Chương 21 - Chốn thiên đường
QUYỂN 3
LỜI AI OÁN CHO PROSPERO
Chương 21
Thứ gì đó của riêng mình
Chốn thiên đường
Sự phản bội lộ diên
LEMUEL TÌM THẤY MAHAVASTU Kallimakus ngồi ở mép tường thành đồ sộ của Tizca. Ông lão đang ngủ trong một chiếc ghế đệm, trên đùi đặt cuốn sổ phác thảo đang mở. Lemuel bước nhẹ, không muốn đánh thức bạn mình nếu chưa cần thiết. Năm tháng trên Prospero thật sự rất tốt với Mahavastu, không khí biển trong lành và khí hậu ôn hòa đã hồi phục thân thể tàn tạ của ông già và làm cơ thể ông đầy đặn trở lại.
Prospero thật sự là một nơi rất thân thiện với tất cả bọn họ. Lemuel cũng đã giảm đi phần lớn số cân thừa, và giờ đây mang theo sự tự tin của một người biết mình có thể trạng tốt hơn trước rất nhiều. Dù đó là nhờ lối sống dễ chịu ở Prospero hay nhờ kỹ năng thao túng Thiên Không ngày càng tiến bộ của mình, anh cũng chẳng rõ nữa.
Lemuel phóng tầm mắt ra phía xa, rồi lại cúi nhìn vào những nét vẽ than chì trên sổ phác thảo của Mahavastu. Cảnh vật hiện ra thật hùng vĩ: núi non cao vút, rừng cây bạt ngàn, và bầu trời xanh thẳm trải rộng khôn cùng. Ở phía xa tận chân trời, những đỉnh tháp lởm chởm đánh dấu tàn tích của một trong những thành phố cổ đã mất của Prospero. Tuy nhiên, bức phác họa của Mahavastu thì chẳng mấy ấn tượng.
"Tôi đã nói tôi chẳng phải họa sĩ rồi mà," Mahavastu lên tiếng mà không mở mắt.
"Ồ, tôi cũng không biết nữa," Lemuel đáp. "Nó có nét mộc mạc riêng đấy chứ."
"Liệu cậu có muốn trưng nó lên tường nhà không?"
"Bản gốc của Kallimakus à?" Lemuel hỏi, rồi ngồi xuống. "Tất nhiên là có. Nếu không làm thế thì tôi bị điên rồi."
Mahavastu bật cười khô khốc.
"Cậu xưa giờ vẫn là kẻ nói dối dở tệ, Lemuel à," ông nói.
"Đó là lý do tôi là một người bạn tốt. Tôi sẽ luôn nói thật, vì ông sẽ luôn nhận ra nếu tôi không phải."
"Một người bạn tốt và một người Tưởng Nhớ đại tài," Mahavastu nói, siết lấy tay Lemuel. Những ngón tay ông lão gầy guộc như cành khô, không còn chút sức lực. "Ở lại chút nếu cậu rảnh."
"Tôi có hẹn ăn trưa với Kallista và Camille, nhưng với ông thì lúc nào tôi cũng có thời gian, bạn già ạ. Vậy, bỏ qua mấy tài năng khác của ông đi, điều gì khiến ông bỗng dưng muốn vẽ vậy?"
Mahavastu cúi nhìn cuốn sổ phác thảo rồi cười buồn. Ông lật sổ lại, và Lemuel thấy thoáng nét đau đớn khắc khoải hiện lên trên gương mặt bạn mình.
"Tôi muốn có một thứ gì đó của riêng mình," ông già nói, liếc nhanh ra sau vai. "Một thứ mà tôi biết chính tay mình đã làm ra. Cậu hiểu không?"
"Tôi cho là mình hiểu," Lemuel đáp thận trọng, nhớ lại những lời đầy hoảng loạn mà họ từng trao nhau trên Aghoru, trước trận chiến kinh hoàng của Thousand Sons với bọn khổng lồ Syrbotae ở Ngọn Núi.
"Tôi nhớ cái ngày rời khỏi Prospero cùng Quân Đoàn đã được tái thiết, từ rất lâu rồi," Mahavastu nói. "Đó là một ngày huy hoàng, Lemuel à. Cậu chắc sẽ rơi lệ nếu được thấy nó. Hàng ngàn hàng vạn chiến binh hành quân qua những đại lộ lát đá cẩm thạch, trong khi cánh hoa hồng rơi từ bầu trời rộng mở và tiếng hoan hô của dân chúng vang vọng bên tai. Magnus ban cho tôi vinh dự được tham gia đoàn diễu hành khải hoàn, và chưa bao giờ tôi thấy tự hào đến thế. Tôi không thể tin rằng mình, Mahavastu Kallimakus lại là người ghi chép biên niên sử cho Magnus Đỏ. Không thể có vinh quang nào lớn lao hơn thế."
"Tôi ước mình được chứng kiến, nhưng có lẽ khi đó tôi còn chưa chào đời."
"Chắc chắn là chưa rồi," Mahavastu gật đầu, mắt rơm rớm. "Một Quân Đoàn bên rìa diệt vong đã được đoàn tụ với Primarch thất lạc của mình. Ngài ấy đã cứu họ khỏi bờ vực. Tôi luôn trân trọng ký ức ấy, nhưng quãng thời gian từ đó đến nay cứ như là một người khác đang sống cuộc đời của tôi vậy. Tôi nhớ được từng mảnh, nhưng chẳng điều gì trong số đó là thật. Tôi đã viết ra số sách đủ để chất đầy một thư viện, nhưng đó không phải lời của tôi. Tôi thậm chí còn không thể đọc nổi chúng."
"Đó chính là lý do tôi đến tìm ông, bạn của tôi," Lemuel nói. "Tôi nghĩ mình có thể giúp được ông. Ông còn nhớ tôi từng nói có một bản chép một phần của Liber Loagaeth trong thư viện ở Terra, nhưng chưa từng tìm được Cloves Angelicae, quyển song hành chứa các bảng ký tự không?"
"Có, tôi nhớ."
"Tôi đã tìm thấy một bản rồi."
"Cậu tìm thấy thật sao? Ở đâu?"
"Trong thư viện của phái Corvidae," Lemuel đáp. "Từ khi chúng ta trở về Prospero, Ahriman đã tăng cường huấn luyện tôi. Ngài ấy gần như trói tôi vào bàn học, dưới sự kèm cặp của Ankhu Anen, một học giả vượt xa bất kỳ ai mà tôi từng biết. Phải thú thật, lúc đầu tôi không ưa ông ta, nhưng ông ta đã giúp tôi rất nhiều trong việc học. Tôi hỏi ông ta về cuốn sách, và ông chỉ đơn giản là sai một con servitor mang nó tới như thể đó là một cuốn sách tầm thường."
"Vậy cậu định dịch những gì tôi đã viết à?"
"Rồi sẽ đến lúc, đúng vậy," Lemuel đáp. "Đó là một thứ ngôn ngữ rất khó giải mã, ngay cả khi đã có bảng ký tự. Có cả những nhóm từ trông chẳng giống ngôn ngữ thật chút nào. Tôi định nhờ Camille dùng khả năng psychometry (Khả năng tâm linh khi chạm vào đồ vật) của cô ấy để hỗ trợ."
Mahavastu thở dài rồi nói:
"Tôi ước gì cậu đừng làm thế."
Lemuel sửng sốt.
"Ông không muốn biết mình đã viết gì suốt thời gian qua sao?"
"Tôi cho là, tôi sợ phải biết."
"Sợ điều gì chứ?"
"Tôi là một ký lục gia, Lemuel. Là một ký lục xuất sắc, và tôi không bao giờ phạm lỗi. Trong tất cả mọi người, cậu là người biết rõ điều đó nhất. Vậy tại sao lại giao tôi nhiệm vụ viết lách, nhưng lại không cho tôi biết điều mình đang viết là gì? Tôi tin rằng những lời tôi đã ghi chép không dành cho con mắt phàm trần."
Lemuel hít một hơi sâu, choáng váng trước nỗi sợ hãi mà mình nghe thấy trong giọng nói của Mahavastu.
"Tôi là một lão già, Lemuel à, và tôi mệt mỏi với cách sống này rồi. Tôi muốn rời khỏi cuộc Đại Viễn Chinh và trở về quê hương. Tôi muốn được thấy Uttarpatha trước khi chết."
"Hồ sơ về cuộc Đại Viễn Chinh sẽ kém trọn vẹn nếu thiếu ông, bạn già."
"Hãy đi cùng tôi, Lemuel," Mahavastu hạ giọng khẩn khoản. "Có một lời nguyền rủa đang bao phủ thế giới này, cậu phải biết điều đó."
"Lời nguyền rủa? Ông đang nói gì vậy?"
"Thế giới này từng bị hủy diệt một lần rồi, bởi sự kiêu ngạo của chính người dân nơi đây, và cả lịch sử nhân loại đều cho ta thấy con người không bao giờ học được gì từ sai lầm, kể cả những kẻ tiến bộ như Thousand Sons."
"Nhưng người xưa đâu có hiểu rõ năng lực của mình," Lemuel nói. "Còn Thousand Sons thì đã làm chủ được sức mạnh."
"Đừng quá chắc chắn như thế, Lemuel," Mahavastu cảnh báo. "Nếu họ thật sự làm chủ được sức mạnh, tại sao Hoàng Đế lại cấm họ sử dụng? Tại sao Người lại ra lệnh họ trở về Prospero, nếu không phải để giải tán hoàn toàn Librarius của họ?"
"Tôi không biết," Lemuel nói. "Nhưng thử nghĩ xem, bị buộc phải chấp nhận rằng tất cả những điều vĩ đại họ đã làm, mọi tri thức họ đã tích lũy đều là vô giá trị và bị cấm đoán, chẳng phải là điều đau đớn lắm sao?"
"Đó chính là điều tôi muốn nói," Mahavastu đáp. "Họ đã bị cấm theo đuổi những khuynh hướng huyền bí, nhưng họ vẫn cứ làm. Việc huấn luyện cậu vẫn đang diễn ra là đi ngược lại sắc lệnh của Hoàng Đế! Cậu đã từng nghĩ đến điều đó chưa?"
Một cơn nóng bừng lan khắp bụng Lemuel khi nghĩ đến việc mình đang chống lại ý chỉ của Hoàng Đế. Anh chưa từng nghĩ theo cách đó, vì anh không thấy có gì sai trái trong những kỹ năng mình đang học. Cuộc hành trình dài trở về quê nhà của Thousand Sons là một quãng thời gian nghỉ ngơi cho những Người Tưởng Nhớ, nhưng ngay khi đặt chân đến Prospero, việc huấn luyện của họ còn khắc nghiệt hơn bao giờ hết.
"Quân đoàn này đang trên đà diệt vong," Mahavastu nói, siết chặt tay Lemuel khiến anh ngạc nhiên vì sức mạnh còn lại trong đó. "Nếu họ cứ tiếp tục bước trên con đường này, chẳng bao lâu nữa sự phản kháng của họ sẽ bị phơi bày, và khi ngày ấy tới..."
"Thì sao?"
"Hãy ở bất kỳ nơi nào trong dải ngân hà này, nhưng đừng có mặt ở trên Prospero," Mahavastu đáp.
****
Cuộc gặp với Mahavastu khiến Lemuel bất an, và đầu óc anh vẫn còn vẩn vơ những suy nghĩ rối bời khi rảo bước qua thành phố để tới chỗ hẹn với Camille và Kallista. Những tòa nhà cao tầng màu trắng và vàng xếp dọc theo các đại lộ rộng rãi, được viền hai bên bằng hàng cây tỉa tót gọn gàng. Những tán lá xanh mướt buông rủ xuống phố, nặng trĩu trái cây đỏ và vàng.
Như thường lệ, mặt trời vẫn tỏa nắng ấm áp, và những cơn gió nhẹ mang hương biển thổi qua các con phố đông đúc người qua lại. Dân cư Tizca đều cao lớn và đồng đều về mặt vẻ đẹp hình thể. Họ đã chào đón sự trở về của những thành phần thuộc Thousand Sons trong Hạm đội viễn chinh số 28, cũng như những Người Tưởng Nhớ đi cùng họ. Lemuel đã tìm thấy nhiều điều đáng yêu nơi Prospero và cả ở người dân của nó.
Tizca là một thành phố tuyệt diệu với kiến trúc huy hoàng, không gian rộng mở, nhà hát sôi động và công viên xinh đẹp. Những ngọn Núi Trắng và pháo đài Acropolis Magna tạo nên một phông nền tráng lệ phía sau thành phố, còn kim tự tháp khổng lồ và các tòa tháp bạc của những hệ phái của Thousand Sons thì vươn lên trên mọi công trình khác. Ở bất kỳ thành phố nào khác, kiến trúc to lớn áp đảo như thế hẳn sẽ gây cảm giác nặng nề, nhưng ở đây, nhờ sự hài hòa trong thiết kế, các kim tự tháp như một phần tự nhiên của cảnh quan, chẳng khác gì dãy núi phía sau. Ngay cả kim tự tháp của phái Pyrae, với tượng thần hộ vệ khổng lồ và đỉnh chóp luôn bốc cháy cũng hòa quyện vào nét thẩm mỹ chung của thành phố.
Những tháng ngày sống trên Prospero đã giúp Lemuel nắm khá rõ địa lý thành phố, và nhờ vào thiết kế rất trực quan của nó, chỉ cần một thời gian ngắn là anh đã có thể thông thạo các ngả đường.
Hiện tại, anh đang đi về hướng đông, tới đường Một Ngàn Sư Tử và tiệm bánh Voisanne. Nằm khuất trong một nhánh đường tỏa ra từ Quảng trường Occullum, Lemuel đã tình cờ phát hiện ra tiệm Voisanne trong một lần tản bộ buổi sáng, một tiệm bánh kiêm quán ăn khiêm tốn nhưng có món bánh ngọt ngon đến kinh ngạc. Dù anh đã giữ được phần lớn số cân mình đã giảm được từ thời còn ở Aghoru, anh vẫn cho phép mình thỉnh thoảng thưởng một chút vị ngọt ngào mỗi khi thấy cần được xoa dịu.
Hôm nay là một trong những ngày như thế.
Mahavastu đã khơi lại một vết thương mà Lemuel thậm chí còn không nhận ra là nó đang tồn tại. Giống như mọi thần dân trong Đế chế, anh đã biết đến Sắc lệnh Nikaea và những hệ quả của nó. Dù sắc lệnh đó đến trực tiếp từ Hoàng Đế, đã có những tiếng nói bất đồng đặt câu hỏi rằng liệu có bao nhiêu Quân đoàn Astartes thật sự sẽ tuân theo phán quyết ấy.
Đó là vấn đề dành cho kẻ khác lo, và Lemuel chẳng lấy gì làm lạ khi Ahriman vẫn tiếp tục đào tạo anh trong suốt chuyến trở về Prospero.
Lemuel từng cho rằng việc Thousand Sons tiếp tục đào tạo những Người Tưởng Nhớ chỉ đơn giản chứng minh rằng họ hoàn toàn tin tưởng vào năng lực của chính họ. Nhưng giờ thì anh bắt đầu hoài nghi điều đó. Phải chăng họ đang can thiệp vào những quyền năng lẽ ra phải bị ruồng bỏ?
Lemuel từng nghe kể về sự sụp đổ của Prospero, nhưng chưa bao giờ thật sự nghĩ đến lý do tại sao nó sụp đổ. Ahriman vẫn nói về Đêm Trường Tăm Tối như một tai họa không thể tránh khỏi, nhưng điều đó có thật không? Liệu những thiên niên kỷ kinh hoàng ấy có thể đã được tránh nếu loài người đừng dây vào những thế lực mà chính bản thân anh nay đã sử dụng một cách thành thạo?
Anh ngẩng nhìn về phía Kim tự tháp Photep, ngọn tháp lấp lánh khổng lồ ánh lên trong làn hơi nóng phản chiếu từ lớp vỏ gương. Primarch Magnus đang ngự trong tòa kiến trúc vĩ đại ấy, với những đường viền vàng bạc rực sáng như bốc cháy dưới ánh nắng giữa trưa.
Lemuel bước vào một con đường nơi hai bên được trang trí bằng tượng sư tử bạc dựng đứng. Mỗi bức tượng lại hơi khác nhau về tư thế và kích thước, như thể một bầy sư tử khổng lồ được dát bạc rồi mang tới Tizca và đặt lên những bệ đá cẩm thạch bóng loáng. Anh khẽ chạm vào con sư tử bên trái để lấy hên, và mỉm cười với ý nghĩ rằng con này có thể đem lại may mắn hơn con khác.
Hai con sư tử oai vệ hơn hết thảy đứng canh lối vào một mảnh công viên nhỏ, và Lemuel dừng lại, ngắm một nhóm công dân Tizca đang luyện thái cực quyền dưới sự quan sát của một chiến binh Thousand Sons. Anh tìm thấy sự bình yên trong những chuyển động chậm rãi, chuẩn xác ấy, để cho nhịp điệu êm dịu và sự hài hòa trong từng cử chỉ xoa dịu tâm trí đang rối loạn của mình.
Lemuel hít một hơi thật sâu khi lớp học hít thở, đôi tay anh bất giác chuyển động mô phỏng theo. Anh mỉm cười, và tâm trạng u ám tan biến. Lemuel tiếp tục đi xuống phố và bước vào một quảng trường rộng lớn, dù gọi là quảng trường cũng không chính xác, vì khoảng không gian ấy hoàn toàn tròn trịa.
Vô số con đường, chính xác là tám mươi mốt con đường đang tỏa ra từ Quảng trường Occullum và ở trung tâm là một cột trụ cao theo phong cách Doric với một bình lửa rực cháy trên đỉnh. Một bức phù điêu lớn khắc trên bệ vuông bên dưới miêu tả hình ảnh của một người phụ nữ được nhân cách hóa cho Prospero đang than khóc cho nền văn minh đã mất của mình, trong khi một hình tượng bọc giáp chỉ có một mắt đang nâng bà ta lên. Có người nói tòa tháp ấy là phần còn sót lại của một thiết bị từng được người xưa trên Prospero dùng để liên lạc với Terra trước thời kỳ Đêm Trường Tăm Tối, nhưng chưa ai có thể làm nó hoạt động trở lại.
Hôm nay là ngày họp chợ, và quảng trường đầy ắp những quầy hàng, thương nhân cùng những cuộc mặc cả vui vẻ, khi dân cư Tizca trao đổi để lấy lụa, nông sản và đồ thủ công. Khung cảnh ấy khiến Lemuel nhớ nhà, và anh bỗng thấy nhói lòng vì hoài niệm những khu chợ nhộn nhạo, đông đúc và nực nội ở khu thương mại trợ giá Sangha.
Anh len lỏi qua đám đông, lịch sự từ chối những lời chào mời ăn uống, và dừng lại mua hai lọ pha lê tinh dầu thơm. Lemuel hướng về phía nam, đi theo Đại lộ Gordian cho đến khi nó rẽ về phía đông thành một con phố nhỏ phủ đầy giàn cây và trái chín rũ xuống.
Tiệm bánh Voisanne nằm ở cuối con phố, và anh thấy Camille cùng Kallista đang đợi mình. Anh mỉm cười vẫy tay chào họ. Hai người cũng vẫy lại, và anh cúi xuống đặt những cái hôn nhẹ lên má cả hai.
"Anh tới trễ rồi," Camille nói.
"Xin thứ lỗi, các quý cô," Lemuel đáp. "Tôi vừa mua quà tặng các cô ở chợ, và mặc cả với tên bán hàng đó tốn nhiều thời gian hơn dự tính."
"Quà à?" Kallista tươi tỉnh hỏi. "Thế thì anh được tha thứ. Anh mang gì cho tụi này nào?"
Lemuel đặt một lọ pha lê trước mặt mỗi người rồi nói:
"Tinh dầu thơm Boronia. Tôi chắc chắn phòng của hai cô đều có lò đốt tinh dầu, chỉ cần hai giọt pha trong nước sẽ khiến cả căn phòng ngập hương hoa ngọt ngào và chút vị trái cây nhẹ nhàng, giúp thư giãn và khơi nguồn cảm hứng sáng tạo. Ít nhất thì đó là tên thương nhân cam đoan với tôi vậy."
"Cảm ơn anh, Lemuel," Camille nói, mở nút lọ ra ngửi thử. "Chaiya sẽ thích lắm đây. Em ấy mê hương thơm trong phòng bọn tôi."
"Mùi hương dễ chịu lắm," Kallista thêm vào.
"Không có gì đâu, các quý cô," Lemuel nói. "Chỉ là một món nhỏ để xin lỗi vì tôi đến trễ."
"Tôi tưởng anh trễ vì bận mua mấy món này mà?" Camille hỏi.
"Thực ra là tại Mahavastu mới đúng," Lemuel nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng. "Các cô biết ông già ấy mà, đã kể chuyện là không dứt ra được."
Camille liếc nhìn anh với vẻ nghi ngờ, nhưng Kallista gật đầu, và Lemuel đang định quay sang gọi thực đơn thì một cô hầu bàn xuất hiện với khay thức ăn. Cô ta đặt một bát trái cây trước mặt Kallista, một chiếc bánh kem nhân sữa cho Camille, và các món bánh ngọt phủ đường, trái cây cùng vỏ bánh giòn tan cho Lemuel.
Cô hầu bàn rút lui vào trong, Camille cắn một miếng bánh rồi thở ra đầy mãn nguyện.
"Tuyệt vời," cô nói. "Nhưng tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quen được với chuyện họ biết mình định gọi món gì ngay cả trước khi lên tiếng."
"Tôi biết," Lemuel nói. "Tôi cũng từng lo lắng, nhưng vì họ luôn mang ra đúng thứ tôi thèm nhất nên có thể bỏ qua."
"Đúng vậy," Camille đồng tình. "Thế nên tôi cứ để họ tiếp tục như vậy. Mà này, ông ấy sao rồi?"
"Ai cơ?"
"Mahavastu ấy. Anh nói vừa gặp ông ấy mà."
"À, ông ấy...ổn thôi, chỉ là tôi nghĩ ông ấy hơi nhớ nhà. Ông ấy nói về chuyện muốn quay về quê hương, về Terra ấy mà."
"Sao vậy?" Kallista hỏi. "Sao ai lại muốn rời khỏi Prospero chứ? Đây là thiên đường mà."
"Chắc tại ông ấy già rồi. Ông ấy muốn về nhà trước khi quá muộn."
"Tôi sẽ nhớ ông lão ấy," Camille nói. "Ông ấy kể chuyện hay lắm."
"Ừm," Lemuel gật đầu, không muốn tiếp tục chủ đề về Kallimakus, như thể nó đang khuấy lên một nỗi bất an cũ kỹ. "Thôi, còn hai quý cô đáng mến thì sao nào? Dạo này ổn chứ?"
"Ổn," Camille nói, nhai tiếp miếng bánh. "Tôi đã ghi lại hầu hết các tàn tích quanh Tizca, và sắp tới Khalophis sẽ dẫn tôi đi xa hơn, ra tới Vùng hoang địa. Ông ấy bảo sẽ đưa tôi đến một trong những thành phố cổ, nơi đầu tiên gặp thảm họa khi Prospero sụp đổ."
"Hẳn sẽ rất thú vị đấy, thưa tiểu thư," Lemuel nói, "nhưng làm ơn hãy cẩn thận."
"Vâng, cha à," Camille mỉm cười.
"Tôi nói nghiêm túc đấy," Lemuel đáp. "Cô đâu biết ngoài đó có gì đâu."
"Rồi, rồi, tôi sẽ cẩn thận."
"Tốt. Còn cô thì sao, tiểu thư Kallista? Gần đây cô tiến triển thế nào rồi? Ankhu Anen còn bắt cô học hành cật lực ở phái Athenaeum chứ?"
Kallista gật đầu đầy phấn khởi. Cô ấy thực sự là một đóa hoa nở rộ từ khi đặt chân đến Tizca, và ngay cả trong một thành phố toàn người xinh đẹp, Kallista Eris vẫn rất nổi bật. Người ta đồn rằng cô đang được theo đuổi bởi một viên đại uý đẹp trai của Vệ Binh Tháp Prospero. Không phải là Lemuel thiếu người để ý đến, nhưng anh có lý do riêng để duy trì lối sống độc thân của mình.
Kể từ sau Nikaea, những cơn co giật về đêm của Kallista đã giảm dần, đến mức họ đã có thể hy vọng rằng nó đã chấm dứt hoàn toàn. Cô vẫn luôn mang theo lọ thuốc an thần sakau, nhưng suốt nhiều tháng nay chưa từng phải dùng đến.
"Có chứ, Lemuel, vẫn vậy thôi. Athenaeum chứa đầy những bản văn được cho là có từ trước thời Đêm Trường Tăm Tối, nhưng chúng được viết bằng cổ ngữ Prosperine, không ai còn nói thứ tiếng đó nữa. Tôi có thể giúp dịch lại bằng cách liên kết với tâm trí của những người viết ra chúng. Công việc tiến triển chậm, nhưng đang dần hé mở rất nhiều điều về xã hội thời kỳ trước khi nó sụp đổ. Anh nên ghé qua chơi, tôi chắc chắn anh sẽ thấy thú vị khi nhìn thấy hành tinh này đã phát triển thế nào kể từ thời đó."
"Tôi sẽ đến, thưa tiểu thư," Lemuel hứa. "Ahriman bắt tôi bận bịu suốt, nhưng tôi chắc ngài ấy sẽ không phiền nếu tôi ghé thăm cô."
"Tôi rất mong được tới đón," Kallista đáp, vừa ăn nốt phần trái cây vừa nhấp một ngụm nước.
Cả ba trò chuyện vu vơ suốt buổi chiều, tận hưởng ánh nắng ấm áp và chuyện trò như những người bạn lâu năm. Một ít rượu được mang ra, thứ rượu trắng như pha lê mà Lemuel không nhịn được cười khi thấy đó là loại rượu do chính Ahriman phát triển. Khi Lemuel rót hết chai thứ hai, Camille gợi chuyện đến những chủ nhân của họ.
"Anh nghĩ chúng ta còn ở lại được bao lâu nữa trước khi Thousand Sons được tái điều động?" cô hỏi.
Câu hỏi được nêu ra nhẹ nhàng, nhưng Lemuel nhận ra rõ sự lo lắng ẩn bên dưới. Bình thường anh không bao giờ dùng khả năng đọc hào quang với bạn bè, tôn trọng nhu cầu riêng tư của họ, nhưng lần này không thể nhầm được, Camille thật lòng muốn ở lại Prospero.
"Tôi không biết," Lemuel trả lời thật lòng. "Ahriman chưa nói gì, nhưng với việc các quân đoàn khác đang tranh giành vinh quang ngoài chiến trận, tôi biết họ đang sốt ruột chờ lệnh điều quân. Emperor's Children ở Laeran, Luna Wolves tại 140-20, Ultramarines trên Mescalor; đã hơn hai năm kể từ chiến dịch Ark Reach mà Thousand Sons vẫn chưa được giao nhiệm vụ gì, trong khi các anh em khác của họ thì đang chinh chiến."
"Anh nghĩ có liên quan đến Nikaea không?" Kallista hỏi.
"Tôi nghĩ là có," Lemuel đáp. "Theo những gì tôi nghe được, Vua Đỏ đã rời khỏi Nikaea nhanh nhất có thể. Ahriman nói là từ lúc trở về, ngài Primarch đã nhốt toàn bộ các chiến binh trong thư viện của hệ phái của họ."
"Tôi cũng nghe nói thế," Kallista mỉm cười như có bí mật. "Tôi còn nghe lỏm được Ankhu Anen nói chuyện với Amon về việc đó nữa."
"Cô nghe thấy họ đang tìm kiếm gì không?"
"Có, nhưng tôi không thật sự hiểu họ đang nói gì. Nghe như họ đang tìm cách để phóng một vật thể ánh sáng đi xa hơn bao giờ hết, dù tôi chẳng biết điều đó có nghĩa là gì."
"Cô nghĩ việc đó nhằm mục đích gì?" Camille hỏi.
"Tôi không biết," Lemuel nói.
****
KINH HOÀNG. SỮNG SỜ. KHÔNG THỂ TIN NỔI. PHẪN NỘ.
Tất cả những cảm xúc ấy bùng lên dữ dội trong thân thể Ahriman khi ông lắng nghe lời của vị Primarch. Cùng với tám Đội Trưởng còn lại của Pesedjet, ông đang đứng trên vòng xoáy mê cung trong nội điện của Magnus bên trong Kim Tự Tháp Photep. Những tia nắng xế chiều lọt qua các khe hẹp chiếu vào bóng tối âm u, nhưng ông chỉ cảm thấy một màn đen u uất như đang đè nén lấy mình. Ông không thể tin vào điều vừa nghe thấy. Nếu như người thốt ra những lời phản nghịch này không phải là Magnus, ông đã ra tay giết hắn ngay tại chỗ.
Từ vị trí trên vòng xoáy, ông có thể nhìn thấy từng người trong số các Đội trưởng đồng môn. Trán Phosis T'kar nhăn lại đầy giận dữ, tay nắm chặt thành nắm đấm. Bên cạnh hắn ta, Phael Toron nghiến răng ken két, và từng mảnh khảm đen nơi chân hắn rung rinh trong lớp vữa như phản ánh cơn thịnh nộ sắp bùng nổ.
Hathor Maat cố giữ vẻ bình thản, nhưng nỗi đau khổ vẫn hiển hiện qua ánh sáng rực rỡ đang dao động sau nét mặt hắn. Khalophis và Auramagma thì phát sáng bởi sức mạnh của cú sốc tinh thần, những tia lửa bắn ra trên đầu ngón tay.
Uthizzar trông tệ hại hơn, gương mặt xám xịt rúm ró bởi sức nặng của sự phản bội không thể tưởng tượng nổi đang chờ phía trước, khi hắn cảm nhận nỗi đau bị phản bội trong lòng vị Primarch như chính của mình. Ahriman đã biết có điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra. Ông cảm thấy điều đó suốt nhiều tháng qua, biết rằng Magnus đang che giấu một bí mật kinh hoàng với các Đội Trưởng, trong khi ngài ấy một mình lao vào công việc điên cuồng trong thư viện riêng và các hầm lưu trữ bên dưới Tizca. Amon và Ankhu Anen cũng chia sẻ sự nghi ngờ với Ahriman, nhưng ngay cả sức mạnh hợp nhất của họ cũng không thể xuyên qua màn che tương lai để thấy rõ điều gì đang khiến vị Primarch lo lắng đến vậy.
"Chuyện này không thể là sự thật," Hathor Maat cất lời, lần hiếm hoi hắn nói thay cho cảm xúc của tất cả anh em mình. "Ngài hẳn đã sai rồi."
Không một đội trưởng nào của Thousand Sons lại dám thốt ra điều như thế với Magnus, nhưng đây là chuyện khó tin đến mức suýt nữa Ahriman cũng đã buột miệng nói ra.
"Ngài ấy không sai," Uthizzar nói, những giọt nước mắt không chút xấu hổ lăn dài trên má. "Chuyện đó sẽ xảy ra."
"Nhưng Horus..." Phosis T'kar lắp bắp. "Ông ta không thể...Ông ta sẽ không...Làm sao mà ông ta có thể?"
Phosis T'kar thậm chí không thể thốt hết câu. Nói ra điều ấy sẽ khiến nó trở thành sự thật, sẽ cho nó hình hài và trọng lượng.
"Làm sao ngài dám chắc như thế chứ?" Khalophis hỏi.
"Ta đã thấy điều đó," Magnus đáp, "bên dưới đại hí trường của Nikaea. Ta đã thấy gương mặt của con quái vật, và dù ta mong điều đó không đúng, ta vẫn thấy sự thật trong lời nói của nó. Từ khi trở về từ Nikaea, ta đã chu du qua Đại Dương Mênh Mông, lần theo những con đường của quá khứ và tương lai. Hàng tỉ sợi tơ định mệnh từ thuở xa xưa đã đan dệt nên một sợi mảnh duy nhất, nơi số phận của thiên hà treo lơ lửng. Hoặc là chúng ta cứu Horus, hoặc là sẽ bị cuốn vào một cuộc chiến còn kinh khủng hơn bất kỳ điều gì chúng ta có thể tưởng tượng. Ta đã bước đi giữa những vùng đất xa xăm của quá khứ, đẩy năng lực của ta đến tận cùng để mở khóa sự thật, và chuyện này đã được chuẩn bị từ rất lâu rồi."
Magnus mở rộng quyển pháp thư vĩ đại của mình, và đưa tay lần theo những trang cuối cùng được phủ đầy nét chữ của mình.
"Một lời tiên tri cổ xưa của Aegyptos (1) kể về một thời đại tương lai, nơi mọi thứ đều là chiến tranh, và vị thần bầu trời tên là Heru ban đầu được giao trọng trách bảo vệ dân tộc của ngài khỏi hỗn mang," Magnus trích dẫn ra. "Phần lớn lời tiên tri đó đã thất truyền, nhưng Heru quay sang đối đầu với một vị thần khác tên là Sutekh, một vị thần vàng rực rỡ, vì quyền thống trị tất cả. Trong hình dạng này, Heru được biết đến với cái tên Kemwer, nghĩa là Đại Hắc Thần trong cổ ngữ."
"Truyền thuyết cổ thì có liên quan gì đến Horus Lupercal chứ?" Phosis T'kar gắt lên.
"Heru chỉ là một trong nhiều cái tên của một vị thần còn cổ xưa hơn, mà tên ngài có thể dịch là Horus," Magnus nói. "Manh mối đã hiện hữu từ lâu, chỉ là chúng ta không đủ tinh tường để nhìn ra. Đáng buồn thay, quá nhiều tri thức đã bị thất lạc. Khi ta mở rộng hiểu biết, ta cũng đồng thời quên đi biết bao điều."
"Lời tiên tri còn nói gì nữa không?" Uthizzar hỏi. Magnus gật đầu.
"Nó nói rằng không phe nào sẽ giành chiến thắng, nhưng nhiều anh em thần thánh của Horus sẽ đứng về phía hắn trong cuộc chiến," ông nói. "Nếu Horus chiến thắng, hắn sẽ được biết đến với cái tên Heru-Ur, nghĩa là Horus Vĩ Đại. Nếu Sutekh thất bại, xứ sở của hắn sẽ trở nên cằn cỗi và hoang tàn vĩnh viễn.
"Những truyền thuyết ban đầu về thần Horus kể rằng, vào lúc trăng non, hắn sẽ bị mù và mang danh Mekhenty-er-irty, nghĩa là Kẻ Không Mắt. Đó là một thời khắc vô cùng nguy hiểm, bởi cho đến khi trăng mọc trở lại, Horus trở nên vô cùng hung tợn, thường nhầm lẫn người thân yêu thành kẻ thù và tấn công họ."
"Horus Lupercal vì lý do gì mà lại có thể làm điều đó?" Amon hỏi. "Có thể là vì điều gì chứ?"
"Bị xúc phạm lòng kiêu hãnh chăng?" Auramagma đề xuất. "Tham vọng? Ghen tỵ?"
"Không," Ahriman lên tiếng, nhận ra những cảm xúc đó là thứ có thể khiến Auramagma ra tay với một người anh em. "Những thứ ấy có thể khiến phàm nhân gây chiến, chứ không phải các Primarch. Phải có thứ gì đó khác mới là gốc rễ của chuyện này."
"Vậy nó là cái gì?" Hathor Maat chất vấn. "Điều điên rồ nào có thể khiến Horus Lupercal phản bội?"
Và rồi, điều đó đã được nói ra thành lời, và chỉ đến lúc này Ahriman mới dám nhìn về phía Magnus. Vị Primarch đang vận trang phục như một tư tế nhà quàn, vai trĩu xuống như một kẻ đang chờ lưỡi đao của đao phủ. Vận một tấm áo choàng đơn sơ màu đỏ thẫm, khoác tấm khăn liệm trắng, Magnus đứng đợi những đứa con của mình dằn lòng, gạt bỏ cảm xúc để trở về với lý trí.
Ahriman ước gì Magnus đã không nói ra viễn tượng ấy, bởi trong sự ngu muội vẫn còn có sự bình yên. Lần đầu tiên trong đời, Ahriman ước gì mình có thể chưa từng biết điều gì cả.
Horus Lupercal sẽ phản bội tất cả bọn họ.
Ngay cả nghĩ đến những lời đó cũng khiến ông thấy như đang phản bội lại danh dự và phẩm giá của Warmaster.
"Sao hả?" Hathor Maat hối thúc. "Rốt cuộc là chuyện gì?"
"Sẽ có một thứ gì đó bén rễ trong linh hồn của ông ta," Ahriman đáp, lời lẽ như tuôn ra mà không qua suy nghĩ, như thể ông đã biết câu trả lời nhưng lại không có cách diễn đạt. "Một thứ gì đó nguyên thủy và tha hóa."
"Thế nghĩa là gì?" Phosis T'kar gắt. "Anh cho rằng một con quái vật hư không tầm thường có thể xâm phạm thể xác một Primarch à? Vô lý!"
"Không phải xâm phạm, mà là...tôi không biết nữa," Ahriman nói, mắt nhìn thẳng vào Magnus. "Con không biết, nhưng ở một mức độ nào đó, điều ấy là thật. Phải vậy không?"
"Con nói đúng, con trai của ta," Magnus buồn bã gật đầu. "Ta vẫn chưa hiểu hết điều gì đang xảy ra với anh ta, nhưng thời gian không còn nhiều để ngăn nó lại. Luna Wolves sẽ sớm tiến đánh một mặt trăng của Davin, và số mệnh đang âm mưu đánh gục Horus bằng một vũ khí mang trong mình ý thức khủng khiếp. Khi anh ta yếu đi và bị mù, kẻ thù của mọi sinh mệnh sẽ hành động để trói buộc trái tim chiến binh của anh ta. Nếu chúng ta không can thiệp, bọn chúng sẽ thành công và xé xác dải ngân hà này."
"Chúng ta phải cảnh báo Hoàng Đế," Hathor Maat nói. "Người phải được biết điều này!"
"Vậy ngươi muốn ta nói gì với Người?" Magnus gầm lên. "Rằng đứa con trai sáng giá nhất của Người sẽ phản bội Người ư? Không có bằng chứng, Người sẽ chẳng bao giờ tin. Người sẽ phái những con chó săn của mình đến bắt chúng ta quy phục, chỉ vì chúng ta dùng chính những phương pháp đã cho chúng ta thấy lời phản bội ấy! Không, chỉ còn một lựa chọn. Chúng ta phải tự cứu lấy Horus. Chỉ khi thất bại, ta mới đem lời này đến với Hoàng Đế."
"Vậy ta phải làm gì?" Uthizzar hỏi. "Cứ ra lệnh đi, và chúng con sẽ tuân theo."
"Những công trình mà ta bảo các con nghiên cứu từ sau Nikaea chính là chìa khóa cho sự cứu rỗi của Horus Lupercal," Magnus nói. "Với sự giúp đỡ của các con, ta sẽ chiếu bản thân mình qua warp và bảo vệ anh ta khỏi kẻ thù."
"Thưa ngài," Amon phản đối. "Phép thuật ấy cần một nguồn năng lượng vượt quá sức tưởng tượng. Tôi còn chẳng chắc việc đó có thể thực hiện được. Không gì trong những gì chúng ta tìm thấy chứng minh rằng nghi lễ ấy sẽ hiệu quả."
"Phải thực hiện thôi, Amon. Bắt đầu triệu tập các nô lệ," Magnus ra lệnh. "Trói buộc sức mạnh của họ vào ta, và họ sẽ tiếp năng lượng cho hành trình của ta."
"Nhiều người sẽ không sống nổi sau nghi lễ như vậy," Ahriman nói, rúng động bởi sự thờ ơ mà Magnus dành cho mạng sống họ. "Thiêu cháy nhiều nô lệ như thế sẽ khiến chúng ta phải trả giá đắt."
"Nhưng cái giá còn đắt hơn nếu chúng ta không làm gì cả, Ahzek," Magnus đáp. "Ta đã quyết rồi. Triệu tập hội đồng tại Hang Phản Chiếu trong ba ngày tới."
****
Hóa đơn được mang ra mà họ không cần phải gọi, và Lemuel ký vào phiếu tín dụng. Anh đang lâng lâng dễ chịu vì rượu, và thấy Kallista cùng Camille cũng nhẹ nhõm, thư thái như mình. Thức ăn tuyệt hảo, phục vụ tận tình. Một lần nữa, Voisanne không làm họ thất vọng, và buổi chiều trôi qua thật ấm cúng, đầy không khí bạn bè thân tình.
"Cảm ơn anh, Lemuel," Kallista nói. "Thật là tử tế."
"Không có gì cả. Hai quý cô xinh đẹp như hai người thì không bao giờ nên phải trả tiền."
"Nghe rất hợp lý với tôi," Camille gật đầu.
Họ đẩy ghế ra và đứng lên khi nhân viên phục vụ dọn dẹp đĩa và ly.
"Giờ anh định đi đâu?" Camille hỏi.
"Tôi nghĩ sẽ đi dạo quanh khu chợ một vòng trước khi về phòng," Lemuel nói. "Tôi còn phải đọc vài đoạn trong Varna Fraternitatis của Rosenkreutz trước buổi học với Ahriman ngày mai, và sau hai chai rượu thì có thể tôi sẽ phải đọc vài lần mới hiểu được."
"Loại sách gì vậy?" Kallista hỏi.
"Nó kể về một tu sĩ thuật lại việc có những sinh thể siêu nhiên âm thầm sống giữa loài người từ thuở bình minh của nền văn minh, chữa bệnh và nghiên cứu các quy luật tự nhiên để nâng cao sự tiến bộ của nhân loại."
"Nghe hấp dẫn đấy," Camille vừa thu dọn đồ vừa nói.
"Thật sự là rất hấp dẫn," Lemuel nói, bắt đầu hăng say. "Nó đánh trúng vào phần tốt đẹp nhất trong bản chất con người. Rốt cuộc, còn điều gì cao quý hơn là giúp đỡ đồng loại mà không cần mong chờ phần thưởng hay lợi ích vật chất? Cô đồng ý chứ, Kallista? Kallista?"
Kallista Eris đứng bên bàn, các ngón tay siết chặt lưng ghế đến nỗi đốt trắng bệch. Da cô ửng đỏ, gân cổ căng lên. Mắt cô trợn ngược, và một dòng nước dãi lẫn máu rỉ ra nơi khóe miệng.
"Không..." cô ta rít lên.
"Hỡi ngai vàng, Kalli!" Camille kêu lên, lao tới. "Lemuel, đỡ cô ấy đi!"
Lemuel phản ứng quá chậm để đỡ Kallista khi đôi chân cô ta khuỵu xuống. Cô gào lên một tiếng rợn người rồi quay vòng, đập người lên bàn, khiến ly và chai bay tán loạn. Cái bàn bị hất tung và cô đổ nhào trong đống đổ nát, giãy giụa như kẻ điên. Chai tinh dầu vỡ tan cùng ly thủy tinh, mùi nồng nàn của dâu và dưa chín tràn ngập không khí.
Camille lập tức ở bên cạnh cô.
"Lemuel! Lấy lọ sakau cho cô ấy, trong túi cô ấy đấy!" cô hét lên.
Lemuel quỳ sụp xuống, mọi dấu vết của cơn say lập tức tan biến khi adrenaline tràn vào cơ thể. Túi của Kallista nằm dưới bàn lật úp, anh lục vội, đổ hết mọi thứ ra nền đá. Một quyển sổ tay, bút chì, máy ghi âm cầm tay và một số món mà một quý ông không nên nhìn thấy rơi ra.
"Mau lên!"
"Nó đâu?" Anh kêu. "Tôi không thấy!"
"Chai thủy tinh xanh! Mờ đục, như sữa hỏng ấy!"
"Không có!"
"Phải có chứ! Nhìn kỹ vào!"
Một đám đông lo lắng đã tụ lại nhưng may mắn là vẫn giữ khoảng cách. Kallista tru lên, âm thanh chứa đựng nỗi đau đến mức không thể tin được rằng cuống họng người thường có thể tạo ra. Giữa đống đồ rơi và những mảnh thủy tinh vỡ, Lemuel nhìn thấy cái chai như Camille mô tả và chồm người tới. Anh trườn lại phía Camille, lúc này đang cố hết sức giữ Kallista nằm yên. Cô gái xinh đẹp này khỏe hơn vẻ ngoài, và ngay cả khi có thêm một người đàn ông mặc áo choàng viền đỏ của thầy thuốc tới giúp đỡ, cô ta vẫn có thể hất văng họ ra.
"Đây rồi, tôi tìm thấy rồi!" anh hét lên, giơ chai thuốc ra.
Kallista bất ngờ ngồi bật dậy và nhìn thẳng vào Lemuel. Xuất huyết mao mạch làm mắt cô ta ngầu máu, và từng dòng đặc quánh trào ra từ mũi và miệng. Đó không còn là Kallista đang nhìn anh nữa; đó là một sinh vật quái dị với nanh nhọn và ánh mắt của thú săn mồi. Một thứ gì đó cổ xưa hơn cả thời gian, rình rập giữa những góc khuất của các thế giới, mang trong mình sự kiên nhẫn và xảo quyệt không thể đo lường.
"Đã quá muộn rồi," cô ta nói, tát văng chai thuốc khỏi tay Lemuel. Nó vỡ trên nền đá, chất lỏng đặc quánh hòa lẫn với tàn tích của rượu vang đổ ra.
"Bầy Sói sẽ phản bội các ngươi, và lũ chiến khuyển của chúng sẽ gặm nát xương thịt các ngươi!" Kallista hét lên, và Lemuel giật người lùi lại khi cô lao về phía anh, móng tay vồ lấy mắt anh. Cô đè anh xuống, chân siết chặt lấy eo anh, tay bóp lấy cổ anh.
Anh không thể thở được, nhưng trước khi cô kịp bóp nát khí quản anh, cô rú lên và lưng ưỡn ngược lại kèm theo một tiếng rắc khủng khiếp. Ánh nhìn sát nhân vụt tắt khỏi mắt cô, và cô đổ vật ra sau, tay chới với tìm quyển sổ tay.
Lemuel nhìn thấy sự cầu xin tuyệt vọng trong mắt cô ta.
"Lấy giấy cho cô ấy đi!" Camille hét lên.
********
Chú thích:
Lời tiên tri Aegyptos: dựa trên thần thoại Ai Cập cổ đại, đặc biệt là hệ thống thần thoại xoay quanh Horus (Heru) và Seth (Sutekh). Magnus đang viện dẫn một lời tiên tri giả tưởng mang màu sắc Ai Cập, rồi tác giả khéo léo gắn nó với bi kịch Horus Lupercal.
Cụ thể:
Heru (Horus): Trong thần thoại Ai Cập, Horus là vị thần bầu trời, thường được mô tả đầu chim ưng, có vai trò bảo hộ Ai Cập, đặc biệt là vương quyền. Ông đối đầu với Seth (Sutekh), vị thần hỗn mang, sa mạc và bão tố, trong một chuỗi những cuộc chiến kéo dài để tranh giành ngôi báu Osiris.
Sutekh (Seth): Thần sa mạc, hỗn loạn và phá hoại. Trong Warhammer, đoạn trích nhắc đến Sutekh như "vị thần vàng rực rỡ", kẻ đối đầu với Horus/Heru. Điều này song hành với Seth trong thần thoại vốn là kẻ thù của Horus.
Heru-Ur (Horus Vĩ Đại): Horus có nhiều hình thái và tên gọi. "Hor-Ur" hay "Har-Wer" có nghĩa là "Horus Lớn / Horus Vĩ Đại", đại diện cho khía cạnh cổ xưa và nguyên thủy nhất của Horus.
Mekhenty-er-irty (Kẻ Không Mắt): Đây cũng là một danh hiệu thực sự của Horus trong Ai Cập cổ đại, gắn liền với truyền thuyết Horus bị Seth làm mù hoặc lấy mất một con mắt (mắt Horus sau đó được phục hồi, trở thành biểu tượng bảo hộ nổi tiếng – Udjat).
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip