Những người hành hương
Tiếng khóc
Mật nghị
Pháo đài Blackstone, Sanctum Imperialis Palatine
"Đó là thẩm quyền của ngài Pháp Quan," Andromeda nói, gõ nhẹ vào bục bên cạnh hồ sơ. Người giám ngục sau bàn làm việc không động đậy hay trả lời. "Điều đó có nghĩa là ông phải cho chúng tôi vào."
Vẫn không có biến chuyển gì. Mauer đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Nó nhỏ xíu, một cửa vào, một cửa ra. Cửa ngoài là một mét adamantium cứng ngắc với những chiếc chốt phải mất tận mười một giây để mở ra. Cửa trong chỉ đủ rộng và cao để hai người có thể đi qua cùng một lúc mà không làm xước bờ tường. Cánh cửa màu đen, bề mặt của nó phản chiếu như một tấm gương. Cô không thể thấy đâu là ổ khóa hay lỗ khóa. Phần tệ nhất là những gì nó phản chiếu. Mỗi phần của căn phòng đều ở đó: các bức tường, cánh cửa ngoài, tất cả đều hoàn hảo. Ngoại trừ việc không có bất kỳ sự phản chiếu nào khác: không có Mauer đang ngồi nhìn cô, không có Andromeda đang đảo mắt, không có Sindermann gõ những ngón tay già nua vào bảng dữ liệu của mình. Họ đã quyết định sử dụng thẩm quyền mà Sindermann đã thiết lập để vào Blackstone; nó ít thu hút sự chú ý hơn và ít dễ bị chú ý hơn.
Bây giờ, tất cả họ đều là một phần của Hội thẩm vấn. Mauer đã tháo bỏ phù hiệu và cấp bậc của mình và dán một dải giấy da mỏng lên áo khoác với dấu hiệu và giấy uỷ nhiệm ghi rằng bà ấy là người có thẩm quyền để hỏi và ghi lại các câu hỏi.
"Tôi nhớ ông rồi," người giám ngục nói. Ông ta mặc quân phục và quân trang của Solar Auxiliary, cái chân chống nạng nói lên thương tích trong chiến đấu.
Mauer nghĩ rằng trông bản thân ông ta cũng có vẻ chua chát.
"Tôi cũng vậy, thưa Giám ngục Vaskale," Sindermann nói. "Tôi cho là mọi thứ đều ổn và chúng ta có thể vào chứ?"
"Khác với lần trước," Vaskale nói, mắt liếc qua Mauer và Andromeda. "Lần này ông mang thêm bạn mới. Trông họ có vẻ nguy hiểm hơn."
"Mọi thứ đều phải thay đổi", Sindermann nói.
"Chuyện gì đã xảy ra với cậu bé hôm bữa?" Vaskale hỏi. "Cậu nhóc đó đó? Cậu ta tên là gì nhỉ? Karri? Tary?"
"Hari Harr," Sindermann nói. "Tên cậu ta là Hari Harr."
"Lần này không muốn đi cùng với ông à?"
"Cậu ta đã đến Bức tường Eternity," Sindermann nói nhẹ nhàng.
Vaskale im lặng một lúc lâu, rồi liếm môi và nhìn xuống màn hình an ninh.
"Mọi thứ đều ổn. Các người có thể đi trước," ông ta nói. "Một khi đã vào, các người sẽ cần được hộ tống. Tôi sẽ dẫn đường cho. Các người sẽ phải làm theo chỉ dẫn của tôi."
"Chúng tôi không cần người hộ tống," Andromeda nói. "Thẩm quyền của chúng tôi với tư cách là người thẩm vấn quy định rằng chúng tôi không cần bị giám sát."
"Cô phải tuân theo chỉ định của tôi," người giám ngục nhắc lại với Andromeda, rồi liếc nhìn Sindermann. "Như ông ấy vừa nói, mọi thứ đều đã thay đổi."
Andromeda trông như thể cô ấy sắp cãi lại. Sau đó cô ấy nhún vai.
"Được thôi", cô nói.
Người giám ngục không nhúc nhích mà vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào họ.
"Chúng tôi sẽ làm theo chỉ định của ông," Mauer nói.
"Tốt," Vaskale nói. "Bởi vì điều đó tốt cho mọi người cũng như cho bất kỳ ai khác."
"Là sao thế?" Sindermann hỏi.
"Đang có lắm rắc rối," Vaskale trả lời, và bước lùi lại. Trước mặt họ, cánh cửa nhẵn như gương nứt ra. Những vết nứt nhỏ li ti trở thành hình tam giác, gập lại và thu vào trong cho đến khi cánh cửa không còn ở đó nữa. Mauer đang chờ đợi người giám ngục sẽ đòi giao nộp khẩu súng đeo trên hông mình, nhưng ông ta không nói gì về điều đó.
"Ông không lo lắng về việc có người mang súng vào đó sao?" Andromeda nói.
"Không," Vaskale trả lời khi đi theo họ qua lối vào, và không nói thêm gì nữa.
Cánh cửa đóng lại sau lưng họ, rồi mở ra khi họ bước vào lối đi phía trước.
Không khí mát mẻ và khô ráo, như thể độ ẩm và nhiệt độ bao phủ phần còn lại của Cung Điện là một thế giới riêng biệt. Ánh sáng trong lối đi có màu xanh trắng và chói chang. Không có bức tường nào phản chiếu ánh sáng. Tất cả đều là chất đen thủy tinh giống như cánh cửa. Bước chân của họ xướng lên những nốt nhạc giống như tiếng chuông từ sàn kim loại.
Mauer đã nghe nói về pháo đài Blackstone. Đó là một trong những thứ bà biết mình không được phép biết. Trước chiến tranh, việc sử dụng nó đã bị ràng buộc với các chức năng mà bà thực sự vui mừng khi không biết đến. Kể từ khi Horus xâm lược Terra, nó đã thực hiện một chức năng đơn giản hơn, một nhà tù dành cho những kẻ quá nguy hiểm để được thả rông, nhưng Đế chế vì lý do riêng của mình mà không muốn giết người. Mauer không hiểu được lòng trắc ẩn đó trong những thời điểm như thế này. Nếu ai đó là mối đe dọa thì bọn chúng đang cạn kiệt lý do để được sống, bất kể bọn chúng có lý do nào để tồn tại ngay từ đầu. Bà không tin rằng đây là nơi để tìm ra câu trả lời cho loại vấn đề mà mình đang cần xem xét.
"Lần này ông đến đây cũng chỉ để gặp cô ấy thôi à?" Vaskale hỏi.
"Đúng vậy," Sindermann nói.
"Chỉ có mỗi cô ấy thôi sao?"
Sindermann gật đầu.
"Cô ấy thường xuyên ra khỏi phòng giam, sẽ phải mất chút thời gian để đi tìm cô ấy," Vaskale nói, dừng lại ở một bảng điều khiển gắn trên tường hành lang và nhập mã lệnh. "Cô ấy thường xuyên đi nói chuyện với những tù nhân khác. Mục đích của việc thẩm vấn này bây giờ là gì?"
Không ai trả lời. Người giám ngục cau mày nhìn màn hình điều khiển.
"Lại là hắn ta nữa..." người giám ngục lẩm bẩm và lắc đầu. "Đi thôi," ông ta nói, và bắt đầu di chuyển xuống lối đi.
Mauer liếc nhìn Andromeda, nhưng nữ phù thủy gien đã đi theo người đàn ông khập khiễng, đôi chân trần của cô ta lướt trên nền kim loại.
Người giám ngục dẫn họ xuống hành lang và qua những căn phòng vang vọng. Họ đi qua những cánh cửa phòng giam bị khóa và những đường hầm mở dẫn lên xuống trong bóng tối.
Mauer đã xem xét các dữ liệu và thấy có rất nhiều tù nhân bị giam ở Blackstone, nhưng hiện tại họ không thấy một ai cả. Sự im lặng là bạn đồng hành của họ.
"Ở đây vui quá nhỉ," Andromeda nhận xét sau một lúc.
"Tốt hơn là nên như vậy. Cô sẽ muốn ra ngoài đi dạo khi trời tối," Vaskale nói.
"Chuyện gì xảy ra vào ban đêm?" Sindermann hỏi.
"Những viên đá hát về những giấc mơ", Vaskale nói cộc lốc, sau đó không nói thêm gì nữa.
Mauer thấy Andromeda đang thản nhiên đưa tay rờ dọc theo bức tường khi họ bước đi.
"Nơi này gần như gợi cho tôi nhớ đến nhà."
Mauer liếc nhìn Andromeda đầy thắc mắc, cô gái liền trả lời bằng một cái nhún vai.
"Những ngôi đền của giống loài chúng tôi hơi giống như thế này, tất cả đều nhẵn nhụi, đá tối màu và các biểu tượng nhiều lớp. Chúng tôi thích đường cong hơn tất cả những đường thẳng này, nhưng nếu tôi nheo mắt lại và không chú ý đến các chi tiết, tôi có thể mường tượng được rằng tôi vừa được về nhà."
"Cô thấy nhớ nhà à?" Mauer nói.
"Không," Andromeda nói. "Đế chế đã đến đó vào hai thế kỷ trước và giết chết giáo phái Selenar. Chúng tôi phải thỏa hiệp để được sống lâu hơn một chút, và bán sự thật thiêng liêng của chúng tôi để sản xuất hàng loạt những con quái vật cho Hoàng đế. Vì điều này, thay vì cái chết nhanh chóng, chúng tôi lại có một cái chết từ từ. Hầu như không còn ai trong số chúng tôi còn sót lại khi tôi thực hiện một thỏa thuận khác và đến đây để giúp đỡ Đế chế. Bây giờ thì... có lẽ tôi là người cuối cùng của giống loài mình..." Giọng nói của Andromeda nhỏ dần. Cô ấy đột nhiên có vẻ không còn trẻ nữa mà đã rất, rất già.
"Không, tôi không nhớ nhà. Tôi chỉ thấy thương tiếc cho nó."
Một cái nhún vai nữa. Mauer đang tự hỏi phải đáp lời thế nào thì người giám ngục dẫn đầu họ chậm lại và dừng lại bên cạnh một cánh cửa trên bức tường lối đi.
"À," Andromeda nói, giọng cô ấy nhanh nhảu và nhẹ nhàng trở lại. "Chắc chắn là nơi này rồi."
Người giám ngục tra chìa khóa vào ổ khóa cửa rồi dừng lại.
"Người mà cô ấy đang nói chuyện ở đây..." ông nói rồi lại cắn môi. "Tôi không biết tại sao cô ấy lại hay nói chuyện với hắn ta nhiều như vậy. Tất cả những tù nhân còn lại, cô ấy chưa bao giờ quay lại lần hai, nhưng với người này... cô ấy và vị Custodian. Họ cứ quay lại miết."
"Đây là phòng giam của ai?" Mauer hỏi.
"Nó có thành vấn đề không?" Vaskale nói, lắc đầu như thể đang cố gắng xua đi một ý nghĩ khó chịu, và kích hoạt ổ khóa. "Rốt cuộc, các người cũng đâu phải đến đâu để gặp hắn ta, đúng không?"
Cánh cửa phòng giam mở ra.
Sindermann nhìn Vaskale với vẻ tò mò rồi bước vào, Mauer và Andromeda đi theo sau.
Một người phụ nữ mặc bộ áo liền quân của tù nhân đang ngồi xếp bằng trên sàn. Tóc cô ta là màu vàng hoe bẩn thỉu, và đôi mắt sắc sảo khi cô ta ngước lên nhìn lên họ. Đối diện với cô ta là một ông già nhỏ bé ngồi trên giường, lưng thẳng, đôi mắt như hai viên ngọc trai đen trên khuôn mặt rộng. Ông ta mỉm cười với bọn họ.
"Đây có phải là bạn của cô không, Mamzel Keeler (1)?" Fo lên tiếng. "Tôi tự hỏi họ đang muốn hỏi về điều gì?"
Bãi hoang mạc phía Đông Phoenicium
Thành phố tổ ong vẫn còn đó. Nó nhô lên trước mặt Oll và đoàn tùy tùng của ông khi họ băng qua vùng đất trắng lấp lánh ở đằng xa. Cát bụi dưới chân họ rất mịn màng.
Thời gian đã mài mòn vỏ của một vùng biển đã mất và thủy tinh của những nền văn minh đã chết để tạo ra nó, và những cơn gió của Terra đã rải nó ra khắp các ngọn đồi và thung lũng để làm phẳng chúng lại. Nơi này thật chói mắt. Ánh sáng mặt trời phản chiếu làm nảy những bóng ma lấp lánh lên không trung. Oll đã phải quấn một chiếc khăn quanh mắt và thu nhỏ tầm nhìn của mình lại thành một khe hở để tránh bị mù khi họ băng qua vùng đất này. Họ đã đi bộ gần như cả ngày, và mặt trời vẫn chưa chịu mờ đi. Trên thực tế, nó dường như không di chuyển chút nào, như thể mặt trời đang bị kẹt vào vòm trời. Đó chỉ là một điều không ổn trong số một đống những điều sai trái mà Oll đã liệt kê ra được từ khi họ lê bước. Thành Phố tổ ong ở đường chân trời thì lại là một điều khác.
Ông đã từng thấy Hatay-Antakya (2) trước đây, cách đây không lâu khi ông quyết định quay lại những nơi cũ trong những ngày đầu của cái cuộc chiến đã trở thành cuộc Đại Viễn Chinh. Khi đó, nơi này được gọi là Babylon mới, bởi những người bảo tồn và những nhà tư tưởng không biết Babylon đầu tiên là cái gì hoặc tại sao họ lại biết thuật ngữ này. Oll, người đã được tận mắt chiêm ngưỡng phiên bản đầu tiên, thứ hai và nhiều phiên bản khác của Babylon, của thành La Mã và Thượng Đô(3), cả về mặt tên gọi và lẫn tinh thần rất nhiều lần, nghĩ rằng ý tưởng này chỉ phù hợp một cách không chắc chắn. Babylon cổ đại và những khu vườn của nó là một kỳ quan vào thời đại của nó, càng trở nên kỳ quan hơn bởi thực tế là vào thời đó, việc xây dựng một cung điện hoặc một thành phố phải mất nhiều thế hệ và hàng triệu giọt máu. Cái giá vẫn vậy, và thời gian cũng vậy, nhưng kết quả thì ở một quy mô mới. Hatay-Antakya là một tổ ong thủy canh. Trong sự hoang tàn của Terra, nó đã sản xuất ra các loại cây trồng, cây ăn trái, nhân giống các loại cây đã bị tuyệt chủng trên nhiều thế giới. Hệ thống thủy văn khổng lớn đã kéo hàng tỷ gallon nước qua các đường ống, hồ nước, bể chứa và cống dẫn nước tạo nên phần lớn cấu trúc tổ ong. Các mái vòm pha lê và các bong bóng môi trường rải rác trên bề mặt bên ngoài của nó. Các kênh đào cao được uốn cong theo hình vòng cung giữa các đỉnh tháp và các mũi nhọn. Trên các bề mặt phía trên, sự khéo léo của các ngôi nhà nhân giống được trưng bày trong các khu vườn nhiều lớp và các hồ nhân tạo được đựng trong những chiếc bát đồng khổng lồ.
Những người cai trị viên ngọc xanh của thành phố tổ ong bơi trong các vũng nước sâu một kilomet, trôi nổi giữa các miếng đệm và hoa của hệ thực vật dưới nước. Ở các tầng thấp hơn, các vòng đường hầm khổng lồ tràn ngập ánh sáng chói chang, với các loài thực vật được di chuyển giữa các khu vực có áp suất và nhiệt độ được kiểm soát khi chúng trải qua các chu kỳ nảy mầm, phát triển, ra hoa, kết trái và phân hủy. Ở độ sâu, các hố khổng lồ hấp thụ mọi chất thải và ủ chúng trong các hang động có kích thước bằng các quận của thành phố. Nhiệt lượng từ quá trình phân hủy chảy bên trong các ống dẫn để làm ấm sự phát triển của các loại cây trồng mới.
Thật đáng chú ý, bằng chứng cho thấy động lực khiến con người cắt các kênh nước và làm cho đất đai xanh tươi có thể tồn tại ngay cả trong những nơi hoang tàn nhất trên trái đất. Babylon, Eden, Avalon... giống như tất cả những nơi khác nhưng không phải, niềm hy vọng và sự kiêu ngạo được gieo mầm và phát triển. Oll đã nhìn thấy Hatay-Antakya và tự hỏi nó sẽ tồn tại được bao lâu, và liệu nó có kết thúc như tất cả những nơi khác hay không.
Nhìn vào cái bóng của thành phố tổ ong trên đường chân trời, ông không chắc mình có muốn biết câu trả lời hay không. Đôi khi nó nhô lên như nó phải thế, một ngọn núi thấp, gồ ghề, nhưng đôi khi khi ông nhìn lên, có thứ gì đó khác ở đó, cái bóng của những mái vòm và tòa tháp đã không còn ở đó trong một thời gian dài, những nơi mà Oll biết và đã thấy bị bốc cháy hoặc sụp đổ, hoặc chết đuối.
"Cái gì thế kia?" Là giọng nói của Rane. Cậu bé đang đi phía trước, đang đi ngay trước mặt Zybes. "Ngay dưới chân dốc, ông có thấy không?" Oll nhìn theo hướng cậu bé chỉ. Có một đường thẳng, tối tăm trên nền đất trắng, giống như một dải bóng tối rộng lớn. Oll nheo mắt. Đường thẳng đó đang chuyển động, giống như nước chuyển động trong một dòng sông.
"Đó là con người," Zybes nói.
Zybes đã đúng, khi Oll tập trung, ông có thể thấy đó là một hàng người dài, rời rạc, quần áo và cái bóng của họ đều xám xịt dưới ánh sáng ban ngày.
"Có vẻ như họ đang đi cùng hướng với chúng ta," Krank nói. "Hướng về phía tổ ong."
"Dân tị nạn," Rane nói.
"Có lẽ thế..." Oll nói. Trong tâm trí ông, một loạt những thứ đang chồng chất thành một hình dạng không rõ ràng, cũng không hề thân thiện. "Ngoại trừ việc chúng ta chưa thấy bất kỳ dấu hiệu nào của trận chiến gần đây, đúng không?"
"Những con tàu," Rane nói, giật đầu về hướng mà họ đã nhìn thấy bóng của những con chiến hạm trên bầu trời xa xa.
"Nhưng không phải ở đây," Oll nói. "Không có khói ở đường chân trời, không có máy bay trên bầu trời..."
Thật quá yên tĩnh.
Yên tĩnh, thế đấy , đó là điều đã lớn dần thành một cơn ngứa ngáy trong suy nghĩ của ông; thật quá yên tĩnh. Không có tiếng than khóc, thậm chí hầu như không có tiếng gió.
"Đó là lý do tại sao họ lại ở đây," Krank nói. "Khi chiến tranh xảy ra, những người có thể thoát ra khỏi bãi chiến trường sẽ đi tìm những nơi yên tĩnh và an toàn nhất có thể."
"Trung tâm dân cư lớn gần nhất cách xa hơn hai trăm dặm," Oll nói, đưa tay lên dưới khăn quàng cổ để lau mồ hôi đang chảy ra trên khuôn mặt cau có.
Ông không thích điều này; hơn hết, ông không thích cảm giác có thứ gì đó mà ông không nhìn thấy, nó ngay gần góc phố, nó đang tiến lại gần. "Nếu không có chiến tranh ở đây, thì những người đó hẳn đã phải đi bộ một chặng đường dài để đến đây."
"Mọi người sẽ phải đi một chặng đường dài để thoát khỏi chiến tranh," Rane nói, rồi quay người lại. Oll biết rằng Rane đang nghĩ đến Calth, đến Neve, nghĩ đến người vợ vẫn đang đợi cậu ta trên bến tàu trong một thành phố không còn tồn tại.
"Đúng vậy," Oll nói. "Đúng vậy."
"Oll..." Đó là Katt đang gọi. "Oll, nhìn lại phía đó đi."
Ông quay lại và nhìn, nheo mắt khi ánh nắng chói chang chiếu vào mắt ông.
Không có gì cả, chỉ có màu trắng của xương cốt ngâm nước của vùng đất hoang. Katt giơ tay chỉ như thể cảm nhận được sự bối rối của ông. Ông nhìn theo hướng ngón tay cô ấy, và thấy những gì cô đã thấy.
Luôn cẩn trọng, thông minh, luôn nhìn về phía sau khi mọi người đều đang nhìn về phía trước, đó chính là Katt.
Có một cái bóng ở đằng xa. Nhỏ và bị che khuất bởi hơi nóng, chỉ là một vết mờ xám giữa màu trắng có thể là một cái cây trụi lá hoặc một gốc đá... Nhưng cũng có thể là một hình bóng đang đi bộ, hoặc đang chạy lại chỗ họ. Đang đuổi theo họ.
Lạch bạch...lạch bạch...
Cơn lạnh lẽo trong bóng tối của Mê cung.
"Nó đã ở đó bao lâu rồi?" ông hỏi.
"Tôi không biết," Katt nói. "Tôi đã thấy nó được một phút. Nó không có vẻ gì là đang đến gần hơn, nhưng tôi chắc chắn là nó đang đến gần hơn."
"Những điều chưa biết đang chờ đợi ở phía trước và bám theo sau..." Oll nói khe khẽ.
Ông đang nghĩ. Từ đây, tất cả mọi người đều phải đưa ra quyết định, lựa chọn con đường: ông, John và Bà ấy.
Ông vẫn đang suy nghĩ thì có tiếng máy móc leng keng. Graft, con servitor già nua của Munitorum đã ở cùng ông từ trước Calth và đã theo họ kể từ đó, đang leng keng tiến về phía trước trên bánh xích của nó để hướng về đoàn người ở xa.
"Nó đang đi đâu vậy?" Rane hỏi.
"Có vẻ cái cầu chì cuối cùng của nó cũng nổ tung rồi," Zybes khịt mũi nói.
"Graft," Oll gọi, và ông chạy theo con servitor khi nó lăn bánh xuống dốc. "Đợi đã. Ngươi định đi đâu thế?"
"Lối này, ông lính Persson," Graft nói, giọng nói vẫn trầm khàn như thường lệ. "Đây là lối đi."
Oll cảm thấy một cơn lạnh buốt trong ruột gan.
"Đường đi? Đường đi tới đâu?"
Con servitor đang di chuyển nhanh hơn, và Oll phải chạy để theo kịp. Những người khác đang chạy theo, chạy xuống dốc sau ông. Phía trước họ, khuôn mặt của đoàn người đang đi bộ ở chân dốc đã quay về phía họ. Ông nghe thấy tiếng hét, tiếng gọi nhau í ới và tiếng than khóc. Một số người nghe có vẻ hoảng sợ; một số người nghe có vẻ phấn khích, vui mừng. Có những màu sắc trong đám đông xám xịt mà ông nhận thấy lúc này, những mảnh sáng, những vết loang lổ màu sắc.
Graft vẫn ở phía trước ông ta, các động cơ của con servitor kêu leng keng khi nó lăn bánh mặt đất. Có tiếng vo ve phát ra từ lưới loa của nó.
Oll loạng choạng. Mắt ông ta đang chao đảo. Thành phố tổ ong ở đằng xa đột nhiên lớn hơn nhiều, gần hơn nhiều, lấp lánh và tỏa sáng dưới ánh mặt trời.
Làm sao ông nghĩ nó lại xa xôi đến thế? Nó ở ngay đó, chỉ cách một đoạn đi bộ ngắn, chỉ một bước nữa thôi...
Phía sau ông nghe thấy tiếng một người khác hét lên. Là Katt? Hay là Zybes?
"Không," một giọng nói trong đầu ông ta lên tiếng. "Đừng rẽ theo hướng này..."
John đó có phải không?
"Đó là một giấc mơ, nhưng nó có thể là sự thật..."
Bạn! Bạn, người bạn cũ, nhưng lúc này thì không phải vậy.
+Oll! Giúp chúng tôi với! Oll !+
Và rồi cơn đau như búa bổ nổ tung trong hộp sọ ông và ông ngã xuống...
Nhưng ông không chạm đất. Bị kẹt giữa không trung hoặc giữa lúc rơi và lúc đã rơi. Độ dốc và bầu trời bị ánh nắng mặt trời tẩy trắng xoáy thành màu trắng và màu đất son.
Giống như cát, Oll nghĩ, giống như cát bị sóng đánh tung lên bờ biển sáng rực rỡ.
+Oll...+
John? Ông hình thành suy nghĩ trong đầu để trả lời, cố gắng làm cho nó rõ ràng hơn.
+Tôi không thể làm điều này lâu được nữa, Oll. Đây... là nơi này.+ Giọng của John vọng xuống từ phía trên và xung quanh ông, rồi dần khuất khỏi tầm nhìn.
John, ông đang ở đâu?
+Tôi đã cố liên lạc với ông nhưng tôi đã nhầm, tôi bay quá xa, hạ cánh ở nơi chúng tôi dự đoán là ông sẽ đến, nhưng ông không có ở đó. Tôi... chúng tôi nghĩ ông có thể đã được đưa đến thiên đường nên đã đi tìm ông, chúng tôi đã bị bắt. Bây giờ...+ Giọng John Grammaticus lắp bắp, thế giới như chớp mắt.
+Đúng vậy.+ Giọng nói của John đột nhiên trở nên ngắn gọn, nghiêm túc, có kiểm soát, như thể giọng điệu và lời nói đã được cắt ra từ một thời điểm và địa điểm khác và dán vào đây. +Sẽ khó để đạt được nhưng không phải là không thể, việc phá vỡ sự ổn định luôn khó khăn hơn sự hỗn loạn đơn thuần, nhưng hãy yên tâm rằng điều đó có thể thực hiện được .+
John?
Một cái chớp mắt nữa, và bây giờ những đám mây màu sắc đang sủi bọt trong khoảng không đen kịt như một cuộc bạo loạn của pháo hoa.
+Ông chưa nghe thấy bài hát đó sao ?+ Giọng của John bây giờ là một tiếng cười khúc khích, lăn lộn với rượu và sự tinh nghịch. +Được rồi, tôi đoán là tôi có thể hát nó nếu ông không bắn bỏ tôi vì sự thô lỗ...+
Có thứ gì đó túm lấy Oll và xoay ông lên và xuống. Ông có thể cảm thấy thứ gì đó quấn quanh mình, những cái giác hút có răng cắn xuyên qua vải, những cái gai găm vào da thịt ông. Một tiếng vọng của nỗi đau không thuộc về ông.
John, ông có nghe thấy tôi không? Chúng ta...
+Trước đây từng có một người vợ tốt của Europa...+
John, thả tôi ra! Chúng tôi đang tới tìm ông, nhưng ông phải thả tôi ra.
Cơn đau đã tan biến. Ngọn lửa rực cháy của thế giới đã tắt hẳn. Oll cảm thấy như mình đang trôi nổi, lăn tròn và quay tròn theo dòng nước thủy triều.
+Nhanh lên...+ giọng nói xa xăm của John Grammaticus vang lên. +Bọn chúng biết ông đang ở đây. +
Oll đang nhìn lên bầu trời. Ông không mở mắt; mắt đã mở ra rồi. Ông đang ngồi trên mặt đất ở chân dốc mà ông đã chạy xuống. Những người khác ở gần đó, Zybes và Krank đã giơ súng lên.
Graft đang co giật tại chỗ, tiếng rì rào nhỏ phát ra từ lưới loa.
Katt thận trọng tiến lại gần, khẩu súng lục được che giấu ở bên cạnh.
Dòng người họ thấy vẫn đang di chuyển. Bây giờ ông đã thấy họ rõ ràng: đàn ông và phụ nữ, một số già, một số đang trong độ tuổi sung sức. Mặt trời đã tẩy trắng quần áo của họ và bụi phủ lên họ một lớp bột nhợt nhạt. Những mảnh thủy tinh và vải nhiều màu được xâu thành chuỗi bằng dây thép treo quanh cổ họ như những vòng hoa. Ông có thể thấy xương lộ ra qua lớp da của một số người, thịt bị hút khỏi khung xương vì nạn đói. Những người khác thì đang chảy ra mỡ, mồ hôi chảy ra từ họ. Tất cả bọn họ đều nhìn chằm chằm về phía nơi mà đoàn người đang đi, về phía cái bóng xa xa của tổ ong. Một số người đang cười toe toét, những người khác thì chảy nước dãi, các cơ trên mặt họ chùng xuống. Tiếng cười và tiếng lảm nhảm điên cuồng vang lên từ một số người rồi tắt dần. Hầu hết bọn họ không nhìn Oll và những người bạn đồng hành của ông, mà chỉ lê bước về phía trước. Ông nhận thấy có máu trên mặt đất, hỗn hợp màu đỏ và cát hồng dưới đôi chân phủ đầy bụi.
"Các người có nghe thấy tôi nói không?" Oll nhìn quanh. Hai bóng người đã bước ra khỏi đám đông và đang đứng cách ông ba bước chân. Họ đứng bất động, Oll nhận thấy như vậy.
Một người là một thứ phình to, cao ngất ngưỡng được quấn và buộc túm trong tấm vải nhiều màu rách nát, phồng lên và gợn sóng trong gió. Ông không thể nhìn thấy gì trên khuôn mặt của hắn ta.
Người kia thì rất cao, gầy. Một chiếc áo choàng chắp vá bằng nhung và lụa tơ tằm treo lủng lẳng trên người cô ta. Một tấm mạng che mặt màu đỏ sờn che nửa trên khuôn mặt cô ta chỉ chừa lại cái miệng. Ông có thể thấy rằng làn da của cô ta bị nứt nẻ vì nắng nóng và phủ một lớp bột trắng hơn cả cát sa mạc. Những chiếc móc có ngạnh đâm xuyên vào môi dưới và cằm của cô, và xương ngón tay treo lủng lẳng trên những vòng dây bằng nhựa plastek. Chúng kêu lạch cạch khi cô ta nói chuyện.
"Ông có nghe thấy tôi nói không?" Cô ta hỏi, giọng cô cao vút và nghe thật du dương.
"Lùi lại!" Zybes quát; súng của ông ta chĩa vào cặp đôi kia. Đằng sau và bên cạnh ông ta, Rane và Krank cũng rút súng ra. Katt đang nhích ra xa, bình tĩnh, mắt tập trung vào họ. Hình bóng quấn vải quay cục u hẳn là cái đầu của nó. Dòng người đằng sau họ đang lướt trôi đi, không nhìn thấy hoặc không quan tâm.
"Những người hành hương," người phụ nữ nói, giơ hai bàn tay lên. Oll nhận thấy đôi tay cô ta đầy sẹo, đầu ngón tay cong lại như những lưỡi dao thủy tinh. "Các người đang tìm kiếm cái gì?"
Oll đứng thẳng dậy và phủi bụi trên tay.
"Chúng tôi nghĩ rằng ông có thể đã được đưa lên thiên đường," Oll nhớ John đã nói như thế.
"Đúng thế," Oll đáp, và bước về phía người phụ nữ che mặt. "Chúng tôi đang tìm kiếm thiên đường. Cô sẽ chỉ đường cho chúng tôi chứ?"
Pháo đài Blackstone, Sanctum Imperialis Palatine
Có một khoảnh khắc yên tĩnh khi người đàn ông nhỏ bé trên giường mỉm cười với họ.
Sau đó Andromeda lao về phía trước, gầm gừ, với lấy khẩu súng của Mauer. Sindermann quay lại ngạc nhiên, miệng Keeler há ra định nói gì đó.
"Giết hắn đi!" Andromeda hét lên.
Mauer ra tay nhanh hơn. Bà ấy đánh Andromeda vào bụng ngay dưới xương sườn bằng tay không. Nữ phù thủy gien văng ngược lại, đập vào tường và ngã xuống. Mauer cầm súng trong tay; bà ấy đã rút nó ra khi vung tay đánh Andromeda. Bà ta đang cầm nó sẵn sàng, hai mắt quét qua những khuôn mặt đang nhìn chằm chằm vào mình.
Bà nhìn về phía Andromeda-17 lúc này đang thở hổn hển, cố gắng nhưng không thể đứng dậy nổi.
"Đừng làm thế nữa", bà bình tĩnh nói. "Không bao giờ lặp lại nữa".
Người đàn ông nhỏ bé trên giường vẫn mỉm cười.
"Hắn..." Andromeda rít lên, cố gắng thở . "Hắn phải chết."
"Có chút cực đoan khi mà hai ta thậm chí còn chưa được giới thiệu đàng hoàng," người đàn ông lên tiếng. "Cô là một trong những Selenar phải không? Trời ơi, tôi cứ tưởng là toàn bộ giống loài của cô đã tuyệt chủng cả rồi chứ."
"Câm mồm đi," Mauer nói. Người đàn ông giơ tay lên như thể đang hối lỗi. "Không ai được cử động. Không ai được nhảy chồm về phía ai. Hiểu rồi chứ."
Mọi người gật đầu. Sindermann nhìn người đàn ông trên giường, vẻ mặt không thể hiểu nổi.
"Đây là ai thế?" Sindermann nhẹ nhàng hỏi.
"Tên ông ta là Basilio Fo," Euphrati Keeler nói.
Miệng Sindermann hé mở rồi khép lại.
"Ông biết ông ta là ai không?" Mauer hỏi.
Fo nghiêng đầu. Mauer chắc chắn rằng người đàn ông đó vẫn chưa chớp mắt.
"Hắn là một con quái vật," Andromeda nói, vẫn còn thở hổn hển.
"Với những người như cô thì đó có thể được coi là một lời khen đó", Fo nói .
"Tôi đã bảo câm miệng," Mauer quát. Bà quay sang nhìn Sindermann.
"Lão ta là một tên tội phạm đã trốn thoát khỏi cuộc Chiến tranh thống nhất." Sindermann trả lời.
Fo lên tiếng. "Tôi còn hơn thế nữa đấy. Ông là Sindermann, phải không? Người Phát Ngôn phải không? Chúng ta chưa từng gặp nhau nhưng tôi đã ngưỡng mộ công trình của ông từ lâu, sự cắt xén văn hóa được thực hiện với độ chính xác như vậy... xin hãy nhận lời khen ngợi của tôi."
Mauer chĩa súng vào ông ta. Fo lại giơ tay lên như thể muốn xin lỗi.
"Những câu chuyện về cuộc thanh trừng các vùng đất của ông trong thời kỳ Thống nhất... ừm, có những cụm từ được sử dụng đủ để nói lên điều đó, xác thịt trống rỗng, tái tạo sinh học, tra tấn gen-phage, những thứ muốn được gào thét lên nhưng không thể. Những kẻ chống lại Hoàng đế đều đã chết, Hồng y Tang, Narthan Dume, Crimson Walkers (4) đều đã chết cả rồi, nhưng ông thì không. Bằng cách nào đó ông ta đã trốn thoát được. Ông ta đã bị săn đuổi trong hầu hết thời kỳ Viễn Chinh, với một mệnh lệnh khẩn cấp và toàn diện: Tiêu diệt hoàn toàn và triệt để mọi tác phẩm của ông ta cũng như những kẻ có liên hệ với ông ta. Yêu cầu phải có xác nhận rõ ràng và đã được thẩm định về việc kết liễu hoặc bắt giữ."
Sindermann nhìn lại Fo . "Ông ta là vị Chúa tể cuối cùng của Đêm Cũ."
Mauer quay sang nhìn Andromeda.
"Nếu cô muốn đứng dậy mà không bị tôi cho đo sàn thêm một lần nữa thì cô phải giải thích chuyện vừa rồi."
Andromeda nhìn chằm chằm vào Fo, mắt sáng lên, nhưng không trả lời.
"Có lẽ sẽ tử tế hơn nếu bà để tôi giải thích," Fo nói . "Cô ấy có lý do cho những gì cô ấy vừa làm." Fo nhìn Mauer, khuôn mặt bình thản, một bên lông mày nhướng lên. Ông ta trông nguy hiểm như một luồng không khí. "Tôi có nên nói cho bà biết lý do không?"
Mauer do dự, rồi gật đầu. Fo nghiêng người cảm ơn.
"Hai phía chúng tôi đã lịch sử bên nhau, tôi và các giáo phái gien của Selenar. Lịch sử xưa cũ rồi." Ông ta nhìn Andromeda và gật đầu. "Tôi nhớ những người họ hàng được nhân bản vô tính của cô khi số lần đầu thai của cô mới chỉ bắt đầu tăng lên qua một chữ số. Rất nhiều thất bại trong công trình của họ vào thời điểm đó. Họ có ý tưởng tìm kiếm chân lý tâm linh thông qua các lần lặp lại của sự đầu thai di truyền. Ý tưởng rất tuyệt vời, chỉ tiếc là nó chỉ là một câu chuyện khác. Tuy nhiên, họ đã tìm thấy một số vẻ đẹp, những bí mật được chôn vùi trong các tế bào. Những điều nhỏ nhặt, những điều tuyệt vời. Các cô gọi tôi là chúa tể, nhưng không giống như Hoàng đế của cô, tôi có sự khiêm nhường. Tôi biết khi nào ai đó đã đạt được những thành tựu vượt xa những thành tựu của chính tôi. Selenar đã làm rất tốt...nhưng tôi phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo những gì tôi muốn từ họ, và những biện pháp đó rất nghiêm ngặt."
"Ngươi là một tên trộm và kẻ ô uế," Andromeda gầm gừ.
Đôi môi của Fo giật giật.
"Tôi chắc chắn thái độ này không phải là do tính cách của cô ấy," ông ta nói. "Đừng phán xét cô ấy quá khắc nghiệt, ấy là do sự căm thù, nó đã được mã hóa vào người cô ấy. Cô gái này chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy tôi trước đây, nhưng các Matriarch đã khóa tôi vào cơ chế tiến hóa nhận diện mối đe dọa nằm ở vùng não sau của họ. Nhận dạng pheromone cụ thể liên quan đến các cấp độ chủ đạo của bản năng "giết để phòng thủ", tất cả đều được tích hợp vào cô ấy từ da thịt đến tận xương tủy. Cô ấy phải dùng rất nhiều ý chí để không cố gắng tiếp cận tôi. Tiếp cận tên "Quỷ Gien", đó có phải là cách các cô vẫn gọi tôi đó không?"
"Nghe như đây là lý do hoàn hảo để giết ông ngay bây giờ vậy", Mauer đáp lại và giơ súng lên.
"Không," Keeler nói, nhảy lên và giơ tay lên. "Đợi đã."
Mauer không bắn. Nhưng bà ta cũng không hạ súng xuống.
"Cô là Keeler phải không," Mauer nói.
Keeler gật đầu.
"Chúng tôi đến đây tìm cô ," Mauer nói. "Và ông ta không phải là một phần của cuộc trò chuyện này."
Mauer di chuyển mắt sang bên phải.
"Bà không thể giết ông ta được," Keeler nói, và có điều gì đó... điều gì đó trong giọng nói bình tĩnh của cô khiến Mauer không bóp cò súng.
Fo cười toe toét với Mauer khi đối diện với họng súng.
"Tôi đang giúp đỡ cô gái này, bà thấy đấy," Fo nói. "Có lẽ tôi cũng có thể giúp đỡ bà. Đó là lý do tại sao các người tới đây, phải không? Để tìm sự giúp đỡ?"
"Không hề," Andromeda nói.
Sindermann nhìn kỹ từ Keeler cho đến Fo.
"Một con quái vật như thế này có thể giúp ích gì cho mục đích của chúng ta, Euphrati?" Sindermann hỏi.
"Không phải vì mục đích của ông đâu, Kyril Sindermann," một giọng nói khác vang lên từ phía cửa.
Mauer quay ngoắt lại, nghe thấy tiếng cửa đóng lại với tiếng kim loại va chạm và tiếng bánh răng kêu vù vù. Đây là một cái bẫy; bà không biết tại sao, nhưng bà đã bước thẳng vào một cái bẫy với đôi mắt nhắm nghiền. Bà nhìn thấy thứ gì đó giống như một luồng hơi nóng lấp lánh, một tia sáng vàng, và rồi khẩu súng lục của bà rơi khỏi tay trước khi ngón tay bóp cò của bà có thể bóp, giờ bà chỉ có thể nhá cò vào không khí.
Một người khổng lồ màu hoàng kim đứng cạnh cửa, ông ta cởi áo choàng ngụy trang ra.
"Mọi người hãy bình tĩnh lại," chiến binh Custodian đó lên tiếng . "Đây là khoảnh khắc quan trọng và tốt nhất là nên tiếp cận một cách tế nhị."
Từ trên cái giường của mình, Basilio Fo bật cười nhẹ nhàng.
Basilio Fo đang được thẩm vấn tại pháo đài Blackstone.
Chú thích
(1) Mamzel Keeler: Quý cô Keeler. Mamzel là một thành ngữ ở vùng Caribe, cụ thể là Dominica.
(2) Hatay-Antakya là một tỉnh ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, giáp biển Địa Trung Hải.
(3)Xanadu - Thượng Đô, là thủ đô dưới chế độ cai trị của hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt thời nhà Nguyên, Trung Quốc. Theo mô tả của Marco Polo, nơi đây có một cung điện rất tráng lệ được xây dựng bởi Hốt Tất Liệt.
(4) Crimson Walkers: là một nhóm các psyker, người biến đổi gen và lãnh chúa trong Thời đại xung đột, thường đóng vai trò cố vấn và bộ trưởng để tạo ra máy móc và quái vật biến đổi gen cho chủ nhân của họ. Trong Chiến tranh Thống nhất, Hoàng đế đã trừ khử hầu hết các thành viên của nó, và tàn dư của nó tập trung tại thành phố hẻm núi Vhnori để phát động một cuộc nổi dậy. Hoàng đế đã cử Quân đoàn 8 Night Lords đến trấn áp nó bằng những biện pháp tàn bạo, nhưng một số thành viên vẫn trốn thoát. Một trong số họ, Incarnus, đã cam kết trung thành với Quân đoàn Alpha và chết trong Trận chiến Sao Diêm Vương.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip