dk khach quan,noi dung thoi ky qua do XHCN,o VN
1.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ
quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước
có nền kinh tế rất phát triển
++Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so với các nước đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ
khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và
kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được quy định bởi đặc
điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội của chủ nghĩa xã
hội.
++Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp
trong xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu dài, có
lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Phân tích thực trạng
nền kinh tế của nước Nga Xôviết lúc đó, V.I. Lênin rút ra có năm thành phần
kinh tế là: thành phần kinh tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh tế sản xuất
hàng hoá nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Tương ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong xã hội
cũng tồn tại nhiều giai cấp, trong đó có ba giai cấp cơ bản là giai cấp tiểu tư sản,
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, người lao động tập thể. Theo Lênin, mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị
đánh bại nhưng vẫn còn khả năng khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp.
2.Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hoà bình thống nhất quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc
gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay
thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi
vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội:
công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi
của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã
hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các
hình thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa
học, công nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất
định quan hệ sản xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi
những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày
càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng
chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới - chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy
luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với
xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách
mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân
chủ... đồng thời nó là tiền đề để "làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc"1, nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực
hiện triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên
chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia; do điều
kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định. Trước đây, miền Bắc nước ta
bước vào thời kỳ quá độ với "đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa". Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm
trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước,
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn
nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch
thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta"2.
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa? Giải quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm "bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa" theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa
tư bản, bỏ qua cả những cái "không thể bỏ qua" như đã từng xảy ra ở các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
"bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"3.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường "rút
ngắn" quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng "rút ngắn" không phải là đốt cháy
giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xoá bỏ nhanh sở hữu tư nhân
và các thành phần kinh tế "phi chủ nghĩa xã hội" hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,
v.v.. Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra
con đường, hình thức, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường "rút ngắn" là
phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư
bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và
kiến trúc thượng tầng, như Lênin đã nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trước
đây là sự kết hợp nhiệt tình cách mạng cao của nước Nga với kỹ thuật hiện đại
trong các tơrớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp
lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng
loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò, tác dụng của các
hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa
tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian... vừa
có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ
các quan hệ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thức vận dụng các quy
luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước
ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó
khăn, phức tạp, tất yếu "phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ"1.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
rút ngắn để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng, tiền đề để
thực hiện con đường đó thế nào? Phân tích tình hình đất nước và thời đại cho
thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ
bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của
nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm
quản lý yếu kém..., nhờ đó ta có thể thực hiện "con đường rút ngắn".
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của
loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được
sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc
lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và
thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có
hàng chục ngàn người... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành
tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa
dạng, vị trí địa lý thuận lợi và những cơ sở vật chất - kỹ thuật đã được xây dựng
là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất
trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu
tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước
phát triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển
lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam
đã chiến đấu, hy sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực
lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó
với nhân dân, có Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng
được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ
quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip