[DLCM]-No1-So sánh ?

Câu 1: So sánh Luận cương chính trị ca Đảng( 10/1930) và Cương lĩnh chính tr( 2/1930).

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách lược cơ bảncủa cách mạng Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt độngcủa Đảng cộng sản Việt Nam, cương lĩnh chính trị đã được vạch ra. Tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung Quốc, các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng-Trung Quốc Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị do đồng chí TrầnPhú soạn thảo.

Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của Đảng ta. Vậy giữa hai văn kiện này có những điểm gì giống và khác nhau ?. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu vấn đề này.

Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện.

Luận cương chính trị (10/1930) và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) có những điểm giống nhau sau:

- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

- Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.

- Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.

- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công - nông.

- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.

Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau:

Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).

- Về xác định mẫu thuẫn: Đối với cương lĩnh thì CL đã xác định mâu thuẫn cơ bản chủ yếu nhất của xã hội VN lúc bấy giờ chính là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với ĐQ. Bởi vậy cương lĩnh đã đưa ra nhiệm vụ cụ thể một cách đúng đắn cho cuộc CMTSDQ hay sau gọi là CMDTDCND bao gồm cả hai nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Giai đoạn 1 là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để nhằm đánh đổ ĐQ và PK để giành lại ruộng đất cho nhân dân, giành lại độc lập tự do cho tổ quốc. Giai đoạn 2 là đi tới XHCS mà giai đoạn thấp nhất của nó là XHCN, để đi tới XHCN phải trải qua CNXH. Vì vậy con đường đi của CMVN là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, do đó, nổi bật lên trong hai nội dung là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Ngay từ đầu Đảng ta đã vạch ra đường lối chiến lược hết sức đúng đắn. Như vậy là do Đảng đã xuất phát từ thực tế XHVN: VN rơi vào tay Pháp, là thuộc địa của Pháp, nhân dân VN là người dân mất nước, không có quyền làm chủ, bị bóc lột và nô dịch nặng nề, không những vậy PK lại cấu kết với ĐQ, chúng dung mọi thủ đoạn vơ vét hết tài sản của nhân dân ta khiến cho dân ta vô cùng lầm than, bởi vậy phải đánh đổ ĐQ để giành lại độc lập.

                Nếu như Cương lĩnh xác định mâu thuẫn cơ bản chủ yếu một cách cụ thể thì luận cương lại xác định mâu thuẫn một cách chung chung cho rằng “mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư sản và đế quốc chủ nghĩa”. Từ việc xác định mâu thuẫn một cách chung chung như vậy nên luận cương đã đặt nhiệm vụ chống lại phong kiến lên hàng đầu, chú trọng cách mạng ruộng đất.

                - Về việc đánh giá lực lượng cách mạng ngoài Công – Nông thì Cương lĩnh khẳng định ngoài 2 lực lượng cách mạng Công – Nông ra thì còn nhiều các giai tầng khác cũng có vai trò cách mạng quan trọng như tiểu tư sản, tri thức, trung nông, thanh niên, phú nông, trung, tiểu địa chủ. Cương lĩnh chỉ rõ “Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, thanh niên để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp, đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ chưa rõ mặt phản CM thì tranh thủ hoặc trung lập họ”. Đây là sự vận dụng sang tạo về cách tâph hợp lực lượng của Đảng ta của lãnh tụ NAQ, cách tập hợp lực lượng này hơn hẳn cách tập hợp lực lượng CM của các bậc tiền bối đi trước như Hoàng Hoa Thám với phong trào nông dân Yên Thế (1894-1913)  chỉ tập hợp giai cấp nông dân ở một số địa phương nhất định, Phan Bội Châu với phong trào Đông Du (1906 – 1908) tập hợp lực lượng chủ yếu là thanh niên. Cách tập hợp lực lượng của NAQ thể hiện chiến lược liên minh dân tộc, lien minh giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống ĐQ xâm lược và tay sai. Còn đối với Luận cương thì Luận cương vẫn còn những thiếu sót đó là luận cương phủ nhận vai trò CM của giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp tiểu tư sản, trung, tiểu địa chủ,… không thấy được sự phân hoá giai cấp mà lại coi tất cả đều là đối tượng của CM, Luận cương xác định “Tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống CM; TS công nghiệp thì theo quốc gia cải lương, khi CM lên cao thì theo ĐQ; còn tiểu TS công nghiệp thì do dự, tiểu tư sản thương gia thì không tán thành CM, tiểu tư sản trí thức chỉ có thể hăng hái tham gia chống ĐQ trong thời kì đầu, chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như người bán rong, thợ thủ công nhở, trí thức thất nghiệp mới đi theo CM”. Do đó mà Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc, lien minh giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống ĐQ và tay sai.

                - Luận cương và Cương lĩnh còn chưa thống nhất trong việc xác định về mối liên hệ giữa 3 nước Đông Dương. Đối với Cương lĩnh thì Cương lĩnh đã đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của nước VN và cụ thể hoá khái niệm dân tộc trong từng nước Đông Dương, do đó Cương lĩnh đã đặt tên Đảng là ĐCSVN còn Luận cương thì lại đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của cả 3 nước Đông Dương, do đó đã đổi tên ĐCSVN sang ĐCS Đông Dương, bởi vì nếu đặt là ĐCSVN thì sẽ không bao gồm được 2 nước Lào và Cao Miên.

                Sở dĩ tồn tại những mặt chưa thống nhất giữa luận cương và cương lĩnh là do một số nguyên nhân cụ thể đó là do luận cương đã chưa chỉ ra và nắm vững về đặc điểm của dân tộc, đặc điểm giai cấp và đặc điểm của XH là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

                - Về khách quan thì lúc này Đảng ta chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” của QTCS mà khuynh hướng “tả” được thể hiện cụ thể là: Quá chú trọng đấu tranh giai cấp, nặng nề cách mạng ruộng đất, CM khu vực. Bởi vậy cho nên Luận cương đã khẳng định rằng CM Đông Dương là CM thổ địa và phản đế, Công – Nông là động lực chính của CM và không lien minh với các giai cấp khác. Về chủ quan thì do nhận thức máy móc giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong CM thuộc địa, vận dụng một cách giáo điều CN Mác – LêNin mà không chú ý đến tình hình thực tế của đất nước.

Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định:

- Sử dụng một cách dập khuân máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hướng cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .

Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: