhộn nhạo, đông đúc và nực nội ở khu thương mại trợ giá Sangha.

Anh    len lỏi qua đám đông, lịch sự từ chối những lời chào mời ăn uống, và    dừng lại mua hai lọ pha lê tinh dầu thơm. Lemuel hướng về phía nam, đi    theo Đại lộ Gordian cho đến khi nó rẽ về phía đông thành một con phố  nhỏ   phủ đầy giàn cây và trái chín rũ xuống.

Tiệm bánh    Voisanne nằm ở cuối con phố, và anh thấy Camille cùng Kallista đang  đợi   mình. Anh mỉm cười vẫy tay chào họ. Hai người cũng vẫy lại, và anh  cúi   xuống đặt những cái hôn nhẹ lên má cả hai.

"Anh tới trễ rồi," Camille nói.

"Xin    thứ lỗi, các quý cô," Lemuel đáp. "Tôi vừa mua quà tặng các cô ở chợ,    và mặc cả với tên bán hàng đó tốn nhiều thời gian hơn dự tính."

"Quà à?" Kallista tươi tỉnh hỏi. "Thế thì anh được tha thứ. Anh mang gì cho tụi này nào?"

Lemuel đặt một lọ pha lê trước mặt mỗi người rồi nói:

"Tinh    dầu thơm Boronia. Tôi chắc chắn phòng của hai cô đều có lò đốt tinh    dầu, chỉ cần hai giọt pha trong nước sẽ khiến cả căn phòng ngập hương    hoa ngọt ngào và chút vị trái cây nhẹ nhàng, giúp thư giãn và khơi  nguồn   cảm hứng sáng tạo. Ít nhất thì đó là tên thương nhân cam đoan  với tôi   vậy."

"Cảm ơn anh, Lemuel," Camille nói, mở nút lọ ra ngửi thử. "Chaiya sẽ thích lắm đây. Em ấy mê hương thơm trong phòng bọn tôi."

"Mùi hương dễ chịu lắm," Kallista thêm vào.

"Không có gì đâu, các quý cô," Lemuel nói. "Chỉ là một món nhỏ để xin lỗi vì tôi đến trễ."

"Tôi tưởng anh trễ vì bận mua mấy món này mà?" Camille hỏi.

"Thực    ra là tại Mahavastu mới đúng," Lemuel nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng. "Các  cô   biết ông già ấy mà, đã kể chuyện là không dứt ra được."

Camille    liếc nhìn anh với vẻ nghi ngờ, nhưng Kallista gật đầu, và Lemuel đang    định quay sang gọi thực đơn thì một cô hầu bàn xuất hiện với khay  thức   ăn. Cô ta đặt một bát trái cây trước mặt Kallista, một chiếc bánh  kem   nhân sữa cho Camille, và các món bánh ngọt phủ đường, trái cây  cùng vỏ   bánh giòn tan cho Lemuel.

Cô hầu bàn rút lui vào trong, Camille cắn một miếng bánh rồi thở ra đầy mãn nguyện.

"Tuyệt    vời," cô nói. "Nhưng tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quen được với    chuyện họ biết mình định gọi món gì ngay cả trước khi lên tiếng."

"Tôi biết," Lemuel nói. "Tôi cũng từng lo lắng, nhưng vì họ luôn mang ra đúng thứ tôi thèm nhất nên có thể bỏ qua."

"Đúng vậy," Camille đồng tình. "Thế nên tôi cứ để họ tiếp tục như vậy. Mà này, ông ấy sao rồi?"

"Ai cơ?"

"Mahavastu ấy. Anh nói vừa gặp ông ấy mà."

"À, ông ấy...ổn thôi, chỉ là tôi nghĩ ông ấy hơi nhớ nhà. Ông ấy nói về chuyện muốn quay về quê hương, về Terra ấy mà."

"Sao vậy?" Kallista hỏi. "Sao ai lại muốn rời khỏi Prospero chứ? Đây là thiên đường mà."

"Chắc tại ông ấy già rồi. Ông ấy muốn về nhà trước khi quá muộn."

"Tôi sẽ nhớ ông lão ấy," Camille nói. "Ông ấy kể chuyện hay lắm."

"Ừm,"    Lemuel gật đầu, không muốn tiếp tục chủ đề về Kallimakus, như thể nó    đang khuấy lên một nỗi bất an cũ kỹ. "Thôi, còn hai quý cô đáng mến  thì   sao nào? Dạo này ổn chứ?"

"Ổn," Camille nói, nhai  tiếp   miếng bánh. "Tôi đã ghi lại hầu hết các tàn tích quanh Tizca, và  sắp  tới  Khalophis sẽ dẫn tôi đi xa hơn, ra tới Vùng hoang địa. Ông ấy  bảo  sẽ  đưa tôi đến một trong những thành phố cổ, nơi đầu tiên gặp thảm  họa  khi  Prospero sụp đổ."

"Hẳn sẽ rất thú vị đấy, thưa tiểu thư," Lemuel nói, "nhưng làm ơn hãy cẩn thận."

"Vâng, cha à," Camille mỉm cười.

"Tôi nói nghiêm túc đấy," Lemuel đáp. "Cô đâu biết ngoài đó có gì đâu."

"Rồi, rồi, tôi sẽ cẩn thận."

"Tốt.    Còn cô thì sao, tiểu thư Kallista? Gần đây cô tiến triển thế nào rồi?    Ankhu Anen còn bắt cô học hành cật lực ở phái Athenaeum chứ?"

Kallista    gật đầu đầy phấn khởi. Cô ấy thực sự là một đóa hoa nở rộ từ khi đặt    chân đến Tizca, và ngay cả trong một thành phố toàn người xinh đẹp,    Kallista Eris vẫn rất nổi bật. Người ta đồn rằng cô đang được theo đuổi    bởi một viên đại uý đẹp trai của Vệ Binh Tháp Prospero. Không phải là    Lemuel thiếu người để ý đến, nhưng anh có lý do riêng để duy trì lối    sống độc thân của mình.

Kể từ sau Nikaea, những cơn co    giật về đêm của Kallista đã giảm dần, đến mức họ đã có thể hy vọng  rằng   nó đã chấm dứt hoàn toàn. Cô vẫn luôn mang theo lọ thuốc an thần  sakau,   nhưng suốt nhiều tháng nay chưa từng phải dùng đến.

"Có    chứ, Lemuel, vẫn vậy thôi. Athenaeum chứa đầy những bản văn được cho   là  có từ trước thời Đêm Trường Tăm Tối, nhưng chúng được viết bằng cổ   ngữ  Prosperine, không ai còn nói thứ tiếng đó nữa. Tôi có thể giúp  dịch  lại  bằng cách liên kết với tâm trí của những người viết ra chúng.  Công  việc  tiến triển chậm, nhưng đang dần hé mở rất nhiều điều về xã  hội  thời kỳ  trước khi nó sụp đổ. Anh nên ghé qua chơi, tôi chắc chắn  anh sẽ  thấy thú  vị khi nhìn thấy hành tinh này đã phát triển thế nào  kể từ  thời đó."

"Tôi  sẽ đến, thưa tiểu thư," Lemuel  hứa.  "Ahriman bắt tôi bận bịu suốt,  nhưng tôi chắc ngài ấy sẽ không  phiền  nếu tôi ghé thăm cô."

"Tôi rất mong được tới đón," Kallista đáp, vừa ăn nốt phần trái cây vừa nhấp một ngụm nước.

Cả    ba trò chuyện vu vơ suốt buổi chiều, tận hưởng ánh nắng ấm áp và   chuyện  trò như những người bạn lâu năm. Một ít rượu được mang ra, thứ   rượu  trắng như pha lê mà Lemuel không nhịn được cười khi thấy đó là   loại rượu  do chính Ahriman phát triển. Khi Lemuel rót hết chai thứ hai,   Camille  gợi chuyện đến những chủ nhân của họ.

"Anh nghĩ chúng ta còn ở lại được bao lâu nữa trước khi Thousand Sons được tái điều động?" cô hỏi.

Câu    hỏi được nêu ra nhẹ nhàng, nhưng Lemuel nhận ra rõ sự lo lắng ẩn bên    dưới. Bình thường anh không bao giờ dùng khả năng đọc hào quang với  bạn   bè, tôn trọng nhu cầu riêng tư của họ, nhưng lần này không thể  nhầm   được, Camille thật lòng muốn ở lại Prospero.

"Tôi  không   biết," Lemuel trả lời thật lòng. "Ahriman chưa nói gì, nhưng  với việc   các quân đoàn khác đang tranh giành vinh quang ngoài chiến  trận, tôi   biết họ đang sốt ruột chờ lệnh điều quân. Emperor's Children  ở Laeran,   Luna Wolves tại 140-20, Ultramarines trên Mescalor; đã hơn  hai năm kể từ   chiến dịch Ark Reach mà Thousand Sons vẫn chưa được giao  nhiệm vụ gì,   trong khi các anh em khác của họ thì đang chinh chiến."

"Anh nghĩ có liên quan đến Nikaea không?" Kallista hỏi.

"Tôi    nghĩ là có," Lemuel đáp. "Theo những gì tôi nghe được, Vua Đỏ đã rời    khỏi Nikaea nhanh nhất có thể. Ahriman nói là từ lúc trở về, ngài    Primarch đã nhốt toàn bộ các chiến binh trong thư viện của hệ phái của    họ."

"Tôi cũng nghe nói thế," Kallista mỉm cười như có bí mật. "Tôi còn nghe lỏm được Ankhu Anen nói chuyện với Amon về việc đó nữa."

"Cô nghe thấy họ đang tìm kiếm gì không?"

"Có,    nhưng tôi không thật sự hiểu họ đang nói gì. Nghe như họ đang tìm  cách   để phóng một vật thể ánh sáng đi xa hơn bao giờ hết, dù tôi chẳng  biết   điều đó có nghĩa là gì."

"Cô nghĩ việc đó nhằm mục đích gì?" Camille hỏi.

"Tôi không biết," Lemuel nói.

****

KINH HOÀNG. SỮNG SỜ. KHÔNG THỂ TIN NỔI. PHẪN NỘ.

Tất    cả những cảm xúc ấy bùng lên dữ dội trong thân thể Ahriman khi ông   lắng  nghe lời của vị Primarch. Cùng với tám Đội Trưởng còn lại của   Pesedjet,  ông đang đứng trên vòng xoáy mê cung trong nội điện của   Magnus bên  trong Kim Tự Tháp Photep. Những tia nắng xế chiều lọt qua   các khe hẹp  chiếu vào bóng tối âm u, nhưng ông chỉ cảm thấy một màn đen   u uất như  đang đè nén lấy mình. Ông không thể tin vào điều vừa nghe   thấy. Nếu như  người thốt ra những lời phản nghịch này không phải là   Magnus, ông đã ra  tay giết hắn ngay tại chỗ.

Từ vị trí   trên vòng xoáy, ông  có thể nhìn thấy từng người trong số các Đội  trưởng  đồng môn. Trán  Phosis T'kar nhăn lại đầy giận dữ, tay nắm chặt  thành  nắm đấm. Bên cạnh  hắn ta, Phael Toron nghiến răng ken két, và  từng mảnh  khảm đen nơi chân  hắn rung rinh trong lớp vữa như phản ánh  cơn thịnh  nộ sắp bùng nổ.

Hathor  Maat cố giữ vẻ bình  thản, nhưng  nỗi đau khổ vẫn hiển hiện qua ánh sáng  rực rỡ đang dao  động sau nét mặt  hắn. Khalophis và Auramagma thì phát  sáng bởi sức  mạnh của cú sốc tinh  thần, những tia lửa bắn ra trên đầu  ngón tay.

Uthizzar   trông tệ hại hơn, gương mặt xám xịt  rúm ró bởi sức nặng của sự phản   bội không thể tưởng tượng nổi đang chờ  phía trước, khi hắn cảm nhận nỗi   đau bị phản bội trong lòng vị Primarch  như chính của mình. Ahriman đã   biết có điều gì đó khủng khiếp sắp xảy  ra. Ông cảm thấy điều đó suốt   nhiều tháng qua, biết rằng Magnus đang che  giấu một bí mật kinh hoàng   với các Đội Trưởng, trong khi ngài ấy một  mình lao vào công việc điên   cuồng trong thư viện riêng và các hầm lưu  trữ bên dưới Tizca. Amon và   Ankhu Anen cũng chia sẻ sự nghi ngờ với  Ahriman, nhưng ngay cả sức  mạnh  hợp nhất của họ cũng không thể xuyên qua  màn che tương lai để  thấy rõ  điều gì đang khiến vị Primarch lo lắng đến  vậy.

"Chuyện   này không thể là sự thật," Hathor Maat cất  lời, lần hiếm hoi hắn nói   thay cho cảm xúc của tất cả anh em mình.  "Ngài hẳn đã sai rồi."

Không   một đội trưởng nào của  Thousand Sons lại dám thốt ra điều như thế với   Magnus, nhưng đây là  chuyện khó tin đến mức suýt nữa Ahriman cũng đã   buột miệng nói ra.

"Ngài ấy không sai," Uthizzar nói, những giọt nước mắt không chút xấu hổ lăn dài trên má. "Chuyện đó sẽ xảy ra."

"Nhưng Horus..." Phosis T'kar lắp bắp. "Ông ta không thể...Ông ta sẽ không...Làm sao mà ông ta có thể?"

Phosis T'kar thậm chí không thể thốt hết câu. Nói ra điều ấy sẽ khiến nó trở thành sự thật, sẽ cho nó hình hài và trọng lượng.

"Làm sao ngài dám chắc như thế chứ?" Khalophis hỏi.

"Ta    đã thấy điều đó," Magnus đáp, "bên dưới đại hí trường của Nikaea. Ta   đã  thấy gương mặt của con quái vật, và dù ta mong điều đó không đúng,   ta  vẫn thấy sự thật trong lời nói của nó. Từ khi trở về từ Nikaea, ta   đã  chu du qua Đại Dương Mênh Mông, lần theo những con đường của quá  khứ  và  tương lai. Hàng tỉ sợi tơ định mệnh từ thuở xa xưa đã đan dệt  nên  một  sợi mảnh duy nhất, nơi số phận của thiên hà treo lơ lửng. Hoặc  là  chúng  ta cứu Horus, hoặc là sẽ bị cuốn vào một cuộc chiến  còn  kinh  khủng hơn bất kỳ điều gì chúng ta có thể tưởng tượng. Ta đã  bước  đi giữa  những vùng đất xa xăm của quá khứ, đẩy năng lực của ta  đến tận  cùng để  mở khóa sự thật, và chuyện này đã được chuẩn bị từ rất  lâu  rồi."

Magnus mở rộng quyển pháp thư vĩ đại của mình, và đưa tay lần theo những trang cuối cùng được phủ đầy nét chữ của mình.

"Một lời tiên tri cổ xưa của Aegyptos (1) kể    về một thời đại tương lai, nơi mọi thứ đều là chiến tranh, và vị thần    bầu trời tên là Heru ban đầu được giao trọng trách bảo vệ dân tộc của    ngài khỏi hỗn mang," Magnus trích dẫn ra. "Phần lớn lời tiên tri đó  đã   thất truyền, nhưng Heru quay sang đối đầu với một vị thần khác tên  là   Sutekh, một vị thần vàng rực rỡ, vì quyền thống trị tất cả. Trong  hình   dạng này, Heru được biết đến với cái tên Kemwer, nghĩa là Đại Hắc  Thần   trong cổ ngữ."

"Truyền thuyết cổ thì có liên quan gì đến Horus Lupercal chứ?" Phosis T'kar gắt lên.

"Heru    chỉ là một trong nhiều cái tên của một vị thần còn cổ xưa hơn, mà tên    ngài có thể dịch là Horus," Magnus nói. "Manh mối đã hiện hữu từ lâu,    chỉ là chúng ta không đủ tinh tường để nhìn ra. Đáng buồn thay, quá    nhiều tri thức đã bị thất lạc. Khi ta mở rộng hiểu biết, ta cũng đồng    thời quên đi biết bao điều."

"Lời tiên tri còn nói gì nữa không?" Uthizzar hỏi. Magnus gật đầu.

"Nó    nói rằng không phe nào sẽ giành chiến thắng, nhưng nhiều anh em thần    thánh của Horus sẽ đứng về phía hắn trong cuộc chiến," ông nói. "Nếu    Horus chiến thắng, hắn sẽ được biết đến với cái tên Heru-Ur, nghĩa là    Horus Vĩ Đại. Nếu Sutekh thất bại, xứ sở của hắn sẽ trở nên cằn cỗi và    hoang tàn vĩnh viễn.

"Những truyền thuyết ban đầu về    thần Horus kể rằng, vào lúc trăng non, hắn sẽ bị mù và mang danh    Mekhenty-er-irty, nghĩa là Kẻ Không Mắt. Đó là một thời khắc vô cùng    nguy hiểm, bởi cho đến khi trăng mọc trở lại, Horus trở nên vô cùng hung    tợn, thường nhầm lẫn người thân yêu thành kẻ thù và tấn công họ."

"Horus Lupercal vì lý do gì mà lại có thể làm điều đó?" Amon hỏi. "Có thể là vì điều gì chứ?"

"Bị xúc phạm lòng kiêu hãnh chăng?" Auramagma đề xuất. "Tham vọng? Ghen tỵ?"

"Không,"    Ahriman lên tiếng, nhận ra những cảm xúc đó là thứ có thể khiến    Auramagma ra tay với một người anh em. "Những thứ ấy có thể khiến phàm    nhân gây chiến, chứ không phải các Primarch. Phải có thứ gì đó khác mới    là gốc rễ của chuyện này."

"Vậy nó là cái gì?" Hathor Maat chất vấn. "Điều điên rồ nào có thể khiến Horus Lupercal phản bội?"

Và    rồi, điều đó đã được nói ra thành lời, và chỉ đến lúc này Ahriman mới    dám nhìn về phía Magnus. Vị Primarch đang vận trang phục như một tư  tế   nhà quàn, vai trĩu xuống như một kẻ đang chờ lưỡi đao của đao phủ.  Vận   một tấm áo choàng đơn sơ màu đỏ thẫm, khoác tấm khăn liệm trắng,  Magnus   đứng đợi những đứa con của mình dằn lòng, gạt bỏ cảm xúc để trở  về với   lý trí.

Ahriman ước gì Magnus đã không nói ra  viễn  tượng  ấy, bởi trong sự ngu muội vẫn còn có sự bình yên. Lần đầu  tiên  trong  đời, Ahriman ước gì mình có thể chưa từng biết điều gì cả.

Horus Lupercal sẽ phản bội tất cả bọn họ.

Ngay cả nghĩ đến những lời đó cũng khiến ông thấy như đang phản bội lại danh dự và phẩm giá của Warmaster.

"Sao hả?" Hathor Maat hối thúc. "Rốt cuộc là chuyện gì?"

"Sẽ    có một thứ gì đó bén rễ trong linh hồn của ông ta," Ahriman đáp, lời   lẽ  như tuôn ra mà không qua suy nghĩ, như thể ông đã biết câu trả lời    nhưng lại không có cách diễn đạt. "Một thứ gì đó nguyên thủy và tha    hóa."

"Thế nghĩa là gì?" Phosis T'kar gắt. "Anh cho rằng    một con quái vật hư không tầm thường có thể xâm phạm thể xác một    Primarch à? Vô lý!"

"Không phải xâm phạm, mà là...tôi    không biết nữa," Ahriman nói, mắt nhìn thẳng vào Magnus. "Con không    biết, nhưng ở một mức độ nào đó, điều ấy là thật. Phải vậy không?"

"Con    nói đúng, con trai của ta," Magnus buồn bã gật đầu. "Ta vẫn chưa hiểu    hết điều gì đang xảy ra với anh ta, nhưng thời gian không còn nhiều  để   ngăn nó lại. Luna Wolves sẽ sớm tiến đánh một mặt trăng của Davin,  và  số  mệnh đang âm mưu đánh gục Horus bằng một vũ khí mang trong mình ý   thức  khủng khiếp. Khi anh ta yếu đi và bị mù, kẻ thù của mọi sinh  mệnh  sẽ  hành động để trói buộc trái tim chiến binh của anh ta. Nếu  chúng ta   không can thiệp, bọn chúng sẽ thành công và xé xác dải ngân  hà này."

"Chúng ta phải cảnh báo Hoàng Đế," Hathor Maat nói. "Người phải được biết điều này!"

"Vậy    ngươi muốn ta nói gì với Người?" Magnus gầm lên. "Rằng đứa con trai    sáng giá nhất của Người sẽ phản bội Người ư? Không có bằng chứng, Người    sẽ chẳng bao giờ tin. Người sẽ phái những con chó săn của mình đến  bắt   chúng ta quy phục, chỉ vì chúng ta dùng chính những phương pháp đã  cho   chúng ta thấy lời phản bội ấy! Không, chỉ còn một lựa chọn. Chúng  ta   phải tự cứu lấy Horus. Chỉ khi thất bại, ta mới đem lời này đến với Hoàng Đế."

"Vậy ta phải làm gì?" Uthizzar hỏi. "Cứ ra lệnh đi, và chúng con sẽ tuân theo."

"Những    công trình mà ta bảo các con nghiên cứu từ sau Nikaea chính là chìa    khóa cho sự cứu rỗi của Horus Lupercal," Magnus nói. "Với sự giúp đỡ  của   các con, ta sẽ chiếu bản thân mình qua warp và bảo vệ anh ta khỏi  kẻ   thù."

"Thưa ngài," Amon phản đối. "Phép thuật ấy  cần một   nguồn năng lượng vượt quá sức tưởng tượng. Tôi còn chẳng chắc  việc đó   có thể thực hiện được. Không gì trong những gì chúng ta tìm  thấy chứng   minh rằng nghi lễ ấy sẽ hiệu quả."

"Phải  thực hiện  thôi,  Amon. Bắt đầu triệu tập các nô lệ," Magnus ra lệnh.  "Trói buộc  sức mạnh  của họ vào ta, và họ sẽ tiếp năng lượng cho hành  trình của  ta."

"Nhiều  người sẽ không sống nổi sau nghi  lễ như  vậy," Ahriman nói, rúng động  bởi sự thờ ơ mà Magnus dành cho  mạng sống  họ. "Thiêu cháy nhiều nô lệ  như thế sẽ khiến chúng ta phải  trả giá  đắt."

"Nhưng cái  giá còn đắt hơn nếu chúng ta  không làm  gì cả, Ahzek," Magnus đáp. "Ta đã  quyết rồi. Triệu tập hội  đồng tại  Hang Phản Chiếu trong ba ngày tới."

****

Hóa    đơn được mang ra mà họ không cần phải gọi, và Lemuel ký vào phiếu tín    dụng. Anh đang lâng lâng dễ chịu vì rượu, và thấy Kallista cùng  Camille   cũng nhẹ nhõm, thư thái như mình. Thức ăn tuyệt hảo, phục vụ  tận tình.   Một lần nữa, Voisanne không làm họ thất vọng, và buổi chiều  trôi qua   thật ấm cúng, đầy không khí bạn bè thân tình.

"Cảm ơn anh, Lemuel," Kallista nói. "Thật là tử tế."

"Không có gì cả. Hai quý cô xinh đẹp như hai người thì không bao giờ nên phải trả tiền."

"Nghe rất hợp lý với tôi," Camille gật đầu.

Họ đẩy ghế ra và đứng lên khi nhân viên phục vụ dọn dẹp đĩa và ly.

"Giờ anh định đi đâu?" Camille hỏi.

"Tôi    nghĩ sẽ đi dạo quanh khu chợ một vòng trước khi về phòng," Lemuel  nói.   "Tôi còn phải đọc vài đoạn trong Varna Fraternitatis của  Rosenkreutz   trước buổi học với Ahriman ngày mai, và sau hai chai rượu  thì có thể tôi   sẽ phải đọc vài lần mới hiểu được."

"Loại sách gì vậy?" Kallista hỏi.

"Nó    kể về một tu sĩ thuật lại việc có những sinh thể siêu nhiên âm thầm    sống giữa loài người từ thuở bình minh của nền văn minh, chữa bệnh và    nghiên cứu các quy luật tự nhiên để nâng cao sự tiến bộ của nhân loại."

"Nghe hấp dẫn đấy," Camille vừa thu dọn đồ vừa nói.

"Thật    sự là rất hấp dẫn," Lemuel nói, bắt đầu hăng say. "Nó đánh trúng vào    phần tốt đẹp nhất trong bản chất con người. Rốt cuộc, còn điều gì cao    quý hơn là giúp đỡ đồng loại mà không cần mong chờ phần thưởng hay lợi    ích vật chất? Cô đồng ý chứ, Kallista? Kallista?"

Kallista    Eris đứng bên bàn, các ngón tay siết chặt lưng ghế đến nỗi đốt trắng    bệch. Da cô ửng đỏ, gân cổ căng lên. Mắt cô trợn ngược, và một dòng  nước   dãi lẫn máu rỉ ra nơi khóe miệng.

"Không..." cô ta rít lên.

"Hỡi ngai vàng, Kalli!" Camille kêu lên, lao tới. "Lemuel, đỡ cô ấy đi!"

Lemuel    phản ứng quá chậm để đỡ Kallista khi đôi chân cô ta khuỵu xuống. Cô   gào  lên một tiếng rợn người rồi quay vòng, đập người lên bàn, khiến ly   và  chai bay tán loạn. Cái bàn bị hất tung và cô đổ nhào trong đống đổ   nát,  giãy giụa như kẻ điên. Chai tinh dầu vỡ tan cùng ly thủy tinh,  mùi  nồng  nàn của dâu và dưa chín tràn ngập không khí.

Camille lập tức ở bên cạnh cô.

"Lemuel! Lấy lọ sakau cho cô ấy, trong túi cô ấy đấy!" cô hét lên.

Lemuel    quỳ sụp xuống, mọi dấu vết của cơn say lập tức tan biến khi  adrenaline   tràn vào cơ thể. Túi của Kallista nằm dưới bàn lật úp, anh  lục vội, đổ   hết mọi thứ ra nền đá. Một quyển sổ tay, bút chì, máy ghi  âm cầm tay  và  một số món mà một quý ông không nên nhìn thấy rơi ra.

"Mau lên!"

"Nó đâu?" Anh kêu. "Tôi không thấy!"

"Chai thủy tinh xanh! Mờ đục, như sữa hỏng ấy!"

"Không có!"

"Phải có chứ! Nhìn kỹ vào!"

Một    đám đông lo lắng đã tụ lại nhưng may mắn là vẫn giữ khoảng cách.    Kallista tru lên, âm thanh chứa đựng nỗi đau đến mức không thể tin được    rằng cuống họng người thường có thể tạo ra. Giữa đống đồ rơi và những    mảnh thủy tinh vỡ, Lemuel nhìn thấy cái chai như Camille mô tả và chồm    người tới. Anh trườn lại phía Camille, lúc này đang cố hết sức giữ    Kallista nằm yên. Cô gái xinh đẹp này khỏe hơn vẻ ngoài, và ngay cả khi    có thêm một người đàn ông mặc áo choàng viền đỏ của thầy thuốc tới  giúp   đỡ, cô ta vẫn có thể hất văng họ ra.

"Đây rồi, tôi tìm thấy rồi!" anh hét lên, giơ chai thuốc ra.

Kallista    bất ngờ ngồi bật dậy và nhìn thẳng vào Lemuel. Xuất huyết mao mạch  làm   mắt cô ta ngầu máu, và từng dòng đặc quánh trào ra từ mũi và  miệng. Đó   không còn là Kallista đang nhìn anh nữa; đó là một sinh vật  quái dị  với  nanh nhọn và ánh mắt của thú săn mồi. Một thứ gì đó cổ xưa  hơn cả  thời  gian, rình rập giữa những góc khuất của các thế giới,  mang trong  mình sự  kiên nhẫn và xảo quyệt không thể đo lường.

"Đã quá muộn rồi," cô ta nói, tát văng chai thuốc khỏi tay Lemuel. Nó vỡ trên nền đá, chất lỏng đặc quánh hòa lẫn với tàn tích của rượu vang đổ ra.

"Bầy    Sói sẽ phản bội các ngươi, và lũ chiến khuyển của chúng sẽ gặm nát    xương thịt các ngươi!" Kallista hét lên, và Lemuel giật người lùi lại    khi cô lao về phía anh, móng tay vồ lấy mắt anh. Cô đè anh xuống, chân    siết chặt lấy eo anh, tay bóp lấy cổ anh.

Anh không thể    thở được, nhưng trước khi cô kịp bóp nát khí quản anh, cô rú lên và   lưng  ưỡn ngược lại kèm theo một tiếng rắc khủng khiếp. Ánh nhìn sát   nhân vụt  tắt khỏi mắt cô, và cô đổ vật ra sau, tay chới với tìm quyển   sổ tay.

Lemuel nhìn thấy sự cầu xin tuyệt vọng trong mắt cô ta.

"Lấy giấy cho cô ấy đi!" Camille hét lên.

********

Chú thích:

Lời tiên tri Aegyptos:    dựa trên thần thoại Ai Cập cổ đại, đặc biệt là hệ thống thần thoại   xoay  quanh Horus (Heru) và Seth (Sutekh). Magnus đang viện dẫn một lời   tiên  tri giả tưởng mang màu sắc Ai Cập, rồi tác giả khéo léo gắn nó  với  bi  kịch Horus Lupercal.

Cụ thể:

Heru    (Horus): Trong thần thoại Ai Cập, Horus là vị thần bầu trời, thường   được  mô tả đầu chim ưng, có vai trò bảo hộ Ai Cập, đặc biệt là vương   quyền.  Ông đối đầu với Seth (Sutekh), vị thần hỗn mang, sa mạc và bão   tố, trong  một chuỗi những cuộc chiến kéo dài để tranh giành ngôi báu   Osiris.

Sutekh  (Seth): Thần sa mạc, hỗn loạn và phá   hoại. Trong Warhammer, đoạn trích  nhắc đến Sutekh như "vị thần vàng rực   rỡ", kẻ đối đầu với Horus/Heru.  Điều này song hành với Seth trong  thần  thoại vốn là kẻ thù của Horus.

Heru-Ur  (Horus  Vĩ  Đại): Horus có nhiều hình thái và tên gọi. "Hor-Ur" hay  "Har-Wer"  có  nghĩa là "Horus Lớn / Horus Vĩ Đại", đại diện cho khía cạnh  cổ xưa  và  nguyên thủy nhất của Horus.

Mekhenty-er-irty (Kẻ Không Mắt): Đây cũng là một danh hiệu thực sự của Horus trong Ai Cập cổ đại, gắn liền với truyền thuyết Horus bị Seth làm mù hoặc lấy mất một con mắt (mắt Horus sau đó được phục hồi, trở thành biểu tượng bảo hộ nổi tiếng – Udjat).

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip