Đóan án kỳ quan
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Lời Giới Thiệu
Dựa trên nhiều tài liệu xuất bản tại Trung Quốc, có tham khảo các trước tác của những tác giả văn học nổi tiếng dưới thời Minh, Thanh (Trung Quốc).
Đoán án kỳ quan là tên gọi chung một tập hợp những truyện phá án và xử án nổi tiếng nằm rải rác trong các sách cổ của Trung Quốc. nhất là ở hai triều đại Minh và Thanh. Về thể loại văn học, những truyện này được gọi là "tiểu thuyết công án".
Tiểu thuyết công án ở Trung Quốc có nguồn gốc rất xa xưa, bắt đầu từ những ghi chép ngắn trong sử, truyện về sử có từ thời Tiên Tần, Lưỡng Hán (206 - 220). Tới tiểu thuyết bút ký trước đời Đường và đời Đường (618 - 907), tác phẩm về đề tài công án đã chiếm một tỉ lệ khả quan, để rồi chín muồi hơn ở truyền kỳ đời Đường.
Sang đến đời Minh và đời Thanh. tiểu thuyết công án tăng trưởng rất mạnh về mặt số lượng. về chất lượng cũng được nâng cao rõ rệt. Tiểu thuyết công án không chỉ có trong các tập truyện ngắn nổi tiếng xưa nay như các tập Du thế minh ngôn, Cảnh thế thông ngôn, Tỉnh thế hằng ngôn (được gọi tắt là Tam ngôn), Phách án kinh kỳ, Nhị khắc phách án kinh kỳ(gọi tắt là Nhị phách). Tham hoán báo, Thập nhị lâu. v.v... mà còn có hẳn những tập truyện chuyên viết về đề tài công án như Bao Công án, Địch Công án. Long Đồ công án, v.v... Cho đến giữa đời Thanh, tiểu thuyết công án có thêm sắc thái mới, đó là hợp dòng với tiểu thuyết võ hiệp như các truyện dài ở Bành Công án, Tam hiệp ngũ nghĩa. v.v...
Sự phát triển của tiểu thuyết công án cho thấy thể loại này ngày một có địa vị đáng kể trong văn học Trung Quốc. Từ nhiều mặt của cuộc sống, tiểu thuyết công án đã phản ánh cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt giữa cái ác và cái thiện, giữa tội ác và pháp luật, cho thấy tội ác dù tinh vi, xảo trá đến mức nào thì cuối cùng bị pháp luật trừng trị. Ở đó, đạo đức truyền thống của phương Đông như chính nghĩa, công bằng, nhân hậu, thật thà... luôn được đề cao, song vì là truyện cổ nên không tránh khỏi ảnh hưởng của tư tưởng nhân quả báo ứng, một tư tưởng mà trong thời kỳ chính quyền bất lực trước tội ác, thường được người dân bị cái ác ức hiếp lấy làm chỗ bám víu, an ủi.
Khi đứng chung trong các tập truyện ngắn, tiểu thuyết công án thường bị chìm trong đề tài có tính chất bao trùm là phản ánh nhân tình thế thái, chỉ đến khi tách riêng chúng ra và tập hợp lại thành một bộ sách khác thì mới thấy loại truyện này viết ngày một lên tay, có cấu trúc hoàn chỉnh, nhiều tình tiết hấp dẫn được đan xen để dẫn tới nhiều khám phá bất ngờ thú vị. Trong truyện, trí xét đoán của con người dần dần được khẳng định và đề cao, dần dần đã thoát ra khỏi yếu tố nhờ quỷ thần, sức mạnh siêu nhiên giúp đỡ.
Tiểu thuyết công án Trung Quốc từ lâu đã được bạn đọc nước ta đón nhận. Ngay từ đầu thế kỷ XX, mười bộ truyện với tên gọi khác nhau về đề tài xử án của Bao Công đã được dịch sang tiếng Việt; đến nay, nếu còn những truyện khác về Bao Công chưa dịch mà được dịch tiếp thì có thể nói chắc vẫn được bạn đọc nhiều lứa tuổi ở nước ta hoan nghênh.
Dịch những truyện công án trong bộ sách này, chúng tôi muốn bạn đọc nước ta được thấy ngoài Bao Công án ra, tiểu thuyết công án Trung Quốc còn có nhiều truyện khác (chưa phải đã bao gồm hết) cũng ưu tú và hấp dẫn không kém. Chúng tôi bám sát lối văn tự sự của tác giả đương thời để bạn đọc nước ta còn có thể thấy lối miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết và sự kiện trong truyện cũng từ lâu đã ảnh hưởng đến lối viết của một số nhà văn đầu thế kỷ XX ở nước ta.
Tập truyện do hai người dịch nên văn phong, chữ dùng khác nhau là điều khó tránh, song chúng tôi không định thống nhất vì mỗi truyện là một câu chuyện riêng rẽ, bạn đọc có thể tùy ý thưởng thức. Tuy đã cố gắng hết mức, nhưng nếu còn sai sót, xin bạn đọc chỉ giáo.
Các tác giả.
Chỉ bởi hoa cười miệng mới cười.
Hoàng oanh thánh thót hót đôi hồi
Trên quầy sẵn rượu say vài chén
Thiên hạ núi sông thay dạo chơi.
Hãy mơ mắt ra nhìn thế cuộc.
Giãi tấm lòng ta đón sự đời.
Lắng nghe câu chuyên còn tươi rói.
Khuây khoa lòng buồn cũng phải nguôi.
Tôi làm bừa mấy câu thơ, không phải khuyên người ta sống phóng đãng, nghe chuyện cười để sống qua ngày, mà khuyên người ta mở rộng tấm lòng, đừng gian ác, xảo trá. Không nên lúc nào cũng tất bật, vội vã, ngay bữa ăn cũng nhấp nha nhấp nhổm, đêm nằm nghĩ ngợi không yên giấc. Sao lại căng thẳng đến như thế? Vì họ không tin "tất cả là do mệnh, chỉ một chút do người”. Cho nên, cả đời lầm lỡ, đến khi sắp từ giã cõi đời mới biết là sai. Tôi với bạn đều là những người mắt sáng tai lành, ấy cũng là do đời trước tu nhân tích đúc. Nếu biết sống yên phận, giữ mình nghe theo lời người tốt, thì nhất định không đến nỗi đói rét. Còn một số người mù lòa tàn tật, đáng thương, phần lớn là do may rủi.
Chuyện kể rằng, thời Gia Tĩnh, thành Nam Kinh, có một người mù, ban ngày xem bói, ban đêm lại đi đánh bạc. Đã ở tuổi trung niên nhưng Dương Liễu Tiên vẫn là người chưa vợ. Anh ta thường ân hận rằng, kiếp trước do mình không tu nhân tích đức nên kiếp này phải chịu nỗi mù lòa. Anh không dám mơ tưởng tới cuộc sống giàu có, mà chỉ cam lòng sống dựa vào người cậu. Một hôm vào buổi tối, mấy người bạn kéo anh đến nhà đãi rượu, chơi tới mãi tận nửa đêm mới về. Đi được nửa chừng, ba người bạn rẽ sang lối khác, còn Liễu Tiên lọc cọc chống gậy lần đường về nhà. Anh nghĩ, hôm nay ăn quá no, đêm mình phải đánh một giấc cho đã mắt. Đang men theo đường về nhà bỗng nhiên vấp phải vật gì làm anh suýt ngã. Liễu Tiên cúi xuống sờ, thì đó là một chiếc bao. Anh ngồi lên bao đợi một lúc lâu, song vẫn không thấy tiếng người đi tới. Liễu Tiên mang chiếc bao ấy về nhà. Thằng nhỏ ra mở cửa, trời tối quáng mắt, nó chẳng nhìn thấy Liễu Tiên cầm gì. Đặt chiếc bao lên giường, Liễu Tiên cũng cởi áo đi ngủ luôn. Đến canh năm Liễu Tiên trở dậy lấy chiếc áo xanh bọc lấy bao, dùng dây buộc lại, rồi vội vàng mang ra khỏi nhà. Liễu Tiên rờ rẫm đi đến chỗ cũ, đặt bao xuống. Lúc ấy trời vẫn chưa sáng. Liễu Tiên ngồi lên chiếc bao không rời nửa bước.
Lát sau trời sáng dần, người qua lại mỗi lúc một đông. Liễu Tiên nghe thấy có tiếng kêu than: "Hôm qua, lúc chập choạng tối, tôi cùng đứa con trai mười tuổi tới đây thì trời tối mịt tôi muốn đi tiểu tiện nên bảo nó ngồi lên bao, khi nào cha đi xong thì mang bao cho cha. Ai ngờ khi đi xong tôi bảo nó: 'Bụng đói rồi, hãy mau mau tới cửa hàng ăn cơm'. Tôi đi trước, nó đứng lên theo sau. Trời tối mịt, vì sợ lạc, nên nó vội bám theo tôi. Thấy nói đến cơm, bụng lại đói nên nó quên khuấy mất bao. Tôi cũng lú lẫn chẳng nhắc nó một câu. Mãi đến khi tới cửa hàng ăn, mới biết nó để quên, thế là mất. Tôi đánh nó. Chủ nhà khuyên tôi: ‘Đường sá Nam Kinh người đi kẻ lại nườm nượp suốt ngày đêm, chẳng may mất rồi, đánh nó cũng chẳng tìm lại được. Hãy đợi đến sáng mai ra đường kêu, may ra có người nào nhặt được thì chia cho họ một nửa, hoặc nhờ trời gặp được người tốt thì chưa biết chừng họ sẽ trả lại hết cũng nên'. Trong bao của tôi có mười bảy lạng bạc, ba tấm vừa lụa vừa vải và một gói đồ trang sức. Vì con gái sắp đi lấy chồng, tôi phải vào thành mua sắm cho nó. Đây là số tiền mới bán ruộng, nay mất sạch, lại cận ngày cưới, tôi biết làm sao bây giờ”. Rồi ông kêu khóc thảm thiết. Người đi đường, kẻ nói thế này, người nói thế khác cứ ầm ĩ cả lên. Dương Liễu Tiên ngồi trên chiếc bao nghe thấy hết, rồi khẽ nói với một người bên cạnh rằng: - Anh bảo ông ta, hãy đến đây tôi đoán giúp. Tôi không lấy tiền đâu.
Người ấy vội chạy tới nói với Liễu Tiên rằng mình gặp nạn. Dương Liễu Tiên bảo mọi người lui ra, ghé vào tai người ấy nói mấy câu, rồi cầm chiếc bao đứng dậy. Người nhà quê kia theo ông về nhà. Liễu Tiên nói:
- Ông ạ, bao của ông ở trong này, vừa rồi tôi không tiện trả ông, sợ người ở đây nhìn thấy, nếu kẻ xấu hiếu sự, mở ra xem tất sẽ lấy cắp. Tuy tôi không cần trả ơn, nhưng những người ấy sẽ hạch sách, đòi trả công, rất phiền toái. Tôi có nhã ý bảo ông đến nhà trả lại, ông hãy để chiếc áo xanh lại cho tôi rồi mang bao về.
Người nhà quê ấy vội giở chiếc bao ra, thấy tất cả vẫn còn nguyên vẹn, cầm bao cười hể hả, nói:
- Quả là trời có mắt, nên tôi gặp được người tốt bụng, sau này biết lấy gì đền đáp.
Ông rối rít cảm ơn, rồi ra về.
Vẫn như mọi ngày, Liễu Tiên rửa mặt, khăn áo chỉnh tề, ra cửa hàng, ngồi trang nghiêm chờ khách tới xem bói. Liễu Tiên cần mẫn hành nghề, cuộc sống cũng tạm đủ. Một hôm có người ăn mày đến cửa hàng kêu với ông rằng:
- Ông ơi! Hãy nhón tay làm phúc, cho tôi đồng tiền bát gạo.
Liễu Tiên đưa cho người ăn mày ba đồng.
- Ông ơi! - Người ăn mày nói. - ông có biết, nếu thiên hạ có không thanh(1) thì chẳng còn ai mù nữa không?
- Làm gì mà có nhiều không thanh đến thế. - Liễu Tiên nói.
(1) Không thanh: tên khoáng vật, sản xuất tại hang núi ích Châu, nơi có mỏ đồng, giống quả dương mai mầu xanh, bên trong rỗng, chứa một loại dung dịch chữa mắt rất hiệu nghiệm.
- Đúng, đúng lắm! - Người ăn mày cười ha hả nói. - Ta nghe nói ông là người đức hạnh, hôm nay ta có ý định đến cứu ông hãy lại đây ta bảo.
Người ăn mày ghé sát vào tai Liễu Tiên nói mấy câu, rồi đưa cho ông một hạt không thanh và một bộ sách thuốc, nói:
- Tôi là Y Đầu Xù.
Rồi nhẹ nhàng cất bước ra đi.
Ngày hôm sau Liễu Tiên khăn áo chỉnh tề, hướng lên trời cao cầu khẩn, tra nước không thanh vào mắt. Như lột một lớp da, mắt tự nhiên bừng sáng. Liễu Tiên mù từ lúc lên ba, nay lại nhìn thấy, nói sao xiết, như một vị tiên, mang cuốn sách thuốc đi cứu giúp người đời...
Các bạn thân mến, trong thiên hạ, dù là người sáng hay mù, nếu làm ăn lương thiện thì pháp luật không bao giờ động đến. Song, có một tiên sinh mù thông minh, linh hoạt, có chí khí lại để tiếng xấu muôn đời, làm bia miệng thế gian, ai nghe thấy cũng phải rùng mình run sợ. Hắn ta người huyện Hải Ninh, phủ Hằng Châu, năm lên sáu tuổi bị đậu mùa, hai mắt mọc hai chiếc mụn, khi mụn khỏi thì hai mắt không còn nhìn thấy. Lúc nhỏ thường gọi là A Mỗ, sau học được nghề xem bói, rồi dọn đến thành Gia Hưng mở cửa hàng, đặt tên hiệu là Lý Tâm Sở. Tuy mù nhưng Lý Tâm Sở lại biết đánh bài mạt chược, cờ tướng. Khi chơi cờ, thường thì ai cũng phải chịu thua, nếu ai dám coi thường hắn, thì người đó quả là liều lĩnh. Lý Tâm Sở không những bắt người đó phải xin lỗi và bồi thường danh dự, mà còn đến tận nhà xé rách quần áo, cắn nát ngón tay. Về sau không ai dám chơi với hắn. Đến năm ba mươi tuổi, Lý Tâm Sở tích góp được hai ba chục lạng bạc, lấy một người góa chồng và nuôi thằng ở tên là A Long. Lý Tâm Sở là người xảo trá bạc ác, có vợ hắn như hổ mọc thêm cánh. Nhũng người láng giềng qua lại, hắn không cho phép bất cứ ai nói tới chữ "mù”, nếu ai đó lỡ mồm thì hắn chửi cho tàn tệ, đến những kẻ hàng tôm, cá cũng đành chịu thua. Vô phúc có ai cất gánh lên còn làu bàu chửi "lão mù độc ác" thì hắn đuổi theo đánh không tiếc tay. Những người qua đường thấy thế xúm lại khuyên can, nhưng khi thấy hắn xử sự như thế thì họ đều khinh bỉ bỏ đi. Cứ thế trong nhiều năm, sự độc ác của hắn không sao kể xiết. Đúng là, người không mù mà độc ác cũng có, song chưa thấy người nào mù mà độc ác như hắn.
Gã mù này đã gây ra cái chết oan khuất cho một người ở huyện Bình Hồ, tên là Ngụy Ngọc Phủ. Anh ta có vợ luôn ốm đau là Giang Thị và một đứa con trai lên bốn tuổi tên là Quan Thọ. Tuy là người buôn vải, song Ngọc Phủ cũng là kẻ chẳng ra gì. Một hôm mới canh năm anh ta đã trở dậy, đến phủ Gia Hưng kiện một người họ Trương là chủ hàng của anh ta để kiếm một món tiền. Hôm ấy cơm nước xong, trời vẫn còn tối, vừa bước ra cửa đã vấp ngã, nhưng anh ta không thấy đau, lồm cồm ngồi dậy, ra bến thuê thuyền đến huyện lị, trong lòng thắc thỏm lo sợ, không biết có lừa được người chủ này không. Tới huyện lị, anh ta mải miết đi. Từ xa có một tấm biển: "Lý Tâm Sở xem bói, biết được tiền vận, hậu vận", bên cạnh có đề hai dòng chữ nhỏ: "Lòng thành xem họa phúc, phải thực sự báo đền". Vừa tới cửa, anh ta sửa lại quần áo nhìn vào thấy:
Khói hương nghi ngút, nước thải tàn nhang.
Thần tượng oai nghiêm, dát vàng rục rỡ.
Mấy chiếc chõng tre, bút nghiên bày sẵn.
Giấy thơ mấy bút, đoán thật đúng thay.
Trên bài vị thờ Chu Văn, Khổng Tử.
Dưới bàn nước, ghi năm tháng ngày giờ.
Tiên sinh mù, ngồi trang nghiêm cung kính.
Tiếp đãi khách hàng, dáng bệ vệ oai nghiêm.
Cửa hàng Lý Tâm Sở, từ sáng sớm đã được quét dọn lau chùi sạch sẽ, chậu rửa tay đầy ắp nước trong. Trời thu mát mẻ, Tâm Sở mặc áo dài thâm mới cứng, đầu đội khăn vấn hình mỏ quạ. Hai mắt như hai con ốc nhồi lộn lên đảo xuống, vểnh tai nghe ngóng. Khách vào, hắn nịnh nọt một hồi, rồi mời khách xem bói. Nếu có người hỏi về bệnh tật, thì hắn bảo cúng bái các vì sao, lễ thổ thần, chiêng trống chập cheng, dặn dò thí chủ ầm ĩ một hồi. Ngẫm nghĩ trên trời dưới đất, tránh sao khỏi việc chẳng lành. Cổ nhân từng nói:
Dục vọng ở đời,
Khiến lòng rối loạn.
Người không có mắt,
Sáng sáng chiều chiều,
Tối đen như mực. Mắt chẳng thấy gì.
Lòng nghĩ lung tung.
Ta chẳng lạ lùng.
Chỉ cần nghĩ một chút, ta thấy ngay Lý Tâm Sở là người không ngay thẳng, hắn nghĩ sao được điều đúng đắn. Xem bói xong lại đánh bạc, thì chẳng vị thần nào dám vào cửa nhà hắn.
Ngụy Ngọc Phủ bước vào, đứng như chôn chân trước cửa, đã vào thì không ra được, hắn nghĩ: "Nếu xem bói thì nên hỏi việc gì cho đúng với ý định của mình". Rồi anh ta mạnh dạn bước vào nói:
- Xin nhờ tiên sinh xem cho một quẻ.
Ngọc Phủ rút ra một lá sớ, rì rầm khấn: "Họ Ngụy lòng thành dâng nhang đăng, kêu cầu một việc đó là: Vốn ta rất căm tức gã chủ họ X. nên hôm nay lên huyện kiện lão. Lão là người trung hậu nhưng vô dụng. Sau này, quan đòi gã tới xử, ta sẽ được rất nhiều tiền của. Xin thần cho một quẻ". Ngụy Ngọc Phủ khấn xong rồi vái lạy, chuyển lá sớ cho Tâm Sở. Tâm Sở cầm lấy hỏi họ tên, khấn một hồi, lắc lắc ống thẻ rồi gieo quẻ ba lần, được quẻ Nội. Sau đó lại lắc, gieo một lần nữa mới xong đó chính là quẻ Trạch thủy khốn, rồi nói:
- Xin ông anh ngồi xuống để nghe tôi nói. Đây là quẻ Trạch thủy khốn. Có làm việc gì tốt không?
- Đòi chủ được nhiều tiền của, - Ngọc Phủ nói, - không biết có được không? Tiên sinh cứ nói thẳng.
- Quẻ này rất tốt. - Lý Tâm Sở nói. - Tên là quẻ Khốn, ngươi cầu tài không phải vất vả, ở nhà cũng có người đưa của đến. Vả lại hào thứ sáu động lung tung, ấy là điềm báo tiền của chảy vào nhà như nước. Hôm nay là ngày Trấn Huyền Vũ trông coi, giờ Thất Sát, Hoàng Phan canh giữ, lại có báo đuôi kéo thương, có rắn biết bay bày binh bố trận. Những loài đó sẽ đuổi hết tiền tài đến với ngài. Nhìn kĩ lại thấy sao Bắc Đẩu lấp đường, ngũ quỷ phá cầu, cóc nhái bò đầy đường. Những vị thần hung tợn nhỏ máu xin chúc mừng ngài tiền của đến như nước chảy.
Ngụy Ngọc Phủ là một kẻ tham tài lại ngu muội, sao biết được nghĩa lí trong Kinh Dịch. Nghe Lý Tâm Sở nói, Ngụy Ngọc Phủ cười tít mắt, tưởng mình đang ngồi trên đống của. Ngụy Ngọc Phủ rút ra một gói bạc, nhón lấy bảy tám đồng gói vào giấy đưa cho tiên sinh, gọi là chút thù lao, rồi cúi đầu đi ngay. Hắn ta nghĩ: "Nếu lần này thắng kiện, được bạc, ta sẽ tậu ruộng vườn, lợn, cừu và ba cô gái đẹp để nâng khăn sửa túi".
Nhận được gói bạc của Ngụy Ngọc Phủ, Lý Tâm Sở sờ sờ nắn nắn, hắn sung sướng vứt ngay giấy cho tiền vào mồm nếm, biết là bạc tốt, hắn gọi ngay A Long tới bảo:
- A Long, mày hãy đuổi theo người vừa xem bói, bảo hắn quay lại ngay, tiên sinh còn có điều muốn nói thêm.
A Long, người tai mắt của Tâm Sở, kẻ ra người vào nó đều để ý. Thường là khi gặp phải bạc xấu hoặc giả cần phải đổi, nó đều đuổi theo như thế. Ngụy Ngọc Phủ vừa đi khỏi quán được mấy bước thì A Long túm áo, nói:
- Xin ngài quay lại, tiên sinh còn điều gì quan trọng muốn nói với ngài.
Thấy thế Ngọc Phủ vui mừng quay lại ngay. Lý Tâm Sở đã bàn trước với vợ. Quả là:
Không thực thi kế sâu vạn trượng
Sao bắt được rồng ngậm ngọc châu.
Ngụy Ngọc Phủ theo A Long quay lại, vừa tới cửa, Tâm Sở bước ra nói:
- Ngài Ngụy quay lại rồi đấy ư? Quẻ của ngài có mười hai phần tài lộc, tiểu đệ xin chúc mừng. Lần này gia đình ngài giàu có phát tài gấp bội. Đây là cuộc đổi đời, chẳng khác nào thay đổi xương cốt, thịt da. Tiểu đệ học được cách xem tướng, vì khách đông nên không dám xem, chỉ xem bói mà thôi. Nay gặp ngài, thuộc tướng giàu có nên tôi quyết định xem cho ngài thật kĩ. Ngài yên tâm, tôi không lấy tiền đâu, sau này giàu có, lúc đó ngài đến tạ ơn tôi là được.
Ngụy Ngọc Phủ đầu óc ngu tối, mê muội, tưởng mình sẽ thành ông chủ giàu có thật, đưa tay cho Tâm Sở xem. Tâm Sở nói:
- Nơi này người xem bói thường lui tới đông. Tôi sẽ tiếp ngài tại phòng nhỏ phía sau, ở đó tôi sẽ xem cho ông tỉ mỉ kĩ càng hơn.
A Long đã mở sẵn cửa ngách. Tâm Sở mời Ngọc Phủ đi trước rồi thong thả bước theo sau. Cũng lúc đó vợ hắn bảo A Long đóng cổng, hạ biển, chỉ để Ngụy Ngọc Phủ và Lý Tâm Sở ở phòng trong. Lão mù đứng, Ngọc Phủ ngồi, hai người quay mặt vào nhau. Tâm Sở nói:
- Phải sờ thì mới biết được.
Lý Tâm Sở vòng ra sau, sờ vào sống lưng, bên hông, thấy chiếc túi cồm cộm bên trong. Lý Tâm Sở lại sờ lên đầu và mặt, vừa sờ vừa nói, tốt, tốt lắm, rồi lại bảo Ngọc Phủ ngẩng đầu lên. Ngọc Phủ ngẩng đầu. Lý Tâm Sở sờ vào yết hầu, ngủi ngửi. Mùi hôi từ người Ngọc Phủ thộc vào mũi gã. Gã mù đột ngột cúi đầu ngoạm chặt lấy yết hầu Ngọc Phủ. Lão Ngụy đau quá không sao chịu nổi, giằng ra, vợ gã mù lẻn vào trói tay Ngụy Ngọc Phủ. Gã mù cắn vào yết hầu quá mạnh, ngập cả hàm răng như cắn vào đu đủ, đứt một miếng to bằng quả đào, nhổ toẹt xuống đất như một chiếc tổ ong đẫm máu. Ngọc Phủ ngất xỉu ngã vật xuống, cổ hầu máu tuôn ra như suối. Chân tay run lẩy bẩy không kêu lên được nữa. Chưa đầy nửa giờ, Ngọc Phủ không giãy giụa được nữa rồi chết hẳn. Đúng là:
Kiếp trước từng gây nên oan nghiệp.
Kiếp này lại gặp kẻ gian manh.
Ngụy Ngọc Phủ chết, hai vợ chồng gã mù vội vã bảo A Long đóng cổng thật chặt, lột quần áo, lấy hết của cải. Tâm Sở loạng quạng cầm cuốc, đào vội chiếc hố, chỗ đất trống sau nhà. A Long và Trâu Thị cũng cùng hắn ra sức đào, được hơn hai giờ thì hố sâu khoảng ba thước, chúng hất Ngọc Phủ xuống hố rồi lấp đất. Ba đứa vẫn cười nói như thường, không chút sợ hãi, hình như từ lâu chúng đã quen với ngón nghề này. Gã mù sờ vào gói bạc, mỉm cười, còn vợ hắn dọn sạch những vết máu trên đất. Suốt ngày hôm đó chúng không mở cửa hàng, đến tối ba đứa ăn uống phè phỡn, rồi cười ha hả với nhau. Hôm sau Lý Tâm Sở lại mở cửa hàng như thường lệ. Ngày thứ ba chúng không mở cửa hàng, lại mua thịt cá về ăn uống. Cứ như thế đến nửa tháng, không ai hay biết.
Thương thay, vợ Ngọc Phủ, là sản phụ, lại mắc bệnh bại liệt chỉ ăn mà không làm được việc gì. Con trai mới lên bốn tuổi, còn thơ dại. Mẹ con ở nhà mong ngóng, nghĩ: "Đã bỏ đi đâu lâu ngày như thế, không thiết đến nhà cửa, chắc rằng không về nữa". Chỉ có một người gọi là Lão Tô, đã hơn bảy mươi tuổi, hằng ngày đến bế đứa trẻ đi lang thang khắp nơi, hỏi han tin tức Nhà vốn thu mua vải vụn, ngày ngày có người mang đến bán, song những người đó đều không hay biết gì về Ngọc Phủ. Vợ Ngọc Phủ mòn mỏi ngóng đợi tin chồng, cảnh ngộ thật là thê lương.
Ai ngờ đâu đống xương Vô Định,
Vẫn còn trong mộng gái phòng khuê.
Các bạn thử nghĩ xem, sự việc độc ác ấy bao giờ mới đưa ra ánh sáng, nỗi oan ấy bao giờ mới được báo thù. Cổ nhân có câu:
Chủ định trồng hoa, hoa không mọc
Chẳng màng cắm liễu, liễu xanh tươi.
May mà trước đây Ngụy Ngọc Phủ kết nghĩa anh em với Phó Tứ Quan, anh cũng là người thu mua vải vụn, vì tuổi ít hơn nên làm em. Một hôm anh mang bốn năm mươi tấm vải đến thành Gia Hưng bán. Đi khắp thành mà chỉ bán được sáu bảy tấm. Vừa tất tả đi qua cửa hàng Lý Tâm Sở thì thấy một người đàn bà xinh đẹp, đậm đà, ăn mặc gọn gàng, gọi mua vải. Phó Tứ Quan đưa vải tới, người đàn bà xem xong mua năm tấm. Phó Tứ Quan đòi lạng rưỡi bạc. Người ấy trả một lạng hai nhăm. Phó Tứ Quan nói:
- Cứ cân bạc xem đã, nếu là bạc hoa thì thiếu chút ít cũng được.
Người đàn bà quay vào cân bạc, rồi đưa ra, nói:
- Đây toàn là bạc hoa.
Phó Tứ Quan vốn là người thông minh, xem bạc xong, anh ta chột dạ: “Kỳ lạ thật, tại sao số bạc này lại ở đây?", rồi đòi trả thêm mới bán. Khi ra khỏi cửa, anh nhìn đi nhìn lại tấm biển, suốt dọc đường cứ nghĩ miên man: "Số bạc hoa này là tiền vải của lão Ngảnh họ Chu trả cho Ngụy Ngọc Phủ. Nửa tháng trước đây chính tay anh cân, nặng chín hoa bảy li rưỡi. Xem đi xem lại, rồi cân thử, thì thấy không sai một li. Sao số bạc ấy lại ở cửa hàng gã xem bói này?". Câu hỏi ấy cứ bám riết lấy anh: "Nếu như không chi dùng ở đây, thì vì sao người đàn bà này lại có số bạc đó". Mấy người này Ngọc Phủ cũng không hề quen biết, đi đã hơn nửa tháng nay vẫn chưa về, mọi người đều mong mỏi. Hôm kia ta đến nhà trọ hỏi, Ngọc Phủ không hề tới đây. Thăm dò trong dinh quan huyện cũng không thấy ngọc Phủ đệ đơn kiện. Quả là trong đó có duyên cớ gì đây! Anh đặt bao vải xuống, lấy bạc ra xem đi xem lại, rồi cân thử một lần nữa, đưa quả cân tới chỗ chín hoa bảy li rưỡi, cán cân ngang bằng như mặt nước. Điều ấy khiến Phó Từ Quan càng thêm nghi ngờ.
Mấy hôm sau bán hết vải, trở về Bình Hồ, Phó Tứ Quan tới ngay nhà Ngụy Ngọc Phủ. Thấy vợ Ngụy Ngọc Phủ khóc than thảm thiết, còn đứa con trai cũng rầu rĩ. Anh nói:
- Đã lâu rồi mà anh Ngụy Ngọc Phủ vẫn chưa về. Tôi đã đến huyện hỏi dò, không thấy anh đưa đơn kiện, lại đến nhà trọ người ta bảo anh ấy không tới đây. Anh cũng không nói là đi đâu xa, chắc là anh đã mang số bạc mua vải của lão Ngảnh họ Chu đến xem bói ở phủ lị. Tôi đã bán vải cho nhà ấy, chính tay tôi cân bạc. Số bạc đó y như bạc lão Ngảnh trả, không sai một li. Tôi thấy rất đáng nghi, nên không dùng số bạc đó mua hàng. Nếu không dò hỏi được tung tích của anh, tôi sẽ đem số bạc này đến huyện cáo giác. Quan huyện sẽ phải hỏi lão thầy bói, thì chắc chắn sẽ biết được. Chừng nào anh ấy chưa về thì vẫn phải tiếp tục điều tra, nhất định sẽ tìm thấy!
Vợ Ngọc Phủ đau đớn, nghẹn ngào nói:
- Chú nói có lí. Tôi ngày đêm lo lắng, nhưng cũng chẳng biết làm gì, con thì còn nhỏ, tôi lại đau ốm, không ai lên huyện lo việc, tôi biết làm thế nào đây?
Phó Tứ Quan nói:
- Tôi đi làm chứng, còn chị hãy bảo lão Tô bế cháu Thọ đem số bạc đệ lên huyện cáo giác, việc này phải làm cho ra nhẽ.
- Không có người làm đơn kiện thì làm sao đây? - Vợ Ngụy Ngọc Phủ nói.
- Tôi sẽ đi mua giấy, - Phó Tứ Quan nói. - Cứ viết thẳng ra là được. Phó Tứ Quan vội vàng đi mua giấy về, viết:
"Người làm đơn này là Ngụy Quan Thọ. Thưa về việc tìm cha. Cha tôi vào thành buôn bán đã hai mươi ngày rồi mà không thấy về. Tôi biết cha tôi đã mang bạc tới xem bói nhà Lý Tâm Sở. Vì cha tôi có người chú kết nghĩa anh em tên là Phó Tứ Quan đã bán vải cho nhà ông ta, và phát hiện ra số bạc người ta mua vải là của cha tôi. Nay đem số bạc trình lên ngài, khẩn thiết xin ngài điều tra tận gốc số bạc ấy từ đâu ra, lúc đó sẽ biết được cha tôi ở đâu. Mẹ con tôi vô cùng cực khổ. Xin dâng đơn lên ngài".
Phó Tứ Quan đưa lá đơn không hợp quy cách, chỗ thì viết chân phương, chỗ thì viết ngoáy, cho vợ Ngụy Ngọc Phủ, rồi nói:
- Sáng sớm mai, chị bảo lão Tô bế Quan Thọ, cùng đi cáo giác, còn số bạc này hãy để ở nhà chị.
Sáng sớm hôm sau, Phó Tứ Quan đến, cùng lão Tô cõng Quan Thọ, mang số bạc tới huyện Bình Hồ. Quan huyện Thẩm Dao Chương là quan thanh liêm chính trực. Ông khoảng ba mươi tuổi, người phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông. Cha ông là một ông đồ, tuổi cao mới sinh được mình ông. Ngay từ khi còn nhỏ, Thẩm Dao Chương sống trong cảnh khổ cục, nghèo túng, nếm đủ mùi cay đắng, nên khi được làm quan ông luôn theo lời răn dạy của cha, làm tốt mọi công việc, xét xử công bằng, thưởng phạt nghiêm minh. Chính vì thế mà bọn nha lại rất sợ, không dám làm bậy, còn nhân dân coi ông như một vị Thành Hoàng. Hôm ấy, công đường vừa mở, Phó Tứ Quan, lão Tô bế Quan Thọ theo đám đông vào cáo giác. Vị Thành Hoàng nhận tất cả đơn từ xem xét tỉ mỉ từng lá một, và phê những ý kiến vào đó. Xem đến lá đơn của Ngụy Quan Thọ, ông gật gật đầu cười rồi phê vào hai chữ "truy nã". Đến trưa thì ông xem xong tám mươi lá đơn, trong đó có đơn của Ngụy Quan Thọ. Hôm ấy chỉ có ba lá đơn tố giác, ông lần lượt gọi vào xét hỏi. Đến Ngụy Quan Thọ, thấy lão Tô bế Quan Thọ vào, miệng chỉ nói "bác bác", dáng vẻ sợ hãi đáng thương. Sau đó ông gọi Phó Tứ Quan lại hỏi:
- Số bạc này ngươi lấy ở đâu ra?
Phó Tứ Quan khai rõ ràng, từ đầu tới cuối. Hỏi xong lần sơ thẩm về ba vụ án, ông kết thúc phiên tòa.
Thẩm Công trở về tư dinh hỏi người hầu rằng:
- Ta cần sai một người giáp thủ(1) thật thà chất phác, làm tốt công việc này, ngươi có thể cử giúp ta được không?
(l) Giáp thủ: người đứng đầu năm binh sĩ.
Người hầu không dám làm bậy, nghĩ ngay tới Tào Thăng, là người thật thà chất phác, không bao giờ dám nhận tiền đút lót để ăn uống rượu chè, rồi nói với Thẩm Công:
- Chỉ Tào Thăng mới làm được việc này.
Thẩm Công viết một tờ trát, sai Tào Thăng mang đi và dặn rằng:
- Ngươi hãy đi, nói với Lý Tâm Sở, người hành nghề thầy bói trong huyện, rằng chiều mai ta có việc phải hỏi ông ta, không được nói một câu nào khác, không được đòi ăn uống, nếu hắn tới ta sẽ thưởng cho bữa rượu.
Tào Thăng lĩnh trát, cúi chào rồi đi ngay.
Vào khoảng canh năm, Tào Thăng tới phủ lị, hỏi đến nhà Lý Tâm Sở, ôn tồn lễ phép đưa trát cho ông ta. Lý Tâm Sở rờ rờ tờ trát, chẳng chút kinh sợ, nói:
- Gọi ta về việc gì thế?
- Tôi không biết, - Tào Thăng nói. - Chưa biết chừng muốn nhờ ông tới xem bói cũng nên. Phải lập tức đi ngay, tiên sinh không nên chần chừ.
- Thưa ông, - Tâm Sở nói, - ông có biết trong huyện đường của ngài có ai sao không? - Tôi cũng không biết nữa, - Tào Thăng nói. - Tiên sinh cứ đi hỏi ngài sẽ biết.
- Ông hãy ngồi nán lại, - Lý Tâm Sở nói. - Uống một chén rượu đã.
- Tôi không dám uống rượu, lấy tiền của ông. - Tào Thăng nói. - Không còn thời gian nữa, xin ông lên đường ngay.
Tâm Sở đành vào nhà trong, ăn vội bát cơm, giắt theo mấy lạng bạc. Sợ lên huyện Bình Hồ phải xem bói, nên ông ta mang theo cả ống thẻ. Ra tới cửa ông ta còn quay lại nói với vợ:
- Tôi đi rồi sẽ về ngay thôi.
Hai người ra khỏi cửa, ra bến sông gọi thuyền tới huyện Bình Hồ.
Tào Thăng dẫn Tâm Sở đến tư dinh hầu quan. Trời sắp tối thấy trong tư dinh đèn nến sáng choang. Thẩm Công đang ngồi trên ghế công đường, hỏi:
- Tào Thăng, hãy dẫn hắn vào.
Tào Thăng dẫn lão mù vào. Thẩm Công lấy từ trong tay áo ra một gói giấy, rồi nói:
- Tào Thăng, ngươi làm việc công thận trọng, ta thưởng cho năm đồng mua rượu.
Tào Thăng cúi đầu cảm ơn, rồi ra ngoài đang đợi. Lão mù quỳ trước bàn. Thẩm Công hỏi:
- Lý Tâm Sở, ngươi là một tên mù, làm được việc tốt! Chỉ thương thằng bé nhỏ dại ấy.
Nói xong ông giận dữ đập bàn. Gã mù kinh sợ nói:
- Thưa ngài, không liên can gì đến con, thằng nhỏ ấy vốn là một thằng trộm cắp, việc đã xảy ra ra lâu rồi, ngài hỏi con làm gì?
- Hãy khai lại từ đầu, một thằng bé khờ dại như thế thì trộm cắp sao được?
- Thưa ngài, - lão mù nói, - nó lấy trộm đồ trang sức bằng bạc, quần áo và các đồ đồng của nhà chủ, nó vốn không phải là người tốt, nên lần này con phải đuổi nó đi.
- Ngươi đuổi nó đi từ bao giờ?
Tháng tư năm ngoái, - lão mù nói, - thằng nhỏ ấy lấy trộm rất nhiều đồ vật gửi ở nhà con, rồi sau đó đến lấy đi. Vợ con trách mắng nó, lừa nó vào cửa, đánh nó một trận ngã dụi xuống, rồi dùng dây thắt cổ cho đến chết. Quả thực mắt con mù, việc làm ấy đều do vợ con gây ra.
- Thế là mất một mạng người, - Thẩm Công nói. - Thằng nhỏ ấy là con ai? Tên gì?
- Thằng nhỏ ấy tên là Ô Tam, - gã mù nói. - Con ông gù Từ Lang Trung.
- Xác chết hiện ở đâu? - Thẩm Công hỏi.
- Ở sân sau, - gã mù nói.
- Hãy kẹp nó cho ta, - Thẩm Công nói.
Những người xung quanh lập tức kẹp ngay cái ấy của tên vô lại rồi hỏi tỉ mỉ. Gã tù nhân mù độc ác như hổ, chuyên hãm hại người tại nhà, đâu có biết phép vua như lò lửa, và sự ghê gớm của cửa quan, nên đến nay mới ra nông nỗi này, quả đúng là:
Phạm pháp mất hết quyền
Vận đen thi nhau đến.
Tên mù Lý Tâm Sở bị kẹp, hồn bay phách lạc, trời đất tối sầm lại. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa từng nếm mùi vị này, ngất đi lại tỉnh. Thẩm Công không giận dữ, không nóng vội, ông thong thả hỏi:
- Số bạc của người khách họ Ngụy, người dùng cũng khá đấy, đến nay thì nó đang ở chỗ ta, hãy trả lại người ấy cho ta!
- Thưa ngài, thưa ngài! - Gã tù nhân mù nói,-xác của người khách họ Ngụy cũng chôn tại chỗ Ô Tam.
- Người tham của giết người, - Thẩm Công lại hỏi, - phải khai rõ từ đầu đến cuối, ta sẽ tha chết cho người.
- Ngày mười chín tháng tám, - tên mù nói, - ông ấy đến xem bói, và trả công rất hậu. Con bèn bàn với vợ, vợ con nói: "Không thể buông tha được, vì ông ấy là người buôn bán giàu có. Phải gọi ông ấy lại giết đi, lấy bạc". Con quả thực đáng tội chết. Con không biết giết người. Vợ con không biết dùng dao, giả vờ xem tướng, rồi nhè chỗ yết hầu cắn, làm ông ấy không kêu được. Con nói với vợ con, nếu làm không được con sẽ đến giúp và còn nói, nếu cổ cắn không chặt, tôi sẽ đánh nhừ đòn. Người xưa nói "mèo mù vồ gà, chết cũng không buông", con dặn đi dặn lại vợ con mới dám ra tay. Chỉ lấy được tám chín lạng bạc, một bộ quần áo. Cầu mong ngài ra ân trời bể, tha cho chiếc thân tàn tật này, chỉ bắt vợ con và thằng A Long đền mạng.
- Ngươi là một tên độc ác, mất hết tính người. - Thẩm Công nói.
Sau đó ông gọi tay chân đánh cho bốn mươi tay thước. Gã mù quằn quại đau đớn, khóc không thành tiếng. Thẩm Công gọi người tống hắn vào ngục, rồi ông viết trát, sai Tào Thăng ngày mai tới bắt Trâu Thị và A Long về xét xử, định tội. Tào Thăng nhận lệnh, Thẩm Công rời khỏi công đường.
Ngày hôm sau, Tào Thăng dậy từ canh năm tới nhà lão mù, hỏi:
- Có người trong nhà không?
- Ông Tào đấy à, - người đàn bà cười hi hí nói, - ông nhà tôi bao giờ về?
- Chưa được về! - Tào Thăng nói. - Ngài quan huyện cho gọi ngươi và A Long tới huyện.
- Tiên sinh biết xem bói thì quan mới gọi. Còn chúng tôi biết gì đâu mà quan gọi. - Người đàn bà nói.
- Hãy chuẩn bị lên huyện ngay.
- Thật sao? - Người đàn bà nói.
- Không thật thì đùa à? - Tào Thăng nói. - A Long đâu, phải đi cả hai người.
Người đàn bà vẫn cứ đứng đó. Tào Thăng lại nói:
- Ngài quan huyện gọi cả hai người. Chồng ngươi có việc cần bàn, không có thời gian về, đang mong mỏi các ngươi. Không được trì hoãn, nếu chậm sẽ liên lụy đến ta.
Người đàn bà nghe thấy nói có việc cần kíp, lúc ấy mới sắp cơm cho Tào Thăng ăn. Còn mình và A Long cũng ăn vội mấy bát, rồi chải đầu rửa mặt, mặc áo, mang theo bạc và tiền đồng. Nói khó với hai nhà bên:
- Nhờ ông bà trông nhà giúp, nếu ông ngoại tôi có đến thì nói giúp rằng, chúng tôi lên huyện Bình Hồ.
Sau đó khóa cửa, mặc chiếc áo xanh lên đường. Một người đàn ông lớn tuổi thốt lên:
Khuôn mặt xinh tươi
Mắt sáng long lanh
Tai to mũi nhọn
Lưỡng quyền nhô cao
Mi mắt cũng cao.
Người đàn bà này nói năng hoạt bát, vừa đi vừa nói luôn mồm. Tào Thăng chẳng nói chẳng rằng, đi một mạch đến Bình Hồ. Tới huyện đường, Tào Thăng vào thưa với Thẩm Công rằng:
- Vợ Lý Tâm Sở và A Long đã tới.
Thẩm Công ra lệnh tống giam, ngày mai xét hỏi.
Gã mù giam tại phòng giam nam, còn vợ giam tại phòng giam nữ, chúng không hề biết gì về nhau. Trong ngục, người đàn bà nghĩ, không biết đã xảy ra chuyện gì. Không có kẻ thù, lại chẳng thấy ai nói gì cả. Chưa biết chừng do bói sai mà nên cơ sự này. Hay là chồng mình bị liên lụy, hoặc do cậu mình mà xảy ra việc này. Trong nhà có hai việc, song chẳng ai nói ra. Suốt đêm lo lắng, trằn trọc, nước mắt rơi lã chã. Đó chẳng phải là:
Nhà tù lạnh lẽo, ma quỷ hiện,
Mơ thấy đường về thăm thẳm xa.
Giữa lúc người đàn bà đang lo lắng, bỗng thấy có người điệu lên xét hỏi. Mấy hôm trong tù, lão mù như một con chó, mặt tái nhợt cắt không còn giọt máu. Người đàn bà thấy dữ nhiều lành ít không dám nói thẳng với chồng, nước mắt lưng tròng. Liếc nhìn người quỳ cạnh mình, nhận ra Phó Tứ Quan, người bán vải dạo nọ, thị giật mình, nhưng vẫn không biết duyên cớ gì. Chẳng lẽ số vải ấy là do hắn ăn cắp bán cho mình, bây giờ lại kiện vì bán rẻ chăng? Thịnghĩ bụng: "Thôi cứ để nhìn thấy vải hãy hay”.
Thẩm Công nói:
- Mụ kia, hãy khai rõ từ khi lớn lên và đi lấy chồng tới nay.
- Con là Trâu Thị, - người đàn bà nói, - chồng trước chết, sau đó về làm dâu nhà họ Lý.
- Ngươi chủ mưu giết người, - Thẩm Công nói, - hãy khai ngay, bạc mua vải hãy còn đây.
Người đàn bà ấp úng, nói quanh co. Thẩm Công gọi người giúp việc kẹp mụ lại. Người đàn bà bị kẹp, vừa khóc vừa nói:
- Không phải con chủ mưu, từ nhỏ con được cha dạy bảo.
- Nói bậy. - Thẩm Công nói.
Thế rồi ông lệnh kẹp chặt hơn, người đàn bà đau đớn, nói:
- Không phải do con, mà là cậu con dạy con.
- Mày tham của, giết người chôn tại nhà, - Thẩm Công giận dữ nói. - Còn đổ tội bừa cho người thân thích, còn gì hãy nói mau.
- Bẩm quan, - mụ đàn bà nói, - cậu con và cha con không biết lấy bao nhiêu của, giết bao nhiêu nhân mạng. Xin quan hãy truy nã họ. Con chỉ là đàn bà, vì yêu quý người thân con mới làm như thế, xin ngài tha cho.
- Cha ngươi là ai, - Thẩm Công hỏi.
- Cha con là Trâu Đoản Hồ, - người đàn bà nói, - là tướng cướp nổi tiếng. Cậu con là Vưu Bảo Quan cũng là kẻ cầm đầu một bọn cướp khác. Hai toán cướp này đêm đêm thường tụ tập thành một toán để đi cướp, trong đó còn có một số tên trộm vặt không biết cướp của giết người. Xin ngài hãy tháo kẹp ra con xin khai rõ ràng, tỉ mỉ.
Gã tù nhân mù, thấy vợ nói thế rất mừng, không kìm nổi, chỉ chửi thầm:
- Đồ lừa dối xấu xa, nói in ít chứ, không khéo mà tuôn ra hết!
Thẩm Công nói:
- Hãy nới kẹp ra.
Rồi ông quát lớn :
- Chỉ còn thiếu một người, ngươi còn giấu ta, hãy đánh chết nó đi !
Nói xong ông cầm bút viết. Người đàn bà nói:
- Con xin khai hết sự thật, chỉ mong ngài tha đánh. Thưa ngài, cha con tên là Trâu Đoàn Hồ, chuyên giết người. Năm nay cuộc sống khó khăn, giết được mười sáu người. Ngươi giết trước đó thì không sao tính xuể. Nay đã năm mươi tám tuổi, trú tại chiếc lều phía bắc làng Hương Bích. Bọn tay chân gồm có: Dương Lạp Lê, Hồ Hỏa chuyên cầm gậy đi đầu, vào nhà cướp bóc, được bao nhiêu họ chia đôi; Bì Họa Mi, giỏi đào tường khoét ngạch, trước tiên bắt trộm chó, rồi sau mới ra tay trộm của cải. Hắn luôn giả chết để đánh lừa người. Lục Cửu Bá, có sức khỏe nâng ngàn cân, chuyên đốt nhà, buôn bán phụ nữ. Đào Tiểu Ngữ biết bay lên hiên, vọt qua tường, ngày đêm chỉ uống rượu; Cường Tao Ôn chuyên tụ tập cướp bóc; Man Đầu Lục đánh người không để lại dấu vết; Lạn Thoái Đinh chuyên đi cướp vàng bạc, không để sống sót một người nào; Võng Câu Quỷ, chuyên thiêu người, đánh đai sắt vào đầu; Quang Đả Quang, vốn là một hòa thượng, giỏi leo thang dây; Miết Kỳ Tôn, chột mắt, giỏi khoét gạch; Du Ngũ, người đen xạm, giả vờ đi bán dầu, chuyên dò la tin tức, cũng cần phải bắt. Ngoài ra còn có một số tên trộm vặt như Thố Toán, Vương Tam chuyên cắt túi người đi đường. Chương Hà Quải chuyên bắt trộm gà. Lại còn có Chu Thư Phu, Lý Thân Gia, Hồ Lục Quan, Giả Biểu Thúc phần lớn là anh em với cậu con. Cậu còn có bốn năm người hầu lúc nào cũng bên cạnh như Tào Giả Ty, Kê Nhi Hoàng, Nồng Bão, A Dậu, Thúc Hỏa Đồng. Những người này rất giỏi, đêm đêm lần mò giết người cướp của, không biết bao nhiêu mà kể.
Thẩm Công ghi xong, đọc đi đọc lại, đối chiếu từng dòng, lấy bút đánh dấu từng tên một. Quả nhiên không sai một chữ. Rồi hỏi:
- Ngươi làm sao mà nhớ được những tên này?
- Từ hồi nhỏ, - mụ đàn bà nói, - con ở nhà. Những lúc rỗi rãi, thường cùng mẹ đếm chơi, không thể nào quên được.
Sau đó gọi A Long tới hỏi:
- Người khách họ Ngụy bị giết như thế nào?
- Con ở ngoài canh cửa, - A Long khai, - không biết họ giết chết thế nào, con có giúp họ đào hố chôn người.
Thế rồi Thẩm Công cho tay chân lột hết quần áo đánh mỗi đứa bốn mươi gậy, giam vào ngục. Kiểm kê toàn bộ gia sản của tên mù, giao toàn bộ cho Ngụy Quan Thọ.
Thẩm Công rút ra một tờ trát, đưa cho Tào Thăng. Ngày hôm sau dẫn khổ chủ Ngụy Quan Thọ đến nhà Lý Tâm Sở đào xác. Xác Ngụy Ngọc Phủ vẫn còn nhận được mặt. Phó Tứ Quan khóc rống lên, rồi mua quan tài khâm liệm, chôn cất cúng bái.
Thẩm Công thương Quan Thọ còn bé, không thể xa mẹ, nên không cưỡng ép nó. Phó Tứ Quan rửa nỗi oan ức cho bạn, được quan trên ban thưởng. Gã mù họ Lý, Trâu Thị bị kết tội. A Long còn ít tuổi, nghe theo lệnh chủ, nên được Thẩm Công tha tội. Mặt khác lại cho người báo cho Từ Lang Trung đến nhận thi thể Ô Tam. Những tên cướp mà Trâu Thị khai ra, Thẩm Công sai tay chân chiếu theo danh sách bắt cho bằng hết, tra hỏi từng tên, rồi giải lên cấp trên. Thời ấy nạn trộm cắp bị quét sạch, dân chúng vô cùng cảm động. Có thơ rằng:
Nước an, lòng trời thuận.
Quan tốt, dân không oan.
Xin chớ làm điều ác.
Hãy ngẩng nhìn trời xanh.
Mười năm mài lưỡi kiếm,
Kiếm sắc chưa dám thử.
Hôm nay hiến dâng ngài,
Diệt trừ bọn hung dữ.
Thật nực cười, con người ngày nay, cứ động một tí là nổi ùng lên như gió cuốn. Mượn tiếng công phẫn để gây ra biết bao tai họa. Lớn thì làm lung lay triều đình, bé thì làm nghiêng ngả xóm thôn. Sự công phẫn sao có thể đùa giỡn được. Ta cho rằng phẫn nộ mà không công bằng chỉ là dựa vào sức mạnh; công bằng mà không phẫn nộ thì có khác gì lũ đàn bà son phấn. Nếu như công phẫn chân chính, thì sẽ được nêu tên trong sử sách, đời đời ghi nhớ.
Khi biết người đời kiêu căng rởm,
Một khi gặp sự, gió nổi lên.
Hãy nhớ cho rằng, thân đáng quý,
Dạ sắt gan vàng tiếng ngàn thu.
Điều mà thiên hạ xưa nay vô cùng căm giận là bọn tiểu nhân thi hành công vụ, cậy quyền thế, tác oai tác quái, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết. Quả là gần lửa rát mặt. Luôn luôn có một bọn nịnh hót, bợ đỡ, đó chính là cáo mượn oai hùm. Bọn tiểu nhân này sát khí đằng đằng, không sao ngăn nổi, nếu là người chân chính thì phải thận trọng, giữ mình trong sạch, làm theo đạo lí. Tôi cũng không hùa theo thói đời, cũng không bới lông tìm vết. Chẳng hạn việc Dương Hóa muốn gặp Khổng Tử. Ngài Chu Văn đã chú thích rất hay: quân tử đối với tiểu nhân không ghét mà nghiêm khắc, e rằng ghét người quá đáng thì sẽ xảy ra việc bất ngờ. Nói thế có nghĩa là, ai muốn hài hòa thì đi theo cái hài hòa, ai muốn thanh cao thì tu dưỡng cái thanh cao. Rốt cục không thể nghe theo bọn tiểu nhân làm loạn thiên hạ. Khi lâm sự, thành đấng trượng phu oanh liệt, tỏ rõ chí khí nam nhi. Tuy nhiên, đây là việc vô cùng khó phụng sự cương thường, thực thi khí tiết, sao mà thực hiện rộng khắp thiên hạ được. Lợi hại không thể chuyển dời, sinh tử không làm lay động, coi thường cái chết, đem hết sức lực sống mái một phen. Huống hồ là bọn tiểu nhân bách tính không ra gì, cương thường khí tiết rất xa lạ với họ. Đúng là:
Chiến trường hết thảy đấng nam nhi,
Phút chốc trở thành người thiếu phụ.
Nói thì như thế, nhưng rốt cục ai mà chẳng có tính khí.
Vào năm Thiên Khải, Ngụy Yêm nổi loạn. Thế lực lớn mạnh khó mà chống lại. Những bậc quan lại, không những không ra sức cứu chính trừ tà, mà ngược lại còn làm tay sai cho chúng, bị người đời mai mỉa. Sau đó bị vạch tội, hạ bệ. Sáng oai nghiêm, vênh vang áo mão, chiều thì sĩ khí văn chương, tất cả đều biến mất. Văn võ, quan lại chủ chốt trong triều, phần đông đều vứt bỏ nhân cách, cúi đầu xin thương xót. Lúc ấy họ tạo ra chiếu chỉ giả, bọn hiệu úy(1) hoành hành ngang ngược. Kể cả quan phủ đương chức cũng bị chúng sát hại. Bọn mang danh sĩ phu bên dưới, lập tức gây sự khắp nơi, bôi nhọ thanh danh, khiến cho mọi người không lúc nào yên giấc.
(l) Hiệu úy: chức quan võ.
Một hôm mấy viên hiệu úy tới Tô Châu bắt người. Khi đọc chiếu chỉ của vua, quan chức ở đạo phủ, huyện nghiến răng căm giận, còn người xem đông nghịt. Quả thật:
Ban ngày chẳng làm việc gì xấu
Nửa đêm gõ cửa cũng kinh hoàng.
Không ngờ đọc chiếu chỉ xong, gào thét truyền lệnh bắt người, thì lập tức có hai ba người đúng ra kêu oan cho người ấy. Quả thật đạo lí vẫn còn. Nghe tiếng kêu, những người hào kiệt xông ra. Lúc ấy trời đổ mưa, người thì cầm gạch, cầm guốc gỗ; kẻ thì dùng giày đinh đấm đá loạn xạ. Có người còn cầm cán ô, gậy gộc đánh túi bụi vào tên hiệu úy. Các quan chức phủ huyện thấy dân nổi loạn, kêu gào cốt để cứu sống bản quan, nên không dám ngăn cản. Chỉ thấy những người ấy:
Lông mày dựng ngược, người người liều mạng xông lên
Mắt mở trừng trừng, lớp lớp bỏ mình vì nghĩa.
Khác nào công chiến
Để trả thù riêng
Đấm rồi lại đấm, nhiều lúc đứt hơi không nghỉ
Đá rồi lại đá, tưởng đã chết rồi vẫn đá thêm.
Thương thay mấy tên hiệu úy, chưa đầy nửa giờ, xác nát như tương. Phủ quan hoảng sợ, lập tức vỗ yên trăm họ, chỉ bảo điều tra người cầm đầu, xử lí hậu quả, không được bắt bừa. Trong phủ quan có bao nhiêu kẻ chỉ vì thanh thế của Ngụy Yêm mà phút chốc đã biến thành chó săn cho hắn. Thấy dân nổi loạn, sợ rằng sấm chớp gió bão nổi lên, phút chốc xảy ra điều bất trắc. Thế mà những kẻ có "bầu máu nóng” ấy cũng không dám nói nửa lời. Huống hồ ngay cả mệnh lệnh của nhà vua, các quan cũng chỉ im lặng nhìn nhau, chẳng dám làm gì. Chỉ thấy trong đám hỗn loạn, có tiếng gào thét: "Tôi đánh chết đấy! Tôi đánh chết đấy". Sau đó có năm người rẽ đám đông bước vào, quỳ trước mặt phủ quan. Trong đó có một đứa con ở đầu tóc lở loét khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Phủ quan nói rằng chỉ cần một người. Cả năm người đều phẫn nộ tranh nhau xin nhận cầm đầu. Tất cả đều trình hung khí và khẩu cung. Bọn Nhan Bội Vĩ lập tức khóa tay họ tống vào nhà tù. Viên hiệu úy mang chiếu chỉ, giữ chức trưởng quan một đạo, là bạn đồng khoa, thấy Chu Thuận Xương bị bắt giải về kinh cũng không dám ra mặt thương xót. Nhưng những người dân bình thường, chẳng có quan hệ gì với ông lại tỏ ra oai phong lẫm liệt. Ngay cả khi bị xử tội, họ vẫn cười nói tự nhiên. Sự việc ấy làm chấn động cả thiên hạ, làm cho biết bao đấng trượng phu mũ cao áo dài phải toát mồ hôi. Hành động cao cả như thế, vậy mà không ai dám cầm bút viết nửa chữ, để giành lại vinh quang cho họ. Quả thật là:
Quan cao không gánh việc cương thường
Phó mặc Tề dân một gánh mang.
Thời ấy Ngụy Yêm reo rắc tội ác, ai ai cũng ngấm ngầm nghiến răng căm giận. Sao họ không dám dũng cảm làm như thế. Vậy mà họ vẫn nói: "Nhìn thấy trái phải đảo điên, trắng đen lẫn lộn, một khi sôi máu, mắt nhìn bốc lửa, liều thân chẳng tiếc, làm nên kì tích lưu danh thiên cổ". Tới nay vẫn còn những chuyện mới lạ hiếm thấy. Đó là sau khi Ngụy Yêm chết được ba bốn năm. Từ trong cuộc chơi đùa bình thường, trong đống tro tàn lại cháy bùng lên một hòn than. Ai ngờ rằng trong đó còn có rất nhiều thay đổi âm thầm, nhiều nguyên nhân ngoắt ngoéo. Chẳng khác nào:
Gương cũ còn bám bụi, Nhân tài chưa hiện ra Ông già lau mòn kính,
Viết truyền ghi sử xanh.
Vua băng hà, Sùng Trinh lên ngôi hoàng đế. Lấp bằng chiếc hố chôn người đen ngòm vô duyên cớ trước đây. Trong triều ngoài nội cũng phải đội ơn Sùng Trinh. Một thời dân chúng sống yên lành, no đủ. Song chẳng biết vì sao, lụt lội hạn hán xảy ra liên tiếp, khiến dân chúng phải tha hương cầu thực, mười người chết chín. Một số người nhờ nghề mọn tài hèn, lang thang khắp nơi, mới kiếm được miếng ăn. Đúng là:
Không trải đời cay đắng
Sao kiếm được miếng ăn.
Chuyện kể rằng trong thành Nam Kinh có một vị Thái học, tên là Tưởng Hữu Quân, hiệu là Kỳ Tu. Hơn ba mươi tuổi, có đứa con trai lên mười. Ông nội Kỳ Tu đỗ giáp khoa. Anh em trong họ cũng nhiều người đỗ đạt. Theo lệ cũ, anh em muốn ông phải tiến lên theo con đường ngắn nhất, để giảm được những kì thi lặt vặt. Hơn nữa ông vốn thông minh đĩnh ngộ, lại chịu khó học tập, hai chữ khoa bảng luôn luôn khắc sâu trong trái tim ông. Song chỉ vì việc nhà bề bộn, lại giữ chức lí trưởng, giao tiếp nhiều, nhất là hằng năm vào dịp thuế khóa và sai dịch, buộc ông phải làm tròn trách nhiệm. Việc học hành tất phải thiệt thòi. Bởi thế công không thành, danh không toại, ông thường ngao du khắp đó đây, kết thân với những người có chí khí khác thường. Thuở còn để chỏm đi học, ông kết nghĩa anh em với Sa Nguyên, tự là Nhĩ Trừng. Ông tổ của Nhĩ Trừng là người Hồi Giáo. Cha là Sa Tượng Khôn, một tấm gương mẫu mực trong làng, làm trọn bổn phận, hết lòng theo đạo. Lúc nhỏ, Nhĩ Trừng học với Kỳ Tu, hai người cùng chí hướng, chung đèn sách. Thế là:
Vùi đầu kinh sử ba năm chẵn, Chẳng thấy ai cầm gậy thanh lê(1)
(1) Thanh lê: gậy làm bằng cây thanh lê. Tương truyền Lưu Hướng đời Hán một hôm đang đêm thấy một cụ già mặc áo vàng, chống gậy thanh lê bước vào. Cụ thổi cho chiếc gậy bùng cháy, rồi truyền cho Lưu Hướng một học thuyết sâu sắc. Xem Từ điển điển cố, NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2002.
Kỳ Tu vì duyên nợ ràng buộc, không được tận hưởng thú giao du. Nhĩ Trừng không đạt được sự nghiệp văn chương, một thân một mình lưu lạc bôn ba khắp nơi, được Tu Kỳ đón về nhà. Đã ba mươi tuổi, không được vào trường Thái học, cảnh nhà khó khăn, Nhĩ trừng cảm thấy xấu hổ, muốn bỏ đi, nhưng Kỳ Tu cứ giữ lại, dứt ra không được. Nhĩ Trừng mắc chứng bệnh bẩm sinh là tính hiệp sĩ, chẳng chú ý đến ăn mặc. Mỗi khi gặp kẻ cậy thế coi thường, đè nén người lương thiện, không tiếc thân mình, bất bình nổi giận. Ngay cả khi đọc những chuyện oan ức trong sử sách, bèn đập bàn đứng dậy. Oán hận đến mức bán hết ruộng vườn, ngửa mặt cả cười, uống rượu giải sầu thoải mái hát ca. Thằng nhỏ hầu hạ bảo anh là con mọt sách mất trí, khó mà thay đổi được tính tình. Gia chủ lại đối đãi rất chu đáo. Bởi thế Nhĩ Trừng hạch sách đủ điều, chẳng khác gì hô gió gọi mây, không dám mảy may sai trái.
Đúng là:
Trong nhà luôn chìu chuộng
Ngoài hiên vẫn ân cần.
Năm gian lầu chứa sách tại vườn sau nhà họ Tưởng, tầng trên tầng dưới có hàng vạn ống tăm ngà, hàng ngàn hộp đựng sách bằng gấm, màu đã ngả vàng. Ngoài việc đọc sách, họ còn đọc báo nói về thời sự hàng ngày trong triều. Chiều chiều, Kỳ Tu thân thiết uống chút rượu với Nhĩ Trừng, nghe anh nói về thời cuộc.
Thời ấy đang là thời của Ngụy Yêm. Trong ngoài triều đình, Ngụy Yêm đã gây ra biết bao tội ác. Mười tờ báo thì có chín tờ đăng tin xử tội quan thanh liêm, tra khảo các danh sĩ. Khi nói chuyện với Kỳ Tu, không phải chỉ một lần Nhĩ Trừng nghiến răng căm giận, uất ức trào lên tận cổ. Song thời ấy, thói đời xu nịnh, nói năng phải giữ mồm giữ miệng, nếu không dễ bị tai bay vạ gió. Huống hồ nhà họ Tưởng có mấy mạng người làm sao mà không sợ. Hơn nữa thành Nam Kinh, lính của phủ quan tuần tra giăng lưới bắt người dày đặc. Kỳ Tu là một chàng trai có chí khí nên chuyện trò rất hợp nhau. Sợ rằng Nhĩ Trừng không chịu nổi sẽ gây chuyện rắc rối, nên người nhà bảo Kỳ Tu đuổi Nhĩ Trừng ra khỏi nhà để tránh tai họa, song Kỳ Tu không nghe. Ngày tháng thoi đưa như bóng câu qua cửa. Hy Miếu băng hà, Nghị Tông lên ngôi. Bọn Ngụy Yêm ác độc sụp đổ. Khi ấy, Nhĩ Trừng như người nối dõi đứng ra báo thù nhà, nhảy lên gào thét điên cuồng, mừng vui khôn tả. Bỗng một hôm, Nhĩ Trừng nói với Kỳ Tu:
- Trước đây chông gai khắp bốn phương bậc chí sĩ đóng cửa ở nhà. Nay đã tạm yên, tôi muốn thả sức rong chơi, giải tỏa nỗi u uất trong lòng. - Được đấy, được đấy! - Kỳ Tu nói.
Trước đây, nhà họ Tưởng muốn đuổi anh đi, chỉ riêng có Kỳ Tu không muốn. Bởi Nhĩ Trừng là người nóng tính, hay nổi giận, không kìm được uất ức. Sợ anh ra đi không đúng lúc tính mạng khó bảo toàn. Nay đã khác trước, bởi thế nghe Nhĩ Trừng nói, Kỳ Tu bằng lòng ngay.
Kỳ Tu nói:
- Tôi có một người bác họ, tên là Trương Tuyết Nga, tên húy là Hằng Giả. Hiện đang giữ chức Binh bộ Phương ty. Năm nay tôi phải đến huyện Thượng Nguyên nộp thuế. Tiện đường sẽ ghé vào thăm ông, nhờ ông giúp đỡ. Nếu anh muốn đi với tôi thì càng tốt. Song đi lần này phải có lễ vật quý hiếm. Ở Đông Tây kinh người ta rất ưa thích những vật phẩm sản xuất tại Bình Hồ. Vậy phiền anh tới đó mua giúp tôi ít quà tặng. Mọi việc đã có người làm thay, anh hoàn toàn không phải vất vả gì.
Nhĩ Trừng bằng lòng ngay. Kỳ Tu bèn giao cho nhĩ Trừng bản ghi những thứ cần mua sắm, đó là vải, bút Hồ và một trăm tám mươi lạng bạc. Ngoài ra còn đưa cho anh hai mươi lạng làm tiền lộ phí, và một số giày làm quà tặng. Rồi Kỳ Tu nói:
- Anh hãy tới thôn Trung Minh, huyện Đức Thanh, phủ Hồ Nam, hỏi thăm tới nhà Thái Bình Tuyền. Thái Bình Tuyền là người thường xuyên trông coi lương thực của nhà tôi, hãy nhờ ông ấy lo liệu, xong việc rồi cùng về một thể. Tôi muốn nhờ ông ấy áp tải hàng hóa. Mùa đông năm ngoái, tôi đã gửi thư hẹn ông ấy rồi.
Dặn dò xong, hai người uống mấy chén rượu chia tay. Tưởng Kỳ Tu bảo Nhĩ Trừng:
- Tính anh ngang tàng, lại không chú ý ăn mặc. Chất lượng bạc không biết phân biệt rõ ràng, sợ gặp kẻ xấu anh không kìm nổi, nên tôi khuyên anh nên cố gắng kìm nén. Tôi chờ anh về, rồi cùng đi. Tháng giêng năm thứ hai đã sắp hết rồi.
Nhĩ Trừng vâng dạ, tỏ ra là người chín chắn, đến thẳng Thủy Tây Môn, xuống thuyền đi Hồ Châu. Phong cảnh trên đường thật là:
Gió xuân lành lạnh cỏ mướt xanh,
Tiếng trống tàn đêm đã điểm canh
Chân trời du khách tràn thi hứng,
Cầu uốn qua sông núi chập chùng
Thôn Bách Ma gần huyện Thượng Ngu, phủ Thiệu Hưng Triết Giang, có người tên thường gọi là Sương Tam Bát, tên thật là Cát Kiệm. Trước đây làm Vệ quân Kim Sơn. Cha là thầy giáo trường tư thục, do đó Tam Bát cũng biết chữ. Năm hai mươi tuổi học được nghề khâu giày. Thấy việc gì bất bình, anh không tiếc thân mình ra tay cứu giúp. Vào năm Sùng Trinh thứ nhất, Thượng Ngu đại hạn, mùa màng mất trắng, cháo cũng không có mà ăn. Tam Bát một thân một mình, may nhờ vào nghề này cũng kiếm được bữa no bữa đói. Anh tính rằng: "Ôm lấy mảnh đất này, quả thực cũng chẳng hay ho gì. Nay cả vùng mất mùa, mọi người cháo cũng không có ăn, mà đã đói thì đầu gối phải bò". Thế rồi Tam Bát vội vàng thu xếp hành lí, phần lớn là đồ nghề dùng để kiếm cơm. Anh nghĩ, bến cảng thành Hàng Châu rất cần người, ta hãy đến đó. Rồi anh quẩy hành lí đáp thuyền đến Tiêu Sơn.
Bến Tây Hưng thuyền ta lướt sóng,
Theo dòng sông chở đến tỉnh thành,
Mất mùa đói kém đi quẩn quanh.
Gia tài một quẩy thật đáng thương.
Ai ơi chớ hỏi nhà đâu tá,
Nghề mọn một thân khó đổi dời.
Góp được mấy đồng, Tam Bát lên thuyền, khi đó đã là cuối đông. Ngày mồng hai thuyền tới Hàng Châu. Đây là nơi đô hội, hiệu giày nhiều vô kể, mà Tam Bát lại chỉ có ít mảnh da vụn. Len lỏi qua nhiều phố xá, nhà nào cũng thấy người lớn trẻ con, kẻ giày vải, người giày lụa, đều còn rất mới. Tam Bát bực mình vì nghề vá giày của anh đã lỗi thời và chính mình cũng không biết thời thế, chân rát bỏng vội vã rảo bước. Ngày mồng năm tháng giêng, Tam Bát tới thành Hàng Châu. Chỉ mong ai cũng đi chân đất đứng chờ anh thợ da tới. Anh gánh hành lí tới nhà Phùng Tước Khê phố Kim Chất, bên cạnh cầu Thuần Hựu. Lão Phùng là đồng hương, lại là người thân quen. Anh đặt gánh xuống tán gẫu mấy câu, rồi sắp xếp lại mấy thứ đồ nghề, chuẩn bị đi tiếp.
Phố Tân Chính không có một anh thợ da nào, Tam Bát mừng thầm, kẽo kẹt gánh hàng rảo bước, và cuối cùng cũng có hai người thuê anh vá giày. Tam Bát kiếm được mười hai đồng, bụng nghĩ thầm: "Có lẽ mình chưa cúng". Chẳng nghĩ ngợi gì, anh bước thấp bước cao, ngẩng đầu lên đã thấy một ngôi miếu thờ Ngũ Thánh, mọi người đang lũ lượt tới dâng hương. Tam Bát đặt gánh hàng xuống bày lễ thắp hương, hỏi xem việc làm ăn trước mắt thế nào. Anh lắc ống thẻ tới ba lần, vẫn là quẻ âm; thơ trong quẻ như sau:
Giang hồ, nghe tiếng chuông,
Vất vả vẫn hoàn không.
Gặp nhau ngoài ý muốn,
Có cuối chẳng có đầu.
Anh ra về, cứ ngẫm nghĩ về quẻ thẻ ấy, đại khái là cũng có chút hi vọng. Trời tối, anh quẩy hàng về, những người hàng thịt bên cầu Thuần Hựu giày rách nát nhờ anh khâu. Đặt gánh xuống, thấy họ là những người nhà quê, vùng Hạ Chung Minh, huyện Đức Thanh, Hồ Châu, Tam Bát thân mật hỏi:
- Nhà bác có đông người không? Bác làm nghề này có đủ ăn không?
Thấy Tam Bát ăn nói dễ nghe, người khách đáp:
- Cũng chẳng ăn thua gì. Mùa xuân năm ngoái mưa nhiều, mùa màng thất bát. Nhà nào cũng túng thiếu, ai có nghề phụ đều bỏ nhà đi làm ăn xa. Vụ đông năm ngoái lúa mùa bội thu, bước sang tháng giêng vẫn còn nhàn hạ, nhà nào cũng muốn khâu giày. Ngày ngày bận rộn việc làm ăn, khi nào đóng cửa buồng tằm mới được nghỉ ngơi.
Tam Bát đọc lại bốn câu thơ trong quẻ thẻ, lại thấy trong đó có hai chữ "chung minh”. Rồi anh quyết định đến Chung Minh làm ăn. Tam Bát hỏi thăm đường đi, rồi hỏi họ tên, địa chỉ người khách hàng, mong anh giúp đỡ. Người khách ấy vui vẻ nhận lời. Khâu xong giày, Tam Bát không lấy tiền công.
Đúng là:
Long đong chân trời khách,
Thương nhau kiếp bọt bèo.
Người hàng thịt họ Mục tên là Kính Huyên. Vì thương Tam Bát, nên anh vui vẻ rủ Tam Bát cùng về. Anh nói:
- Đi thuyền rất tiện, ngày mồng tám ta cùng về nhé!
Hai người đi thuyền về tới Chung Minh, Tam Bát tạm ở nhờ nhà Kính Huyên. Sáng sớm đi làm, tối mịt mới về. Công việc bề bộn, đến cơm trưa cũng chẳng kịp ăn.
Lại nói tới Sa Nhĩ Trừng, khởi hành từ Nam Kinh, đi mất chín ngày mới tới Chung Minh. Làng này không lớn lắm, nhân dân đều trồng dâu, gai. Chỉ thấy:
Bờ ruộng quanh co,
Sông ngòi lượn khúc,
Tre trúc uốn cong, mái tranh thấp thoáng,
Đậu mạch trổ hoa, trắng xóa cánh cò,
Lão ông phưỡn bụng, miệng lẩm nhẩm, lượng mưa tính nắng.
Lão bà tóc rối, tay bận rộn kéo kén chăn tằm.
Giống như canh Võng Xuyên, dâu đồng rợp bóng,
Chẳng khác suối Đào Hoa, tùng bách chen nhau.
Mây gió nơi đây, khiến Tiêu Lý cũng phải ngẩn ngơ Ánh chiều bến cũ, đến Đại Si thôi đành gác bút.
Nhĩ Trừng tay xách hành lí, đưa mắt nhìn phong cảnh làng quê mang dáng dấp cổ xưa. Anh chợt thấy một ngôi chùa nhỏ, trên đề bốn chữ “Bạn nhược thượng nhân!", xung quanh thanh u tĩnh mịch. Nhĩ Trừng đừng lại nghỉ chân, một vị sư gầy đét xanh xao bước ra. Nhĩ Trừng hỏi:
- Thưa thầy, thầy có biết đường về nhà ngài Thái Bình Tuyền không?
- Biết, - sư cụ nói, - thí chủ của bản tự hằng năm thường tới Nam Kinh, trú tại Cảng Tây, bảo rằng sau khi lễ Phật xong cũng tới đó.
Nghe thấy vậy, Nhĩ Trừng bèn gửi tạm hành lí tại chùa, chỉ lấy ra một phong thư và hai đôi giày, đi tìm lão Thái.
Sa Nhĩ trừng quả là một gã hồ đồ. Anh ta để hết hành lí và tiền bạc tại chùa, rồi một mình ra đi. Cũng may anh ăn mặc xuề xoà nên chẳng ai để ý. Chỉ thấy anh:
Khăn thì đen nhẻm, áo nát như dua,
Tất xỏ tả tơi
Giày đi há mõm,
Râu vểnh vàng khè, tâm sự trong lòng chất chứa
Giương đôi mắt trắng, cô đơn cất bước mặc ai.
Thấy anh lấy ra hai đôi giày sản vật địa phương đến tặng chủ nhà, vị sư già đoán rằng đây là một thầy đồ. Sa Nhĩ Trừng hỏi thăm đến nhà họ Thái, mang thư và giày đến. Một lúc lâu thấy một bà già đi ra nói:
- Ông là người từ chỗ Tưởng tướng công đến, xin mời ông ở lại xơi bữa cơm thường, ông hãy đưa hành lí vào đây.
- Ngài Bình Tuyền có nhà không?
- Mùa đông năm ngoái, - bà lão nói, - Tưởng tướng công gửi thư mời, đến mười tám tháng giêng này sẽ đi, hôm nay, ngài đến dinh quan huyện họ Lí thúc thuế, ngày mai mới về.
- Nếu thế thì ngày mai tôi sẽ lại. - Nhĩ Trừng nói.
- Anh trở lại chùa, thấy vị sư già ra chào, anh nói rõ họ tên. Nhĩ Trừng nghĩ: “Mình lạ lẫm, không quen đường, trời lại sắp tối đành phải nghỉ tạm ở đây". Rồi anh nói với vị sư già xin ở nhờ. Vị sư già tuy sống ở thôn quê, song vẫn có thói khinh người. Thấy Sa Nhĩ Trừng sống có vẻ bừa bãi, không muốn cho ở, bèn đọc cho anh nghe tờ trát của quan trên ra lệnh không cho phép chùa chiền chứa chấp người lạ mặt khả nghi. Song lại ngại Thái Bình Tuyền là thí chủ của bản tự, hơn nữa anh lại nói rằng anh không ở lâu, nên đành miễn cưỡng nhận lời.
Hằng năm vào ngày mười bốn tháng hai là ngày sinh nhật Thành Hoàng huyện Đức Thanh. Các làng thu tiền gạo, hoặc để cúng Phật hoặc diễn kịch góp vui. Vùng Hạ Chung Minh có mười hai đội kịch, đều diễn tại sân khấu trước miếu thổ thần, cao không đầy bốn thước. Khu đất trống xung quanh miếu đều dựng lều quán, hoặc đặt ghế, trải chiếu cho khách tới xem, thưởng trà uống rượu. Nhĩ Trừng nghỉ trong chùa, sáng dậy vội vàng đến nhà họ Thái xin thư, thấy mọi người đang dọn dẹp, biết đây là tục lệ làng quê.
Tới nhà họ Thái, vẫn thấy bà lão hôm qua bước ra chào, nói:
- Đêm qua quan lớn về, đã đọc thư. Song thóc lúa trong huyện hẹn đến ngày mười lăm mới chuyển xuống thuyền. Việc nói trong thư của tướng công đến ngày hai mươi ngài mới làm được. Xin tướng công hãy lưu lại đây. Còn đây là lá thư của ngài Thái Bình Tuyền gửi cho ông.
Trong thư viết:
Kính gửi ông Nhĩ Trừng,
Hai đôi giày tôi đã nhận đủ, nếu có loại to mua thêm một đôi, tôi sẽ gửi tiền trả ông chu tất, xin báo để ông biết. Cảm ơn ông.
(Không đề tên)
Xem xong thư, Nhĩ Trừng rất buồn cười. Việc chính không thấy ông ta nhắc tới, chỉ viết mua thêm một đôi giày. Các bạn ạ, ở nông thôn thật hiếm có người tài. Người đọc thông viết thạo như ông Thái có là bao. Trong thư Kỳ Tu gửi cho ông, nói Sa Nhĩ Trừng tới Hồ mua sắm hàng, không biết vì cớ gì ông không nhắc tới chuyện ấy, chỉ viết lèo tèo có mấy chữ, ngay cả tên mình cũng quên không ghi. Hơn nữa người nhà thấy thế cũng không hỏi, ngay cả bà già cũng chỉ nhìn thấy chiếc khăn bẹp của Nhĩ Trừng, rồi gọi là tướng công. Nhĩ Trừng nói:
- Quan đang bận việc, thì ngày hai mươi tôi sẽ đến.
Bà già cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Nhĩ Trừng cầm thư đi ngay. Anh nghĩ "Không có việc gì, chi bằng đến chen lấn vào đám đông xem diễn kịch". Tới nơi, thấy già trẻ, gái trai, nam thanh nữ tú đông nghịt, cảnh tượng chẳng khác nào:
Lũ kiến tha xương cá, ruồi xanh bâu bọc mủ
Bọn thần chết xuất đầu lộ diện
Quỷ đen đầu múa mép khua môi
Mặt hoa da phấn, lướt thuyền hái hoa sen
Hàm râu tua tủa, trùm vai che lá cọ
Lung gù, như vượn cõng con
Bụng ôm, như Bà La bế cháu.
Thấy vẫn còn sớm, Nhĩ Trừng trở về chùa, lấy ra năm đồng và một ít tiền lẻ gói lại đưa cho vị sư già nói:
- Tôi còn ở đây, phiền nhà chùa ba bốn hôm nữa, xin giao trước cho nhà chùa chút tiền ăn, mong cụ nhận cho, xin cảm ơn cụ.
- Xin ông đừng bận tâm. - Nhà sư cười nói.
Vị sư già cầm tiền, đếm cẩn thận rồi xuống bếp lo cơm nước. Một lúc sau bưng lên sáu bát thức ăn chay ngon lành. Nhĩ Trừng cảm thấy hơi sốt ruột, muốn ăn sớm để đi chơi. Hòa Thượng quá nhiệt tình, cứ mời Nhĩ Trừng ăn thêm, cơm nước xong thì mặt trời đã ngả chiều. Nhĩ Trừng từ biệt vị sư già ra khỏi chùa. Chưa tới miếu thổ thần, đã nghe thấy tiếng trống, tiếng thanh la inh ỏi. Đêm diễn đã được ba màn kịch nói về Ngụy Thái Giám, đây là vở Phi long kí. Người đóng vai Ngụy Giám là một nghệ nhân xuất sắc, tên là Thu Tam. Sa Nhĩ Trừng tới nơi thì người xem đông nghịt. Lượn quanh một vòng, chỗ nào người ngồi cũng chật ních, chỉ thấy bên cạnh anh khâu giày có một chỗ trống, bởi anh dọn hàng khâu giày ở đó nên người ta đã chừa ra cho anh một ít. Sa Nhĩ Trừng thấy đang diễn tới chỗ Dương Liên, Ngụy Yêm, Khách Thị lần lượt chuẩn bị xử án. Tam Bát cũng chẳng ngó ngàng tới, vừa khâu giày, anh vừa làu bàu chửi. Nghe thấy Ngụy Giám ra sân khấu, nói the thé tiếng đàn bà, anh bèn buột miệng chửi: "Giết mẹ nó đi loại ấy chẳng tốt đâu!". Sa Nhĩ Trừng vẫn tiếp tục xem, vốn đã tức sẵn, anh tự nhiên nổi giận. Đang lúc uất ức, lại thấy anh thợ khâu giày phẫn nộ, Nhĩ Trừng cảm phục anh là người can trường. Không ngờ thấy sân khấu, Ngụy Giám sợ rằng các quan Dương, Tả, Chu, Ngụy không cung khai nhận tội, hắn bảo bọn tay chân dùng kiểu đánh đập tàn khốc mà chúng gọi là "Năm bông hoa lớn". Đó là:
Rồng vàng uốn khúc, là con rắn đồng cuốn vào người tưới dầu sôi đốt.
Thiện Tài cúng Quan âm, là trói chặt hai tay rồi dội hắc ín sôi vào hai bàn tay.
Đánh gẫy trâm ngọc, là dùng chùy sắt đập gẫy răng, làm cho phạm nhân nói phều phào.
Dây tương tư, là dùng thép nhọn xuyên qua xương bả vai.
Cùng một lưỡi dao, là dùng chiếc chàng sắt rộng bản và sắc, cùng một lúc chặt đứt năm ngón chân.
Trên sân khấu chỉ thấy người đóng vai Ngụy Giám, vạch trời chỉ đất, dáng vẻ tàn ác. Sa Nhĩ Trừng nhìn thấy cảnh ấy, máu sôi lên, nghiến răng nghiến lợi, quát tháo: "Không thể chịu được!" Rồi anh lấy con dao của anh thợ khâu giày xông lên sân khấu, đè Ngụy Giám xuống cắt đầu, máu phọt ra, đầu lìa khỏi cổ. Những người diễn kịch thấy tên hung thủ nhảy lên giết người, chạy ùa vào buồng hóa trang ẩn nấp, còn người xem không biết cơ sự gì đã xảy ra. Tất cả đều dẫm đạp lên nhau, kêu khóc bỏ chạy. Sợ mất dao, Tam Bát vội vã nhảy lên sân khấu tìm, tay cầm dao mà vẫn không nhìn thấy xác chết. Sa Nhĩ Trừng lẳng lặng vứt dao, nhảy khỏi sân khấu, trà trộn vào đám đông, gào thét rồi chạy thục mạng. Chỉ còn mấy ông già không sợ xúm lại, quát to: "Không được chạy lung tung, hãy tìm bắt ngay tên hung thủ”. Tức khắc bảy tám người xông lên, thấy Sương Tam Bát đang cầm dao, đứng trơ lại đó than vãn: "Anh ấy giết người nhanh như chớp”. Mọi người vây lấy anh nói:
- Không phải tìm nữa, hung thủ đây rồi?
Chính lúc mọi người sợ anh hành hung, nên những người đứng sau anh dùng thừng trói chặt lại. Tam Bát vẫn cứ bình thảng như thường, đến khi mọi người túm vào đấm đá hỏi: ”Vì sao lại giết người?", thì lúc ấy Tam Bát mới ngớ người ra.
Mọi người quây lấy hỏi:
- Anh ấy với mày có oán thù gì, mà mày lại giết anh ấy?
Rồi đội kịch lôi Tam Bát đến chỗ xác chết, vừa đánh chửi, vừa hỏi tên. Anh không nói. Người ta chỉ nhặt được mẩu giấy trong đó viết:
Kính gửi ông Nhĩ Trừng,
Hai đôi giày tôi đã nhận đủ, nếu có loại to mua thêm một đôi, tôi sẽ gửi tiền trả ông chu tất, xin báo để ông biết. Cảm ơn ông. (Không đề tên)
Mọi người thấy thế nói:
- Đây là tang vật của kẻ sát nhân! Trong đó nói tới giày, chẳng phải liên quan đến nghề của nó ư? Thế ra tên nó là Sa Nhĩ Trừng.
Tam Bát thấy mọi người hỏi họ tên, khăng khăng không nói. Đến khi thấy họ ghép cho mình là Sa Nhĩ Trừng, anh mới khai là Sương Tam Bát. Mọi người cũng không biết phân giải thế nào, đành giải lên quan. Khi bỏ con dao đẫm máu vào gánh đồ nghề, người ta thấy một gói lá sen, mở ra thì trong đó là thịt trâu. Mọi người kêu ầm lên, không cần phải hỏi nữa, đúng là nó giết người rồi. Lá thư bên cạnh xác chết nói tới việc mua giày thì chưa chắc là của người khâu giày. Nhưng Sa là họ người Hồi, trong gánh lại có thịt trâu mà người Hồi thường ăn. Con dao cắt da còn đẫm máu trên tay. Thế thì đây đích thị là hung thủ, không còn nghi ngờ gì nữa.
Ngay đêm ấy, người ta giải Tam Bát và gánh đồ nghề lên huyện. Trình lên quan rằng đã bắt được tên Sa Nhĩ Trừng (Sương Tam Bát) giết người. Còn hai nhà Thái Bình Tuyền và Mục Kính Huyên thì trốn biệt tăm. Sa Nhĩ Trừng chạy như bay về chùa mới hoàn hồn. Anh thấy việc kì lạ ấy như một giấc mộng. Anh nhớ rõ hình ảnh người thợ giày cầm dao, nhưng mình thì chạy thoát. Không biết sau đó người ta nhặt được bức thư, tìm thấy thịt trâu, và khai tên là Sương Tam Bát, không chịu nhận là Sa Nhĩ trừng. Anh tự nghĩ rằng: "Giết người là trọng tội. Mình lại là người giết người. Hơn nữa nhà họ Thái lại biết mình họ Sa, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, thì chạy trốn là tốt nhất". Rồi anh nói với nhà chùa rằng:
- Tôi đã gặp nhà họ Thái rồi, xin cảm ơn nhà chùa, tôi về.
Nhà chùa rất buồn. Sa Nhĩ Trừng lủi ra bến đò, lên thuyền. Sợ liên lụy đến Tưởng Kỳ Tu, nên không về Nam Kinh. Anh lo lắng, cuối cùng đổi thành họ Hải, tự là X.X. trốn tới Trường An. Thật là:
Cá thoát khỏi lưỡi câu
Vẫy đuôi không trở lại
Lại nói về đoàn người Hạ Chung Minh, tới huyện thì trời đã tối nhưng vẫn đánh trống bẩm quan. Quan huyện nghe thấy, không hỏi han gì, tống giam tất cả, chờ xét xử sau. Ngay đêm ấy ra lệnh cho làng chôn cất thi thể. Hôm sau cho Sương Tam Bát và những người địa phương lên công đường hầu tòa. Mọi người khai rõ đầu đuôi.
Quan tòa là Sầm Đài, tên khắc trên dấu là Đức Thanh. Xuất thân tư cống sinh, người huyện Tự Phố, phủ Thần Châu, Hồ Quảng. Vì yêu mến sông núi Tây Hồ, nên đã dốc tiền của học hành. Ông gần bốn mươi tuổi, thông thạo việc quan. Ông là người xét xử vụ án. Nghe người cung khai sự việc xảy ra, ông lạnh lùng nhìn Sương Tam Bát. Thấy Sương Tam Bát khi thì mỉm cười đắc ý, khi thì phẫn nộ bất bình. Tri huyện Sầm nghĩ rằng đây là một người thế tội cho hiệp khách. Nhưng vì sao lại giết một diễn viên, thật là khó hiểu. Lại càng không hiểu được vì thù hận Ngụy Giám mà đi giết người đóng giả Ngụy Giám. Đến khi gọi tên Sa Nhĩ Trừng thì Tam Bát lại chẳng nói chẳng rằng. Quan huyện hỏi mọi người:
- Có phải hung thủ này câm không?
Chỉ thấy mọi người nhao nhao nói, huyện đường ồn ào như vỡ chợ, không nghe rõ họ nói gì. Tri huyện Sầm thét lên:
- Án giết người phải tôn trọng sự thật, lấy cung xong sẽ xử theo luật pháp, không thể thiếu đối phương, chỉ cần một người địa phương có hiểu biết lên khai.
Mọi người thấy vậy co vòi lại, phủ đường phút chốc im phăng phắc. Sau đó Sương Tam Bát bình thản đáp:
- Tên con là Sương Tam Bát.
Quan huyện giật mình. Trước tiên Sương Tam Bát nói quê quán lai lịch, sau đó bẩm:
- Quê con mất mùa, đến Hàng Châu, rồi lại tới Hồ Châu kiếm sống. Hôm ấy con ngồi khâu giày bên sân khấu, người khác giết, con đi lấy lại dao. Nếu như đổ cho con giết người, thì con cũng là người căm ghét Ngụy Giám, anh ta giết cũng như con giết. Nếu đổ cho con là người Hồi Sa Nhĩ Trừng thì con có chết cũng không nhận. Con sao có thể xứng đáng chịu tội và con cũng không thể mang danh một người để nhận lấy một việc làm tốt đẹp, chỉ vì bất bình mà giết gian tặc. Tri huyện nghe xong trợn mắt nhìn Tam Bát, ông nghĩ: "Thiên hạ xưa nay chưa có người nào thật thà, rành mạch như thế". Rồi ông gọi người đứng đầu đội kịch lên khai báo. Tỉ Luật Lũng khai:
- Xét thấy Sa Nhĩ Trừng tức là Sương Tam Bát đã có mối thù với diễn viên Thu Tam từ trước. Đúng lúc Thu Tam biểu diễn, hắn đã giả làm người khâu giày, rồi dùng dao giết Thu Tam. Thật đau đớn thay! Bị bất ngờ Thu Tam không chống cự nổi nên chỉ phân trần, đến nỗi những người xung quanh không cứu được Còn vì sao hai bên thù nhau thì không ai biết được. Trước huyện đường thẩm vấn, thì Sa Bát nói rằng, đã có mối thù từ lâu với Ngụy Yêm, do phẫn nộ mà giết thì quả là vụ án có thể có(1). Hắn khai quanh co, lẩn trốn đến cùng, đúng là đùa giỡn với mạng người. Bản huyện nên căn cứ vào năm chứng cứ mà địa phương nhìn thấy sau đây: hung khí giết người là con dao đóng giày; tờ giấy rơi bên cạnh thi thể là kích thước giày; tên người nhận thư là Sa Nhĩ Trừng, họ Sa không phải là họ của người Hoa mà là họ của người Hồi. Hơn nữa lúc ấy hắn đang cầm con dao còn dính máu! Cho nên Sương Tam Bát đích xác là tên lúc nhỏ của Sa Nhĩ Trừng, là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
(1) Triều Tống chống Kim, danh tướng Nhạc Phi bị hạ ngục do Tần Cối vu cáo. Hàn Thế Trung phẫn uất vặn hỏi, Tần Cối nói: việc Nhạc Phi làm phản e rằng có thể có. Xem Từ điển điển cố Trung Hoa, NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2002.
Tam Bát cung khai từng ở trong quân ngũ, theo luật Vệ quân phải tử hình, theo lệ của quân lính hãy tống giam chờ quyết định sau.
Ngay tại công đường, quan huyện xem xét lại hồ sơ thẩm vấn. Sau đó gọi các làng lại dặn dò, cấm từ nay về sau không được diễn kịch, làm phiền nhiễu dân chúng. Mọi người ra về.
Lại nói Thái Bình Tuyền đến nhà họ Tưởng, Kỳ Tu mới biết Nhĩ Trừng không gặp Thái Bình Tuyền: Kỳ Tu bực tức tới huyện Thượng Nguyên xin được chuyển đổi lương thực thành bạc và chỉ cần một người giúp việc áp tải bao bạc đến Thiên Tân giao nộp. Kỳ Tu đuổi Bình Tuyền đi, ở nhà chờ Nhĩ Trừng. Ai ngờ qua tết Đoan Ngọ mà vẫn không nhận được thư. Không thể kiên nhẫn chờ đợi được nữa, Kỳ Tu thấy cô đơn buồn tẻ, nên đã cùng bạn bè mang hơn năm trăm tấm lụa tới kinh đô bán, lại mang thêm hai ngàn lạng bạc, vàng và hạt châu khâu vào chiếc mũ da cũ đựng trong chiếc hộp để đi lại thuận tiện. Kỳ Tu ăn mặc theo kiểu một viên quan thông phán rời khỏi kinh đô. Suốt dọc đường bình yên vô sự, nhung đến vùng Túc Thiên, đột nhiên gặp người của Đại Vương cướp hết của cải. Cộng tất cả số tiền của người cùng đi lên tới hàng vạn đồng. Chán nản và buồn bã nên mỗi người bỏ đi một ngả. Song chỉ có Kỳ Tu liều lĩnh đòi gặp kẻ cầm đầu xin lại chiếc hộp mũ cũ. Bọn cướp thấy Kỳ Tu cứ nằng nặc bám theo, nói rằng thằng ngốc này muốn nộp mạng đây. Trên đường đi Kỳ Tu chẳng thấy một bóng người, chỉ thấy núi cao chập chùng, cây cối ngút ngàn, âm u. Đi được ba bốn dặm thì chúng dừng lại, nhìn về phía Tây thấy một chiếc đầm lớn, đó là sào huyệt của chúng. Đinh Dực là tên cầm đầu toán cướp, người Tứ Châu, hiệu là Đinh Trương phi. Hắn là một tên liều lĩnh, chỉ vì đói quá mà trở thành cướp:
Lông mày dựng ngược, khắp mình bắp thịt nổi cục như nắm tay.
Mắt cú râu tôm, gân nổi cuồn cuộn Không phải La Sát(1) ba đầu mà quỷ nhìn mất vía
Chẳng là Na Tra(2) tám tay, mà thần cũng kinh hồn.
(1) La Sát (tiếng Phạn): La Sát Bà, tên một loại quỷ.
(2) Na Tra: tên một nhân vật trong thần thoại.
Gã Đại Vương ngồi chễm chệ, của cải chúng mới cướp được bày ra la liệt trên mặt đất. Chiếc hộp da còn khóa, vẫn nằm đó. Mồm hắn quát tháo, nhưng tay hắn lại thu dọn tất cả những thứ vừa bày ra. Hắn thấy Tưởng Kỳ Tu là người lạ; khăn áo lại chỉnh tề, liền hỏi bọn tay chân:
- Anh này cần gì?
- Tôi vốn là học trò, - Kỳ Tu nói, - không ham của cải danh lợi. Vì có người thân tại kinh thành, nên đáp thuyền đi thăm. Tất cả gấm đoạn đều xin hiến dâng hết tho các ông. Song cái hộp da đựng khăn, trong đó có thư từ, khẩn thiết xin ông hoàn lại.
- Chúng tôi đều có gia đình. - Tên tướng cướp nói. - Vùng Sơn Đông bị Bạch Liên giáo quấy nhiễu, bọn tham quan ô lại vơ vét của cải, khiến cho người dân no đủ bị vạ lây. Vả lại mất mùa đói kém, cha con li tán mỗi người một ngả, buộc chúng tôi phải đi vào con đường này. Tôi thấy anh dáng vẻ yếu đuối, nhút nhát, hẳn là đến kinh thành mưu tính việc làm quan. Song làm quan thì phải ác độc, không có âm đức phù trợ. Tôi khuyên anh đừng đi nữa, ở đây ta có lương thực mà không quân, có quân lại không có tướng. Muốn làm những việc ra trò mà không được. Chúng tôi cung kính mời đấng hiền giả ở lại đây làm chủ hội.
Nói xong gã tướng cướp cúi đầu vái lạy, Tưởng Kỳ Tu cuống lên, rối rít đáp lễ. Kỳ Tu nghĩ: "Tuy là kẻ lục lâm, song ăn nói nhã nhặn, đứng đắn. Nếu ta bỏ đi thì chiếc hộp da sẽ mất, chi bằng cứ ở lại tìm cơ hội khác". Thế rồi anh khai rõ họ tên. Kỳ Tu nói:
- Đã nhận nhau, thì phải làm lễ ăn thề.
Sau đó họ thắp hương nến, bẻ tên bái lạy, thề trước mọi người rằng:
“Đàn bà không được lên núi, trẻ mồ côi phải thả, thuế thương nghiệp tăng ba lần. Khi chiêu hàng thì giải tán". - Tuyệt, tuyệt lắm, - Đinh Dực cười nói, - câu cuối cùng rất hợp ý ta. Những tang vật trước đây đều phải ghi chép lại hết.
Mọi người cười rộ lên. Chỉ có Kỳ Tu ngồi im một chỗ, bởi anh không thể quên được người thân.
Sa Nhĩ Trừng tới Bắc Kinh, tìm chỗ ở. Vừa đặt hành lí xuống, anh lập tức đi khắc một chiếc bài vị thờ, trên đó ghi:
"Người thợ giày nghĩa sĩ", đặt lên bàn thờ, rót rượu thắp hương thề rằng, suốt đời không quên ơn người đã chết thay mình. Sau khi làm việc động trời ấy, trên đường bỏ chạy Nhĩ Trừng kết thân với một số người, tới Bắc Kinh nghe thấy Trương Công . giữ chức Phượng tư Bộ Binh đang tuyển người, Nhĩ Trừng mua sắm lễ vật nhờ Vãn Sinh đưa danh thiếp, được Trương Công gọi vào gặp. Trương Công nói:
- Ông hạ cố tới đây, tôi cũng quên mất quan huyện thân thiết thế nào, ông từ xa tới chắc có điều gì chỉ bảo?
Thấy Trương Công bao dung, Sa Như Trừng mới nhẹ nhàng thưa:
- Tôi là bạn học của Tưởng Kỳ Tu, là anh em đằng cô của Vãn Sinh. Nghe thấy đại nhân nạp nhân tài, ngay cả những người tài hèn đức mọn cũng không bỏ sót. Tôi rất may mắn được anh họ là Vãn Sinh dẫn tới gặp ngài, thành thực hiến dâng chút tài nhỏ mọn, xin ngài rộng lượng.
Trương Công thấy anh nói năng nhã nhặn, mặt mũi sáng sủa tươi tỉnh, bèn nói:
- Ông tài cao lại còn trẻ khỏe, nếu muốn làm quan, tôi xin sẵn sàng tiếp nhận.
Rồi Trương Công vui vẻ mời Nhĩ Trừng dùng trà. Sau đó lại tiễn chân ra tận cửa. Nhĩ Trừng vội vàng biếu ông túi lễ vật, gồm hai đôi giày thêu, hai tấm the Hồ.
Đến ngày mồng một tháng chín, Trương Công tuyển Sa Nhĩ Trừng (lúc này đổi họ tên thành Hải Nguyên) làm Đồn bô tổng ti trấn Kế Châu, trị sở tại Kế Môn. Đây là vùng có quân lính tinh nhuệ, lương thực đầy đủ, bảo vệ cho kinh sư, tương đương với chức Tư đạo. Chuyên xét xử những đơn từ của dân chúng, có súng và cờ, trông rất oai vệ. Vì cách kinh thành không xa, nên ngay hôm ấy Nhĩ rùng trở về kinh thành lĩnh giấy tờ đích thân tạ ơn. Trương Công nói:
- Nếu có cơ hội, sẽ thăng chức.
Nhĩ Trừng vô cùng biết ơn Trương Công, trở về nhiệm sở. Thật là:
Trượng phu, thời vận nay đã gặp
Thương người khổ sở chốn Tần Quan.
Lại nói về vụ án Sương Tam Bát. Sau khi đã định tội xong, anh không hề bị đánh đập, mà lại được khâu giày trong nhà tù. Trong tù mọi người gọi anh là nghĩa sĩ oan khuất, và lại còn được mọi nơi mời cơm rượu, được ăn uống thỏa thích. Sầm Công định tội xong tường trình lên cấp trên, được trên phê y án. Song ông lại đề phòng một quan huyện khác đến thay sẽ bác bỏ quyết án này. Bởi thế ông điều tới đồn quân ở trấn Bảo Định. Do tai bay vạ gió, lại khảng khái nhận tội, nên Sa Bát được Sầm Công cảm mến. Ông dặn dò hai người lính áp giải cẩn thận, và thưởng cho mỗi người mười lạng bạc lộ phí, ngay cả Sương Tam Bát cũng được thưởng năm lạng. Sương Tam Bát tới huyện đường khóc lóc thảm thiết, thề rằng nhất định anh sẽ đền đáp công ơn trời biển của Sầm Công. Do quen biết nhau nên hai người áp giải đã tháo cùm chân tay cho Sương Tam Bát, cất văn thư sai anh đi làm lính vào túi. Rồi mỗi người mang một túi hành lí, đáp thuyền tới Tô Châu. Thuyền chở khách buôn về Bắc Kinh đầy ắp, ba người thương lượng với chủ thuyền, cuối cùng họ phải ngồi vào khoang bếp. Đi mất nhiều ngày, thuyền vừa tới vùng Túc Thiên, thì từ xa thấy có người giơ tay ra hiệu. Khách hàng hiểu ngay, nói là hàng miền Nam . về Bắc Kinh, theo lệ chỉ nộp một đồng. Thuyền áp sát, một bọn người, mặt mũi hung ác dữ tợn, đội mũ nhọn đi ủng nhảy lên thuyền, xét nét lục soát từng khoang. Sau đó đến khoang lái, thấy ba người nói tiếng miền Nam, chúng hỏi đây là hàng gì. Chủ thuyền không rõ, nên chỉ nói lơ mơ rằng: "Tôi tưởng là không có hàng". Cho rằng đây là hàng lậu đưa về Bắc Kinh, nên chúng nhắc thử những bao hành lý. Thấy có một bao rất nặng. Họ đâu biết rằng, trong đó là đồ nghề và chiếc cùm của anh thợ giày Tam Bát, rồi kêu toáng lên: "Bọn này lậu thuế”. Mặc cho ba người phân trần, họ cứ lôi xềnh xệch lên bờ.
Ba người bị bắt đưa tới trại. Đinh Dực và Tưởng Kỳ Tu quát thét đưa ra xét xử. Tám tên đàn em mở hành lí ra xem, thấy một phong thư, đệ lên Tưởng Kỳ Tu. Tưởng Kỳ Tu bóc ra xem, vô cùng kinh ngạc nói:
- Sa Nhĩ Trừng đâu, xin mời lên gặp ngay!
Sương Tam Bát nghe thấy thế, phủi quần áo đứng dậy nói:
- Thưa ngài, phạm nhân đây ạ.
- Nói láo. - Tưởng Kỳ Tu nói. - Sa Nhĩ Trừng là bạn học của ta, anh ấy mang tiền đến Hồ, nay không thấy tin tức gì, hóa ra là tên này giết người rồi mạo danh.
Hai người áp giải cuống lên, song Sương Tam Bát bỗng vỡ lẽ, lần lượt thưa lại tỉ mỉ sự việc xảy ra. Sương Tam Bát nói:
- Chỉ vì thế mà con bị khép tội, bắt sung vào lính. Giấy tờ phán xét có thể xác minh những điều con nói là sự thật.
Tưởng Kỳ Tu xem đi xem lại, nói:
- Người ấy rõ ràng bị Sa Nhĩ Trừng giết, nhưng lại giết người đóng giả Ngụy Giám.
Đinh Dực thấy thế rất thương Sương Tam Bát, bèn khuyên Tưởng Kỳ Tu giết hai người áp giải, rồi thả Sương Tam Bát. Tam Bát nghe xong khấu đầu xin tha chết cho hai người này. Tưởng Kỳ Tu nói:
- Lẽ nào lại làm như thế?
Sau đó gọi Tam Bát ra sau nhà dặn rằng:
- Ta hiểu ra rồi, nếu ta tha anh, thì cũng thật là khó xử, thấy anh là người nghĩa khí, không muốn hại người áp giải. Thôi thì anh hãy tới đó, tìm cơ hội khác. Tên tôi là Tưởng Kỳ Tu, giám sinh Nam Kinh, quê ở Thượng Nguyên.
Kỳ Tu nói lại nhiều lần, Tam Bát nhớ như in. Rồi sai người dọn cơm rượu cho ba người ăn, thu xếp hành lý, cử người đi theo hộ tống một đoạn đường.
Ba người được tha, đi suốt đêm tới Bảo Định. Vệ quan ở Bảo Định tiếp nhận văn thư, thấy văn thư đã bóc, sợ rằng bị đánh tráo, kiên quyết không nhận. Ba người thưa rằng:
- Giữa đường gặp bọn cướp, chúng đã bóc ra kiểm tra.
Vệ quan biết đây là bọn Đinh Trương Phi, thế rồi họ mới nhận.
Ở quân doanh, Tam Bát chịu khó làm tròn phận sự. Khi rỗi rãi lại khâu giày, nên cũng có miếng ăn. Một hôm, Cục ti đồn Bảo Định gửi văn thư xuống đồn ti Ký Châu về việc khai khẩn đất để đảm bảo lương thực cho quân lính. Tam Bát lĩnh văn thư ra đi, ba ngày ba đêm tới Ký Môn, đó là dinh thự của Sa Nhĩ Trừng. Trước hết anh báo tên, sau đó chờ dinh thự bắn ba phát súng thị uy, rồi quát tay chân mở cửa mới vào. Lúc sắp kết thúc, Sa Nhĩ Trừng mới gọi đến Tam Bát. Sa Nhĩ Trừng bảo anh quỳ xuống, chờ lĩnh văn thư mang về. Sa Nhĩ Trừng đăm đăm nhìn anh một lúc lâu, nghĩ bụng: "Làm sao mà anh ta lại đến đây?”. Rồi hỏi rằng:
- Anh tên gì?
- Sa Nhĩ Trừng. - Tam Bát trả lời.
Thấy lạ, Sa Nhĩ Trừng toát hết mồ hôi, gật đầu lia lịa, rồi lập tức sai đóng cửa.
Hai người ra nhà sau, Nhĩ Trừng hỏi:
- Anh không phải là Sa Nhĩ Trừng, làm sao anh lại đến đây?
Tam Bát thuật lại tỉ mỉ việc người khác giết người, song anh lại phải chịu tội cho Sa Nhĩ Trừng nghe, rồi lấy từ trong túi ra một tờ giấy quan huyện luận tội đã nhầu nát. Sa Nhĩ Trừng xem xong, bước tới quỳ xuống lạy rồi thốt lên:
- Nghĩa sĩ! Nghĩa sĩ!
Tam Bát hết sức kinh ngạc, không hiểu vì sao. Nhĩ Trừng lệnh tay chân dọn rượu cho hai người ngồi uống. Tam Bát không dám ngồi. Nhĩ Trừng nói:
- Nghĩa sĩ cứ ngồi xuống, tôi sẽ kể rõ cho nghĩa sĩ nghe.
Thế rồi anh kể lại chuyện Tưởng Kỳ Tu ở Nam Kinh nhờ tới Hạ Chung Minh, Thanh Đức, Hồ Châu mua sắm lễ vật. Hôm ấy khi xem kịch, tôi bỗng nổi giận giết Ngụy Yêm, rồi chạy trốn về Bắc Kinh, đổi họ là Hải. Ngài là người nghĩa sĩ, lúc nào tôi cũng nghĩ tới việc đền ơn. Trong nhà vẫn đặt bài vị cúng ngài, đề Nghĩa sĩ thợ giày, để ghi nhớ ơn ngài.
Tam Bát bỗng nhiên nghe nói tới Tưởng Kỳ Tu, rất lấy làm lạ hỏi:
- Có phải Tưởng công là giám sinh ở Thượng Nguyên không?
- Đúng đấy, - Nhĩ Trừng đáp, - sao ngài biết?
Tam Bát thuật lại tỉ mỉ chuyện ở Túc Thiên cho Nhĩ Trừng nghe, và bảo rằng trước khi ra đi, Tưởng Kỳ Tu nói rằng: "Tôi là Tưởng Kỳ Tu, giám sinh Nam Kinh, người Thượng Nguyên" và nói đi nói lại rằng: “Hình như ông ngẫu nhiên vào rừng làm cướp”. Nhĩ Trừng thở dài nói:
- Phải lập tức đi cứu ngay.
Sau đó Nhĩ Trừng giao văn thư cho Tam Bát mang về, anh còn viết một bức thư riêng cho Vệ quan. Trong đó gói mười hai lạng bạc, cho Vệ quan thuê quân canh giữ thay cho Tam Bát để trở về Ký Môn. Vệ quan xem thư, lập tức mang bạc đi thuê người trực thay, để Tam Bát lên đường đến trị sở Ký Môn. Nhĩ Trừng lại viết một bức thư, sai người đến Trương Công. Trong thư có ghi: Tưởng Kỳ Tu mang tiền tới kinh đô, bị bức làm cướp, hơn nữa Túc Thiên là bến đò hiểm yếu, phải lập tức gọi bọn cướp ra đầu hàng, để tránh tai họa, chấm dứt việc ách tắc giao thông Nam - Bắc. Trương Công biết được, lập tức cấp giấy cất nhắc Nhĩ Trừng làm Thao Bổ ti Dương Châu, lại viết thư riêng cho Nhĩ Trừng, tiện đường về nhiệm sở cứu Kỳ Tu khỏi tay bọn cướp. Nếu gọi họ ra hàng, không nên viết Kỳ Tu là tướng cướp vào tờ chiêu dụ, vì rằng như thế sẽ làm cho ông và con cháu chịu nhục suốt đời. Nhận được thư, Nhĩ Trừng than rằng:
- Quân Tử thương người, tấm lòng của văn nhân sao mà chu đáo đến như thế.
Thế rồi ông vội vã thu xếp lên đường. Gần tới địa phận Túc Thiên, thấy những tên cướp đứng đợi. Đinh Trương Phi dặn dò tay chân rằng, nếu có thuyền quan qua lại, không theo lệ cũ, mà hô là "Xin thuyền quan ép vào bờ để thưa chuyện". Tam Bát cuống lên, vội vàng nói:
- Đúng, chúng tôi đang muốn gặp ngài Đinh Dực, các ông không cần phải vất vả.
Sa Nhĩ Trừng thấy thế, mặc thường phục ra khỏi khoang thuyền nói:
- Thủy thủ hãy ép thuyền vào bờ, tôi đi thăm một người rồi sẽ trở lại.
Những tên cướp thấy trong lời nói của ông đã hé mở ra một điều gì đó, chúng không dương oai giễu võ nữa. Vào tới sơn trại, Kỳ Tu và Đinh Dực bước ra. Thấy Kỳ Tu, Nhĩ Trừng ôm đầu khóc rống lên. Trước đây hai người đã được Tam Bát kể lại, nên ít nhiều biết được chuyện của nhau. Thế rồi, lúc đó Tưởng Kỳ Tu mới kể lại tỉ mỉ chuyện mình vì sao phải sa vào sơn trại cho Nhĩ Trường nghe.
Đinh Dực biết, hiện nay Sa Nhĩ Trừng đang nhậm chúc ở phủ quan, lại đối xử chu đáo với mình, tự nhiên nước mắt trào ra, rồi nói:
- Tuy núi non cách trở, nhưng hai ông đã được gặp lại nhau, còn tôi thì không có một người thân đến.
Mọi người an ủi Đinh Dực, rồi mở tiệc ăn mừng. Nhĩ Trừng còn khuyên Đinh Dực tốt hơn hết nên nghe theo lời dụ hàng của triều đình. Thấy ý của Nhĩ Trừng như thế, Đinh Dực nói:
- Tôi xin nghe theo triều đình, và nguyện sẽ đi nấu cơm cho các quan. Vả lại, ra trình diện tuy nói là tự sửa đổi mình, song đã mang tiếng là một tướng cướp, thì cuối cùng vẫn bị khinh thường.
- Trương Công cũng có ý cho sai quan đến chiêu hàng. - Sa Nhĩ Trừng nói. - Tôi cũng thấy được nguyện vọng của ông rất hợp với ý kiến của Trương Công. Hiện nay Bộ Binh đang cần sai quan, nếu ông đảm nhận được việc này thì tôi sẽ giúp.
Đinh Dực rất mừng, nói với Tưởng Kỳ Tu:
- Được rồi, ta nghe theo sự sắp đặt của ngài Sa Nhĩ Trừng, thật khó có được một người tri kỉ đến thế. Cuối cùng nhất định chúng ta sẽ được dùng.
Nhĩ Trừng lại nói ngay:
- Hiện nay chỗ ông có bao nhiêu người ngựa và của cải phải khai thật rõ.
Ngày hôm sau, Nhĩ Trừng cùng với Đinh Dực và Tưởng Kỳ Tu thương lượng. Tưởng Kỳ Tu nói:
- Hiện có hai ngàn người, của cải còn rất nhiều. Có thể phân phát cho các hào kiệt.
Rồi lập tức cho gọi mọi người đến nghe mệnh lệnh:
“Chúng ta là anh em kết nghĩa. Tuy khác họ, nhưng còn thân thiết hơn tình ruột thịt. Lúc đầu vì Bạch Liên giáo ác độc, phủ quan tham ô, đã bức bách chúng ta phải đến đây. Nay được phủ quan thương xót, song không thể nào khác được, triều đình cho phép chúng ta tự sửa mình, chúng ta không nên theo con đường này nữa, tất cả hãy trở về quê làm ăn lương thiện. Của cải mà bấy lâu nay tích lũy được, ta chia hết cho mọi người. Ai bảo ta là một tướng cướp tham lam, vô liêm sỉ, tất phải chết trước gươm giáo".
Tất cả đều rơi nước mắt, nguyện sẽ theo đúng lời thề ước. Rồi giết trâu mổ lợn, cùng nhau ăn uống. Hôm sau mọi người gói hành lí hợp nhau thành từng tốp, đi về các ngả tìm đường sống.
Mấy người thân thiết của Đinh Dực thu dọn của riêng, thiêu hủy đồn trại, rồi lên thuyền cùng Sa Nhĩ Trừng trở về nhiệm sở. Về tới Dương Châu thì chưa đầy một ngày, đã thấy thuộc quan ra đón tiếp. Tam Bát, tên chính là Cát Kiệm được bổ làm Trung quân. Đinh Dực đổi tên thành Can Dực làm Bả Tổng. Còn Kỳ Tu từ biệt Sa Nhĩ Trừng và mọi người lên thuyền trở về gia đình. Cả nhà thấy Kỳ Tu trở về vô cùng mừng rỡ, rồi anh kể cho mọi người nghe chuyện đã xảy ra như thế nào. Nghĩ Nhĩ Trừng và Tam Bát là ân nhân cứu mạng mình, không quên được ơn này, Kỳ Tu đã viết ngày sinh của Sa Nhĩ Trừng, Tam Bát đặt ở một nơi trang trọng và cứ những ngày đó cả nhà thắp nến hương bái tạ.
Các bạn thân mến, Cát Kiệm là một người thợ giày, chỉ vì coi trọng nghĩa khí mà phải vất vả gian truân, để rồi mang vạ vào thân. Dám chết thay cho Sa Nhĩ Trừng, bảo toàn tính mạng cho Tưởng Kỳ Tu, lại cứu Đinh Dực ra khỏi cuộc đời tướng cướp, khai thông con đường giao thông huyết mạch. Đó là một con người kì lạ xưa nay, làm nên những chuyện kì lạ mà cổ kim hiếm thấy. Tôi chỉ xấu hổ, ngòi bút của mình vụng về không ghi hết được sự kì lạ trong cuộc đời của ông. Thơ rằng:
Khí phách sáng rục tựa cầu vồng,
Kì tích lẫy lừng lưu vạn cổ.
Tiên quan triều Hán bao giờ lại,
Hiểm nguy đường Thục vén khói mây.
Ngàn dặm tiếng đàn bay mất hạc,
Trời xanh guốc gỗ ngóng chim bay.
Mây giăng đường đá nghiêng nghiêng gác,
Rừng cây sông chảy nước quanh co.
Giấu dao mới biết anh hùng chí,
Thông minh mới biết cổ nhân tài.
Bài thơ do Lô Luân đời Đường sáng tác, khi ông tiễn bạn tới làm quan ở Tân Đô. Lô Luân đã ca ngợi bạn mình là quan thanh liêm, giỏi giải quyết công việc, đáng được người đời tin cậy. Nhân đó ông nghĩ tới cuộc sống xưa nay không lúc nào yên ổn. Vì sao thế? Vì quan cai trị không thanh liêm và không có tài trị dân, khiến cho dân không yên tâm làm ăn, mà cứ phải kiện cáo nhau. Các bạn thân mến, mọi việc trên đời này đều dựa vào những bậc trưởng giả đội mũ the đen. Trong đó lại có nhiều người không đủ tiêu chuẩn: người có đức lại không có tài; người có tài lại không có đức. Bởi thế xã hội ngày càng rối bời như canh hẹ. Những viên quan này, trừ bọn tham lam, tàn ác, ngu xuẩn, bất lương ra, vẫn còn một số người thông minh học vấn uyên thâm. Song đến khi xử án thì chẳng ích lợi gì. Chỉ có người biết lặng lẽ suy tư, chân thành, đối xử công bằng không thiên vị, không dựa vào học vấn, sự thông. minh, mới có được những quyết đoán thông minh và thỏa đáng. Nếu như đầu óc không thông minh, quyết đoán chỉ dựa vào sự vô tư, thì dễ nổi nóng, cuối cùng dẫn đến nhiều điều oan khuất. Người dân gặp phải tính khí ấy của họ, sẽ chịu không ít rủi ro. Thật là:
Quan nổi lôi đình khi xử kiện,
Dân đen oan ức biết kêu ai.
Quan lớn khoe rằng tiền chẳng lấy, Hình phạt răn đe tội kiếp người.
Xem ra, làm quan quả thực là rất khó. Xưa nay bậc đế vương trị thiên hạ chỉ thích nói câu “quan là cha mẹ dân". Song thực ra phủ quan ngày nay ai chịu coi dân là con cái.
Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ dưới đây để các bạn nghe.
Vào thời Thành Hóa(1) trong phủ Kiến Ninh, Phúc Kiến, có một nhà giàu chuyên tích trữ hổ phách, tê giác, trầm hương, và coi trọng của cải. Ông ta là Bình Tất Dụng, thông gia với một cử nhân tên Tất Vinh. Tất Vinh lại là người tham lam, thấy đồ vật của người, bất kể là tốt hay xấu, bằng giá nào cũng phải xem cho bằng được. Một hôm tuyết rơi rất dày, Bình Tất Dụng đội một chiếc khăn nhung. Vì là một thứ trang phục quý, nên bên trên ông ta lại đội thêm một chiếc mũ lông chồn trắng như tuyết, lông dài khoảng hai tấc. Không ngờ Tất Vinh nhìn thấy hỏi:
- Ông Bình! Cái mũ này rất quý, không biết ông mua bao nhiêu, tôi cũng muốn mua một chiếc.
(1) Thành Hóa: niên hiệu Hiếu Tông thời Minh.
- Đây là mũ của người khách bán nhân sâm Liêu Đông mang tới. - Lão Bình nói. - Tôi phải mua mất bốn trăm lạng.
- Loại mũ này là của những vương hầu phò mã đội, - Tất Vinh nói, - khó mà mua được. Quả thực tôi rất quý.
Ngày hôm sau, Tất Vinh gói tám mươi lạng bạc, số bạc này một nửa lẫn đồng và sắt, sai người mang đến cho lão Bình, đòi mua lại chiếc mũ, nếu không đủ sẽ đưa thêm. Lão Bình xem xong cười nhạt nói:
- Đây là một chiếc mũ đặc biệt, tôi rất quý. Đội nó gió thu không thể lọt qua, tôi sẽ dùng nó suốt đời. Nếu như bán cho Tất Vinh thì sao tôi lại phải chịu lỗ ba trăm hai mươi lạng bạc. Thôi thì, anh hãy mang bạc về.
Người nhà trở về nói lại với Tất Vinh, Tất Vinh lại đưa thêm mươi hai lạng nữa. Cứ thế đi lại rất nhiều lần, cho tới khi tăng tới một trăm mười bảy lạng ba, thậm chí phải bỏ hết cả trâm, đinh hương, ngà voi, vòng nhẫn, lão Bình vẫn khăng khăng đòi đúng bốn trăm lạng, không thiếu một li.
Tham lam nhưng không được, Tất Vinh rất buồn. Tất Vinh có một người cháu ngoại, tên là Tuyên Anh được cử trông coi việc lễ. Thấy lão Bình cứ một mục khăng khăng như thế, Tuyên Anh chẳng nghĩ gì đến tình thân, bàn với Tất Vinh chờ sang năm.
Tới mùa đông năm sau, trời rét buốt, lão Tất nói với Tuyên Anh:
- Ngày mai ta đến nhà thông gia cúng, cháu hãy mượn giúp ta chiếc mũ ấy.
Lão Bình đành phải cho mượn. Quả nhiên chiều hôm sau lại mang tới trả. Ai ngờ, Tuyên Anh là một tên xỏ lá. Cách đó nửa năm hắn đã đệ đơn lên huyện, khai mất chiếc mũ. Sử Bi là quan xử kiện, người Quảng Tây, xuất thân từ tiến sĩ. Sử Bi cũng là một tên tham của. Trước tiên ông ta cho phép Tuyên Anh đi tìm. Một hôm lão Bình đội chiếc mũ đi nghênh ngang ngoài phố, Tuyên Anh nhìn thấy túm lấy áo, kêu toáng lên:
- Cướp cướp làng nước ơi, cướp, cướp!
Hai người cãi nhau, giằng co mãi, rồi đưa nhau lên huyện. Lão Bình cứ kêu oan. Quan huyện thét.
- Bắt lấy, đưa vào đây!
Hai người quỳ trước huyện đường. Tuyên Anh bẩm rằng:
- Năm ngoái tôi bị mất mũ, đã từng đệ đơn kêu lên huyện. Chiếc mũ ấy làm bằng da lông chồn trắng. Song vẫn chưa tìm thấy. Nay, lưới trời lồng lộng, lại thấy tên trộm này đội.
- Con là Bình Tất Dụng, - lão Bình thưa, - là người dân lương thiện, trong sạch. Chiếc mũ này do chính con mua.
Quan huyện hỏi, hiện thiếc mũ ấy đâu. Lão Bình lấy trong tay áo ra đệ lên quan. Quan huyện xem xong kinh ngạc nói:
- Từ khi tôi làm quan đến giờ, chưa từng thấy chiếc mũ nào như thế. Đây là một thứ cực kì xa xỉ.
Quan huyện cũng thèm muốn chiếc mũ ấy, bèn nói:
- Ăn cắp là trọng tội, đơn kêu mất cắp không phải chỉ một thứ. Nếu vụ này điều tra ra sự thực, thì các vụ khác cũng đúng là ngươi lấy. Anh có nhớ chiếc mũ này có đặc điểm gì không?
- Toàn là màu trắng. - Lão Bình nói. - Không lẫn một loại lông nào. Bên trong có lần vải lĩnh hoa trắng, chỗ che-tai bên trái có dính một vết máu, đó là do tai con bị xước gây ra.
- Dấu vết ấy ai cũng nhìn thấy, - Tuyên Anh nói, - ai chả nói được! Mũ của con đánh dấu vào một chỗ kín, đó là một dấu hình vuông, nét chữ mầu đỏ, ghi là "Tuyên Anh chi ấn" ở phía trong vải lĩnh, chỗ giáp lai, xé đường chỉ ra thì sẽ thấy.
Quan huyện sai người xé đường chỉ ra, quả đúng như thế. Quan huyện kêu to:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Đúng là có một dấu tên hình vuông, ghi là "Tuyên Anh chi ấn".
Lão Bình cứng họng, không sao nói được, đành chờ phúc thẩm. Đúng là:
Dân chúng đáng phải khổ
Có quan chẳng có ngày.
Quan Kính là quan sát viện, người Triết Giang, hiệu là Thiết Sơn. Ông là người nghiêm minh chính trực và tài giỏi. Đúng vào hôm xét xử vụ kiện Bình Tất Dụng, thì hôm đó Quan Kính tới theo dõi. Khi xét hỏi việc này, ông nhìn kĩ thần thái của hai người. Thấy lời lẽ của lão Bình không giống giọng nói của trộm cướp, lẽ nào chính hắn đi ăn trộm, lại công khai đội chiếc mũ mình đã ăn trộm!
Trở về nha môn, ông suy nghĩ rất kỹ, rồi lẩm bẩm một mình: "Có manh mối rồi! Tìm ra manh mối rồi!". Ngày hôm sau, cửa công đường mở từ rất sớm. Ông viết giấy gọi phạm nhân Bình Tất Dụng, quan huyện Kiến Ninh, đồng thời bắt nguyên cáo Tuyên Anh, lập tức tới tòa xét hỏi. Tri huyện cuống lên, hồn bay phách lạc, mang chiếc mũ lên Sát viện để điều tra.
Quan Kính sai người mang chiếc mũ đặt lên bàn, gang tay đo thấy dài chín tấc. Sau đó nhìn kỹ đầu hai người, xem to nhỏ thế nào. Rồi lại xem dấu tên ở mặt trong, đúng là có đóng dấu kiềm thật. Sau đó hỏi Tuyên Anh:
- Chiếc mũ này ở đâu ra?
- Do bố vợ con làm quân môn tại Thẩm Dương mang về cho. - Tuyên Anh trả lời.
- Anh đã đội chiếc mũ này chưa?
- Khi còn đi học con thường đội, nên đã đóng dấu vào đó để ghi nhớ.
Quan Sát viện lại hỏi Tất Dụng:
- Chiếc mũ này ở đâu ra?
- Con mua của người khách bán nhân sâm, - Tất Dụng trả lời - mất bốn trăm lạng bạc.
- Các anh hãy mang mũ áo mặc hàng ngày vào đây. - Quan Sát viện nói. - Bất kể là vuông hay tròn hoặc màu sắc nào cũng được.
Hai người ra ngoài, bảo người nhà lấy mũ áo. Quan Sát viên gọi hai người vào rồi lệnh cho họ mặc áo đội mũ trước mặt ông. Lão Bình mặc áo nhung, đội mũ nhung. Còn Tuyên Anh đội mũ the, mặc áo the màu xanh da trời. Quan Kiểm sát viện nghĩ: "Mặc áo đơn, chít khăn thì không phải là loại hàng cùng bộ". Sau đó ông gọi Bình Tất Dụng, đưa mũ cho lão Bình đội, thấy ông đội rất vừa. Tiếp đó ông lại đưa mũ cho Tuyên Anh đội. Thật đáng thương, đầu Tuyên Anh nhỏ khăn thấp, mũ quá rộng, trùm xuống tận mắt. Quan Sát viện cười rộ lên nói:
- Chiếc mũ này không phải của anh.
- Hiện còn dấu vết bên trong. - Tuyên Anh nói. - Quả là Bình Tất Dụng lấy cắp rồi về nới rộng ra.
Quan Sát viện cầm mũ xem đi xem lại, thấy đường may vẫn còn nguyên vẹn, con dấu thì đóng trùm lên trên đường may. Ông đùng đùng nổi giận quát:
- Hãy mang kẹp ra đây ngay!
Tuyên Anh bị kẹp, không chịu nổi kêu lên:
- Ngài tha tội! Con xin khai thật, không phải con can phạm. Vốn là cậu con muốn mua chiếc mũ ấy, song Tất Dụng không bán, cậu con đành phải giả vờ mượn mũ đi phúng viếng đám ma, con đã xé bên trong, đóng dấu tên con vào đó, rồi viết đơn thưa lên quan, vu tội cho ông ấy.
Quan Sát viện gọi người đánh cho năm mươi roi, giải lên phủ Thụ giám định tội. Sau đó hỏi cậu hắn ta là ai. Tuyên Anh nói:
- Đó là cử nhân Tất Vinh.
Rồi ông trả lại mũ, thả Tất Dụng về. Quan Sát viện lập tức sai người gọi cử nhân tri huyện vào mắng: "Ngươi là đồ ngu dốt vô liêm sỉ". Chửi cho hả giận, rồi ông viết tờ hạch tội tri huyện Sử Bi, là người tính tình nóng vội bộp chộp; cử nhân Tất Vinh là kẻ tham lam. Tuyên Anh bị tống giam, rồi chết trong nhà tù.
Kìa xem những kẻ thường gian dối
Quan vốn thanh liêm trị thẳng tay.
Các bạn thân mến, làm quan quả là chẳng dễ chút nào! Tri huyện Sử Bi thấy có đóng dấu, đã cho ngay là sự thực. Còn quan Sát viện là một vị cứu tinh, đã gỡ cho lão Bình khỏi mang tiếng oan là một tên trộm cướp. Thiết Kính là một vị quan thanh liêm chính trực, ông đã làm sáng tỏ nhiều vụ án, mà những chứng cứ giả dối như một sự thực khó bác bỏ.
Tới đây, lại nói thêm về một ông quan thanh liêm khác. Cát Ngu một tiến sĩ tài giỏi ở Giang Tây, hiệu là Thủy Nguyên, đỗ tiến sĩ năm Tiến Đức. Mẹ chết sớm, cha là tú tài nghèo, tên là Cát Thánh Tường, hiệu là Đạo Phù, suốt đời thật thà ngay thẳng, gìn giữ nếp xưa. Khi dạy dỗ con cái ông thường khuyên con đừng bôi nhọ lương tâm, sang hèn đều do số mệnh. Nếu gặp vận may, được trị dân, thì không những phải trong sạch, có tiết tháo nghiêm khắc nhưng lại phải ôn hòa thận trọng, vừa nhã nhặn phải vừa thật thà chất phác. Thủy Nguyên luôn luôn ghi nhớ lời cha dạy. Năm ông hơn ba mươi tuổi thì cha qua đời, rồi sau đó vợ chết. Hoàn cảnh ông rất khó khăn, nhưng rất may ông được nhập học. Ông cố gắng học hành chẳng quản nắng mưa, rét mướt. Trên tường ông đã dán bốn điều để răn mình đó là:
Không dạy học, không uống rượu
Không gặp quan, không kết bạn.
Cát Thủy Nguyên, một thân một mình đóng cửa tuyệt giao, ăn đói mặc rét, đọc sách suốt ngày. Thời gian trôi đi rất nhanh, mới thoáng qua mà ông đã hơn bốn mươi, cuộc sống vẫn nghèo túng. Người ta khuyên ông hãy xé bốn điều răn mình, thích ứng với cuộc đời thì sẽ không bị thiệt thòi. Song ông vẫn không thay đổi, và nói rằng giữ mình như thế mới thực là có ích. Người ta lại hỏi ông có ích ở chỗ nào? Thuỷ Nguyên nói:
- Thầy nghiêm, đạo được tôn trọng, thì mình mới giữ được thể diện. Tôi thấy những tiên sinh ngày nay theo đòi đèn sách đều vị kỉ. Kẻ chơi bời dâm đãng, lại tự cho mình là người thầy hướng dẫn người. Họ đều là những người lòng dạ xấu xa, đạo đức hư hỏng. Tôi một đời nghiêm túc chăm chỉ học hành, sao lại kết bè kết đảng với họ được! Còn như ăn uống tiệc tùng, mới nghe thấy tôi đã chán ngán. Trên đời, việc này ai ai cũng mong muốn, song đối với tôi, nó chẳng có chút hứng thú nào, bởi vì những người không hiểu biết rất đông, đến đó có ích lợi gì đâu! Những người đang làm việc ở phủ quan, đều xuất thân từ tú tài. Đến khi được làm quan thì ăn uống bê tha, họ thấy tú tài như chiếc gai trước mắt. Tôi vô cùng khinh bỉ loại quan như thế, hạng người như thế có đáng gặp hay không? Nếu nói, nay kết bè mai kết bạn, thì đây là một việc hết sức vô bổ. Người xưa nói: "Tú tài như cô gái trinh tiết". Gái trinh không thể thân quen với người này, người khác. Kết thân bạn bè có phải trên đầu lưỡi thôi đâu. Bởi thế cho dù tôi nghèo túng thế nào chăng nữa, tôi cũng không thể vứt bỏ nhũng điều tôi gìn giữ, để dấn thân vào thói xấu của tú tài.
Mọi người thấy Thủy Nguyên nói thế, than rằng: "Quả thực đây là một người vô cùng trong sạch và đạo đức". Đúng là:
Chẳng thể luyện được vàng,
Kẻ sĩ thường nghèo túng.
Sách vở chất đầy nhà,
Ra ngoài không có bạn.
Cát Thủy Nguyên nghèo đến mức khó mà sống nổi, người ta khuyên anh nên làm một việc gì đấy. Anh nói:
- Là nho sinh mà thay đổi nghề nghiệp, quả thực tôi rất lo sợ. Giảng giải kinh dịch, bàn luận về số mệnh, ấy là duy trì đạo giữa trời và người của bậc Thánh nhân. Số phận của ta là trong sạch. May mà sang năm ta được thi, nhưng sang năm cũng cần ăn cần mặc, cần phải có tiền đến trường thi, nhưng kiếm đâu ra tiền, thôi thì ta thử làm xem sao?
Thế rồi anh tìm một tờ giấy dán vào tấm gỗ viết: "Gia cư sĩ đoán số mệnh".
Dựa tấm biển vào trước cửa nhà, Thủy Nguyên ngồi chờ người đến xem. Mọi người lần lượt đến nhờ ông đoán số mệnh. Thủy Nguyên cứ theo lí nói thẳng, chẳng khác nào như đuổi khách đi. Thấm thoát thế mà anh đã đoán số mệnh được bốn năm tháng.
Một hôm bỗng có một người dáng vẻ tu hành đắc đạo, tên là Mễ Niên, đầu đội mũ kiểu thời Đường, mặc áo thụng, lắc được quẻ Cấn. Thủy Nguyên hỏi:
- Ông cần gì?
- Tôi cần lấy vợ. - Mễ Niên trả lời. - ông xem người ấy có phúc, có duyên, có thuận hòa với kẻ trên người dưới không?
- Nếu không phải là vợ cả thì đều tốt. - Thủy Nguyên nói: - Cấu có nghĩa là gặp, năm dương mà gặp một âm, chứng tỏ âm vượng, dương chầu. Vả lại hôm nay là Thanh long dẹp đường, chim chu tước im tiếng hót, chim loan đỏ trông coi việc, sao khiên ngưu ngủ gật, hẳn là người vợ cả phẩm hạnh kém, mà lại có biểu hiện vô cùng tốt, chỉ có điều về mặt trinh tiết kém một chút.
Cát Thủy Nguyên nói thế, Mễ Niên vô cùng sung sướng, nghĩ bụng: "Quẻ này nói rất đúng" rồi lại nói ngày sinh tháng đẻ của mình để xem số phận của cả đời. Mệnh thuộc long, sinh vào giờ Giáp Tí, ngày Kỉ Mão, tháng Bính Dần, năm Giáp Thìn.
Thủy Nguyên viết tám chữ ấy theo hàng, xem xong rồi nhìn Mễ Niên nói:
- Tám chữ tạo nên sự kì lạ khó mà nói hết, tám chữ bổ sung cho nhau, sánh bên nhau, sự thịnh vượng cứ như ùa cả đến. Hiêu thần, Niết thần ra sức giúp đỡ việc ăn uống, Tử Vi không mời mà tự đến. Mệnh thuộc loại hèn kém không thể tính hết được. Nhưng vận phú quý chẳng gì cao hơn thế. Ông là người quê ở đâu thế?
- Xin cảm ơn ngài đã có con mắt tinh tường. - Mễ Niên nói. - Nhất định sẽ có ngày đền đáp công ơn.
Mễ Niên nhét quẻ thẻ vào tay áo, cảm ơn Thủy Nguyên, rồi ra đi. Đúng là:
Bế tắc, thông suốt đều do mệnh
Suy đoán sau này sẽ biết thôi.
Hôm sau Thủy Nguyên cất biển đi. Nghĩ rằng: "Mệnh đoán hôm qua là mệnh hết sức thấp hèn, mà cái vận thì vô cùng kì lạ quả thực đoán không ra, khiến người ta chê cười. Chi bằng hãy gắng công học tập, chuẩn bị kì thi cho tốt”.
Thi hương xong, yết bảng đề danh, anh xếp thứ hai trong số bảy người. Người trong làng ai cũng kinh ngạc nói: "Cát Tiên sinh đã đỗ rồi!': Họ đến chúc mừng, song ông vẫn tiếp đãi lạnh nhạt như cũ. Mấy ngày sau, những người tôn ông làm thầy, cũng chưa đưa chút lễ vật nào, bạn đồng khoa cũng không ai muốn gặp. Ông khăn gói lên đường tới kinh đô. Đúng là:
Đô thành mưa tạnh buồn vô hạn,
Quán trọ đèn tàn khách mộng mơ.
Không ngờ thi Hội xong, Thủy Nguyên lại đỗ tiến sĩ. Mặc dù là người đỗ cao trong kì thi Hội, song ông vẫn lo âu buồn bã. Ông thấy triều đình rối ren, quan lại ở địa vị cao đều hùa theo thế tục, coi việc nước như trò đùa. Họ bày cỗ linh đình, cúng tế trời đất tổ tông, viết hai câu thề nguyền, nhưng lại không hề thực hiện. Họ làm thế, là muốn tô vẽ thêm cho mình. Hai câu ấy như sau:
Nguyện dốc sức mình cho đất nước,
Tuân theo phép tắc phục vụ dân.
Thủy Nguyên ở lại kinh đô, lấy người vợ kế là Thị Cầm, và được bổ làm Tri huyện Tức Mặc, Sơn Đông. Khi tới nhậm chức, ông mở mang trường lớp, nâng đỡ việc học tập, trừ phi thừa hành lệnh cấp trên ra, ông thường không dùng hình phạt nặng. Khi thừa hành chức trách, không bao giờ ông nhận lễ vật. Đúng là quan thanh liêm chỉ uống nước lã. Ông là người ôn hòa, tài năng mẫn tiệp. Bằng tài năng ấy, ông đã tìm ra nhiều sự việc rắc rối liên quan đến trộm cướp, và số phận con người. Tôi sẽ kể lại một vài câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian mà chính sử không ghi chép, để chúng ta thấy được sự tinh vi thận trọng trong cuộc đời làm quan của ông.
Một người nhà quê mang một con ngỗng còn sống đi thăm người thân. Anh ta để ngỗng xuống vệ đường đi tiểu tiện. Tên trộm đi tới xách lấy con ngỗng, rồi đem cân. Khi người nhà quê đuổi kịp, hai bên giằng co đánh chửi nhau. Vừa lúc ấy quan Bổ sảnh Hồ Bá Liên đi tới. Mọi người đều thưa lên quan, quan Tổng bổ Hồ nói:
- Ngỗng không nói được, các anh hãy khai xem nó nặng bao nhiêu?
- Bẩm quan, - anh nhà quê nói, - cách đây nửa tháng con cân được bốn cân bảy lạng.
- Bẩm quan, - tên trộm nói, - con ngỗng của con là năm cân ba lạng.
Hồ Bá Liên lấy cân cân thử. Đầu tiên ông đặt quả cân vào chỗ bốn cân bảy lạng, cán cân vọt lên. Ông nhích quả cân đến chỗ năm cân ba lạng, cán cân ngang bằng như mặt nước. Thế là ông ta quở trách người nhà quê nọ, trả ngỗng cho tên trộm. Xử xong ông bỏ đi. Nhưng anh nhà quê quyết không chịu mất ngỗng. Hai bên vẫn giằng co. Đúng lúc đó Cát Công đi tới, hai người ngăn ông lại, quỳ xuống bẩm. Tên trộm bẩm lại quyết án của quan Bổ sảnh, còn người nhà quê chỉ biết khóc lóc kêu xin thảm thiết. Cát Công nghĩ rằng: "Một người thì vô cùng giảo hoạt, một người thì chất phác thật thà. Nếu không phải ngỗng của mình thì tại sao anh ta lại cố công giành lại bằng được như thế?”. Cát Công nói với tên trộm rằng:
- Anh nói đúng trọng lượng con ngỗng thì đương nhiên con ngỗng ấy là của anh rồi. Con ngỗng của anh ăn gì mà béo thế?
- Nó ăn cám. - Tên trộm nói.
- Ngỗng của anh ta rồi. - Cát Công bảo với anh nhà quê. - Nhưng anh thử đoán xem con ngỗng ăn gì.
- Nó ăn thóc. - Anh nhà quê nói.
Cát Công sai người lấy dao mổ diều ngỗng, chỉ thấy diều toàn thóc lép. Cát Công hỏi tên trộm:
- Vì sao trong diều ngỗng chẳng thấy chút cám nào?
Tên trộm khấu đầu nhận tội. Ông sai người đánh cho hắn ba mươi tay thước, cùm một tháng. Hóa ra hắn là Mao Giáp Thủ, một tên trộm nổi tiếng, song không che được mắt Cát Công.
Lại có một lần, tên trộm lọc lõi Hàn Lâm Quỷ, dò la biết được một nhà giàu cưới vợ. Nhân lúc đông người hắn lẻn vào buồng cô dâu, nấp dưới gầm giường. Tối đến, đôi vợ chồng mới cưới đóng cửa đi ngủ. Ở dưới gầm giường, hắn nghe hết cả những chuyện riêng tư thầm kín của đôi vợ chồng. Một lát sau, anh chồng ngủ, ngáy gỗ vang nhà. Tên trộm thấy yên ắng, bèn khẽ sột soạt đánh động thăm dò. Cô dâu mới vẫn còn tỉnh, thấy lạ lại sợ xấu hổ không dám gọi chồng. Tiếng động mỗi lúc một rõ hơn, cô mới lay người chồng dậy, nói:
- Dưới gầm giường có tiếng động.
Tên trộm im thin thít không dám cựa quậy. Anh chồng nói:
- Có thấy gì đâu?
- Hay là đốt đèn soi xem. - Cô vợ nói.
Thế rồi họ gọi người ở đốt đèn. Quả nhiên thấy có người nấp dưới gầm giường, họ gọi người nhà lôi ra, lấy thừng trói lại. Bị đánh túi bụi, tên trộm nghĩ ra một kế, nói:
- Các vị đừng đánh nữa, không phải tôi vô cớ mà đến đây. Chính người vợ mới cưới của anh ấy bảo tôi đến. Cô này ở nhà đã từng ăn nằm với tôi, hẹn tôi đúng vào ngày cưới đến phòng để tiếp tục thú vui xưa và hứa tặng đồ nữ trang cho tôi.
Mọi người nghe xong, toát mồ hôi, hết sức kinh ngạc, bán tín bán nghi, muốn bịt mồm hắn lại, nhưng không được. Trong buồng, cô dâu nghe thấy mặt đỏ bừng, không sao thanh minh được, phải treo cổ tự tử. May mà người chồng cứu được, rồi anh an ủi rằng:
- Em không phải là loại người như thế, nếu chết đi sẽ không rõ trắng đen, em tự vẫn khiến người ta nghĩ, do xấu hổ mà làm thế. Nếu quả là tên trộm ngậm máu phun người, thì nhất định em sẽ được minh oan, qua sự việc vừa rồi anh biết, em là người vô tội.
Cô dâu nghe thấy chồng nói thế, đành nhẫn nhục không tự vẫn nữa. Tuy cả nhà đều cho là tên trộm vu tội, nhưng ngay người ngu đần nhất cũng không thể không ngờ vục: "Không có lửa thì sao có khói. Nếu không chuyện, thì hắn chỉ nhận là ăn cắp. Còn đặt điều cho cô dâu, thì tội càng nặng, gỡ sao nổi". Mọi người thấy thế càng nghi hoặc. Đúng là:
Mẹ Tăng nghe thấy ba lần nói,
Lầm tưởng Tăng Sâm giết chết người.
Hôm sau người ta giải tên trộm lên quan xét xử. Cát Công chưa hỏi, tên trộm đã khai như hắn nói tối qua. Cát Công quát:
- Đêm tối vào nhà người ta không gian dâm thì là đạo tặc, đó là luật pháp đã định. Ngươi đã nhận là gian dâm, thì không phải là tội nặng. Chờ bắt người đàn bà kia tới, sẽ định tội.
Rồi ông cho hắn vào nhà giam. Cát Công rời khỏi công đường. Đến canh hai, ông bí mật gọi một người lính lệ thì thầm với anh ta một hồi... rồi ông lập tức ra sau nhà gọi một cô gái ăn mặc thật đẹp, giao cho viên lính lệ. Thế rồi ông lên công đường bắt tên phạm nhân quỳ trước mặt, và cho gọi cô gái vào, cũng bắt quỳ xuống. Cát Công nói:
- Việc gian dâm chưa có chứng cớ, nay đã bắt người đàn bà này tới, hai người phải nói thẳng ra với nhau, thì sẽ miễn tội.
Người đàn bà tỏ vẻ xấu hổ, ấp a ấp úng, hồi lâu mới nói:
- Con là phận gái luôn giữ mình, làm gì có việc đó, song chỉ thương cho con oan khuất mà không sao minh oan được!
Tên trộm len lén nhìn qua ánh đèn, thấy một người con gái dáng vẻ lả lướt, bèn dùng những câu thô bỉ nói xấu cô:
- Tôi đã ăn nằm với cô mấy lần, chính mồm cô bảo tôi rằng, đến hôm cưới, thừa lúc đông người, trốn vào gầm giường trong buồng, rồi cô sẽ tặng cho những đồ trang sức bằng vàng, sao bây giờ cô lại chối phắt đi như thế?
- Tội gian dâm đã quá rõ ràng. - Cát Công nói.
Ông bảo tên trộm quỳ xuống bên cạnh cô gái, để trực tiếp đối chất Tên trộm quỳ sát vào cô gái nói:
- Cô với tôi gắn bó khăng khít, đã thông dâm với nhau nhiều lần. Cô đã bảo tôi như thế, vậy mà bây giờ cô lại không chịu nhận, cô đã hại tôi, bắt tôi phải nhận là tên ăn trộm, tôi dù có chết cũng không tha cô.
Người con gái một mực kêu oan. Cát Công bảo tên trộm rằng:
- Nhất định anh đã thông dâm với người khác rồi, còn cô gái này chắc là vô can.
- Bẩm quan, - tên trộm nói, - quả là cô ta thông dâm với con từ lâu rồi. Con thông thuộc tiếng nói và nét mặt của cô ta, đúng là cô ta chứ không phải ai.
- Có thật đúng như thế không? - Cát Công hỏi.
- Đúng, đúng, đúng ạ, bẩm quan đèn trời soi xét. - Tên trộm nói.
Cát Công sai người kẹp tên trộm lại, tên trộm vẫn không chịu nhận. Cát Công cười ha hả nói:
- Ngươi có còn nói ngươi đã thông dâm với người ấy nữa không? Đây chính là người gái hầu trong nha môn của ta.
Ông bảo cô gái hầu đứng dậy, cô gái khúc khích cười rồi đi vào nhà trong. Cát Công nói:
- Ta đã biết ngay mày là tên trộm.
Lúc đó ông lại gọi năm người đầy tớ, dùng gậy đánh chết. Chưa đầy một giờ đồng hồ, tên trộm tắt thở. Đúng là:
Phép quan ba tấc kiếm, Biển oan rửa sạch làu.
Cha mẹ cô dâu thấy mối nhân duyên lỡ dở, ngay hôm sau đến huyện đường nghe ngóng. Thấy việc chưa giải quyết xong, họ vô cùng buồn bã. Họ không ngờ Cát Công đã vạch trần sự gian dối và xử tử tên trộm. Hai nhà mừng rỡ, chờ khi Cát Công mở cửa công đường, họ đội lễ, thắp hương vào bái tạ.
Các bạn thân mến, tên trộm ấy quả là ghê gớm. Hắn tức giận vì cô dâu ấy đã gọi chồng dậy, nên nảy ra kế hiểm, hại cô. Hắn tưởng rằng sẽ không mang tiếng là đứa ăn trộm, mà lại trả thù được cô dâu. Làm cho hai nhà lâm vào vụ án lớn, khiến cô dâu phải quyên sinh. Song không ngờ, hắn gặp phải Cát Công, mưu trí tài giỏi. Ông không phí đến một tờ giấy, không cần gọi người của hai nhà, mà cô dâu được giải oan. Nếu như gặp một viên quan huyện ngu tối, gọi cô dâu tới công đường thì không biết sự thể sẽ ra sao. Thấy ông trí tuệ khôn lường, chỉ trong phút chốc sự việc được giải quyết, nhân dân cả huyện đều khâm phục sự thông minh sáng suốt của ông. Quả là:
Đục ngầu ta ngỡ mè là chép.
Trong veo, thấy chúng khác hẳn nhau.
Thời gian trôi đi rất nhanh, mới thoáng cái mà đã năm năm. Cát Công nhận được giấy gọi về kinh đô. Đúng hẹn, ông cùng vợ con lên đường. Khi kiệu tới bến đò, thấy một tốp thư sinh nhảy bừa lên thuyền, người chủ thuyền ra sức kêu oan. Vừa lúc đó Cát Công đi tới, ngồi trong kiệu hỏi:
- Có việc gì thế?
- Chúng tôi đi thi, - bọn tú tài nhao nhao nói, - bị chủ thuyền lấy cắp, không liên can gì đến thân hào.
- Ta là Cát Thủy Nguyên, các anh có nhận ra người thân hào này không?
Mọi người thấy đó là Cát Công, cảm thấy nhờn nhợn, mặt nhăn nhó như khỉ ăn gừng. Cát Công gọi chủ thuyền và bọn tú tài tới ngay dịch trạm xét hỏi. Cát Công vừa ngồi xuống, năm anh tú tài thưa:
- Chúng con là khóa sinh đến phủ dự thi, đã thuê chiếc thuyền này để ăn nghỉ. Thừa lúc chúng con đi thi, chủ thuyền lấy trộm hết quần áo tư trang.
- Năm ông này thuê thuyền của con, - chủ thuyền nói. - Họ nói thuê trong một tháng, trả mười lạng bạc. Tính đến nay đã được hai mươi bảy ngày, thế mà các ông ấy bớt của con mất ba lạng.
- Các anh này ở thuyền của anh, - Cát Công nói, - thì anh phải có trách nhiệm coi giữ, nếu để mất thì anh thoái thác sao được. Anh phải hiểu rằng ở thuyền thì một chiếc kim cũng chẳng thể nào lọt được.
- Các ông ấy còn cử hai người ở lại trông coi. - Chủ thuyền nói.
Cát Công không nghe, gọi tay chân cùm chủ thuyền lại. Cát Công lại hỏi những tú tài:
- Các anh có làm đơn kiện không?
- Có. - Bọn tú tài đồng thanh trả lời.
Cát Công bảo họ mang đơn tới, thấy trong đơn liệt kê tất cả quần áo, lò hương, và một chiếc nghiên mực. Cát Công gật gật đầu nói:
- Đã là tú tài thì ta sẽ dạy các anh một bài học.
Lập tức ông gọi dịch phu mang năm chiếc ghế đặt cách xa nhau, và mang nghiên, bút giấy phát cho cả năm người. Ông đuổi hết mọi người ra, rồi ngồi vào giữa. Những tú tài cứ tưởng là làm văn thật, rất muốn trổ tài, lặng lẽ chờ ông ra đề. Cát Công lấy một tờ giấy viết: "Các anh hãy vẽ chiếc nghiên đã mất, không cần phải viết văn cho mệt nhọc". Năm anh tú tài ngồi cách nhau quá xa, không biết vẽ thế nào. Ngồi một lúc lâu, đành phải tự vẽ. Thấy mỗi người vẽ một khác, Cát Công cười phá lên, nói:
- Làm tú tài trước hết phải rèn luyện bản thân, đừng làm trò vô liêm sỉ, táng tận lương tâm. Nếu để bọn các anh chăn dân, thì các anh là lũ tham quan ô lại, bòn rút của dân. Để các anh chấp chính thì sẽ trở thành kẻ phản nghịch lật đổ triều đình. Cớ sao một chiếc nghiên mực mất mà mỗi người vẽ một khác? Ba lạng bạc tiền thuê thuyền chẳng đáng là bao, song thật đáng tiếc, các anh đã làm băng hoại đạo đức.
Năm gã tú tài cứng họng, đưa mắt nhìn nhau, đứa nào mặt cũng vàng như nghệ, không dám ho he. Cát Công bèn cho gọi hai tên gia nhân của bọn tú tài tới bảo:
- Chủ các anh mỗi người đáng chịu mười cái tát, còn các anh, tôi mượn cái mông đít.
Hai người kia ra sức kêu gào xin tha tội, song chẳng ai thương. Họ vẫn phải nhận đủ hai mươi lăm gậy. Năm gã tú tài kia phải khai rõ họ tên, báo lên quan Đề học(1) xử lí. Từ đó tiếng tăm Thủy Nguyên lại càng lan truyền khắp trong triều ngoài nội. Sau vụ xử đó ông lại tiếp tục lên đường về kinh, vừa đúng hạn. Thật là:
Xe loan dừng tại đô đình,
Mà ông vẫn kịp về kinh đúng ngày.
(1) Đề học: quan trông coi việc học hành tại phủ huyện.
Tri huyện Cát trở về kinh đô được thăng lên Lại khoa Cấp sự. Thời ấy hoàng đế Chính Đức rất ngu ngốc. Ông ta làm đủ điều hoang dâm thất đức. Cát Thủy Nguyên dâng sớ thẳng thắn can gián, song vẫn như đá ném ao bèo. Ông nghĩ: "Làm sao gặp được hoàng đế, để nói hết những sai lầm của ông cho hả dạ, xử tử hết những kẻ xu nịnh hoàng thượng, thì dù cho mình thịt nát xương tan cũng cam lòng!".
Một hôm người ta thấy Cát Thủy Nguyên mặc thường phục, đi lang thang trên đường phố. Đang đi ông nhìn thấy một người đội mũ vuông, mặc áo hoa đi ô cầm một tấm thảm, ông lững thững theo sau, thì thấy đó là Mễ Niên người đã từng được ông xem tướng trước đây. Dáng vẻ sang trọng, giống như một người rất đắc ý. Cát Nguyên cứ theo, cho đến khi ông ta vào một kĩ viện. Đây là kĩ viện nổi tiếng nhất thời bấy giờ, gọi là Tiêu Lang viện. Đường vào kĩ viện rất vắng vẻ và ngoắt ngoéo, bên trong thoáng đãng và cực kì tráng lệ. Cát Thủy hỏi thăm rất tỉ mỉ. Thấy người chủ kĩ viện là một cô gái phấn son, tên là Tiết Phượng Nhi. Hoàng đế Chính Đức thường lui tới đây ân ái với nàng và lại biết Mễ Niên là một Giáo phường ti, quyền uy lẫy lùng, miệng thét ra lửa. Trở về nhà, Cát Thủy Nguyên nói với vợ là Thị Cầm rằng:
- Tôi phải đi thăm một người bạn cũ, mấy ngày mới về. Phủ quan có tới, thì bảo là tôi ốm chưa khỏi, không thể tiếp kiến được.
Hôm sau ông sai cấp dưới đến cáo bệnh xin nghỉ. Tối đến ông đội mũ, mặc áo xanh tới Tiêu Lang viện. Tới nơi, ông hỏi:
- Ngài Mễ Niên có ở đây không, nói với ông là có người bạn cũ tới thăm.
Người đó trở vào, lúc sau thấy Mễ Niên cầm hai cây nến đỏ bước ra, vái chào Cát Công rồi hỏi:
- Ngài ở đâu tới, xin ngài cho biết tính danh.
- Trước đây sáu năm, - Thủy Nguyên trả lời, - tôi từng xem tướng cho ngài. Nay ngài vô cùng giàu sang, đã quên tôi rồi ư?
Mễ Niên dơ ngọn nến nhìn kĩ, nói:
- Đúng rồi! Ngài là Cát Tiên sinh ở Giang Tây phải không? Đúng là tôi tốt số. Chẳng giấu gì tiên sinh, từ khi lấy người đàn bà ấy, quả là tôi đã gặp được vận may hiếm có.
Rồi Mễ Niên lại ghé vào tai Cát Công nói:
- Đúng là tôi phải đền đáp lại công ơn của ông, ông đến thật là đúng lúc, thật tuyệt diệu. Tại sao tiên sinh không ở đây hành đạo?
- Chẳng giấu gì ngài, - Cát Công nói, - tôi đang bị người ta kiện, nên trốn tới đây, không tiện xuất đầu lộ diện, muốn giấu mình tại quý viện để lánh nạn. Được nghe hoàng thượng thường tới nhà ông, sao không để tôi nhìn một chút xem ngài như thế nào, đó chính là niềm may mắn của đời người.
- Điều đó có khó gì, - Mễ Niên nói. - Hoàng đế thường cùng với chúng tôi chơi trò phạt rượu(1). Hôm nay là ngày mười ba tháng chín, ngày rằm nếu như có trăng, thế nào hoàng thượng cũng đến. Muốn tới gần, chỉ cần ngài chịu nhận làm người hầu chải đầu sửa móng chân là được.
- Chỉ cốt được gần hoàng đế, thì bất kể làm gì cũng được. - Cát Công nói.
(1) Phạt rượu: một loại trò chơi mua vui khi uống rượu.
Bàn bạc xong, bèn lưu Cát Công ở lại, tạm thời gọi Cát Công là Phúc Man.
Quả nhiên, ngày mười rằm trăng rất sáng, trong kĩ viện nơi nào cũng treo đèn, các loại hương liệu quý hiếm đốt lên thơm lừng. Đêm càng trở nên tĩnh mịch, một đoàn người trong hoàng cung, tiền hô hậu ủng quanh một chiếc xe có rèm, mui xe làm bằng the màu tía đi thẳng vào sảnh đường. Thiên tử từ trong xe bước ra, dáng vẻ oai nghiêm như rồng, như hổ. Hai đứa hầu cầm đèn soi, còn thiên tử một mình đi sau. Mễ Niên quỳ dưới đất, đón vào. Cát Công đứng đằng sau khe cửa nhìn thấy hết, ông nghĩ: "Hoàng đế thật chẳng đúng đắn chút nào, tại sao lại đến mức như thế?". Một lát sau, Mễ Niên tới bảo Cát Công rằng:
- Ngài có thấy hoàng đế không?
- Nhìn rất rõ. - Cát Công nói.
- Ngài có thể tới đứng bên cạnh Lộ đài, phía vườn sau, - Mễ Niên nói, - có cơ hội tôi sẽ gọi vào.
Theo lời Mễ Niên, Cát Công tới Lộ đài, ở đó chỉ có một đôi đèn lồng. Đang chờ ở đó, chợt Cát Công thấy hoàng đế Chính Đức dặn kĩ nữ Tiết Phương Nhi đến. Nàng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng như tiên nữ, tới Lộ đài ngắm trăng.
Nhẹ tựa mây vờn lồng bóng nguyệt,
Thường Nga dáng vẻ luống mơ màng.
Trên Lộ đài bày chiếc ghế khảm trai rất rộng, một chiếc bàn bằng gỗ tử đàn, một chiếc đôn sứ. Trên bàn bày lư hương, hộp hương liệu, ấm trà và khay chén. Mễ Niên theo sau, quỳ xuống nói:
- Giáo phường ti Mễ Niên có việc bẩm với hoàng thượng. Thần mới thu nhận được một thằng hầu chải tóc, sửa móng chân, tên là Phúc Man, xin được cho vào hầu hạ.
Phúc Man bước tới cúi đầu, rồi đứng sang một bên. Ngài Chính Đức dặn dò Mễ Niên rằng:
- Sau này phải dặn những người trong viện không được tiết lộ những chuyện hoàng đế đã đến đây chơi, bọn quan lại lắm mồm lại can gián trẫm. Hôm trước có một viên Lại khoa cấp sự tên là Cát Ngu, dâng lên một bản tấu sớ cứ làu bà làu bàu nói trẫm như Kiệt Trụ, can hệ đến xã tắc. Nói về việc trẫm đến hạnh viện, ngay cả Kiệt Trụ cũng không đến mức như thế! Quả là hắn to gan lớn mật, khiến ta vô cùng tức giận. Trẫm phải xử tội hắn. Song các quan trong triều nói rằng hắn là một viên quan thanh liêm bậc nhất, gọi hắn là Cát Chiếu Đản, mọi người ai cũng sợ hắn. Trẫm đành phải tha tội chết cho hắn. Ngày mai trẫm phải đích thân hỏi hắn, rằng hắn thấy trẫm đã hạnh viện ở đâu, để bịt mồm hắn lại.
Cát Thủy Nguyên nghe thấy kinh sợ, lạnh toát mồ hôi. Ông nghĩ: "Ai ngờ rằng hôm nay Cát Nguyên được may mắn, đều do ân đức cao dày của hoàng thượng!”. Ông vô cùng cảm kích, muốn làm việc gì đó, đưa thiên tử khỏi chốn chơi bời, để báo đền công ơn. Đúng là:
Thánh thượng khoan dung người cương trực, Sao ta dám tiếc vạn ngôn thư.
Một lát sau, đêm khuya, trăng lạnh, ông cầm đèn đưa hoàng thượng về lầu sưởi ấm. Tấm lòng trung nghĩa của Cát Thủy Nguyên bỗng chốc trổi dậy, rồi nhanh chóng nghĩ ra mưu kế. Chờ đêm yên ắng tĩnh mịch, ông tới nhà bếp phóng hỏa. Hôm ấy gió thu đang thổi mạnh, ngọn lửa ngùn ngụt bốc cháy. Cát Thủy Nguyên xông vào phòng sưởi ấm, kêu thất thanh: - Cháy nhà! Cháy nhà! Nguy cấp! Nguy cấp! Hoàng thượng ngự tại đâu?
Chỉ thấy a hoàn chạy ra khỏi cửa nói:
- Đây! Ở đây!
Cát Thủy Nguyên nhận ra, vội vã cõng vua vượt qua ngọn lửa chạy vọt ra ngoài. Mễ Niên thấy ông cõng hoàng thượng nói:
- Ngài hãy hầu hạ hoàng thượng chu đáo.
Cát Thủy Nguyên vâng dạ. Mọi người vội vàng dập tắt ngọn lửa.
Dặm xa đường thẳm hay ngựa quý,
Năm tháng dài lâu biết lòng người.
Các bạn thân mến, tấm lòng trung nghĩa của Thủy Nguyên, phải nhờ vào tình thế khẩn cấp. Ông cõng hoàng đế Chính Đức về nhà, gọi người mở cửa, mời hoàng đế ngồi vào ghế chính giữa. Một mặt đuổi những người chạy theo về Tiêu Lang viện, báo cho người đến đón hoàng thượng. Chính Đức nói:
- Ngươi là Phúc Man của nhà Mễ Niên ư?
- Thần đội ơn thánh thượng. - Cát Thủy Nguyên cúi đầu nói. - Thần đỗ hoàng giáp tiến sĩ, rồi được bổ làm Lại khoa Cấp sự Thần là Cát Ngu, đội ơn hoàng thượng, đã có tấm lòng nhân từ tha tội chết.
Chính Đức kinh sợ nói:
- Trẫm hỏi ngươi, làm sao mà ngươi lại ở nhà Mễ Niên? - Thần từng nghe, - Cát Nguyên đáp, - hổ không thể xa rời núi, rồng không thể xa rời biển. Thánh thượng là đấng chí tôn, lại hạ mình chơi bời, lửa cháy còn là việc nhỏ, nếu chẳng may xảy ra điều bất trắc, thì ai là người dám chết để bảo vệ bệ hạ? Quả thực thần lo thay cho bệ hạ, nên không sợ mình chịu nhục, vào giáo phòng, thay đổi họ tên để bảo vệ hoàng thượng. Việc xảy ra hôm nay quả thật là một bài học lớn.
Cát Ngu quỳ dưới đất, ra sức can gián, rồi khóc nức nở. Chính Đức bỗng thấy được lòng trung thành của ông, nói:
- Trẫm đã biết được nỗi khổ tâm của ngươi, từ nay về sau trẫm sẽ sửa chữa.
Nói xong, người trong hoàng cung đã tới đón. Hoàng thượng lên chiếc xe rèm tía về cung thì lúc đó đã vào canh năm.
Ngày hôm sau, Chính Đức cất nhắc Cát Ngu lên nhậm chức Đô sát viện. Từ đó về sau, những người có việc làm sai trái, nghe nói đến ông đều phải sợ hãi. Họ nói với người xung quanh rằng: "Nhất thiết đừng để cho Cát Chiếu Đản biết”.
Các bạn thân mến, khi Cát Thủy Nguyên còn làm tú tài, ông luôn giữ tiết tháo thanh cao, khi thi đỗ ông thề rằng: "Nguyện dốc lòng với triều đình, không thể bẻ cong luật pháp". Thờ vua trị dân, rốt cục vẫn không xa rời hai câu ấy. Đó là kẻ sĩ không đánh mất lương tâm. Vợ ông là Thị Cầm sinh được một người con trai, thời trẻ đỗ đầu khoa, làm quan tới chức thượng thư, trở thành một gia đình quan lại thanh liêm ở Dự Chương. Chuyện được ghi lai trong cuốn Cô song thanh dạ lục của Trương Lăng Nhai. Thơ rằng:
Xưa nay vốn vô sự, Suy Vưu(1) chế ra cung. Làm quan cần nhân ái.
Phò vua phải hết lòng.
Trời rét hay tùng bách.
Thanh cao biết gỗ đồng.
Tú tài trong thiên hạ. Chẳng kể cùng hay thông.
(1) Suy Vưu: nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc.
Thơ rằng:
Ai bảo kết giao dễ,
Kết giao thật khó thay.
Kết vàng hơn kết ngãi,
Kết mặt khó kết lòng.
Dương Tá không xuất hiện,
Phạm Trương chẳng thấy đâu.
Thường thì rượu thịt, tối mắt lại,
Hễ thấy tiền bạc lòng nhuốc nhơ.
Luôn luôn lật lọng như sóng vỗ,
Biết bao bè bạn thành kẻ thù.
Xin anh hãy rót cho tràn chén,
Lắng nghe tôi kể chuyện đời nay.
Bài thơ này nói về lòng dạ người đời thật khó lường. Việc kết giao bè bạn khó vô cùng. Tình bằng hữu là một trong năm mối quan hệ của con người. Sĩ, nông, công, thương là căn cứ vào sự giống nhau mà xếp ra từng loại. Song bản thân những người cùng loại ấy rất hiếm khi trở thành bạn bè thân thiết. Chỉ thấy đạo của người xưa ngày càng suy vi, nhân tình ngày càng kiêu bạc. Những người trọng nghĩa khinh tài, hào hiệp cứu giúp người hoạn nạn quá ít. Những người dựa vào tiền của nhiều hay ít mà thân thiết hay lạnh nhạt lại nhiều. Bởi thế, mối giao lưu giữa nhũng người giàu sang với nhau thì lâu bền, còn mối tình giữa những người giàu sang với người nghèo thì đứt đoạn. Trước cao sang, sau nghèo hèn cũng đứt đoạn. Khi họ thành đạt và giàu có ngang nhau thì họ thân thiết hòa hợp, nhận nhau như ruột thịt. Lúc đầu còn hơn cả Quản, Bão(1). Đến khi gặp nạn, đột nhiên khốn khó, mong được bạn bè giúp đỡ thì họ trở mặt, coi như người xa lạ. Thậm chí sợ tai họa liên lụy tới mình, gặp bạn lại nói xưa nay không hề quen biết, đó lại là loại người vô đạo đúc. Song trên đời này, những bọn hiểm độc luôn luôn thừa lúc bạn bè hoạn nạn, bề ngoài thì tỏ ra hào hiệp, nhưng ngấm ngầm dựa vào đó để kiếm lợi. Họ vờ vịt thề bồi, nhưng chỉ chờ bạn lâm nạn, rồi ra tay vơ vét. Có ruộng vườn của cải thì họ bòn rút, có vợ đẹp thì họ chiếm đoạt. Tình nghĩa bạn bè như thế há chẳng đau lòng sao. Bởi thế, xưa kia Chu Mục đã viết bài luận bàn về sự tuyệt giao tại cửa dinh thự Địch Công. Đỗ Công Bộ(2), khi còn ở Trường An, mỗi khi bị bạn bè cũ bạc tình, ông làm một bài cổ thi, trong đó có đoạn:
Tay ngửa thành mây úp thành mưa
Cuộc đời giở mặt đến thế ư?
Quản, Bão thân nhau dù nghèo xác
Tình nghĩa ngày nay vứt bỏ rồi.
(1) Quản, Bão: Quản Trọng, Bão Thúc Nha thời Xuân Thu. Hai người rất thân thiết với nhau.
(2) Đỗ Công Bộ: Đỗ Phủ thời Đường.
Theo bài thơ ta thấy thói đời bạc ác, tình bạn đâu còn thủy chung. Từ xưa tới nay phần lớn đều như vậy. Tuy nói thế, song lẽ nào trên thế gian không còn đấng trượng phu nào, biết giữ lời hứa, quả cảm, trọng nghĩa khinh tài? Trong quan hệ bạn bè kẻ hại bạn thì nhiều, làm lợi cho bạn thì ít, nên khi kết bạn cũng phải tìm hiểu người ấy có tốt không, sau đó mới kết nghĩa bạn bè. Đừng nhẹ dạ cả tin mà bị người lừa dối, trước mặn mà, sau thì hiềm khích, đến lúc hối hận cũng không kịp. Gần đây có một chàng trai, cũng vì cả tin mà chơi thân với bọn trộm cướp, về sau vợ chồng lìa bỏ nhau, bản thân bị tù tội, tánh mạng khó bảo toàn.
Chuyện này xảy ra tại huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang. Người ấy là Triệu Tương, hiệu Quân Phủ. Cha mất từ lúc mười hai tuổi. Mẹ là Vương thị lúc đó mới hai mươi bảy tuổi, phải vất vả, lo toan nuôi nấng con nên người. Đến tuổi trưởng thành, anh lấy Phùng thị, một người vợ có nhan sắc. Ba người đều sống dựa vào gia tài của ông cha để lại. Một người láng giềng tên là Đổng Cận Tuyền làm nghề thợ may, hễ trong làng có việc ma chay hoặc cưới xin... đều thấy có mặt ông ta. Dựa vào tuổi cao, Đổng Cận Tuyền thường đứng ra thu tiền mua sắm lễ vật. Đây là việc chung của mọi người, nhưng vì sao Đổng Cận Tuyền lại một mình chịu vất vả như thế? Số tiền mừng hay phúng viếng, có khi chỉ thu một đồng, nếu lễ hậu thì thu hai đồng. Làm người đứng đầu, không những mình không phải nộp, mà số người đóng góp đông lên thì có thể bớt xới được chút ít cho riêng mình. Khi chủ nhà chuẩn bị cỗ bàn, ngoài việc được ăn cỗ ra, hôm sau dọn dẹp nhà cửa cũng phải mời ông ta tới ăn. Vì béo bở như thế, nên Đổng Cận Tuyền thường dò hỏi xem nhà nào mừng thọ, nhà nào sinh con... thế rồi ông bỏ việc nhà, lui tới nhà đó bắt thân.
Một lần ông ta tất tả đến nhà Triệu Tương nói:
- Nhà họ Lí bán rượu phía đông làng, đêm qua đã dọn đi rồi. Tối nay sẽ có một người họ Tưởng từ Nam Môn dọn nhà tới đó. Nghe nói anh Tưởng tuy tuổi không cao, nhưng rất hiểu đời. Mấy nhà chúng ta góp mỗi người một ít tiền để mừng anh ấy, xin anh góp một phần.
- Việc này ta nên làm. - Triệu Tương nói. - Nhưng mỗi người phải bỏ ra bao nhiêu mới đáng.
- Theo mọi người thì ta nên bỏ ra trước mỗi người một đồng rưỡi. - Đổng Cận Tuyền nói. - Đến khi xong xuôi hãy tính toán.
Thế rồi Cận Tuyền thu tiền ngay, tự đi mua sắm lễ vật, không cần tính toán chi li.
Người họ Tưởng, tên húy là Vân, thuộc hàng thứ ba, tên thường gọi là Phật Ca, tên chữ là Công Độ. Ông, cha ba đời đều làm viên lại ở phủ này. Tài sản để lại đáng giá ngàn vàng. Chỉ vì Tưởng Vân còn trẻ đã mồ côi cha nên không được dạy bảo, chơi bời cờ bạc. Chưa đến đời thứ ba thì tài sản ông cha để lại đã khánh kiệt. Từ đó sinh ra buồn chán, chỉ sống dựa vào đơn từ kiện cáo của người khác. Hôm ấy anh ta dọn nhà, Đổng Cận Tuyền đưa lễ tới mừng. Tưởng Vân vui vẻ nhận lễ, chọn ngày mang danh thiếp tới mời, bày biện cỗ bàn thịnh soạn. Đêm ấy, khách ăn uống đều là những người láng giềng. Những người này đều làm nghề thủ công, vốn thô lỗ và thật thà, họ ham thích rượu thịt, ăn uống thả sức, song đấy tri huyện không phải là thói xấu. Còn Tưởng Vân thì tỏ ra là người có học, am hiểu thời thế, nói năng ngọt ngào, khiến mọi người ngồi im thin thít, chẳng ai chen vào được câu nào. Chỉ có Triệu Tương am hiểu đôi thút, dịu dàng nhã nhặn, tuổi lại còn ít, ngồi ở cuối chiếu đúng vào mâm của gia chủ, bởi thế hai người chuyện trò rất tâm đắc.
Đêm ấy tan cuộc, Triệu Tương về nhà khoe với Vương thị rằng Tưởng Vân thường lui tới cửa quan là một người tài giỏi hòa nhã, đối đãi với mọi người rất chu đáo lịch thiệp.
Vương thị nói:
- Con không có anh em, có được người láng giềng như thế, con nên kết nghĩa.
Sáng hôm sau, Triệu Tương sang tạ ơn. Tưởng Vân cười nói:
- Tôi rất xấu hổ, cỗ bàn quá đơn sơ, thật là có lỗi. May được anh quan tâm, hiện vẫn còn rượu ngon, anh ngồi lại đây uống với tôi chén rượu, rồi chúng ta cùng nói chuyện.
Triệu Tương vội vã đứng dậy từ chối. Tưởng Vân cứ nài, không cho về. Thế là Triệu Tương ngồi lại uống rượu, cho mãi tận trưa. Từ đó về sau họ thường qua lại uống rượu, chẳng giữ kẽ gì nữa. Một hôm, huyện đường có việc kiện tụng, Tưởng Vân dậy từ rất sớm, rửa mặt, chải đầu rồi ra đi. Vừa bước ra khỏi cửa, anh ta thấy bên thành giếng có một người con gái xinh đẹp đang múc nước, lại gần, nhìn kĩ thì quả là người đàn bà ấy đẹp tuyệt vời. Chỉ thấy:
Dáng vẻ dịu dàng
Tấm thân uyển chuyển,
Nét mặt phớt hồng, đẹp tựa đào hoa,
Khêu gợi hồn Tống Ngọc.
Ôi, nét mày xanh tươi xinh đẹp,
Hà tất mượn bút vẽ chàng Trương.
Tóc mai buông rối lòa xòa,
Đẹp tựa cảnh thiên nhiên mỹ lệ.
Tưởng Vân dừng chân, đứng chờ người ấy múc nước bước vào cửa. Bấm đốt ngón tay nhẩm tính những nhà hàng xóm, mới biết đây là vợ của Triệu Tương. Anh ta vừa đi vừa nghĩ thầm: "Sao vợ Triệu Tương lại đẹp đến mê hồn như thế, phải tìm cách chiếm đoạt mới thỏa nguyện”.
Từ đó về sau anh ta thường mua hoa quả tươi ngon biếu Vương thị. Việc gì cũng tỏ vẻ ân cần, đối với Triệu Tương thì hắn ngày càng thân mật.
Khi cha mất, Triệu Tương phải muợn một món tiền để lo ma chay. Mấy năm qua tiền gốc chưa trả, lãi mẹ đẻ lãi con, vượt cả tiền gốc. Anh muốn xin chủ nhân nhượng xóa nợ chomình. Song nào có biết, sổ nợ của nhà quan chẳng bao giờ chịu để thiếu một xu. Chủ nợ không chịu, còn sai quản gia gọi Cố Kính dẫn bọn người hầu đến nhà Triệu Tương làm ầm ĩ. Vì còn trẻ người non dạ, Triệu Tương cố tình không trả. Chúng bèn dùng thừng đay tròng vào cổ Triệu Tương, rồi lôi đi bẩm quan, một mình Triệu Tương không sao chống lại được bọn đầy tớ ác độc. Trước đây Đổng Cận Tuyền, người sát vách, cùng mấy nhà hàng xóm đã khuyên giải Triệu Tương. Song lần này họ biết thế lục của bọn quan lại trong làng, không ai dám ngăn cản. Vương thị cuống lên, chẳng giữ gìn gì nữa, chạy ra đường kêu khóc. Đúng lúc chưa phân giải, Tưởng Vân cùng với mấy người bạn về nhà, chen vào đám đông xem sự thể ra sao. Thấy Triệu Tương, anh ta kinh ngạc kêu lên:
- Hóa ra là Triệu Tương, vì sao anh lại bị đánh đập nhục nhã như thế?
Rồi anh ta xông vào, đánh túi bụi những người lôi Triệu Tương. Cố Kính nói:
- Anh Tưởng, anh đừng có nhúng vào chuyện này, bọn chúng tôi không phải là người dễ chơi đâu.
Tưởng Vân quay lại thấy Cố Kính, nói ngay:
- Anh Cố, chúng ta đều là người quen biết nhau, chú Triệu là em họ tôi, cũng là một người có tư cách. Nếu như nợ cũ chưa trả xong, thì việc gì đòi nợ lại như bắt cướp vậy. Anh đừng có dựa vào thế quan, còn tôi đây là người có hung thần phù trợ, chẳng thể đè bẹp được tôi. May mà tôi với anh đã quen biết nhau, nếu mang tới cửa quan tôi sẽ đứng lên làm đơn kiện, lúc đó trắng đen rõ ràng, các anh thoát sao được.
Bọn người hầu thấy thế nói: "Có lý, có lý”. Rồi họ vào chùa Phổ Chiếu, tìm một quán yên tĩnh ngồi uống rượu. Rượu đã ngà ngà, Cố Kính nói:
- Món nợ này mượn đã lâu, lãi mẹ đẻ lãi con, tiền lãi nhiều hơn tiền gốc, muốn xin xóa thì cũng được thôi. Chỉ có điều Triệu Tương phải nói với Nguyên Trung hoặc tìm người thân thích trực tiếp nói với ông ấy để lấy khế ước vay nợ về thì sẽ xong. Nếu chỉ đóng cửa trở mặt, mà không nói cho rõ ràng, cứ khăng khăng không trả thì không thể được. Sổ nợ chưa thanh toán xong, thì nhất định ông ấy sẽ sai anh em chúng tôi đi đòi. Tới lúc ấy đừng bảo chúng tôi là không có tình nghĩa. Chẳng nhẽ anh em chúng tôi phải bỏ của nhà ra mà đền thay cho anh à? May gặp được anh Tưởng đây là người hiểu đời. Việc thế thái nhân tình trong thiên hạ đều nhờ đến tay anh. Người xưa nói rất đúng "trả nợ phải trả hết gốc". Nếu như không cắt đứt đuôi nòng nọc, ông chủ lại sai bọn chúng tôi tới đòi, rồi lại động chạm đến anh, thì đừng có trách là chúng tôi không nói.
- Xin nghe theo lời dạy bảo của anh. - Tưởng Vân nói. - Tôi đã thấy được lòng tốt của các anh. Hôm nay đã khuya rồi, xin mời các anh hãy về đi. Ngày mai ăn cơm xong, tôi sẽ tới gặp ông chủ các anh. Nhưng cũng cần các anh nói thêm vào, thằng em tôi nhất định sẽ hậu tạ.
Tưởng Vân là người chuyên để ý đến những việc rắc rối, viết đơn kiện cáo mà nổi tiếng. Những thân hào trong vùng, phàm có việc kiện tụng đều đến nhờ anh ta giúp đỡ. Bởi thế Cố Kính không dám trái ý, chỉ vâng dạ rồi ra về.
Sáng hôm sau, Vương thị gọi Triệu Tương dậy sớm, đến nhà Tưởng Vân cảm ơn, mong anh ta lo công việc chu toàn. Sắp bước ra cổng thì Tưởng Vân tới, Triệu Tương vội vàng mời vào nhà. Vương thị đích thân ra cảm ơn. Tưởng Vân nói:
- Tối qua, tôi đã xem sổ nợ của Cố Kính, thấy còn thiếu tất cả là mười một lạng bảy, làm sao người ta chịu xóa nợ nhiều như thế. Ít ra cũng phải trả người ta một nửa thì mới xong. Còn Cố Kính và bọn đầy tớ kia cũng phải lót tay một lạng. Chỉ sợ Triệu Tương một lúc lo ngay thì không kịp, phải cố gắng mượn bạn bè được năm lạng. Chờ lát nữa tôi sẽ trực tiếp đến xin, nếu ổn thỏa tôi sẽ về báo lại.
Nói xong định đứng dậy đi, Triệu Tương giữ lại nói:
- Cơm nước tôi đã chuẩn bị xong. Tuy không phải là mời anh, nhưng đây là chút lòng thành thực của tôi, xin anh đừng từ chối.
- Quả đây là tấm lòng tốt của anh, tôi không dám chối từ. - Tưởng Vân nói. - Nhưng thực tình, sáng nay tôi có hẹn, gặp người bạn thân. Hãy chờ tôi giải quyết ổn thỏa mọi công việc, khi ấy chúng ta ăn uống cũng không muộn.
Rồi Tưởng Vân vội vàng vào thành. Vương thị nói với con:
- Tưởng Vân tốt như thế, ngay cả anh em ruột cũng chẳng bằng. Anh ấy đã không chịu ăn, thì phải mua ít hoa quả tối nay mời anh ấy đến làm lễ kết nghĩa anh em, đi lại với nhau, nhờ anh ấy giúp đỡ.
- Mẹ không nói con cũng đã nghĩ rồi. - Triệu Tương gật đầu nói.
Thế rồi anh mang tiền đi mua gà, cá tôm và một ít hoa quả tươi. Phùng thị xuống bếp chuẩn bị cơm nước, Vương thị hâm rượu.
Đang lúc bận rộn chuẩn bị, bỗng thấy tiếng kẹt cửa. Triệu Tương vén rèm nhìn ra, thấy Tưởng Vân mặt mày hớn hở bước vào nhà khách. Triệu Tương hỏi ngay:
- Việc tôi nhờ anh đã giải quyết ổn thỏa chưa?
- Tôi đến nhà, - Tưởng Vân nói, - đã thấy bạn tôi chờ ở Đó. Chúng tôi vào gặp ông ấy ngay. Lúc đầu ông ta khăng khăng nhất định không nghe, nhưng tôi cố van nài mong ông ấy xóa hết. Cố Kính đứng bên cũng nói thêm rằng, quả thực anh ấy nghèo túng quá không thể xoay xở được. Anh ấy xin được trả một nửa, số còn lại xin ông xóa cho. Tôi lại phải năm lần bảy lượt van xin, cuối cùng ông ta giảm cho sáu phần mười. Cộng với tiền tạ ơn Cố Kính hết cả thảy là năm lạng sáu. Tờ khế ước vay nợ tôi đã mang về, anh hãy xem cho kĩ rồi nhận lấy.
Triệu Tương đón lấy tờ khế ước, xem qua một lượt, rồi xé đi. Triệu Tương quay ra vui vẻ nói chuyện với Tưởng Vân. Người mẹ đứng sau rèm nghe thấy hết. Vương thị vô cùng mừng rỡ, sửa sang khăn áo bước ra, cảm ơn Tưởng Vân.
- Mẹ con tôi đơn côi, không ai nương tựa, luôn bị người ta khinh bỉ. Nếu không được anh giúp đỡ chu toàn, thì lúc nào chúng tôi cũng như cá nằm trên thớt. Số tiền lãi ấy vừa phải trả đúng hạn, lại còn phải mang ơn. Tôi muốn nói một chuyện, không biết có được không?
Tưởng Vân vội đứng dậy, hớn hở tươi cười cúi lạy rất lễ phép, rồi nói:
- Bà dạy gì xin cứ nói, đừng ngại.
- Tôi đã chuẩn bị trầu, rượu, hoa quả. - Vương thị nói. - Nếu anh không chê nghèo hèn thì xin cho Triệu Tương được kết nghĩa anh em, mong anh đừng từ chối.
Tưởng Vân đang lo chưa có đường len vào nhà này, thấy nói kết nghĩa anh em, hắn rất đỗi vui mừng, bèn cúi xuống lạy liền mấy lạy, nói:
- Ý tôi cũng muốn thế, nhưng chỉ lo tôi nhà bần hàn, khó mà kết nghĩa được với anh ấy. Nay nhờ bà thương yêu đến, thật là may cho tôi quá. Triệu Tương bèn bưng lễ ra bày lên bàn, thắp hương nến, rồi hai người cùng hướng lên bàn thờ thề kết nghĩa anh em.
Tưởng Vân hơn năm tuổi là anh, Triệu Tương là em. Hai người lễ xong, rồi lập tức mời Vương thị ra nhận mặt. Vương thị nói:
- Chỉ cần các anh lễ là được rồi, không nên bắt bà già lễ nữa.
Tưởng Vân vội vàng quỳ xuống lạy bốn lạy. Sau đó mời Phùng thị ra, cùng gặp mặt. Cỗ được bày ra, mọi người vui vẻ ăn uống cho mãi tới tận khuya mới tàn. Chỉ vì lần kết nghĩa này mà số phận của Triệu Tương, mẹ và vợ anh ta thật là bi đát, cửa nhà tan nát, tính mạng hiểm nguy, hầu như chết một cách oan uổng. Từng có thơ rằng:
Cốt nhục tình nhà còn rất khó,
Huống hồ đem nó gửi người dưng.
Thiên cổ anh hùng xưa vẫn hiếm,Sao nay nhẹ dạ kết đào viên.
Sau khi kết nghĩa, hai người ngày càng thân thiết. Đúng vào năm ấy hạn hán lụt lội, giá thóc tăng vọt, tới bốn lạng bạc một thạch. Triệu Tương ra chốn đô thành, trở về buồn rười rượi. Vương thị cứ gặng hỏi vì sao, Triệu Tương đáp:
- Chẳng có việc gì khác, chỉ vì trời hạn hán mất mùa, gạo thâu củi quế. Con nghĩ, miệng ăn núi lở, cứ ở nhà, mai ngày lấy gì độ thân. Con định đi buôn, nhưng lo rằng việc nhà không ai trông cậy. Bởi thế đi cũng dở, ở không xong, cứ chần chừ không định được. - Mẹ cũng đã tính cho con từ trước. - Vương thị nói. - Chỉ sợ con từ nhỏ đến giờ chưa từng xa nhà, vả lại hàng có nhiều loại, không biết buôn bán loại nào cho có lãi. Nay con muốn đi xa, mà làm trai phải có chí bốn phương, mẹ đâu dám ngăn cản con. Còn người trông coi việc nhà, con cũng không cần phải nghĩ ngợi, đã có anh Tưởng quan tâm. Song không biết con tới đâu mua loại hàng gì cho có lãi.
- Con được biết Hồ Quảng thóc gạo rẻ. - Triệu Tương nói. - Con có một người bạn là Triệu Vân Sơn ở Lục Trần Hàng, nhà giàu có, khuyên con đi buôn. Con đã bàn kĩ với anh ấy rồi, nếu đến đó mua gạo về, tính ra lãi tới quá nửa.
- Nếu được bạn tốt dìu dắt, - Vương thị mùng rỡ nói, - thì mẹ chẳng cần phải lo lắng, con hãy định ngày lên đường. Mẹ cũng thu xếp bán ít đồ trang sức để lo chút vốn cho con, mua thêm được tí nào hay tí ấy.
Đêm ấy hai mẹ con bàn soạn xong xuôi. Sáng sớm hôm sau Triệu Tương đến nhà Triệu Vân Sơn, hẹn ngày lên đường. Sau đó lại rẽ vào nhà Tưởng Vân, mời anh chiều nay đến nhà uống rượu, rồi đi mua thịt, cá và một hũ rượu ngon. Chiều đến, thức nhắm đã chuẩn bị xong, Triệu Tương lại mời Tưởng Vân tới dọn bàn, bưng ra một mâm cơm thịnh soạn. Tưởng Vân nói:
- Không biết hôm nay chú mời khách nào đến mà làm cơm thịnh soạn thế.
- Em bất tài, hoàn toàn dựa vào anh che chở. - Triệu Tương nói. - Làm bữa rượu nhạt, nhân tiện có việc nhỏ cần nói với anh.
- Là anh em một nhà thì cơm nước bình thường thôi. - Tưởng Vân nói. - Chú cứ bày vẽ như thế này thì lần sau ai còn dám đến nữa.
Rồi họ cùng ngồi vào mâm. Lúc đầu họ còn nói chuyện ở chốn nha môn, sau vài tuần rượu, Triệu Tương rót rượu tràn chén, hai tay nâng lên mời Tưởng Vân, nói:
- Xin mời anh uống chén đầy này.
- Em đã biết tửu lượng của anh rồi đấy. - Tưởng Vân ra sức chối từ, nói. - Vì sao hôm nay chú cứ ép anh, có phải anh khách sáo gì đâu?
- Em không biết tửu lượng của anh thế nào? - Triệu Tương nói. - Nhưng đây là chén rượu Lỗ, mà cũng chẳng phải bỗng dưng mời anh chén rượu này. Nếu anh uống thì em mới dám nhờ anh, còn như anh cố từ chối, thì tất nhiên em sẽ trách anh, và cũng chẳng dám hé răng.
Tưởng Vân đành miễn cưỡng uống cạn, rồi nói:
- Rượu là mệnh lệnh, xin sẵn sàng nghe em nói.
- Cha em mất sớm, - Triệu Tương nói, - phải nương tựa vào mẹ già. Đã hai mươi tuổi, em vẫn chưa từng ra khỏi làng, người ta nói, làm trai phải có chí bốn phương. Nghiệp nhà sa sút nếu cứ ngồi há miệng chờ sung, thì đâu phải là kế lâu dài. Đang lúc trời làm hạn hán, giá thóc gạo tăng vọt, có người bạn cũ rủ em đến Sở Trung buôn bán. Lúc đi xa, ai chẳng nhớ quê hương, bạn bè, song điều khiến em chưa dám dứt áo ra đi, đó là mẹ già không ai chăm sóc. Nay có anh; thân thiết như ruột thịt, xin nhờ anh giúp đỡ. Em sợ, khi em đi rồi tình cảm trước đây nhạt dần. Bởi thế, em có ý làm mâm cơm, trước để nói lời tạm biệt, sau việc nhà xin nhờ cậy anh. Sau khi em đi, có việc gì xảy ra, thì nước xa không cứu được lửa gần, điều ấy hoàn toàn nhờ vào anh. Nếu mẹ già của em được cậy nhờ, thì em chẳng phải lo lắng gì nữa. Song điều này đều tùy thuộc vào sự bao dung của anh. Nếu anh bằng lòng, thì em vô cùng biết ơn.
Nghe xong Tưởng Vân vui vẻ nói:
- Anh tuy kém cỏi, nhưng vốn sẵn lòng hào hiệp, anh hứa với em sẽ hết lòng giúp đỡ. Hơn nữa lời thề kết nghĩa anh em vẫn còn đó. Mẹ em cũng như mẹ anh, vợ em là em dâu của anh. Em cứ yên tâm ra đi, không phải vấn vương gì đến việc nhà nữa.
- Anh đã hứa như thế, - Triệu Tương nói, - thì xin anh ngồi lên trên, và nhận của đứa em này một lạy.
Tưởng Vân vội vàng gạt tay, nhưng Triệu Tương đã quỳ xuống lạy, rồi tiếp đó lạy thêm hai lạy nữa. Nước mắt Triệu Tương tự nhiên giàn giụa, chảy tràn xuống má. Tưởng Vân an ủi:
- Em đã tính toán như thế, thì lần này ra đi tất sẽ toại nguyện. Cớ sao lại nước mắt lưng tròng như đàn bà con gái vậy?
Vương thị cứ dặn đi dặn lại con rằng:
- Con đi đường phải cẩn thận, giữ gìn sức khỏe, rồi liệu mà về cho sớm, việc nhà đã có anh con lo liệu. Gạo nước, củi đuốc trong nhà mẹ sẽ tự lo. Chỉ mong con chuyến đi này kiếm được ít lãi thì mẹ cũng chẳng uổng công vất vả.
- Ý em đã quyết, - Tưởng Vân nói, - không biết rằng em định bao giờ thì nhổ neo, để anh còn chuẩn bị chén rượu nhạt tiễn chân.
- Sáng sớm mai em lên đường. - Triệu Tương nói.
- Đã đi ngay ư? - Tưởng Vân nói. - Vậy anh phải thuê thuyền tiễn chân em.
Lúc ấy trời đã gần tối, Tưởng Vân cáo từ ra về.
Ngay đêm ấy Triệu Tương dặn Phùng thị rằng:
- Cửa nhà sớm tối phải cẩn thận, có con trai đến nhà nhất thiết đừng ra mặt.
- Em thấy, đây là việc nhỏ có thể thực lòng nhờ cậy Tưởng Vân, - Phùng thị nói, - nhưng xét kĩ lời nói, sắc mặt và việc làm, e rằng anh ta không phải là người quân tử. Em chỉ lo rằng sau này chẳng có lợi gì cho nhà ta.
- Tưởng Vân là đấng trượng phu nghĩa hiệp. - Triệu Tương nói. - Anh đã thử từ lâu rồi, sao em lại đa nghi như thế.
Đêm ấy vợ chồng trò chuyện, dặn dò nhau đủ mọi điều. Sáng hôm sau, Triệu Vân Sơn, Triệu Tương lên thuyền đi thẳng tới Tô Châu.
Từ khi Tưởng Vân gặp Phùng thị múc nước bên giếng. Lúc nào anh ta cũng tơ tưởng đến nàng. Tuy hàng ngày trông thấy nhau, song Phùng thị lại là một người rất trinh tiết. Dù anh cố ý ân cần, hay xa xôi bỡn cợt, nàng cũng không bao giờ mỉm cười. Bởi thế chỉ được nhìn thỏa thích, chứ không dám động đến nàng. Hôm ấy Tưởng Vân tiễn chân Triệu Tương đến Tú Châu rồi chia tay. Trên đường về Tưởng Vân mừng thầm, anh ta nghĩ: "Cho dù Phùng thị không bằng lòng, Vương thị làm trở ngại, cũng không thay đổi được dịp may hiếm có này. Chi bằng trước hết phải đánh đổ được Vương thị, nhất định con ấy phải trong tay mình". Tính toán xong, thuyền cập bến, trước tiên anh ta vào chào Vương thị, sau mới về nhà dọn dẹp khay chén, tiễn chân chủ thuyền. Ngay hôm ấy, Tưởng Vân mua một con cá tươi, một con gà béo, một ít bánh kẹo, sai vợ là Dương Xảo Cô đi lối cửa sau đến nhà Vương thị. Vương thị thấy thế rối rít cảm ơn, nhận gà, cá và giữ Xảo Cô lại ăn cơm tối, lại đưa Xảo Cô về tận nhà. Về đến nhà Xảo Cô giữ Vương thị ở lại ăn kẹo, nấn ná mãi đến tận khuya mới về. Tưởng Vân lại soi đèn đưa chân Vương thị về, rồi khẽ dặn:
- Nhà không có đàn ông, phải chú ý đề phòng bọn trộm. Nếu có động tĩnh nên lắng tai nghe kĩ, chứ đừng coi đó là mèo hay chuột.
- Rất cám ơn anh. - Vương thị nói. - Khuya rồi anh về đi.
Tưởng Vân đi được bốn năm bước lại quay lại nói:
- Dầu tuy đắt nhưng cũng phải đốt một ngọn đèn nhỏ cho vững dạ.
- Hiểu rồi. - Vương thị trên gác nói vọng xuống.
Từ đó Tưởng Vân năng lui tới nhà họ Triệu. Buổi sáng hết củi thì anh ta đi mua, buổi chiều sang có rượu thì uống. Vương thị rất vui, và còn khâu cho anh ta một đôi giày. Tưởng Vân mang giày về, hai hôm sau Vương thị hỏi:
- Giày tôi khâu cho, sao không thấy anh đi, hay là tôi khâu xấu, anh không vừa ý?
- Rất cảm ơn mẹ đã tặng con đôi giày ấy. - Tưởng Vân nói. - Tiếc nó còn mới, con không dám xỏ chân, nên đã cất vào trong tủ.
Một hôm, Tưởng Vân mang đến một tấm lụa hoa, đòi Vương thị cắt quần áo. Hắn ta cố ý để rơi chiếc thước xuống đất, vờ tìm thước, nhưng tay lại cầm lấy chân Vương thị. Vương thị cười nói:
- Anh nhầm rồi, đấy có phải là thước đâu, sao lại cầm chân tôi?
Nếu Vương thị là người trinh tiết, thì lúc ấy phải nói cho anh ta biết, để lần sau anh ta bỏ ý nghĩ xấu xa ấy đi. Song Vương thị lại nói, cầm nhầm, há chẳng phải là có tình ý gì ư. Vương thị tuy tuổi đã ba nhăm, nhưng vẫn đẹp nõn nà, trông chỉ khoảng dưới ba mươi. Từ ngày chồng mất đến nay, đã ở vậy được tám năm. Do cô quạnh, trống trải lâu ngày, nay lại có người đàn ông suốt ngày ở nhà mình, mẹ mẹ con con thân thiết như ruột thịt, đừng nói gì đến Vương thị, mà ngay một người đàn bà trinh tiết e rằng cũng nẩy ra ý nghĩ tà dâm. May có Phùng thị là người đứng đắn, luôn bên cạnh. Vương thị còn e ngại, không dám bờm xơm.
Vì sắp đến ngày sinh nhật, Vương thị muốn mời ni cô ở chùa Quan âm tên là Tĩnh Chiếu tới nhà đọc kinh. Vương thị nhờ Tưởng Vân mua sắm hoa quả, hương nến. Tưởng Vân mừng thầm, nghĩ bụng: "Chỉ cần ta nói với ni cô, thì việc ấy sẽ xong".
Thế rồi ngay hôm ấy hắn mang hai lạng bạc đến chùa đưa cho Tĩnh Chiếu, bàn kín với ni cô sắp đặt mọi chuyện. Tuy chốn cửa Thiền, song Tĩnh Chiếu vẫn quen thói trăng hoa. Thấy bạc, Tĩnh Chiếu tối mắt lại, hứa ngay với Tưởng Vân rằng:
- Cư sĩ chẳng cần phải lo, nhờ vào ba tấc lưỡi của tôi thì chắc chắn việc sẽ xong. Nhưng khi xong việc thì phải hậu tạ.
Tưởng Vân cười khanh khách, gật đầu ra về.
Ngay chiều hôm ấy, Tĩnh Chiếu đến nhà họ Triệu, thấy Vương thị, Tĩnh Chiếu nói:
- Mới ít lâu không gặp chị, nay gặp lại, thấy chị đẹp hẳn ra, ngày càng nõn nà. Chắc chị rất vui.
- Cuộc sống nghèo túng, góa bụa có gì mà vui. - Vương thị đáp.
- Tôi nghe thấy, anh cư sĩ Tưởng là người kết nghĩa anh em, có người giúp đỡ, đấy là cái vui thứ nhất. Lại được tin anh Triệu Tương đi buôn bán xa, kiếm được nhiều tiền, đấy là niềm vui thứ hai. Ngày mừng sinh nhật sắp tới, ấy là niềm vui thứ ba. Lại còn một niềm vui ngoài ý muốn khó mà nói ra được.
- Đa tạ. - Vương thị cười nói. - Sư phụ chỉ biết cái vui của tôi, chứ đâu có biết tôi lo gạo nước, củi đuốc, trông nom cửa nhà đúng là khổ hết chỗ nói. Sắp tới là ngày sinh nhật, tôi đã mua hương nến, muốn mời thầy trò sư phụ tới nhà tụng kinh niệm Phật một ngày, chưa kịp sai người đến mời, ai ngờ cơn gió lành đã đưa sư phụ tới đây.
- Cũng chính vì thế mà tôi đến đây. - Tĩnh Chiếu nói. - ở nhà ồn ào không tiện, chi bằng chị mang hương nến đến chùa, núi rừng vắng vẻ, cùng với nhà chùa tụng kinh niệm Phật, tiện biết mấy. Không biết ý chị thế nào?
- Được thế thì tốt quá Vương thị nói. - Tới hôm ấy tôi sẽ đến sớm lễ chùa.
Vương thị định làm cỗ chay khoản đãi, nhưng Tĩnh Chiếu từ chối ra về. Bởi thế có thơ rằng:
Mừng thọ trở thành hội uyên ương,
Nhà sư đã chỉ đất đưa đường.
Hôm ấy, Vương thị dậy sớm trang điểm, để Phùng thị ở nhà, cùng Tưởng Vân và một thằng nhỏ mang hương nến, hoa quả tới chùa. Nhìn quanh thì ở đây quả là chốn thiền môn thanh u tịch mịch. Chỉ thấy:
Cửa ngoài rêu biếc một màu xanh,
Bên dậu thùy dương khói tỏa cành.
Chỉ thấy một làn mây bạc mỏng,
Lượn lờ cánh hạc nhẹ nhàng bay.
Tĩnh chiếu mời vào chùa, tòa sen đèn nến sáng trưng, khói hương nghi ngút. Thầy trò Tĩnh chiếu đã niệm hết một quyển kinh Dược sư. Vương thị quỳ xuống lễ Phật, rồi được nhà chùa mời tới phòng uống nước. Tĩnh Chiếu nói:
- Tưởng cư sĩ cũng tới đây cùng uống trà.
- Đa tạ sư phụ, - Vương thị nói, - không có người ngoài, chúng tôi ngồi ăn chung cũng được.
Vì đã ăn sáng nên thầy trò Tĩnh chiếu vẫn ngồi tụng kinh trước Phật đường. Tưởng Vân dẫn Vương thị ngắm nhìn phong cảnh xung quanh, luôn nói những lời gợi tình để dụ dỗ. Vương thị chỉ mỉm cười chẳng nói gì. Lát sau Tĩnh Chiếu giục họ tới ăn chay. Chờ cho Vương thị và Tưởng Vân vào phòng. Tĩnh Chiếu nói:
- Hai vị cứ ngồi ăn uống tự nhiên, tôi lên thắp một tuần nhang nữa rồi sẽ trở lại tiếp hai vị.
Nói xong Tĩnh Chiếu nháy mắt ra hiệu cho Tưởng Vân, rồi khép cửa phòng lại. Tưởng Vân tươi cười đến bên Vương thị, quỳ xuống nói:
- Nỗi đau khổ của tôi nàng có biết không?
Vương thị đập nhẹ vào vai Tưởng Vân mỉm cười chửi:
- Đồ con khỉ, ý xấu của anh tôi đã biết từ lâu rồi, có điều ở đây không thể làm thế được đâu? Nhỡ ra Tĩnh Chiếu đột ngột vào thì ê mặt.
Lúc ấy ngọn lửa tình dục của Vương thị đã bùng lên không sao dập được, để mặc Tưởng Vân bế lên giường, cởi quần áo, rồi phút chốc mây mưa. Một chàng trai khinh bạc, một người đàn bà từ lâu góa chồng, chẳng khác nào củi khô bén lửa. Họ tận hưởng khoái lạc đến tột độ, bỗng chốc mồ hôi đẫm áo, hồn vía mê man. Từng có bài thơ chửi Tưởng Vân phụ nghĩa bạc tình như sau:
Anh em kết nghĩa đã thề bồi, Ai hay dạ thú lại mặt người. Chi tiếc Phật đường nơi thanh tịnh, Mà sao giường chõng sặc tà dâm.
Tưởng Vân thỏa mãn dâm đãng tại chùa, tràn trề sung sướng. Từ đó về sau, cứ cách một đêm lại lẻn tới buồng Vương thị mây mưa khoái lạc. Có điều mẹ chồng nàng dâu ở hai phòng liền nhau, chỉ cách một vách gỗ mỏng, không thể che giấu được những tiếng sột soát. Phùng thị nằm sát vách, nghe rõ mồn một. Thực ra, Tưởng Vân muốn "mượn đường đánh Hoắc", khi đã thông dâm với Vương thị, gã càng táo tợn. Mỗi khi gặp Phùng thị gã sờ tay nắn chân, đùa cợt khêu gợi, Phùng thị không dám lên tiếng, chỉ ngấm ngầm tức giận. Một đêm, sau khi mây mưa, Vương thị bế Tưởng Vân nói:
- Tuy được chàng gian díu mấy đêm, chỉ sợ người bên kia vách nên chưa từng có hôm nào là thỏa thích, ngay nói cũng không được, thế thì sao gọi là sướng.
- Làm như thế, - Tưởng Vân nói, - anh cũng cảm thấy buồng chán. Từ nay về sau cứ làm bừa đi, chẳng việc gì mà ngại.
- Thế sao được. - Vương thị lắc đầu nói. - Nếu nó nghe thấy chẳng hóa ra mặt mo à.
- Nếu muốn nó không biết, - Tưởng Vân nói, - thì thôi không làm nữa. Mà giấu thì có giấu được mãi không. Thôi cứ lôi nó cùng xuống vũng bùn để bịt mồm nó lại. Sau này chồng nó về, anh còn dịp đi lại, chứ không đến nỗi đoạn tuyệt với em.
- Anh nói đúng. - Vương thị trầm ngâm hồi lâu nói. - Chỉ có điều như thế thì rẻ rúng anh quá.
Hai người nói với nhau như thế, càng thấy hứng tình, họ lại tiếp tục mây mưa một lần nữa. Về sau, mỗi khi Tưởng Vân bắt chuyện với Phùng thị, Vương thị cố ý lánh đi chỗ khác.
Người xưa thường nói: "Thượng bất chính, hạ tắc loạn". Phùng thị là người rất đoan chính, thì Tưởng Vân làm sao lôi kéo được. Song đến khi ngủ, lại nghe thấy những lời dâm đãng, tình dục lâu ngày không được đáp ứng, Phùng thị chịu đựng sao được, chỉ vì sợ mà Phùng thị không dám bước vào con đường tà dâm. Tưởng Vân lại bịa chuyện để đánh lừa:
- Hôm qua có một người từ Vũ Xương trở về, nói rằng có một người bạn họ Triệu cùng ở chung đã đi lại với một kỹ nữ, vốn liếng mất hết không về được nhà. Tôi nghĩ rằng, từ đây đến Hồ Quảng không xa, thóc gạo rất dễ mua, sao lại mắc kẹt ở đấy lâu như thế, chẳng thấy tin tức gì? Hay là có việc đó thật, mà ta chưa biết được.
Phùng thị nghe xong chẳng biết thực hư thế nào, nổi máu ghen, lòng dạ bỗng nhiên thay đổi, nói:
- Anh ấy ở ngoài vui thú, chẳng nhòm ngó gì đến ta, ta hà tất phải giữ mình làm gì cho khổ.
Đàn bà vốn là người đoan chính trinh tiết, song sự ghen tuông đố kỵ cũng thật là ghê gớm. Khi ý nghĩ Phùng thị đổi thay, lại có Vương thị bên cạnh luôn luôn khen Tưởng Vân, điều đó khiến Phùng thị càng có cảm tình với Tưởng Vân. Một hôm ba người ngẫu nhiên nói tới chuyện Tây Sương Ký, Phùng thị nói:
- Thôi Oanh Oanh là một người con gái thất tiết, nói mà làm gì.
Vương thị nghe thấy tái mặt nói:
- Dục vọng giữa đàn ông và đàn bà ai ai cũng có. Con hãy xem những người đàn bà trên đời này, giữ được trinh tiết có mấy người. Chỉ cần chọn người mà chơi, không đến nỗi dâm đãng là được. Ngựa nào mà chẳng ăn cỏ. Nhũng chuyện như thế đầy dẫy nói sao hết được.
Phùng thị cúi đầu chẳng nói gì.
Chạng vạng tối hôm ấy, Tưởng Vân mua một con cá trắm còn tươi rói, mang xuống bếp. Đúng lúc Phùng thị đang đứng một mình. Tưởng Vân nói:
- Nghe thấy thím thích ăn cá tươi, anh nhã ý mua con cá này cho thím làm bữa tối.
- Tôi chẳng có gì ngon đưa đến biếu anh, sao anh cứ vẽ vời thế.
Phùng thị vừa nói vừa giơ tay cầm lấy cá. Tiện tay, Tưởng Vân nắm chặt lấy cổ tay trắng như ngó cần. Phùng thị mỉm cười vờ như không biết, Tưởng Vân mừng thầm thấy cá đã cắn câu, rồi đem lời chòng ghẹo. Thấy Phùng thị cúi đầu, hai tay đỡ lấy ngang hông, vội vàng bước lên lầu, Tưởng Vân rón rén bước theo. Thò dầu nhìn vào, thấy Phùng thị đang mở nắp thùng đi tiểu. Khi đi xong, vén mông đít trắng phôm phốp, lấy giấy lau. Không ngờ Tưởng Vân đứng đằng sau nhìn thấy, lửa tình ngùn ngụt bốc cháy, xông tới ôm chầm lấy ngang lưng. Cuống lên, hai má Phùng thị đỏ nhừ, khẽ kêu lên:
- Trời ơi! Giữa ban ngày anh làm trò gì thế, tôi kêu lên thì anh mất mặt.
- Anh yêu em vô cùng. - Tưởng Vân nói. - Nếu ôm được tấm thân ngọc ngà của em, anh chết cũng cam, cần gì đến thể diện.
Phùng thị van nài mãi, nói:
- Nếu thế thì hãy buông tay ra, chờ đến đêm tôi sẽ ngủ với anh.
- Chỉ sợ em lừa để thoát thân, rồi giở quẻ. - Phùng thị nói.
- Nếu tôi giở quẻ thì tôi sẽ chết. - Phùng thị nói.
Lúc ấy Tưởng Vân mới tin, lập tức buông tay. Váy áo Phùng thị chưa kéo xuống, vẫn lộ ra bộ mông nõn nà phốp pháp, Tưởng Vân cứ thế xoa vuốt ở đó rất lâu. Đường lên Vu Sơn(1) đã mở, quả nhiên đêm ấy trở thành giấc mộng mây mưa. Đúng là:
Đàn ông dâm đãng hay lừa dối,
Đàn bà như nước khó giữ mình.
(1) Vu Sơn: núi tiên ở (ND).
Tưởng Vân lôi kéo được Vương thị, thế rồi hằng đêm hai mẹ con thay nhau dâm đãng. Từ ngày đó Tưởng Vân hằng ngày ra vào nhà Vương thị chẳng hề sợ sệt. Song cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra, làm sao mà giấu được tai mắt mấy nhà hàng xóm. Anh thợ may Đổng Cận Tuyền, thường đem chuyện kín ra mua vui, hòng gạ gẫm Tưởng Vân. Anh ta nghĩ, mình là người biết chuyện kín của họ, nếu muốn bớt đi những điều thị phi sau này, thế nào Tưởng Vân cũng mời uống rượu. Song Tưởng Vân cậy mình đi lại chốn quan trường, kết thân với những người chức sắc, không coi Đổng Cận Tuyền ra gì, nên không muốn hoài của mời anh ta. Thấy không được mời chào, Cận Tuyền bực bõ không vui. Chỉ chờ Triệu Tương về là anh ta mách Triệu Tương bắt bọn gian dâm.
Triệu Vân Sơn cùng Triệu Tương rời khỏi nhà, suốt dọc đường không có chuyện gì xảy ra. Đến thành Hồ Nam, vào trạm giao dịch buôn bán. Giữa lúc đang định mua hàng, vì một tranh chấp nhỏ mà xảy ra đánh nhau. Hai người bị bắt, song Triệu Tương may mắn được tha, còn Triệu Vân Sơn phải ngồi tù.
Hằng ngày Triệu Tương đưa cơm và lo lót nha môn cho Triệu Vân Sơn, từ đầu tháng sáu đến cuối tháng chín, lưng vốn cạn kiệt, lúc đó Vân Sơn mới được tha. Hai người ấm ức thất vọng, đành thu xếp hành lý trở về, lúc đó đã vào giữa tháng mười.
Hai người về nhà Triệu Vân Sơn, đặt hành lý xuống, Vân Sơn lấy ra một ít bạc lẻ, đưa cho Triệu Tương, nói:
- Tôi với anh vận rủi, mắc phải kiện cáo. Mặc dù tôi đã mất hết vốn, nhưng sao tôi lại để anh tay không trở về. Hãy mang mấy lạng bạc lẻ này về chi dùng. Chờ tôi đòi nợ, sẽ cho anh mượn thêm làm vốn.
Triệu Tương xa nhà lâu ngày, thương mẹ, nhớ vợ, chỉ mong nhanh chóng về nhà, vội vàng cầm tiền bỏ vào tay áo, rồi từ biệt Vân Sơn trở về.
Tới nhà, mặt trời đã đứng bóng, cổng vẫn chưa mở, gõ cửa liên hồi mấy lần, không thấy mẹ và vợ ra. Vì cùng Tưởng Vân giở trò ma mãnh suốt đêm, nên hai mẹ con gần trưa mới ngủ dậy, đang chải đầu rửa mặt, thì thấy tiếng gõ cửa, lắng nghe, biết là Triệu Tương đã về. Bỗng chốc họ run lên sợ hãi. Phàm là những người đi xa trở về, gặp nhau đáng lý ra phải vui mừng khôn xiết, nhưng vì sao họ lại giật mình sợ hãi, gượng gạo nói cười, nhưng nỗi xấu hổ làm sao che giấu được. Còn người trở nề buồn ủ rủ, mặt mày phờ phạc, cúi đầu thở dài, lại không thấy người vận chuyển hàng hóa, lúc đó Vương thị mới hỏi:
- Vì sao con nấn ná mãi ở Hà Quảng đến nay mới về? Mua được những hàng gì? Sao không bảo người ta chuyển về?
Triệu Tương bèn kể lại tỉ mỉ chuyện xảy ra từ đầu đến cuối.
- Em không tin anh lại gặp tai họa ngang trái như thế. - Phùng thị nói. - Nhất định là do anh say mê bọn kỹ nữ ở đường hoa ngõ liễu, nên mới mất hết cả vốn liếng. Nay mới bịa ra những chuyện không đâu như thế.
Triệu Tương đang định phân trần, thì nghe thấy tiếng gõ cửa. Hóa ra Tưởng Vân đến thăm, Triệu Tương vội vã mời vào, rồi cảm ơn rối rít. Tưởng Vân nói:
- Tình cờ tôi gặp Triệu Vân Sơn, biết em đã về. Lại nghe em gặp phải chuyện không may. Thật là đáng tiếc. Thua keo này ta bày keo khác, cũng chẳng muộn gì. Đường còn dài, hà tất em phải bận tâm.
- Em là người lỡ thời, thất thế. - Triệu Tương thở ngắn than dài nói. - Em chẳng còn có ngày cất đầu lên được.
Triệu Tương lại kể những chuyện đã xảy ra một lần nữa, rồi mới vội vàng chuẩn bị rượu thịt, hoa quả đãi Tưởng Vân.
Tối ấy khi đang uống rượu thì mẹ và vợ bước ra tươi cười, liên tục rót rượu mời. Triệu Tương thấy hơi nghi ngờ, tới khi ngủ, lúc vợ chồng ân ái thì Phùng thị tỏ ra miễn cưỡng, không thấy vồ vập thích thú như trước. Khi chuyện ấy xong, Phùng thị cứ khen Tưởng Vân, làm Triệu Tương rất buồn. Sáng hôm sau, Triệu Tương dậy sớm, rửa mặt, chải đầu, sau đó anh sang các nhà hàng xóm thăm dò, cuối cùng tới nhà người thợ may họ Đổng. Đổng Cận Tuyền kéo anh ra sau nhà, bảo anh ngồi xuống, hỏi qua về tình hình làm ăn. Đổng Cận Tuyển nói:
- Từ khi anh đi tới nay thấm thoát đã nửa năm, khiến hai chúng tôi luôn luôn mong nhớ anh. Không ngờ anh đi gặp điều chẳng lành, mất hết vốn, nhà lại không người trông nom. Lão già cổ hủ, tuy ở sát nhà, nhưng nhà nào có cổng nhà ấy, sao mà quản được. Từ nay nhất thiết anh đừng đi đâu xa, sớm tối nên có người, với lại cũng phải đề phòng. Thể diện của người đàn ông là rất quan trọng, lão già cổ hủ này cũng nói thế thôi, xin anh đừng giận.
Triệu Tương nghe thấy thế ấm ức không vui, đứng dậy ra về. Lúc ấy Triệu Vân sơn và một số bạn bè thân thiết dọn rượu trên thuyền, ở hồ Bạch Long. Người đến mời đang chờ ở nhà, Triệu Tương không thể từ chối, bèn cùng họ kéo nhau ra thành . phố. Tới nơi, cơm sáng nhà thuyền đã chuẩn bị sẵn. Ăn xong, đánh mấy ván cờ tiêu khiển, gần trưa lại dọn rượu ra uống, cho mãi tới vàng vàng mặt trời mới về. Triệu Tương say khướt, bước đi loạng choạng. Sắp tới nhà, anh nhớ lại như in những điều Đổng Cận Tuyền nói. Triệu Tương không đi lối cửa trước, mà vòng ra cửa sau, ghé sát tai vào cửa nghe, quả nhiên thấy Tưởng Vân đang nói bên trong. Lúc đầu họ nói thì thào Triệu Tương không nghe rõ, sau lại chỉ nghe thấy hai câu: "Đụng đầu nhau thì ngượng mặt, anh phải đi lối cửa sau thôi".
Triệu Tương lúc ấy đã tỉnh rượu, đột nhiên đùng đùng nổi giận. đang định gõ cửa vào, bỗng nghe thấy tiếng động. Tưởng Vân mở cửa bước ra. Hai người chạm trán nhau, Triệu Tương không kìm nổi, tung người lao tới. Tưởng Vân cho rằng đó là người hàng xóm đến dò la, đột nhiên máu sôi lên. Đè Triệu Tương xuống tống liền mấy quả. Đúng lúc ấy mẹ và vợ mang đèn chạy ra, thấy có người nằm soài dưới đất, vội vàng soi đèn thì thấy đó là Triệu Tương. Sợ quá, Tưởng Vân buông tay chạy vụt đi.
Vương thị, Phùng thị hốt hoảng tới, đỡ Triệu Tương dậy, dìu lên gác. Triệu Tương để nguyên cả quần áo rồi ngủ thiếp đi. Mẹ chồng và nàng dâu cùng đi xuống dọn dẹp bát dĩa. Một lát sau, nghe thấy tiếng gọi mang trà, Phùng thị vội vàng pha trà, hai tay bưng lên cho chồng. Triệu Tương mắt trừng trừng cầm lấy, ném vào mặt Phùng thị. May mà Phùng thị kịp thời tránh được, chiếc chén rơi xuống sàn gỗ vỡ tan tành. Phùng thị nói:
- Anh đi hàng nửa năm trời, vốn liếng hết sạch, nay về lại sinh ra cái thói rượu chè.
- Đồ đĩ, chứa trai trong nhà lại còn già mồm. - Triệu Tương nổi giận lôi đình thét lên. - Tao hỏi mày, thằng vừa đi ra cửa sau là thằng nào?
- Anh đừng có nói càn, anh uống rượu say bét nhè rồi ngã, em và mẹ đã dìu anh lên đây, chứ có người nào ra đâu. Anh hoa mắt rồi.
- Đồ đĩ! - Triệu Tương gào lên chửi. - Mày chứa trai trong nhà, tao đã biết hết rồi, con dâm phụ kia, sớm muộn tao cũng giết chết mày.
Vừa nói Triệu Tương vừa giơ tay túm tóc tống túi bụi vào người Phùng thị. Vương thị dang dọn dẹp bên dưới, nghe thấy tiếng Phùng thị kêu la, bèn hoảng hốt chạy lên giằng tay Triệu Tương, ra sức khuyên can. Nhưng Triệu Tương cứ túm chặt lấy tóc Phùng thị không buông tha. Vương thị cuống lên cắn vào cổ tay, lúc đó Triệu Tương mới buông. Phùng thị thoát thân bỏ chạy.
Triệu Tương càng phẫn nộ, định chạy xuống đuổi theo. Vương thị cản lại. Triệu Tương nói:
- Tôi phải xé xác con dâm phụ chứa trai ấy, ai khiến bà khuyên can. Bà và nó cũng cùng một giuộc.
Câu nói ấy đã động đến gan ruột Vương thị. Bà ta bèn đấm ngực, dậm chân gào khóc, chửi bới:
- Mày là đứa súc sinh vô liêm sỉ, bị vợ cắm sừng. Tao là mẹ mày, ở nhà vất vả khổ sở, mong kiếm được bữa rau bữa cháo. Mày mang đi hai trăm lạng không biết vì sao tiêu hết, chỉ còn lại cái túi rỗng mang về. Tao không trách móc mày nửa câu, thế mà mày lại còn đơm đặt ra những điều vô căn cứ để hãm hại người. Thôi thì mày đánh vợ mày cũng được, sao mày lại lôi cả tao xuống vũng bùn. Tao ở vậy từ ngày mày mới mười hai tuổi, đến nay, mày xem, con mẹ mày ăn nằm với đứa nào? Mày đã tận mắt bắt được mấy lần, mà mày lại nói những lời như thế, thằng súc sinh ngỗ ngược kia, tao thà chết quách đi cho xong.
Bà ta cứ gào thằng súc sinh chửi mãi cho tới sáng. Triệu Tương ngủ trên giường vừa đau buồn, vừa giận dữ. Đợi khi tiếng chuông báo tàn canh, Triệu Tương dậy tới ngay nhà TriệuVân Sơn bàn bạc.
Trời dần dần sáng, Vương thị dậy xuống nhà dưới. Tìm Phùng thị khắp nơi nhưng không thấy. Đi tới cửa sau thấy cánh cửa khép hờ, sợ Phùng thị đột nhiên phẫn chí nhảy xuống giếng, bà ta bèn lấy chiếc sào phơi quần áo, thọc xuống giếng khua, nhưng vẫn không thấy tăm hơi. Vương thị cuống lên, vội vã chạy tới nhà Tưởng Vân bàn bạc:
- Thằng súc sinh chết giẫm, trời chưa sáng đã bỏ đi, không biết nó đi đâu, cả vợ nó, tìm khắp nơi không thấy. Làm thế nào bây giờ?
- Tôi đã có cách, - Tưởng Vân nói, - không cần bà lo nghĩ. Việc này nhất định là do Triệu Vân Sơn, hắn biết nhà bà có nhiều tiền bạc, nên đã tìm cách lấy đi hai trăm lạng rồi. Hôm qua nó lại tới gọi đi ăn uống, chắc là hắn lại giở trò gì nữa đây. Chỉ sợ bà không nghe tôi, lại xảy ra xô xát, cãi nhau, khiến bà không mở mồm được. Ngay cả việc ấy nữa, cho dù có kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo, thì người xưa đã nói: phải bắt được trai trên gái dưới, đằng này có ai biết đâu. Theo tôi, phải lên huyện kiện nó về tội ngỗ ngược bất hiếu, để quan trị nó một trận, lần sau sẽ không dám chống đối lại. Nếu không sẽ nuôi nết nó, sau này muốn gì được nấy, sẽ chẳng coi bà ra gì. Nó bị thằng Triệu Vân Sơn bày mưu lừa gạt, thì tôi với bà cũng đoạn tuyệt từ đây.
- Anh nghĩ rất đúng. - Vương thị gật đầu nói. - Vậy anh hãy viết cho tôi lá đơn, tôi sẽ lên huyện ngay.
- Tôi viết đơn thì không được, - Tưởng Vân nói. - Tôi có một người bạn ở ngay trước huyện đường gọi là Đường Sơn Tử. Chỉ cần bà đến nhà, nhờ anh ấy viết đơn, sau bảo anh ấy dẫn vào. Hiện quan đang ngồi tại huyện đường, việc này không nên chậm trễ, phải nhanh chóng vào thành mới là diệu kế.
Vương thị vội vàng ra về, lấy chiếc khăn cũ chít đầu. Khóa cửa, kéo theo Tôn Ẩu, một người hàng xóm bán hoa làm bạn lên huyện đưa đơn kiện.
Tưởng Vân biết bố vợ của Triệu Tương là Phùng Bá Nguyên, ngụ tại đầu cầu phía nam, trước Đông Sát Viện. Đi một mạch lên nhà họ Phùng, Tưởng Vân nói với Phùng Bá Nguyên rằng:
- Cháu không dám bịa đặt điều gì, song có một việc lạ lùng oan khuất cần nói cho bác biết. Từ khi con rể quý của bác là Triệu Tương đến đất Sở xa xôi buôn bán, người con gái yêu quý của bác ở nhà không ra khỏi cửa, làng xóm ít khi gặp mặt. Ai ngờ Triệu Tương, con rể bác, tối hôm kia trở về. Khi đi anh ấy mang hơn hai trăm lạng bạc, hẳn là do chơi bời tại lầu xanh, nên đã tiêu hết nhẵn số bạc đó. Điều ấy không thể không làm cho con gái bác bực bội. Con rể bác vì thế mà đâm ra thù hận. Đêm qua đã uống rượu say khướt ở hồ Bạch Long, khi về nhà một mực đổ oan cho con gái bác gian dâm, rồi cứ thế đánh từ lúc còn mặt trời cho mãi tới tận canh hai. Đến nỗi uất ức không chịu được, cô ấy đã bỏ nhà đi từ lúc nửa đêm. Sáng nay tìm khắp mọi nơi vẫn không thấy. Theo bà mẹ nói, thì mình mẩy thâm tím, tóc bị đứt mất quá nửa, thật là thê thảm, ai nghe thấy cũng phải đau lòng. Vợ chồng hục hặc với nhau, chẳng liên quan gì đến cháu, song nghĩ, lòng dạ con người thật khó lường, nhất định sẽ bị liên lụy đến láng giềng. Nên cháu đến đây báo cho bác biết.
Phùng Bá Nguyên nghe xong, không kìm nổi, nước mắt rơi lã chả, nói:
- Già này gần sáu mươi tuổi, chỉ còn mỗi giọt máu này nhưng lại bị thằng súc sinh lăng nhục, nửa đêm đã bỏ nhà ra đi, không biết sống chết thế nào. Già này phải lên huyện cáo quan bắt nó phải đền mạng. May nhờ anh là người trọng nghĩa báo cho biết, tôi vô cùng đội ơn anh. Lát nữa lên huyện tố cáo, tôi muốn nhờ anh làm chứng, liệu có được không?
- Cháu là người hàng xóm, - Tưởng Vân nói, - bất đắc dĩ phải đến báo cho bác, còn như đưa đơn kiện, xin bác suy nghĩ kỹ. Việc này can hệ tới tình bố con, không thể vì giận dữ nhất thời mà làm thương tổn đến tình cảm sau này.
Nói xong, Tưởng Vân định đứng dậy ra về, bỗng thấy một. người mồ hôi nhuễ nhại chạy đến. Người ấy nói đúng như Tưởng Vân, không sai một câu. Hắn là người được Tưởng Vân nhờ, mạo nhận là láng giềng đến báo tin. Phùng Bá Nguyên lập tức viết đơn tới ngay huyện Hoa Đình.
Tri huyện đang làm việc tại công đường, thì Vương thị xin được vào. Nghe Vương thị tố cáo, lập tức tri huyện sai người bắt Triệu Tương thẩm vấn. Vì sao quan huyện lại dễ dàng bắt Triệu tương tới xét hỏi như vậy? Vốn, việc cáo giác con ngỗ ngược, bất hiếu, khác với việc cáo giác khác. Muốn bắt người tra xét, trước tiên phải viết trát đòi lên xét xử, việc đó kéo dài thời gian. Nếu như sai nhân nhận hối lộ còn có thể phải gác lại. Chỉ có kẻ ngỗ ngược bất hiếu là lập tức sai bắt để xét xử ngay. Tri huyện cho gọi Vương thị vào hỏi tỉ mỉ, rồi gọi Triệu Tương hỏi:
- Mày mang hai trăm lạng bạc, ra ngoài nửa năm trời, không những không sinh lợi, mà bỏ về tay không. Rõ ràng là đứa con bất hiếu. Hơn nữa, về nhà được hai ngày, uống rượu say, lăng nhục vợ. Mẹ đẻ dùng lời hơn lẽ thiệt khuyên can, mày lại nói những lời vô căn cứ, ngược đãi phản bội lại cha mẹ. Điều ấy có khác gì loài cầm thú.
Triệu Tương vừa định thanh minh, thì quan huyện đã rút ra bốn chiếc roi vút xuống. Lính hầu hai bên đồng thanh quát thét lôi Triệu Tương ngã sấp xuống đất. Đáng thương thay, da thịt non nớt chưa từng chịu đòn roi, bỗng chốc bị đánh rách da toạc thịt máu tươi lênh láng. Tri huyện lại gọi Vương thị dặn rằng: - Tội bất hiếu ngỗ ngược xưa nay bản huyện rất căm ghét, đáng lẽ phải đánh chết. Song nghĩ rằng chồng bà chết sớm, chỉ còn một đứa con, ta chỉ đánh trừng phạt để răn dạy sau này. Bà cũng phải hết lòng dạy dỗ, đừng làm tổn thương đến tình mẹ con.
Nói xong bảo người đuổi ra. Lúc ấy Phùng Bá Nguyên đã đứng ngoài hiên, chờ xét xử xong mở rèm bước vào, luôn mồm kêu oan khuất. Lính canh vội ngăn lại, nhưng ông ta quỳ ngay xuống trước bàn. Tri huyện cầm lấy đơn xem, đó là lá đơn Phùng Bá Nguyên kiện Triệu Tương. Tri huyện bèn bảo lính hầu gọi Vương thị và Triệu Tương quay lại. Quát hỏi:
- Mày đã đánh đập vợ, hiện giờ nó ở đâu? Phùng Bá Nguyên đã đưa đơn kiện mày về nhân mạng, mày hãy trả lời đi.
- Con có đánh vợ thật. - Triệu Tương nói. - Nhưng sau đó vợ con chạy xuống dưới lầu. Con bị mẹ con ngăn lại ở trên gác. Đến canh năm con đi khỏi nhà. Hiện vợ con ở đâu con không biết.
Quan huyện lúc ấy chưa biết giải quyết thế nào, bèn giam Triệu Tương vào ngục. Chờ bắt được Phùng thị mới xét xử tiếp. Cho tất cả mọi người về.
Chỉ có Triệu Tương hai chân đẫm máu, phải giam vào ngục tối. Tới nhà ngục, nước mắt giàn giụa không sao cầm nổi, rồi như một đống thịt đổ xuống nền nhà ngục. Những người coi ngục xúm đến hỏi, thấy vậy ai cũng thương anh. Ngoài cửa bỗng có tiếng gọi. Triệu Tương quay ra, thì đó là Triệu Vân Sơn và thằng nhỏ mang rượu, thịt cá tới thăm. Triệu Tương gặp Triệu Vân Sơn sự uất ức lại nghẹn lên, hai hàng nước mắt trào ra, vừa nhắc đũa gắp một miếng thịt, bỗng nhiên ngất lịm đi ngã lăn ra đất. Triệu Vân Sơn an ủi:
- Em ơi, em đã phải chịu hình phạt ở công đường, chắc mẹ em cũng không còn giận nữa. Vợ em rồi sẽ về, em bị giam cũng chỉ mấy hôm là được tha. Em không phải nghĩ ngợi, đau khổ.
Rồi Triệu Vân Sơn lại nói với người coi ngục là Lý Kính rằng:
- Thưa bác, đây là tai họa không đâu, chỉ tạm giam, khác hẳn tội phạm khác, tôi có lạng bạc, xin bác cầm mua giúp tôi ít thức nhắm, chúng ta cùng uống chút rượu cho khuây khỏa. Còn hai lạng này xin biếu bác, nhờ bác hằng ngày tận tình giúp đỡ Triệu Tương. Nếu có người nào đến xúi bác hại em thì bác đừng làm. Sau này có chuyện gì xảy ra, cháu sẽ bàn với bác.
Lý Kính rất vui vẻ, hứa sẽ giúp đỡ. Bởi thế, bị giam cầm, nhưng Triệu Tương không đến nỗi phải chịu khổ.
Lúc đầu Vương thị lên huyện tố cáo con, chẳng qua là muốn răn dạy con. Ai ngờ biến giả thành thật, khiến con phải giam vào ngục. Còn vợ Triệu Tương, đã cho người đi tìm khắp nơi mà chẳng thấy. Đêm đêm, Vương thị cứ trằn trọc không sao ngủ được, thấy hối hận về việc đã làm. Rồi một hôm Vương thị dậy sớm, đến bàn với Tưởng Vân. Tưởng Vân nói:
- Nếu như đưa biếu quan một ít bạc, thì có thể đảm bảo Triệu Tương được tha.
Vương thị phải bán hết đồ trang sức, quần áo được khoảng hơn bốn mươi lạng bạc, rồi giao hết cho Tưởng Vân. Tưởng Vân giao cho Xảo Cô đi thu xếp công việc. Xảo Cô tìm gặp Ly Kính, nói:
- Nếu ông thu xếp xử tử được Triệu Tương ngay thì sẽ biếu mười lạng bạc, quyết không sai lời hứa.
Rồi Tưởng Vân tìm gặp Phùng Bá Nguyên, nói:
- Con gái bác nửa tháng nay vẫn biệt vô âm tín, hẳn là đã chết chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không bẩm lên quan, điều tra ngay để kết tội, thì con bác phải ngậm oan nơi chín suối.
- Lão cũng phải tìm cho ra nhẽ. - Phùng Bá Nguyên nói. Bởi thế còn nấn ná chưa tố cáo. Nay được ông chỉ bảo, tôi vô cùng biết ơn. Sau này xử án, còn mong ông giúp đỡ.
Tưởng Vân vâng dạ ra về. Ngay hôm ấy Phùng Bá Nguyên đưa đơn kiện. Đúng lúc quan huyện đang thẩm vấn lại một phạm nhân. Tri huyện lại cho gọi Triệu Tương tới, đánh cho hai mươi roi, rồi cho người cùm kẹp. Triệu Tương chết đi sống lại đau đớn khóc lóc thưa rằng:
- Ngài có cùm kẹp chết, con cũng cam chịu. Nếu như tra hỏi vợ ở đâu, thì quả thực con không biết, thế thì con khai sao được.
Tri huyện cũng thấy thương tâm, không cùm kẹp đánh đập Triệu Tương nữa, nhưng vẫn phải giam chờ xét sau.
Vương thị tận mắt thấy con chịu hình phạt, vô cùng đau đớn. Về nhà oán trách Tưởng Vân:
- Tôi phải bán quần áo, đồ trang sức đi, lấy tiền đút lót cho quan, anh bảo đưa rồi quan đã nhận hối lộ sao vẫn còn hành hạ nó như thế?
- Nếu quan không nhận được lễ vật của bà, - Tưởng Vân nói, - thì hôm nay đã tra khảo kết tội rồi, chứ đâu được tha thứ. Có điều dù quan có thương tình thì cũng phải trừ tận gốc, bây giờ ta phải nói thẳng với Phùng Bá Nguyên mới được.
Rồi Vương thị lại lấy từ trong tráp ra tờ văn khế mười mấy mẫu ruộng giao cho Tưởng Vân định giá, đưa cho Phùng Bá Nguyên để Bá Nguyên im đi. Tưởng Vân vớ được tờ văn khế, lập tức xuống làng gặp chủ thuê ruộng, viết lại tờ văn khế nhận ruộng khác. Xong việc tưởng Vân tới gặp Cố Kính, nói:
- Tờ khế ước vay nợ của Triệu Tương lần trước tôi đã sao ra một bản, rồi trả lại. Như vậy bản gốc còn ở chỗ anh. Nay Triệu Tương phạm tội phải tù, mẹ nó còn có nhiều của cải. Nếu anh cùng với mấy người anh em nữa, đến nhà nó làm rùm beng lên, mụ quả phụ ấy sẽ phải đến tìm tôi, thì từ đó, chúng ta có thể gỡ gạc được. Tôi hứa sẽ chia đều cho các anh.
Cố Kính thấy thế mừng rỡ nói:
- Tôi đâu dám không nghe lời dạy bảo của anh.
Ngay lập tức hắn dẫn một số người đến nhà Vương thị gây gổ. Vương thị cuống lên, tìm đến Tưởng Vân nhờ phân xử. Sau đó Vương thị đành phải bán hết bàn ghế, đồ đạc để hoàn trả. Chỉ có lần ấy mà cũng tốn hơn mười lạng bạc. Vương thị ngày càng uất ức, không ăn uống được, chưa đầy một tháng thì đổ bệnh. Đêm lâm chung, bà ta nghiến răng oán hận Tưởng Vân, bà nói:
- Nếu không có thằng khốn nạn ấy thì nhà ta sao đến nỗi này.
Bà kêu lên một tiếng, máu ộc ra hàng chậu, rồi tắt thở.
Từng có bài thơ than tiếc Vương thị:
Con vào ngục tối, dâu mất tích,
Ân ái đâu ngờ thành nghiệp oan. Nếu như khóa kín phòng xuân lại,
Thì sao ngậm tủi dưới suối vàng.
Từ khi Triệu Tương mắc oan, thấm thoát đã nửa năm. Tuy mấy lần thẩm vấn, song Phùng thị vẫn biệt vô âm tín, trở thành nghi án. Một hôm từ huyện đường về phòng giam Triệu Tương gặp Chu Thanh Hà. Chu Thanh Hà là người từng phụ trách kho lương thục của huyện, chỉ do một sơ xuất nhỏ đã phải vào ngục. Là người nghĩa hiệp, vốn coi khinh tiền bạc, quý mến bạn bè, ở nhà ngục mấy ngày Chu Thanh Hà chuyện trò với Triệu Tương rất tâm đầu ý hợp. Một hôm Triệu Tương mời Chu Thanh Hà uống rượu, Thanh Hà hỏi cặn kẽ vì sao anh phải chịu tội. Triệu Tương kể hết mọi chuyện, Thanh Hà ngậm ngùi nói:
- Anh bị oan mà không sao tự gỡ tội cho mình, khiến tôi nghe mà nát ruột nát gan.
Nói xong Thanh Hà cúi đầu trầm ngâm hồi lâu, rồi lại hỏi:
- Có phải vợ anh họ Phùng, tên thường gọi là cô Bảy, cổ tay trái có một nốt ruồi không?
Triệu Tương nước mắt rơi lã chã nói:
- Vợ tôi đúng là con thứ bảy, tay trái có nốt ruồi, sao anh lại biết?
Chu Thanh Hà vội cầm lấy chai rượu, rót một chén đầy đưa cho Triệu Tương, rồi nói:
- Thế thì đúng rồi. Vợ anh còn sống, anh nhất định sẽ được tha. Tôi mừng cho anh.
Triệu Tương mừng vui khôn xiết, nói:
- Anh biết vợ tôi còn sống, xin anh chỉ giúp, đến chết tôi cũng không dám quên ơn.
- Tôi có người bạn thân, tên là Thẩm Cầu Trọng, - Chu Thanh Hà nói, - sống ở huyện Thượng Hải, cách thành mười dặm, nơi ấy gọi là Trang Viên nhà họ Lý. Nửa tháng trước tôi tới đó được bạn khoản đãi, ở mãi tới khuya. Bạn tôi bảo: "Ở đây có một mỹ nhân, anh có muốn gặp không?”. Tôi hỏi người ấy đẹp thế nào. Bạn tôi bảo: "Người này không phải là hạng gái lầu xanh, mà là gái nhà lành. Họ Phùng, tên Nhị Nương. Chồng bị tạm giam, nay gửi thân ở trang viên Lý Tịnh Ngô. Nàng đang độ thanh xuân, sắc đẹp khuynh thành, cô ta đòi giá rất cao, nếu không phải là bạn tương tri thì khó mà gặp được". Mới nghe nói thế, tôi đã thấy xiêu lòng. Tối ấy chúng tôi tới đó thế rồi bạn tôi về, chỉ mình tôi ngủ lại. Đêm đến tôi thấy cô ấy khóc rồi nói rằng: "Thiếp họ Phùng, tên thường gọi là cô Bảy. Chồng là Triệu Tương. Lấy nhau vừa được một năm thì gặp tai họa, bị Tưởng Vân lừa đến đây, bức thiếp đi vào con đường này. Nếu chàng có thể báo tin được cho gia đình, thiếp không bao giờ dám quên ơn". Tôi thương cô gặp chuyện không hay, phải dấn thân vào vũng bùn. Tôi đã hứa là sẽ giúp cô. Không ngờ, sau khi về nhà, việc vận chuyển lương thực bận rộn, chưa dò hỏi ra, nay gặp anh trò chuyện, thấy sự việc khớp nhau. Quả thực cô ấy đúng là vợ anh, không còn nghi ngờ gì nữa.
- Vợ tôi ở đấy, thì ta tính kế sao đây. - Triệu Tương hỏi.
- Tôi sẽ viết đơn bẩm lên huyện cho anh. - Chu Thanh Hà nói. Sau nhờ thằng nhỏ Chu Hiếu làm chứng dẫn bắt, chỉ thiếu người đưa lá đơn này trình lên quan huyện thôi.
Đang bàn soạn, thì Triệu Vân Sơn đến thăm. Triệu Tương nói hết chuyện cho bạn nghe. Triệu Vân Sơn vui mừng nói:
- Người đệ trình đơn không khó, có thể giao cho Triệu Nguyên cháu tôi.
Chu Thanh Hà lập tức viết đơn đưa cho Vân Sơn. Lại viết một bức thư dặn Kính Thừa ngay ngày hôm đó đem lệnh tới Thượng Hải.
Lính hầu đi hai ngày, chỉ dẫn người quản trang viên Lý Thái trở về Tri huyện vặn hỏi tỉ mỉ. Lý Thái nói:
- Ở trang viên của con không có Phùng thị, mấy tháng trước, gia chủ Lý Xuân Nguyên chỉ có một kỹ nữ Tô Châu tên là Mã Nhị Nương, cô ta ở được nửa tháng, rồi đi. Con cũng không biết cô ta hiện ở đâu, thì có lệnh của ngài gọi. Gia chủ con có gửi một bức thư dâng lên ngài, mời ngày tới chơi. Tri huyện tha Lý Thái về. Triệu Tương bị đánh hai mươi gậy, người làm Chu Hiếu cũng bị đánh mười gậy. Trở về nhà giam, Triệu Tương vô cùng đau khổ, khóc rống lên. Chu Thanh Hà cũng cảm thấy buồn, chẳng nói năng gì.
Hơn một tháng sau, Chu Thanh Hà được tha. Khi từ biệt Triệu Tương, Thanh Hà nói:
- Chỉ trong vòng năm ngày tôi quyết tìm ra sự thực, sẽ báo cho anh. Đúng như đã nói, tối ngày thứ sáu Thanh Hà tới nhà ngục, mặt mày rạng rỡ, nói với Triệu Tương rằng:
- Vừa ra tù, tôi đến đó ngay, dò hỏi biết cô ấy đã thay chỗ ở, và cũng đã tìm thấy. Tôi vừa gặp Triệu Vân Sơn, hẹn anh ấy sáng mai cùng đi tố cáo. Tôi đến báo tin cho anh biết. Nay chỉ chờ vợ anh tới, sẽ đối chất minh oan.
Triệu Tương nghe xong, hai hàng nước mắt chảy ướt đẫm gò má, nói:
- Rất cám ơn anh đã nhiệt tình cứu giúp, tôi đâu dám quên ơn. Chỉ có điều kiếp tôi là kiếp chó, phải dấn thân nơi tù tội chẳng may vẫn không tìm đưa được vợ tôi tới đây, tôi không bao giờ dám phụ lòng tốt của anh. Nhung tôi sẽ bị đánh đến xương tan thịt nát.
Chu Thanh Hà mặt tái đi nói:
- Lần này tôi sẽ tự làm chứng dẫn đi bắt, nhất quyết không sai. Hơn nữa, tôi rất ái ngại cho vợ chồng anh, một người bị giam cầm, còn một người phải làm gái lầu xanh. Tôi đã không ngần ngại, bỏ cả công việc đi khắp nơi tìm ra sự thực, mà anh lại không tin tưởng ư?
Triệu Tương vội quỳ xuống nói:
- Được anh nhiệt tình giúp đỡ như thế, tôi thề sẽ làm chó ngựa để báo đền anh.
Chu Thanh Hà ra khỏi nhà giam thì gặp Triệu Vân Sơn. Họ cùng mời Đổng Cận Tuyền tới chùa Phổ Chiếu bàn bạc, viết đơn cáo trạng. Các bị cáo gồm có ba người chủ mưu là Tưởng Vân, Lý Thái, Chu Thuận chủ nhà chứa chấp Phùng thị và ba người liên đới là Phùng Bá Nguyên, Phùng thị, Đổng Cận Tuyền là người láng giềng làm chứng. Triệu Nguyên vẫn là người đệ đơn như cũ; Chu Thanh Hà là người làm chứng dẫn đi bắt. Tất cả đã chuẩn bị xong, chỉ chờ bắt được Phùng thị, sau đó sẽ xét xử các phạm nhân.
Chưa tới mười ngày đã bắt được Phùng thị. Ngay chiều hôm ấy tri huyện mở cửa công đường, giải tất cả phạm nhân tới. Trước hết quan huyện gọi Phùng thị đập bàn giận dữ quát:
- Mày là kẻ dâm phụ, bỏ chồng trốn đi, cam lòng làm kỹ nữ, làm Triệu Tương phải vào tù. Khai ra sự thực, sẽ tránh được hình phạt.
- Bẩm quan lớn! - Phùng thị nói. - Quả thực oan cho con. Đêm ấy con bị chồng đánh đập tàn nhẫn, cùng quẫn, muốn nhảy xuống giếng cho chết đi. Nào ngờ, vừa mở cửa sau đã thấy Tưởng Vân đứng bên tường nghe trộm. Thấy con ra, hắn bèn lôi con về nhà, nói rằng: "Có việc gì ghê gớm thế, đừng có nghĩ quẩn. Hãy theo tôi, tôi sẽ đưa đến một nhà người thân thích, ở tạm mấy hôm, chờ tôi khuyên can chồng cô nguôi giận rồi hãy về". Đang lúc cùng đường, con buộc phải nghe theo. Ngay đêm ấy, hắn gọi chủ thuyền là Phương Minh cùng vợ là Dương thị đưa con đến huyện Thượng Hải, sau rời khỏi thành xuống nông thôn, tới tá túc tại trang viên nhà họ Lý. Hôm sau Tưởng Vân đến trang viên, con muốn về nhưng hắn nói: "Chồng cô bị tố cáo vì tội ngỗ ngược bất hiếu đang bị giam trong nhà tù chờ ổn thỏa mới về được”. Sau đó gần nửa tháng, hắn cùng một người tên Tiền Tuyển tới, nói với con rằng: "Chồng cô bị trọng tội giam trong ngực, không có tiền đút lót, nếu được năm mươi lạng biếu quan thì có thể được tha. Tú tài họ Tiền là nhà giàu có nếu chịu nghe lời tôi mà kết giao thì chồng cô sẽ được tha, và cô cũng có thể được về". Lúc ấy con biết hắn lòng dạ xấu xa, kêu khóc van xin nhưng hắn không nghe. hắn lại mưu mô với Lý Thái, dùng gậy đánh con hết sức tàn nhẫn, bức con phải chịu ô nhục. Đến nay đã mấy tháng, chúng thực hiện mưu kế độc ác mà không cho con đồng nào. Quả đúng như thế, cúi xin quan lớn đèn trời soi xét.
- Vợ chồng lục đục là việc thường của con người. - Quan huyện hỏi. - Vì sao phải tìm đến cái chết? Hơn nữa Tưởng Vân không liên quan gì, sao lại đứng sát tường nghe trộm. Mày hãy khai thực ra.
Phùng thị lại khai rằng, từ khi Triệu Tương đi buôn xa. Tưởng Vân đã gian dâm với Vương thị, rồi lại bức mình hành dâm. Phùng thị khai rũ từ đầu tới cuối. Tri huyện bèn gọi Tưởng Vân, cười khẩy nói:
- Mày là thằng xỏ lá. Đã gian dâm với mẹ con họ, lại thừa cơ dụ dỗ họ đi trốn, bức bách Phùng thị làm gái điếm. Mày là kẻ vô cùng độc ác, mày đáng tội chết.
Nói xong tri huyện lại cho gọi Phùng Bá Nguyên hỏi:
- Ngươi chưa rõ thật giả, sao lại tố cáo bừa về tính mạng con người. Ngươi có biết, vu cáo là tội nặng không? Theo luật đáng phải ngồi tù.
- Xin quan đèn trời soi xét. - Phùng Bá Nguyên cúi lạy nói. - Cha con con không có điều tiếng gì. Tất cả đều do Tưởng Vân báo tin, xúi giục con đi kiện.
Quan huyện gọi Triệu Tương lại nói:
- Từ trước đến nay người đã bị đánh bao nhiêu gậy?
- Con bị ông lớn ra ơn trừng phạt, bị đánh tất cả là một trăm linh năm gậy.
Đã thế thì ta cũng không đánh thằng xỏ lá độc ác này nhiều hơn. Chỉ đánh một trăm linh năm gậy, bằng Triệu Tương. Lúc ấy Tưởng Vân tự biết mình mắc trọng tội, chẳng còn lời nào để tự thanh minh cho mình. Tuy là dũng mãnh hơn người, nhưng vừa đánh được bảy mươi gậy đã lăn ra chết. Tri huyện lại gọi Triệu Tương hỏi: - Vợ ngươi vốn thân đã ô nhục, danh đã nhuốc nhơ, anh muốn đoạn tuyệt hay đoàn tụ?
- Nhà con đã khánh kiệt, mẹ con đã qua đời. - Triệu Tương nói. - Trước mắt không ai thân thích, xin quan cho được đoàn tụ.
Tri huyện sai đánh Lý Thái, Chu Thuận, Phùng Bá Nguyên mỗi người mười gậy, định tội từng người. Rồi gọi Phùng thị nói:
- Ngươi là đồ dâm phụ, lẽ ra phải đánh hai mươi gậy, nhưng nể tình chồng ngươi mà ta tha cho. Triệu Tương dẫn Phùng thị về, hàng xóm ai cũng tới an ủi. Khi nhắc tới Tưởng Vân, ai ai cũng nghiến răng nguyền rủa. Về sau Triệu Vân Sơn cho Triệu Tương vay hai mươi lạng bạc, mở cửa hàng bán bánh mì. Phùng thị hối hận lầm lỗi trước đây, chịu thương chịu khó giúp chồng buôn bán. Chưa đầy ba năm đã gom góp được mấy trăm lạng bạc làm vốn. Từng có thơ . rằng:
Kết nghĩa ai ngờ thành nghiệp chướng,
Phòng the lã chã lệ tuôn rơi.
Nếu trời không diệt phường gian ác,
Ngọc châu sao mất lại trở về.
Vào một ngày mùa xuân, Triệu Tương đến Tô Châu mua hàng. Triệu Tương mời Chu Thanh Hà tới Hổ Khâu du ngoạn. Chu Thanh Hà tuổi đã gần bốn mươi, song vẫn quen đi lại nơi ngõ liễu đường hoa, tiêu tiền như rác, ngao du khắp nơi. Lần này đến Hổ Khâu, Thanh Hà mời Triệu Tương đến một nhà chứa. Chủ lầu xanh tên là Chư Tú, trong tay mụ chỉ có hai chị em: một người gọi là Lai Hương, một người gọi là Vân Sảnh. Tối ấy hai người đã bỏ ra một lạng bạc để làm chủ. Bốn người cùng ngồi, uống rượu tới gần sáng mới tan. Chu Thanh Hà đòi Vân Sảnh, Triệu Tương dắt Lai Hương về phòng riêng mây mưa, thỏa nỗi hận lâu nay.
Triệu Tương và Lai Hương ở với nhau trong ba ngày. Triệu Tương mua hàng, chuẩn bị xong, nghĩ sáng hôm sau sẽ thoát khỏi cảnh này. Đêm ấy càng về khuya, sau khi mây mưa, Lai Hương khóc lóc nói với Triệu Tương rằng:
- Chàng quê ở Tùng Giang, thiếp cũng là con gái nhà lành vùng đó. Thiếp rơi vào vũng bùn này đã hai năm, lúc nào cũng muốn hoàn lương, nhưng khổ một nỗi, không ai nương tựa. Nay, may được chăn gối với chàng, được chàng ân ái, nếu như chàng cứu ra khỏi vũng bùn nhơ này, thiếp xin nguyện suốt đời nâng khăn sửa túi cho chàng.
- Nàng thuộc con gái nhà lành, song vì sao lại đến nông nỗi này? - Triệu Tương hỏi. - Nếu như muốn chuộc nàng thì phải mất bao nhiêu?
- Thiếp họ Dương, tên là Xảo Cô. - Lai Hương đáp. - Chồng thiếp là Tưởng Vân, phạm trọng tội, bị quan huyện đánh chết ngay tại huyện đường. Cha mẹ thiếp đều đã qua đời, tai họa ập đến, tên độc ác ấy tham lợi đã bán thiếp cho Chư Tú. Một thương nhân ở An Huy muốn chuộc thiếp, nhưng Chư Tú đòi một trăm lạng, bởi thế mà không ra được. Nay thiếp đã góp được một nửa, nếu chàng có năm mươi lạng thì có thể đưa thiếp đi cùng.
- Lần này tuy tôi có một trăm lạng thật, - Triệu Tương nói, - nhưng đã mua hàng hết rồi. Nàng hãy đợi chừng hơn tháng nữa, tôi sẽ tới bàn với nàng.
Lúc chia tay, Lai Hương dặn đi dặn lại Triệu Tương, mong rằng chàng tới cứu nàng, rồi nước mắt giàn giụa, khóc nức nở, thật đáng thương tâm. Triệu Tương nghĩ thầm, quả là trời báo ứng, quyết không sai hẹn. Về tới nhà, anh nói ngay chuyện ấy với Phùng thị. Phùng thị cứ năn nỉ khuyên Triệu Tương chuộc nàng về làm thiếp. Sau đó Triệu Tương bàn với Chu Thanh Hà, Triệu Vân Sơn, họ vui mừng khuyên Triệu Tương nên chuộc nàng về. Hơn một tháng sau, Triệu Tương tới Tô Châu, bỏ ra hơn sáu mươi lạng bạc chuộc lại Xảo Cô.
Từ đó Triệu Tương cùng Phùng thị và Xảo Cô sống với nhau rất hòa thuận. Mỗi khi nhắc đến Tưởng Vân, Xảo Cô vẫn còn oán hận. Về sau Phùng thị sinh được hai con trai, Xảo Cô sinh được một con gái. Tới nay vợ chồng họ sống vẫn bình yên.
Thơ rằng:
Tài mệnh gắn liền nhau,
Người xưa thường dạy thế.
Tử sinh, biết bao người liên lụy,
Mới tin rằng tiền tài như phân, đất mà thôi.
Nước uống cơm ăn tùy phận,
Nhà ở ba gian, giường tre một chiếc.
Việc chi phải lụy đến ngàn vàng.
Đáng buông tay, xin hãy buông tay,
Đừng cố bám mà thành oan nghiệt.
Bốn chữ tiền, tài, phân, đất trong bài từ thật là có ý nghĩa. Vì sao ngày nay người ta cứ chê câu nói ấy mà chỉ nói tới những hành vi của bọn phá gia chi tử? Hoàn toàn không biết câu nói này có thể làm người ta nên người. Vì sao vậy? Phải biết rằng cái nuôi người thứ nhất trong thiên hạ, chẳng gì bằng đất; cái nuôi vật thứ nhất trong thiên hạ chẳng gì bằng phân. Vậy thì phân và đất là gốc rễ của sinh sôi nẩy nở, là nguồn gốc của mạng sống, nó quả là cái đáng quý trong trời đất. Nó được giải thích, cũng giống như cách giải thích của chữ tài là "nguồn gốc của sự nuôi dưỡng sinh mệnh". Song một đằng là, công năng của nó cực lớn, dùng nó phải thật phù hợp. Chẳng hạn, thời tiết trồng mạch thì không trồng được lúa, nếu trồng lúa, không những không có lợi cho lúa mà lại còn có hại cho lúa mạch. Thời tiết trồng lúa thì không được trồng đậu, nếu trồng đậu, không những không có ích cho đậu, mà lại còn có hại cho lúa. Bởi vậy phải theo thời tiết mà cày cấy, thì tự nhiên thu lợi cả đôi đàng. Phân là cái rất có ích, nhưng có cái phù hợp với nước mà không phù hợp với phân, phù hợp với phân mà lại không phù hợp với nước. Nên ta phải xem thời tiết mà định liệu, không thể cứ khăng khăng theo ý riêng mình. Bởi thế cũng là dùng tiền tài, nhung dùng nó để đánh bạc chơi gái phè phỡn, dùng tiền của không đúng chỗ thì nhất định sẽ dẫn đến du đãng, hư hỏng, làm nhục tổ tông. Còn dùng tiền tài để cứu người, làm lợi cho vật thì đó là cái đáng dùng, như thế không những sẽ được tiếng là đạo đức, mà còn đem lại nhiều lợi ích khác, vừa được hưởng cuộc sống an nhàn, của cải lại sinh sôi nẩy nở. Những kẻ không biết cày cấy, mà dốc hết tiền của phung phí vào việc chơi bời, ta chẳng nói đến làm gì, song ngay cả nhũng kẻ keo kiệt không dám nhổ một chiếc lông chân để cứu người, thì cuối cùng cũng chẳng nên người. Vì sao vậy? Phàm là tiền của phải lưu thông trên đời, một người không thể vơ vét hết được. Nếu như nghĩ ra trăm phương ngàn kế, được một lại muốn mười, được mười lại muốn trăm, nhất định sẽ bị người đời oán hận, và sẽ có ngày thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà. Thế mới biết câu tiền tài như phân đất nhằm dạy người ta phải biết chi tiêu, chẳng khác nào như phân đất sinh sôi phát triển vô cùng tận, đó chính là bí quyết xây dựng gia đình. Bởi thế không nói tiền tài như gạch đá, mà chỉ so sánh nó với phân đất. Người ngày nay không hiểu được ý nghĩa ấy, mà lại coi mấy chữ phá gia chi tử để chỉ kẻ hoang phí tài sản, đồng thời lại dùng ẩn ngữ ôm nỗi oan thiên cổ mà không sao rửa được để đả kích, thì quả thật đó là điều đáng tiếc. Câu chuyện dưới đây rất sát với câu châm ngôn, qua đây chúng ta phần nào chặn đứng được những việc xấu xa, tiêu diệt căn bệnh keo kiệt đến mức không muốn mất một chiếc lông chân để làm lợi cho thiên hạ. Câu chuyện rất có ích cho mỗi chúng ta.
Thời Vạn Lịch triều Minh, ở huyện Trường Châu, phủ Tô Châu, có một vị quan tên là Trương Quốc Thụy, tự là Xương Bá, vợ là Dư thị. Vốn là một gia đình Nho gia, song từ khi bỏ việc học hành, mở cửa hàng vải, cha Xương Bá trở thành phú ông, nổi tiếng giàu có. Đến đời Xương Bá, nối chí cha, Xương Bá còn giàu có gấp mấy cha, và vẫn giữ được danh hiệu phú ông.
Một hôm đang ngồi trong cửa hàng, Xương Bá thấy một người đi qua, rồi lại quay lại đứng trước cửa nhìn vơ vấn. Xương Bá đang định hỏi anh ta, thì thấy có người tới mua vải. Vì bận việc, nên ông không để ý tới nữa. Tối đến ông đóng cửa hàng, nghỉ ăn cơm, sau đó lại tính toán sổ sách, xong việc thì đã tới canh hai. Vừa cởi áo lên giường, còn đang nằm chưa ngủ, thì thấy ngoài cửa có tiếng động. Xương Bá định dậy xem sao, song nghĩ, người nhà đã ngủ, nếu dậy sẽ làm mọi người thức giấc, thật bất tiện. Hơn nữa cửa đã đóng cẩn thận, chắc chẳng việc gì, bởi thế ông cũng không để ý tới nữa. Song, tiếng động ngoài cửa vẫn cứ vọng vào. Xương Bá đành phải lặng lẽ ngồi dậy, rón rén nấp sau cánh cửa. Thấy trong bóng đêm, một người đi tới Xương Bá nhanh tay lôi lại, gọi người nhà dậy, châm đèn soi. Rất mừng thấy không mất gì, bên ngoài cũng không có ai. Người này đúng là người sáng nay đứng vơ vẩn trước cửa hàng. Lúc ấy người nhà định đánh song Xương Bá quát, ngăn lại nói:
- Đừng đánh, anh ta có lấy gì đâu!
Thấy thế, người ấy cho rằng ông chủ này là một người rất dễ dãi, bèn vội quỳ xuống nói:
- Con không còn gì để nuôi mẹ già, nên bất đắc dĩ phải làm việc này. Hơn nữa, đây là lần đầu, mong ông tha cho, lần sau con không dám đến quấy rầy ông nữa.
- Anh ạ, tôi cũng không muốn vất vả, - Xương Bá cười nói, - anh đã đến nhà tôi, sao lại về không. Không lấy được gì, thì tôi đãi anh một chén rượu cho ấm bụng.
Rồi ông gọi người nhà hâm một bình luôn mang ra, bày thêm hai đĩa thức nhắm, bảo anh ngồi xuống. Thấy chủ nhà đối xử như thế, anh không những xấu hổ, mà còn cuống lên nghĩ: "Thế này là thế nào? Nếu như thả mình ra thì ông quả là người rất tốt. Tại sao ông ấy lại cho mình uống rượu? Hay thấy mình không chịu được đòn, cho mình ăn rồi mới đánh". Anh cứ lưỡng lự mãi mà không dám ăn. Xương Bá biết được anh nghĩ gì, bèn nói:
- Anh cứ yên tâm ăn thoải mái, tôi không phải là người ngấm ngầm thanh toán anh đâu. Nếu định làm như thế thì tại sao tôi không gây khó dễ cho anh, lại còn tốn rượu mời anh?
Người ấy thấy ông là người tốt thực nên không dám phụ lòng, tự rót rượu uống.
Thấy anh ta ăn uống thoải mái, Xương Bá vui vẻ hỏi:
- Anh tên gì? Ở đâu? Trông anh không phải là người xấu, sao không kiếm việc gì làm, mà lại đi làm cái trò phạm pháp này.
- Con tên là Chu Ân. - Anh ta vừa ăn vừa đáp. - Nhà nghèo túng, mẹ lại ốm đau không có tiền chạy chữa thuốc thang, nên con phải làm liều. Mong ông tha tội.
Thấy hoàn cảnh anh ta nghèo khó, Xương Bá rất thương, cho anh ba lạng bạc về làm vốn buôn bán kiếm lời nuôi mẹ.
Chu Ân chần chừ không dám nhận, nhưng Xương Bá cứ nhét tiền vào tay. Chu Ân không dám phụ lòng tốt của ông, cầm lấy tiền rồi cảm ơn rối rít. Về tới nhà anh ghé sát vào tai mẹ kể hết mọi chuyện, anh định lấy trộm rồi được Xương Bá cho uống rượu và cho tiền như thế nào. Bà mẹ nói:
- Rất may, anh đã gặp được người tốt, nên không bị giải lên quan. Ở công đường sẽ bị đánh đập, chửi mắng, và người ta lại còn đòi hỏi cái này cái khác thì anh biết dựa vào ai. Chẳng may xảy ra việc gì thì tôi cũng chết chứ chẳng phải anh. Lần sau đừng làm liều như thế.
Chu Ân nói:
- Đúng là con không còn cách nào khác nên mới làm thế, chứ đâu phải con thích làm loại người lưu manh. Từ nay về sau con nghe lời mẹ.
Được Xương Bá giúp đỡ, hai mẹ con đều rất vui. Họ chờ đến sáng, sắp xếp quang gánh, sắm lễ vật cúng thần tài. Khi cơm nước xong, không còn việc gì phải bận tâm, Chu Ân ra cửa đứng nhìn vơ vẩn. Bỗng trời tối sầm lại, rồi đổ mưa. Đúng lúc định đóng cửa vào thì thấy có người đến trước cửa nhà anh trú mưa. Thấy người ấy quần áo ướt đẫm, Chu Ân động lòng thương, trong tay đang sẵn có ít tiền vốn, anh nảy ra ý định cứu giúp người. Thế là anh mời người ấy vào nhà, nhóm lửa cho người ấy hong quần áo, rồi hỏi:
- Ông người ở đậu? Định đi đâu mà lại gặp mưa thế này?
- Tôi là học sinh, họ Lạc tên là Công Tế, ở phố Tư Môn. Sáng nay đang trên đường về thăm nhà, không ngờ lại gặp mưa, làm phiền ông quá.
Sau đó anh hỏi tên Chu Ân. Chu Ân nói họ tên mình và kể lại chuyện trước đây anh mở cửa hàng, vì bị kiện tụng mà trở thành nghèo túng. Rồi lại nói:
- Tôi đến Tư Môn xem bói, chọn ngày làm ăn. Thế thì ông ở đấy có biết xem bói không?
- Tôi là học trò, - Công Tế nói. - Chẳng giấu gì anh, trước đây tôi là người thường viết đơn kiện cho người ta. Những người trong nha môn đều quen biết. Nay tuổi đã cao, thấy rằng một tờ giấy mà đã làm cho nhiều người tan cửa nát nhà, hại biết bao nhân mạng, đó không phải là trò tích đức. Đơn từ tôi viết khác hẳn với người khác, dựa vào việc của họ, tôi chỉ cần viết ba bốn dòng là đảm bảo thắng kiện. Nay mặc dù tôi đã đổi nghề, song vẫn nhiều người tìm đến. Tôi không thể từ chối, đành phải viết cho họ. Nửa năm sau tôi chọn được nghề xem ngày để sinh sống, rồi thề sẽ không làm nghề viết đơn kiện nữa.
Chu Ân nghe xong, thấy đây là một người hào kiệt trong làng bút mực, không dám coi thường. Dần dần thấy quý mến ông, muốn kết bạn với ông, để có chỗ dựa vững chắc sau này.
Lúc ấy trời vẫn còn mưa, Chu Ân nghĩ: "Đã định làm bạn với nhau, sẵn lộc cúng thần, sao không mời ông ta một chén cho ấm dạ, thế mới là tình người". Rồi gọi Phù thị dọn rượu mời Công Tế. Thấy Chu Ân đối đãi với mình như tế, Công Tế hơi ngượng, nhưng vì đang đói, nên không từ chối. Hai người, một chủ một khách ngồi ăn, trời đã muộn, mưa đã ngớt, Công Tế đứng dậy xin cáo từ, nhưng lại nghĩ, trời vừa mưa, đường trơn rất khó đi, nên vẫn còn nấn ná. Chu Ân biết ý, nói:
- Đường trơn thế này đi sao được. Tôi cho ông mượn đôi guốc gỗ đi cho đỡ trơn.
- Cám ơn lòng tốt của anh, - Công Tế nói, - song đâu dám phiền anh đến thế.
- Sao lại nói thế. - Chu Ân nói. - Sau này chúng ta còn đi lại với nhau nhiều, chỉ mong ông đừng chê tôi nghèo là được rồi.
Công Tế nói nhún nhường mấy câu, rồi bảo Chu Ân rằng:
- Thôi thì phiền ông vậy.
Nhà không có guốc, Chu Ân sang hàng xóm mượn, rồi đưa cho Công Tế. Còn Chu Ân tìm một đôi đã hỏng để đi. Chu Ân vào nói với mẹ một câu, quay ra dặn dò Phù thị dọn dẹp bát đĩa, rồi ra tiễn chân Công Tế. Công Tế nói:
- Trời sắp tối rồi, anh không phải tiễn chân tôi.
- Nhân thể tôi đến chỗ anh để biết nhà, - Chu Ân nói, - đợi đến mai lại phải nói thêm nhũng lời khách sáo; hai là đôi guốc ấy tôi đi mượn, sợ rằng người ta cũng dùng, nên đến mang về trả họ.
- Thế thì phiền ông quá, - Công Tế nói, - biết lấy gì để tạ ơn ông đây?
- Thôi thì tùy ông, - Chu Ân nói, - tôi có "kiện" đâu.
Cả hai cùng cười, suốt dọc đường họ vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Chẳng mất chốc đã tới nhà. Hai người đều lễ phép mời nhau ngồi. Lúc ấy trời vẫn còn sáng, Chu Ân thấy trong nhà bày biện rất sang trọng. Chỉ thấy:
Cửa sổ sơn son,
Tường vôi trắng xóa.
Trên tường,
treo bức tranh danh tiếng, chẳng mới chẳng cũ,
dán mấy bài thơ danh sĩ, nửa thực nửa hư.
Trên bàn,
mấy thiên rách nát, xem hết luật lệ triều Minh.
Vài cuốn sổ tàng, sao cả thông thư thất chính,
Bút lông thỏ nhọn, sắc bén tựa dao,
Màu mực mới nguyên, như sơn đặc sánh.
Chu Ân ngồi một lúc, uống xong chén trà, cầm guốc đứng dậy cáo từ. Vừa bước ra khỏi cửa, thấy tấm biển, bèn dừng lại nói:
- Tôi quên khuấy đi mất, không nhờ ông một việc.
- Quên việc gì, - Công Tế nói, - bây giờ nói cũng không muộn.
- Không giấu gì ông, - Chu Ân nói, - cuộc sống của tôi hiện nay thật khó khăn. Tôi định ngày mai đi buôn chút hàng lặt vặt không biết có tốt không, bởi thế muốn phiền ông xem giúp.
- Thế thì mời ông nán lại đây, - Công Tế nói, - tôi dở cuốn Thông thư ra xem là biết ngay.
Công Tế lấy cuốn lịch ra xem, rồi nói:
- Ngày mai không phải là ngày thượng cát, chờ hai, ba hôm nữa hãy đi. Ngày mười bảy là ngày rất tốt, đi đâu cũng có lợi.
Chu Ân được chỉ bảo, cảm ơn ra về.
Hai ngày trôi qua, chẳng có gì đáng nói. Ngày tốt đã đến, hôm đó, Chu Ân dậy sớm đun nước uống, sửa soạn quang gánh đi mua hàng. Khi đi, Chu Ân không quên dặn Phù thị đóng cửa. Lúc Chu Ân tất tưởi bước ra khỏi nhà thì trên trời trăng vẫn sáng. Vừa đi tới cửa nhà Xương Bá, ngẩng lên chợt nhìn thấy một người đang đứng dựa sát vào cửa nhà ông, Chu Ân chợt nghĩ: "Chắc đây là tên ăn trộm, trời vẫn chưa sáng, nên hắn vẫn còn lởn vởn ở đây". Chu Ân lên tiếng quát hỏi, vẫn không thấy động tĩnh gì, anh đánh liều chạy tới tóm lấy người ấy bỗng người anh run lên, mồm cứng ra không nói được. Nguyên là:
Đầu lâu chạm sao, sờ vào như kéo ngói,
Gót chân, trên đống gạch duỗi ra vẫn chửa tới bùn.
Kinh hãi như bay khỏi đất bằng,
Chẳng khác nào đang đi tới mây xanh.
Vốn không là đạo sĩ sao biết vén mây cưỡi gió,
Chẳng phải là giai nhân sao biết chơi đu.
Đáng kinh, đáng sợ, muốn biết việc này sao lại thế?
Là quỷ, là người, sẽ rõ tại đoạn sau.
Khi Chu Ân lôi thì thấy người ấy xoay tròn, nhìn kỹ thì ra một người thắt cổ tự tử. Chu Ân sờ vào thấy người lạnh toát không biết chết từ bao giờ. Anh vô cùng kinh sợ, nghĩ: "Xương Bá là người tốt như thế, không biết có nỗi oan ức gì mà người ta lại đến tận nhà để hại ông". Định báo cho Xương Bá biết, nhưng sợ gõ cửa làm kinh động xóm làng, muốn bỏ đi để tránh chuyện liên quan, song lại không nỡ. Chu Ân nghĩ: "Ông ấy đã cứu giúp mình, sao mình lại không cứu giúp ông ấy" Rồi lại nghĩ: "Chỉ có kéo xác chết này đi chỗ khác, thì ông mới tránh khỏi điều tiếng". Nghĩ xong anh bèn đứng lên đống gạch, cởi xác chết ra, cũng chẳng cần biết anh ta thế nào, rồi cõng xác chết đi. Đi chừng nửa dặm tới một chiếc cầu, anh đặt chiếc xác xuống, cởi chiếc thừng trên cổ ra, buộc hòn đá vào xác chết, rồi nhẹ nhàng thả xuống nước. Sau đó quay trở lại bỏ gạch đá vào quang gánh đi. Có bài thơ làm chứng:
Mang nặng công ơn cứu đói nghèo,
Trộm tuy bắt được vẫn cho thêm.
Cứu người chẳng khác mình tự cứu,
Việc thiện trên đời thật khó thay.
Vốn là đối diện với nhà Xương Bá có một gã tên là Điêu Tinh, tự là Đức Phủ, chuyên thói bốc lửa bỏ tay không, lừa người lấy tiền của. Từ lâu thấy Xương Bá giàu có. Điêu Tinh muốn kiếm chác nhưng chưa tìm ra mưu kế. Đúng hôm Chu Ân tới nhà, Xương Bá cho gọi mọi người dậy. Bà lão giúp việc năm nay đã hơn bảy mươi tuổi cũng chạy ra. Không ngờ tuổi cao, vừa kinh sợ, lại gặp gió độc bị cảm lạnh, đầu đau, sốt cao, chỉ trong vài hôm đã qua đời. Vì không có người thân thích, Xương Bá đã mua quan tài nhập liệm. Nghĩ bà ở nhà ông đã lâu, lại là người hiền lành, chịu khó, không nỡ hỏa táng bà, ông đã đưa bà tới chỗ đất trống tại nghĩa địa tổ tiên, an táng bà tại đó. Ông mua sắm vàng hương cúng, báo đền công lao của bà. Biết được điều ấy, Điêu Tinh mừng thầm, ngấm ngầm tính kế kiếm tiền. Chỉ chờ có người đến tìm bà, thì mới đặt ra mưu kế kiếm lợi. Song nếu không có người tiên phong làm quân sư mà mình tự xông vào sẽ không thành. Đắn đo mãi mà chưa tìm được người đảm đương việc nặng nề này. Phải tìm một người bạn thân thiết để bàn bạc.
Vừa ra khỏi cửa, thấy anh hàng gà người nhà quê đi qua. Hắn gọi lại mua, mặc cả xong, hắn mang luôn gà vào trong Nhà. Nào ngờ, gà đã mang đi, mà tiền thì không trả. Chờ mãi không thấy tăm hơi người mua gà đâu, anh ta sốt ruột, đành vào đòi tiền. Gọi hai ba tiếng mới thấy người ra tiếp. Song tiền vẫn không trả, mà người mua cũng không ra. Cứ thoái thác rằng bận việc, bảo anh nán lại chờ một chút. Mãi tới lúc lên đèn, Điêu Tinh mới ra, luôn mồm xin lỗi. Hắn ta ân cần mời anh hàng gà ở lại, nói:
- Tôi chắc anh không phải là người trong thành. Anh quê ở đâu?
- Ở ngoài Lâu Môn. - Người ấy nói.
- Thế thì về nhà không kịp, - Điêu Tinh nói, - anh hãy ở đây sáng sớm mai về có được không?
- Sao lại thế? - Điêu Tinh nói. - Tôi đã làm lỡ anh, nếu như không giữ anh lại thì không đành lòng. Mà về không kịp, có phải thiệt cả đôi đằng không. Thế thì ở đây là tốt nhất.
Người ấy thấy hắn tha thiết, không dám phụ lòng, mà bây giờ về thì cũng đã muộn, bèn cảm ơn anh ta, yên tâm ở lại. Thấy anh ta chịu ở lại, Điêu Tinh mời vào phòng xép ngồi, gọi đứa ở thắp đèn, lấy tiền ra trả, nói:
- Tiền gà của anh đây, không thiếu một xu.
Người ấy dở ra xem, thấy đủ, bèn cất vào túi. Đang định hỏi mình ngủ chỗ nào thì thấy người nhà bưng cơm rượu ra, mâm cơm lại rất thịnh soạn. Điêu Tinh vừa tiếp rượu cho người ấy vừa nói chuyện dông dài:
- Anh tên gì nhỉ?
- Tôi là Ngu Tín Chi. - Người ấy đáp.
- Anh làm gì? - Điêu Tinh hỏi.
- Chỉ cấy năm sáu mẫu ruộng, - Tín Chi đáp, - ngoài ra chẳng làm gì khác. Nay tiền thuế gấp quá phải mang gà đi bán để nộp.
- Năm sáu mẫu ruộng cũng chẳng phải kho bạc cây tiền, sao chẳng đói khát! - Điêu Tinh nói. - Hôm nay có gà bán còn khá, ngày mai không có gà thì anh bán gì. Cuối cùng thấy nhà anh không có gà, thì quan lấy thóc chứ lấy gì nữa.
Tín Chi thấy anh ta nói thế rất buồn, im lặng không trả lời. Điêu Tinh nghĩ, bây giờ có thể dùng lợi để lay động anh ta, bèn nói:
- Anh không cần phải lo, hiện tôi có một món tiền cho anh. Anh có cần không?
Tín Chi cho rằng anh ta nói đùa, vừa cười vừa hỏi:
- Xin đa tạ tấm lòng tốt của tướng công, song cho tôi bao nhiêu?
- Tôi nói thực đấy, - Điêu Tinh nói, - chứ không phải đùa anh đâu. Đây là cái lộc mà chẳng tốn công phí sức, không phải anh lấy nó ở chỗ tôi, mà cũng phải xem anh có cơ duyên nhiều hay ít.
- Vô cùng cảm ơn tướng công đã hết lòng nâng đỡ. - Tín Chi nói. - Chỉ có điều tôi là người quê mùa cục mịch, chẳng làm được trò trống gì.
- Chẳng cần anh phải làm gì nặng nhọc, chỉ cần anh nói mấy câu là tiền sẽ đến tay. - Điêu Tinh nói.
Rồi Điêu Tinh thuật lại tỉ mỉ về cái chết của già Trương và vạch ra cho anh ta một số câu đối đáp. Điêu Tinh nói:
- Anh đến nhà họ Trương nhận là người thân thích của bà cụ, sau đó làm rùm beng lên, tôi sẽ nói thêm vào, nhất định sẽ kiếm được món hời, đấy chẳng phải là một món tiền kếch xù mà anh tha hồ tiêu ư?
Tín Chi nghe anh ta bàn dày bàn mỏng một hồi, lòng tham tự nhiên bùng lên, chẳng kịp tính toán chi li, anh ta mừng rỡ nghe theo.
Sáng hôm sau, theo Điêu Tinh chỉ bảo, Tín Chi sang nhà Xương Bá. Thấy anh tới, Xương Bá hỏi anh đến có việc gì. Tín Chi nói:
- Tôi có bà cô làm thuê ở đây, phải đi làm ăn xa, không đến thăm được. Hôm nay tôi đến thăm cô tôi.
Xương Bá thấy khả nghi, ông nghĩ: "Bà ấy ở nhà mình đã hơn hai mươi năm, chẳng hề thấy một người thân nào lai vãng tới. Nhưng sao vừa mới chết, đột nhiên lại có người tới nhận là thân thích, chẳng biết thật giả thế nào?". Xương Bá nảy ra một kế, truy hỏi tỉ mỉ người ấy về tuổi tác bà cụ. Tín Chi ấp úng không nói được, và cảm thấy sượng sùng. Xương Bá thấy vậy đoán rằng đây là cách nói giở giọng, nên cũng chẳng chấp làm gì. Những người trong nhà, kẻ hỏi câu này, người hỏi câu khác làm Tín Chi không sao trả lời được. Tín Chi thấy đây là người không dễ gì lừa dối, liền bỏ đi. Anh ta nghĩ: "Mình không nghĩ kỹ, sao mình lại đi nghe những lời nói vu vơ, đến nỗi ê cả mặt. Tiền của bất nghĩa, vốn không phải là thứ mình dễ dàng chiếm đoạt được". Anh cũng không quay lại nhà Điêu Tinh nữa, mà vội vã ra về. Ai ngờ Điêu Tinh đứng sẵn trước cửa nhà Xương Bá nghe ngóng tình hình, thấy Tín Chi đi qua bèn gọi lại, hỏi duyên do. Tín Chi đáp:
- Món bạc ấy không dễ gì lấy được. Chỉ vì việc ấy người ta đã té tát vào mặt, từ nay tôi cũng không đám đi lại phố này nữa.
- Họ nói gì mà ghê gớm vậy? - Điêu Tinh nói. - Anh hãy kể tỉ mỉ cho tôi nghe, tôi sẽ nghĩ cách cho anh.
Tín Chi cũng chẳng giấu giếm, kể lại tỉ mỉ nhũng lời họ truy hỏi. Điêu Tinh nói:
- Anh đần thật, người ta chỉ hỏi có mấy câu mà cũng sợ. thôi thì cũng không cần vội vàng gì, tôi còn có chuyện muốn bàn với anh.
Điêu Tinh kéo Tín Chi về nhà, không cho anh về. Tối đến vẫn mang rượu thịt ra, nhưng còn thịnh soạn hơn cả tối hôm trước. Tín Chi rất áy náy, cảm ơn Điêu Tinh mãi. Điêu Tinh nói:
- Có đáng gì đâu, lần này tôi quyết giúp anh để khỏi uổng công người bạn tương tri.
Hai người ăn uống hồi lâu, Điêu Tinh nói:
- Nhà Trương mắng anh một trận, hôm nay anh có nghĩ ra kế gì không?
- Đây là chuyện gây rối vô lý, sao có thể làm được, chỉ có đòi bừa thôi. - Tín Chi nói.
- Anh là loại người được nâng đít mà không trèo được cây. - Điêu Tinh cười nói. - Hiện ta có một kế rất hay, cứ làm theo chắc chắn sẽ được, song phải thận trọng.
- Việc ấy khó đến nỗi tướng công phải hao tâm tổn trí, - Tín Chi nói, - mà vẫn chưa tìm ra cách gì?
- Không còn cách nào khác, - Điêu Tinh nói, - đêm nay anh phải chết trước cửa nhà lão ta mới có thể được.
- Tướng công đừng đùa tôi! - Tín Chi kinh ngạc nói. - Tôi làm thế nào được?
- Không phải tôi đùa đâu. - Điêu Tinh nói. - Tôi nói thực đấy. Ấy là tôi bảo anh chết giả thôi, chứ không phải chết thật. Chết giả như thế nào? Hôm nay anh sẽ đến cửa nhà lão ta, làm ra vẻ mình treo cổ, ta sẽ chạy ra ngay, một mặt cởi cứu anh, một mặt gọi mọi người, thì nhất định lão ta phải thòi tiền ra cho anh. Chỉ cách ấy mới có thể được.
Đang lúc bốc hơi men, Tín Chi thấy thế nghĩ rằng Điêu Tinh nhất định sẽ là người đứng ra cứu anh, nên cũng chẳng đắn đo, xin Điêu Tinh một sợi thừng, đi một mạch tới nhà họ Trương.
Lúc ấy đã là canh ba, trăng vẫn còn sáng. Tín Chi tìm được một chỗ buộc thừng, thắt thòng lọng, trèo lên. Chỉ khoảng mươi mười lăm phút, đã đi chầu Diêm vương.
Thương thay, vợ con không từ biệt,
Hóa thành gió tham khóc suốt đêm.
Tuyền đài, từ nay thêm nỗi hận,
Bao giờ sống lại kiếp bán gà.
Lừa được Tín Chi, Điêu Tinh đứng thật xa theo dõi, sau đó đóng cửa đi vào, nói cho vợ là Thủy thị biết, việc đã xong, Thủy thị nói:
- Tốt thì tốt rồi, nhưng chỉ nghĩ ngợi về người bán gà.
- Đời nay, - Điêu Tinh nói, - nếu như thương người khác thì mình chẳng được lợi lộc gì. Lúc nào ta cũng nghĩ phải khoắng của nhà Xương Bá, không ngờ đến nay lại mượn tính mạng của gã bán gà mới được toại nguyện. Nếu không có trời dung rủi, sao ta nghĩ ra diệu kế này. Ngay lúc ấy gã lại tính toán đến việc dọa nạt lừa dối, xếp đặt sẵn những lời nói để ngày mai thực thi kế moi tiền. Mọi việc sắp đặt xong, hắn mới cởi áo lên giường ngủ lấy sức ngày mai đối chọi với nhà họ Trương. Ai ngờ do quá mệt mỏi vì phải tính kế, hắn ngủ thiếp đi, trời sáng bảnh mắt mà hắn vẫn chưa dậy.
Thủy thị gọi, hắn choàng tỉnh lao ra cửa. Hắn tưởng rằng có người tiên phong, thì quân sư có thể ngồi chễm chệ nơi màn trướng. Ai ngờ ra thăm dò thấy vẫn im ắng, chẳng có động tĩnh gì. Cửa hàng nhà Xương Bá vẫn cứ đông đúc ồn ào. Ngay những nhà bên cạnh cũng chẳng thấy ai nói đến. Hắn thấy rất lạ lùng: "Tại sao lại không thấy tin tức gì? Thật là kỳ quái, hay nhà họ Trương phát hiện ra mà giấu đi. Chỉ có mình biết chuyện ấy nhưng khó mà hỏi người khác được". Hắn hối tiếc và uất ức mà không dám lên tiếng, đến nỗi để tuột khỏi tay một món tiền kếch xù, mà lại còn lỗ mất hai bữa rượu. Từ đó lòng dạ Điêu Tinh không yên, tìm mọi cách thăm dò cho ra sự thực, lúc đó sẽ khoác thêm cho Xương Bá tội mang xác chết đi chôn. Mấy hôm sau vẫn không thấy động tĩnh, Điêu Tinh tuy nôn nóng, nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ một mình bồn chồn lo lắng mà thôi.
Từ ngày được Xương Bá tha và cho tiền, Chu Ân buôn bán lặt vặt cũng đủ chi dùng hàng ngày, không lúc nào anh quên ơn Xương Bá. Một hôm làm xong việc, trời vẫn còn sớm, Chu Ân muốn đến thăm Xương Bá. Một là, anh áy náy về việc xác chết, không biết sau khi thả xuống sông sẽ ra sao, và cũng muốn báo cho Xương Bá biết tin này. Đương nhiên không phải Chu Ân muốn kể công với Xương Bá, và cũng không đòi ông ấy phải đền ơn.
Vừa mới đi tới đầu cầu, thấy người ta đứng vòng trong vòng ngoài bàn tán. Chu Ân bước tới thấy một xác chết đầu oặt ra. Đúng là xác chết anh dìm xuống đêm trước, đã được vớt lên bờ. Lúc ấy bụng Chu Ân hơi run, chỉ sợ liên lụy đến mình, nhỡ ra bất chợt họ ghép mình vào tội tự ý di dời xác chết, kết hợp với tội ăn trộm thì chống sao nổi. Chu Ân tới nơi xem, càng kinh hãi. Chẳng phải ai khác mà đó chính là Ngu Tín Chi, người anh con bà cô. Cha Tín Chi là Ngu Bá Cần. Xưa kia ông tổ họ Ngu là một người giàu có trong làng. Đời Bá Cần do không biết kinh doanh, rồi lại phải đóng thuế má sai dịch, cửa nhà sa sút dần. Đến đời Tín Chi thì cửa nhà đã khốn đốn sa sút. Chu Ân thường hay đi lại với anh, từ khi hai nhà lâm vào cảnh túng quẫn hiu hắt, nên ít qua lại. Chu Ân thấy thế không sao cầm nổi nỗi thương tâm, tự nhiên gào lên khóc. Những người xem quanh đấy thấy anh là thân nhân của người chết, không thể không hỏi, người ấy tên gì, ở đâu.
Chu Ân chưa trả lời xong, thì thấy một người trong đám đông vội kéo tay anh, nói:
- Hãy đến nhà tôi, tôi sẽ bàn với anh.
Chu Ân quay đầu lại chỉ thấy:
Trán ngang ba ngấn, chau lại thành tên độc ác
Thao láo mắt tròn, nhắm nghiền thấy được mưu gian
Sợ mình nghèo, sinh lòng oán hận.
Lo người giàu, đòi phải chia đều.
Đất bằng gió mưa,
Trời xanh sấm sét.
Kế độc đã thành, chẳng kể làng xóm gần xa,
Đơn từ bịa đặt, đâu biết phủ quan liêm chính.
Thị phi điên đảo,
Thay trắng đổi đen.
Quả là miệng cười, giấu dao, nói năng ráo hoảnh,
Đúng là trong bụng có kiếm, óc tim toàn nghĩ giết người.
Chu Ân theo người ấy đến nhà, người ấy nói: "Tôi họ Điêu, tự là Đức Phủ. Năm nay, tới phiên tôi cai quản vùng này. Xác chết vừa vớt được, chưa tìm được người thân tới nhận, anh đến rất kịp thời, ta cần phải làm đơn trình báo phủ quan. Anh đã biết vì sao anh anh chết, nay anh nghĩ thế nào cứ nói, tôi sẽ thay anh làm việc này".
- Hôm trước, người nhà anh ấy đến hỏi, - Chu Ân nói, - anh ấy đã đi năm sáu hôm mà không thấy về. Tôi cũng không để ý tới, song nào có ngờ đâu anh ấy chết ở đây.
- Anh anh bị người ta giết chết. - Điêu Tinh giả vờ kinh ngạc nói. - Tôi biết anh không hay biết chuyện này, song hung thủ chính là Trương Bá, người mở cửa hàng vải ngay đối diện nhà tôi. Lão ta cậy thế giàu có, không biết họ cãi nhau về chuyện gì mà chửi anh anh vô cùng tàn tệ. Nay bỗng nhiên anh anh chết, dù không phải bị chết do đánh, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng lão ta không thể trốn tránh được trách nhiệm.
- Xem ra không phải là chết đuối, - Điêu Tinh nói tiếp, - mà chết do thắt cổ. Theo tôi, anh phải đi cáo giác, nhất định lão ta phải lo chôn cất. Đây là tấm lòng của tôi khi gặp nỗi bất bình, nhưng việc đó cũng phải do anh định đoạt.
Nghĩ lại việc xảy ra hôm trước, Chu Ân thấy anh ta nói đúng. Song đã chịu ơn Xương Bá, Chu Ân không thể vong ơn bội nghĩa ngay được. Hơn nữa, về việc này, nhà họ Ngô không còn ai, thì anh phải đứng ra. Nếu chẳng may gặp Xương Bá, ông sẽ nói ra chuyện xấu xa của mình thì việc sẽ rắc rối to. Chu Ân do dự không quyết, đành trả lời lấp lửng rằng:
- Tôi không đứng tên được, phải tìm chị tôi để chị ấy đứng tên, thế mới thỏa đáng. Bây giờ đã muộn, ngày mai chúng ta bàn tiếp.
Điêu Tinh nghĩ: “Nếu được đàn bà đứng tên thì càng dễ bưng bít". Rồi hắn nói với Chu Ân rằng:
- Anh nói có lí, sáng mai anh chị đến cả đây, ta sẽ nghĩ kế, ra tay trị lão ta trước. Nếu đến muộn thì lão Trương giở trò khó mà lật lại được. Chẳng may phủ quan biết, hỏi vì sao không khai báo, thì lúc ấy càng tốn công, lại khó xoay xở.
Trở về, Chu Ân nói hết mọi chuyện với mẹ là Khâu thị, rồi hỏi:
- Sự việc xảy ra như thế, mẹ nghĩ nên làm thế nào cho phải?
Nghe xong chuyện, Khâu thị khóc nói:
- Không ngờ anh Ngu lại chết khổ như thế? Nhưng con cũng không nên vội vàng, phải tìm ra sự thực. Tính mạng nhà mình là nhờ vào họ Trương tha thứ. Nếu như đêm hôm ấy ông giải con lên quan trị tội, thì không phải một mình con, mà cả nhà đều chết đói. Hôm đó không những ông chỉ tha con, mà còn cho thêm vốn liếng làm ăn. Hiện nay mình sống được là nhờ ơn ông sao con không lo đền ơn đáp nghĩa, mà lại đứng ra kiện cáo. Làm thế lương tâm chúng ta không cho phép. Theo mẹ, một người tốt như thế thì không thể là kẻ giết người. Anh Ngu xưa nay cũng là một người yên phận, song lại tự nhiên liều lĩnh lừa dối người, chắc rằng có duyên cớ gì đây.
Nghe xong, Chu Ân mới hiểu ra. Anh vội tìm gặp Xương Bá. Anh cám ơn Xương Bá đã giúp đỡ mình, sau lại hỏi cặn kẽ về việc Tín Chi, Xương Bá không hề hay biết. Ông cho biết, có người đến nhà mình, nhưng không nói rõ họ tên, nên đã không cho anh ta một xu. Nghĩ một lát, chợt nhớ ra, ông nói:
- Đúng rồi, nhất định là người ấy.
Xương Bá thuật lại tỉ mỉ cho anh nghe chuyện Tín Chi đến nhà, nhận bà già là người thân, bị truy hỏi, anh ta ê mặt bỏ đi. Xương Bá nói:
- Thực ra hôm anh tới nhà tôi, bà già rất sợ, lại gặp gió, cảm lạnh bị chết. Bà ấy ở nhà tôi đã hơn hai mươi năm nay, không thấy một người thân thích nào đến thăm. Chẳng hiểu sao nay lại thấy có người đột ngột đến?
- Không biết anh tôi bị người nào xúi bẩy, - Chu Ân nói, mà lại liều lĩnh chết một cách vô ích như thế.
- Anh nói sao? - Xương Bá kinh ngạc nói.
Chu Ân kể lại việc mình thấy Tín Chi thắt cổ ở cửa nhà ông rồi mang chiếc xác ấy đi, nay Điêu Tinh lại xúi anh tố cáo ông giết người, anh không nghe. Xương Bá nghe xong, dựng tóc gáy không nói lên được, mãi sau ông nói:
- Một người xưa nay những hề quen biết, sao lại lừa dối để hại ông, cứ hư hư thực thực không sao hiểu nổi.
- Đời nay thật giả lẫn lộn, - Chu Ân nói, - đến khi tìm ra thật giả thì gia tài khánh kiệt. Tướng công đã giúp đỡ tôi thì đương nhiên tôi phải lo chu tất, việc này ông không phải bận tâm.
Xương Bá cảm ơn Chu Ân. Trên đường trở về, vừa đi Chu Ân vừa nghĩ: "Tín Chi có người thân thích nào làm công cho Xương Bá đâu. Vậy việc này chẳng liên quan gì đến nhà họ Trương. Tại sao Tín Chi không phân biệt thật giả, lại bị hắn lừa gạt, coi rẻ cả tính mạng mình?”. Anh lại nghĩ tiếp: “Sự việc có thể là giả, nhưng cãi nhau, cuối cùng dẫn đến cái chết lại là thực. Thế thì chết tại cửa nhà Xương Bá cũng là giả ư? Tín Chi đã chết, Xương Bá chẳng qua hết lòng báo ơn mình, vậy thì việc lo ma chay cho anh ấy biết trông cậy vào đâu?". Càng nghĩ, Chu Ân càng thấy thương tâm. Đi được nửa đường, anh nẩy ra ý định: "Mình không nghĩ ra cách gì, Lạc Công Tế là người hiểu biết, sao ta không đến bàn với ông ấy xem sao?". Thế rồi anh đến nhà Công Tế.
Chu Ân tới nhà Công Tế thì nhà đã lên đèn. Chẳng cần khách sáo, Chu Ân kể lại tỉ mỉ cho Lạc Công Tế nghe về cái chết của Tín Chi, và những lời nói của Điêu Tinh, mong ông tìm ra cách giải quyết. Công Tế nói:
- Việc này đúng là do Điêu Tinh gây nên. Ngày mai phải cáo giác Điêu Tinh, thì lúc đó sẽ biết rõ mọi chuyện.
- Sao ông lại biết chắc chắn là do Điêu Tinh? - Chu Ân nói.
- Vớt thi thể từ dưới nước lên, - Lạc Công Tế nói, - trong lúc vội vã như thế, vì sao anh ta lại biết được chết là do thắt cổ, mà trong khi đó mọi người đều không biết. Căn cứ vào chi tiết ấy biết ngay đó là do Điêu Tinh lừa đảo.
Lúc đó Chu Ân mới hiểu ra, nói:
- Ông nói có lí, thế mà tôi không nghĩ ra. Nhưng ta phải tố cáo hắn thế nào?
- Tôi đã biết Điêu Tinh xưa nay là một thằng vô lại. - Lạc Tế Công nói. - Hắn chuyên lừa dối để hãm hại người lương thiện. Nay ta phải tố cáo hắn về tội xúi bẩy người khác giết người, hãm hại dân thường. Nếu đưa đơn kiện, nhất định hắn phải đền mạng. Hãy nói cho tôi biết anh anh có con trai không, và vợ anh ấy họ gì?
- Anh ấy không có con, - Chu Ân nói, - vợ anh ấy họ Ngải.
- Ngày mai anh đưa chị ấy đến đây, - Công Tế nói, - tôi sẽ chỉ cho cách gặp quan. Tôi sẽ đi trước đưa đơn kiện, để hắn không kịp đề phòng, ấy mới là thượng sách.
Chu Ân nghe theo, rồi cáo từ ra về.
Hôm sau, Điêu Tinh chờ Chu Ân đến bàn việc hệ trọng, nhưng chờ mãi hắn không thấy Chu Ân đâu cả, hắn nghĩ: "Bọn này thật là ngu xuẩn, chúng không đến thì mình là người địa phương phải báo quan, xem Xương Bá có phải nhận tội không?”. Đang định viết đơn thì hắn thấy công sai(1) đến đòi. Điêu Tinh giật mình, không biết là chuyện gì, đến khi xem trát, thì lại chính là việc Tín Chi. Nguyên cáo là Ngải thị, người báo là Chu Ân. Điêu Tinh nhìn qua, tức giận nói với công sai rằng:
- Tôi không phải là hung thủ, không phải là phạm nhân, sao phủ quan lại cho đòi tới xét hỏi. Hắn cáo giác ta không biết có chủ ý gì đây.
(1) Công sai: người đưa giấy tờ ngày xưa.
- Chúng tôi chỉ là người theo lệnh quan đến tìm anh. - Công sai nói. - Anh là hung thủ hay không, chúng tôi không biết, anh đến quan mà biện bạch rõ trắng đen. Chúng tôi chỉ là người thừa hành công vụ. Hãy trả công chúng tôi mang giấy tới để chúng tôi uống rượu, sau này anh còn phải nhờ vả chúng tôi nhiều đấy.
- Khoản tiền này sẽ có người đưa, - Điêu Tinh nói, - tôi không thể trả thay dược. Ngày mai tôi tố cáo ra hung thủ, hắn là phú ông, lúc đó sẽ đưa cho các ông, thế có được không?
- Anh nói mới hay chứ, - công sai nói, - tên trong giấy là tên anh. Chúng tôi chẳng biết phú ông là ai. Nhận được lệnh là chúng tôi hộc tốc đi ngay không dám trái lệnh.
- Các ông đến đây là theo lệnh bắt người, - Điêu Tinh nói, - chứ không phải đến đòi tiền.
Công sai đùng đùng nổi giận, nói:
- Chúng tôi đã sai, anh đừng trách móc chúng tôi nữa. Thôi mời anh đi cho. Nếu đến quan xét xử, anh tố cáo ra hung thủ thì chúng tôi không dám đến cửa nhà anh nữa.
Công sai bắt hắn giải đi. Điêu Tinh cười nói:
- Nỗi oan đều có đầu mối, nợ phải có người trả. Đã biết kẻ nào phải đền mạng đâu, đi thì đi sợ gì!
Điêu Tinh theo công sai lên huyện. Hắn xem giấy, biết ngày mai mới xét xử, định xin quay về viết đơn trình báo, nhưng công sai thấy anh ta không chịu đưa tiền, nên không cho hắn về bắt giam vào phòng ở của một người sai dịch: Vì sao mọi người lại ra sức giúp Chu Ân như thế? Điều ấy là do Công Tế căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài mà suy ra, lại là người quen biết hầu hết những người trong nha môn. Phàm là việc gì ông cũng hết sức chu đáo, chỗ nào cần tiền đút lót thì ông đưa, nên nói gì họ cũng nghe theo.
Đồng Vân Tiêu lúc đó là tri huyện Trường Châu, xuất thân từ khoa bảng. Là người thanh liêm chính trực, Đồng Vân Tiêu được người đời kính trọng. Các vụ kiện tụng ông xét xử đều rất công bằng, hợp tình hợp lí. Ngày hôm sau Đồng Vân Tiêu đưa vụ án ra xét xử. Ông cho gọi tất cả các phạm nhân có liên quan, đầu tiên là Ngải thị, ông hỏi:
- Sao ngươi biết chồng mình bị Điêu Tinh mưu hại? Thường ngày có thù oán gì nhau không?
- Chồng con là Ngu Tín Chi, - Ngải thị nói, - vì thiếu tiền thuế nên đã phải đi bán gà lấy tiền nộp thuế. Đến nay đã hơn hai mươi ngày mà không thấy về. Hôm kia Chu Ân báo rằng Điêu Tinh mưu hại. Con là đàn bà gặp phải tai họa, nên đã làm đơn trình lên quan xét xử. Quả thực thường ngày chúng con không thù hận gì nhau.
Quan huyện bảo chị quỳ xuống một bên, rồi gọi Chu Ân ra, quát hỏi:
- Ngươi căn cứ vào đâu để biết người ta mưu hại? Đã biết mưu hại sao khi ấy không lập tức báo quan, mãi cho đến hôm nay mới đưa đơn kiện? Ngươi đã lừa dối quan, vu tội cho người khác.
- Con và Điêu Tinh không hề quen biết nhau, - Chu Ân nói, - cớ gì con lại vu cho anh ta. Hôm kia, ngẫu nhiên đi qua cầu con thấy một xác chết ngật đầu, vớt từ dưới nước lên. Nhìn kĩ thì đó lại là anh con. Lúc ấy ở đó rất đông người, không ai biết anh ấy chết là do treo cổ, thế mà chỉ có mình Điêu Tinh biết, và nói là người chết do treo cổ rồi bị vứt xuống sông. Vì thế mà con nghi cho anh ta.
Quan huyện lại bảo anh quỳ xuống một bên, rồi gọi Điêu Tinh hỏi:
- Vì sao lại mưu hại Ngu Tín Chi? Ngươi phải khai rõ sự thực.
- Bẩm quan lớn, - Điêu Tinh nói, - thật là oan cho con quá. Nếu con mưu giết anh ta để lấy của thì anh ta là người nghèo. Bảo giết anh ta để báo thù thì con và anh ta chẳng có hiềm khích gì nhau. Vậy thì vì sao tự dưng con lại giết người? Chỉ có một nguyên nhân, đó là, mấy hôm trước con thấy anh ta cãi nhau với Trương xương Bá, bị Xương Bá đánh đau. Con đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh ta không nghe. Bởi thế Tín Chi phẫn uất mà chết. Họ trách con là người cai quản địa phương, không cứu anh ta, nên đã vu cáo cho con.
- Sẩy chân mà chết đuối là việc thường tình. - Quan huyện nói. - Sao ngươi biết là anh ta thắt cổ?
- Con thấy có ngấn ở cổ anh ta. - Điêu Tinh nói. - Con biết đó là dấu vết thắt cổ.
Quan huyện lại viết lệnh bắt Xương Bá tới xét hỏi, đồng thời sai người nhà phạm nhân kiểm tra lại thi thể, gọi ngay vụ tác nhân(1) tới ngay cầu xem xác chết có thương tích gì không. Khám nghiệm tử thi xong, người ấy về báo rằng:
(l) Vụ tác nhân: người khám nghiệm tử thi.
- Không thấy có thương tích gì, chỉ có một vết ngấn ở cổ.
Lúc ấy quan huyện đã có phần nghi Điêu Tinh xúi bẩy, song cũng có phần nghi cho Xương Bá gây ra thù oán, vậy phải cho gọi Xương Bá đến thì mới có thể kết luận được. Đúng lúc ấy Xương Bá đến quỳ trước công đường. Quan huyện hỏi:
- Người là Xương Bá có phải không?
- Thưa ngài, con đúng là Xương Bá. - Xương Bá nói.
- Ngu Tín Chi cãi nhau với ngươi, - quan huyện hỏi, - bức hắn chết lúc nào? Hãy khai ngay.
- Con buôn bán làm ăn, cũng có chút ít của cải, - Xương Bá nói, - con cũng là người biết luật pháp, sao con lại bức hại người ta chết vô cớ?
- Hôm kia anh cãi nhau với anh ấy, - Điêu Tinh nói chen vào, thấy anh có tiền của, có thế lực, không thể địch nổi nên phẫn uất quá mà anh ấy thắt cổ chết. Con thực tình không dám lừa dối quan lớn.
Quan huyện quát Điêu Tinh không được lắm lời. Rồi hỏi Xương Bá:
- Vì sao mà anh ta lại cãi nhau với người ấy?
Xương Bá thuật lại việc sau khi bà giúp việc chết, nói rằng Tín Chi có đến nhà ông nhận là người thân của bà cụ nhưng khi hỏi quan hệ của anh ấy thế nào với bà cụ, thì anh ấy không trả lời được. Sau thấy ngượng quá Tín Chi bỏ đi. Nghe xong quan huyện lại hỏi Điêu Tinh:
- Khi họ cãi nhau, ngươi không ở đấy, sao lại nói là trông thấy?
- Dù không thấy, - Điêu Tinh nói, - song sự thực đúng là như thế.
- Ngươi là người địa phương, - quan huyện hỏi, - thấy anh ta chết phải báo quan ngay, tại sao ngươi lại chờ đến hôm nay có người kiện, anh mới cáo giác.
- Lẽ ra con phải báo ngay với quan, - Điêu Tinh nói, - nhưng Xương Bá đã giấu thi thể, con không biết tìm đâu. Không có chứng cứ thực, thì con không dám báo liều. Chỉ khi tự dời xác chết đi mới có tội danh.
- Nói bậy. - Quan huyện quát. - Ngươi nói người ta mang xác chết giấu đi, ngươi biết thì phải giữ lại, không cho phép mang đi chứ.
- Nó mang đi giấu, - Điêu Tinh nói, - thì con biết sao được.
- Mày là thằng gian manh, - quan huyện quát, - trước mặt quan huyện mày còn dám nói những lời xảo trá. Đã không biết sao lại đi vu cáo cho người?
Điêu Tinh ấp úng, không dám mở miệng. Quan huyện biết hắn gian dối, gọi lính hầu kẹp hắn lại. Hai lính hầu đang căm tức hắn không chịu đưa tiền, bèn kẹp hắn thật đau. Điêu Tinh tuy là một tên liều lĩnh, song chưa từng bị hình phạt bao giờ, không chịu được buộc phải khai hết sự thực từ khi gặp anh hàng gà. Lúc ấy quan huyện mới cho tháo kẹp, ghi hết lại lời khai của hắn. Quan huyện hỏi tiếp:
- Đúng thì đúng rồi, nhưng vì sao lại di dời thi thể ấy đi, có phải làm thế để ghép thêm tội di dời thi thể nữa không?
- Con làm thế, lúc đầu chẳng qua chỉ dựa vào đó để được mấy lạng bạc, chứ chẳng có thù hận gì mà đòi ông ấy phải đền mạng. Đã làm người ta chết rồi thì sao lại chịu di dời đi, xin ngài xoi xét cho.
Quan huyện bèn gọi Xương Bá, hỏi:
- Đây là kế ngươi tránh tội, nếu không dùng hình phạt thì sao ngươi chịu khai ra.
Nói xong quan huyện sai lính hầu kẹp Xương Bá. Chu Ân thấy thế vội bẩm rằng:
- Đấy là do con không muốn làm hại người dân lương thiện.
- Vì sao lại do ngươi? - Quan huyện hỏi.
Chu Ân không dám giấu, nói hết việc xấu xa của mình cho quan huyện nghe, rồi anh lại kể việc Xương Bá cho tiền, và từ đó đã hối cải làm ăn. Anh làm thế để báo đền ân đức của ông. Lúc đầu vì không biết là anh mình, nên đã mang xác chết đi. Quan huyện thấy anh thật thà, khẳng khái nhận tội, nên không truy cứu chỉ trách anh qua loa để kết thúc vụ án. Trương Xương Bá tuy không truy bức đến nỗi làm cho Tín Chi phải chết, song vì ông là đầu mối gây họa, phải đền hai mươi lạng bạc cho Ngải thị mai táng và nuôi thân. Điêu Tinh lòng dạ xấu xa, lừa dối người vào chỗ chết phải tử hình chờ xử trảm. Quan huyện cho Ngải thị và Chu Ân trở về.
Lạc Công Tế đã đón họ ngoài cửa, gặp cả Xương Bá. Chu Ân nói:
- Đây là Lạc Tướng công, hiệu là Công Tế. Việc hôm nay nhờ ông chỉ bảo mới giải quyết được rõ ràng.
Ngải thị, Xương Bá vô cùng biết ơn. Mọi người ra về.
Còn Điêu Tinh bị giam, sau chết trong ngục. Vợ là Thủy thị đi lấy chồng. Thế mới biết lẽ trời sáng tỏ, không dung tha kẻ xấu xa. Có thơ rằng:
Vốn chỉ tham tài mà gian dối,
Ai ngờ thật giả lại đảo điên.
Mưu mô quỷ quyệt thành vô dụng,
Vợ sống cô đơn, tự giết mình.
Vụ kiện này khiến Chu Ân chịu thiệt. Xương Bá tuy mất hai ba chục lạng bạc, song không đến nỗi khổ sở vì nhà tan cửa nát. Ông vô cùng cảm động, chuẩn bị hai mâm rượu, mời Chu Ân và Lạc Công Tế đến khoản đãi, dốc hết bầu tâm sự. Rượu ngà ngà say, Xương Bá vội lấy từ trong tay áo ra ba mươi lạng bạc biếu Chu Ân. Ông nói:
- Anh cầm số bạc này về làm vốn, mở một cửa hàng nhỏ cũng có thể sống được, không cần phải gánh hàng rong suốt ngày trên đường cho khổ. Sau đó ông lại rút ra hai mươi lạng biếu Công Tế. Công Tế từ chối, nhưng cuối cùng cũng phải nhận. Chu Ân ra sức từ chối, nói:
- Vụ kiện này ông được minh oan, vì ông là người phúc đức nên trời phù hộ; hai là, quan phủ thanh liêm, lại được Lạc tướng công chỉ bảo, chứ tôi có công lao gì mà nhận thưởng!
- Cung kính không gì bằng theo lệnh. - Công Tế nói. - Các ông quen biết nhau từ lâu rồi, đây không phải báo đức hay là nhận, mà là hai người giúp nhau sống yên vui.
Thấy thế Chu Ân không dám chối từ, bèn thay áo ngồi vào ăn uống hết sức vui vẻ cởi mở.
Từ đó Chu Ân vẫn theo nghề buôn bán, và trở nên giàu có Công Tế vì đã giúp đỡ hai người, sau lại thông gia với Xương Bá, đời này đến đời khác vẫn quan hệ thân thiết. Cho tới nay tình thân ái càng thêm khăng khít mặn nồng.
Câu chuyện này luôn luôn khuyên người ta làm việc thiện. Nó giáo dục con người không nên tham lam tiền của. Ngay như Tín Chi, vừa mới nẩy lòng tham đã bị chết; Điêu Tinh vì sẵn có lòng tham, đến nỗi cửa nhà tan nát. Không những không lấy được của người khác, mà ngay của nhà mình cũng phải đội nón ra đi. Tiền bạc là cái tác oai tác quái, nếu các bạn khao khát nó thì các bạn hãy dập tắt ngay những ý nghĩ ấy đi, đừng quá coi trọng. Song không thể quá tham lam tiền tài, cũng không thể không yêu quý nó. Vì sao vậy? Nếu như khinh tiền của mà tiêu hoang phí, đến nỗi áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, cũng không phải là mĩ đức. Nếu một đồng cũng không tiêu, hai đồng cũng không hoang phí, tuy không gây nên họa làm nên tội song cuối cùng có tụ phải có tán, thì tội gì phải giữ tiền của mà không dám ăn. Loại người này gọi là loại người kiết xỉ chứ không phải là người quý tiền của. Được mười thì phải tiêu một, được trăm phải tiêu mười, ai ai cũng cảm kích và biết ơn. Mình không phí nhiều, mà người chịu ơn cũng không ít. Thế chẳng phải người ta thì lãng phí đến cùng cực, mà mình thì không phải là lãng phí. Như vậy mới gọi là biết yêu quý của cải. Giả thử lúc ấy Xương Bá tiếc ba lạng bạc, thì Chu Ân làm sao lại chịu bảo vệ ông. Chu Ân nếu không có ba lạng bạc làm sao khôi phục lại được nghề nghiệp. Tiền bạc quả là một thứ ma mãnh. Các bạn thân mến, nếu bạn tiêu tiền không đúng chỗ thì xin bạn hãy dừng lại, dùng cho đúng chỗ, đừng quá coi thường nó. Mấy lời tôi nói không nhũng khuyên cho đời tốt, mà còn là một cuốn sách khiến người ta trở nên giàu có.
Ôn Hòa Cảm Hóa Hung Tàn Độc Ác,
Khinh Thường Nhu Nhược
Đọc trong sách xưa, thấy anh em gắn bó khắng khít như chân với tay. Cái quý nhất trên đời là tình đồng bào, song không thể so sánh với tình anh em ruột thịt. Đừng có cướp đoạt của cải ruộng vườn của người khác. Tất cả những cái đó đều là của phi nghĩa. Hiểu được điều đó thì thật là có ích.
Đáng cười thay, thế thái nhân tình điên đảo. Tình vợ chồng thì hòa hợp, nhưng tình anh em thì ngày càng mai một. Họ không nghĩ đến tình anh em, mà lại nghe những lời nói bên chăn gối. Thiên tính ngày càng mất đi, lửa tham ngày càng bùng cháy, luôn xảy ra tranh chấp. Đâu được ngưu hoàng(1) mà giết bừa trâu ăn thịt. "
(1) Ngưu hoàng: một chất trong trâu ốm tiết ra, ngưng kết thành hạt, hoặc thành từng miếng. Đây là một vị thuốc Đông y rất quý.
Đây là bài từ theo điệu "Niệm nô kiều”. Nó khuyên anh em nên sống hòa thuận với nhau. Anh em ruột thịt, lúc hợp lúc tan. Anh em ruột thịt, như chân với tay. Cùng một cơ thể sinh ra, nếu như mất một cánh tay thì chân đi tập tễnh. Các bạn thân mến, không nên cho rằng đây là những điều tôi bịa ra cho có vẻ li kì. Rằng, thiên hạ làm gì có người ngu si, chặt tay mình cho người khác xem, rằng, điều ấy không có đối chứng. Song, lời tôi nói tuy có hơi kì lạ, nhưng cũng không hẳn là sai. Nếu không tin các bạn thử bắt chéo tay lại, chạy thật nhanh khoảng một trăm bước, liệu có được không? Bạn sẽ thấy lời tôi nói là đúng sự thực. Những người bại liệt không có chân, phải dùng hai tay bò, mà cũng không bò được xa. Bởi thế anh em phải hòa thuận. Không phải chỉ anh em cùng cha mẹ sinh ra mới hòa thuận, mà ngay cả anh em cùng cha khác mẹ cũng không vì thế sinh ra hiềm khích. Tôi xin kể cho các bạn nghe một câu chuyện, anh em cùng cha khác mẹ luôn gây gổ hiềm khích nhau, nhưng may lại có một người như Mẫn Tử Khiên, đã dẹp được những mối hiềm khích.
Thời Chính Đức triều Minh, tại huyện Lô Lăng, phủ Cát An, Giang Tây, có một người họ Bình tên là Bình Trường Phát, gia sản của ông ta tới hàng trăm vạn. Viễn thị vợ Bình Trường Phát sinh được một con trai, tên là Bình Thành. Một hôm vì công việc. Bình Trường Phát phải đi xa. Biết được đây là nhà giàu có, chủ nhà lại đi vắng, đêm ấy, hàng trăm tên cướp đã xông thẳng vào nhà cướp bóc. Nhà họ Bình chỉ có mấy chục người, không sao chống đỡ nổi, bị chúng đuổi bắt, rồi vơ vét hết của cải. Viễn thị là người có nhan sắc cũng bị chúng bắt đi. Bình Thành thấy mẹ bị mấy tên cướp lôi ra khỏi cửa, chạy tới níu áo mẹ khóc thảm thiết. Một tên rút dao định chém Bình Thành. Viễn thị vội quỳ xuống cầu xin:
- Tôi chỉ có một đứa con này, xin các ông tha cho nó, tôi nguyện sẽ đi theo các ông!
Tên cướp buông tay. Thấy Bình Thành cứ nức nở khóc, Vưu thị thương con không muốn xa, đành bế nó đi theo.
Hôm sau Bình Trường Phát cùng mấy người trở về, biết được tất cả mọi chuyện xảy ra đều do bọn cướp trên núi, báo quan cũng chẳng làm gì được chúng. Gia tư nhà họ Bình có tới hàng trăm vạn, một nửa là ruộng, vườn, ao hồ; bốn phần nữa là cửa hàng buôn bán rải rác ở một số nơi. Bọn cướp chỉ lấy đi một phần mười gia tài, nên Bình Trường Phát vẫn còn giàu có. Người vợ trước bị cướp mất, Bình Trường Phát lấy vợ khác là Cam thị. Sống với nhau đã được bốn năm năm mà Cam thị không có con, Bình Trường Phát rất buồn và muốn có đứa con trai để nối dõi. Thấy nhà họ Trương có người con gái xinh đẹp, Bình Trường Phát bỏ tiền cưới cô về làm thiếp. Song đúng vào lúc lấy vợ lẽ thì Cam thị lại có mang, sinh được đứa con trai. Người ta nói đùa với bà rằng, bà lo lắng quá mới đẻ được con.
Bình Trường Phát đặt tên con là Bình Y. Năm sau Trương thị sinh con trai, đặt tên là Bình Bạch. Sau, Cam thị lại sinh được hai con trai, đặt tên là Bình Thân và Bình Phẫu. Trương thị cũng sinh thêm được hai người, nhưng đều ít tuổi hơn Bình Phẫu, đó là Bình Duật, và Bình Lâu. Lúc nhỏ, sáu đứa con vẫn chơi với nhau bình thường, đến khi lớn lên, Bình Y trở thành kẻ vô lễ. Y oán hận cha vì đã lấy vợ lẽ, không bằng lòng chia gia tài làm ba. Bình Y cho Bình Bạch, Bình Duật, Bình Lâu là loại hèn hạ, không nhận là anh em, hắn lại còn liên kết với Bình Thân và Bình Phẫu thành một phe, ra mặt coi khinh ba người kia. Bình Bạch con của Trương thị là người hiếu thuận, không suy bì tính toán thiệt hơn. Bình Duật và Bình Lâu thấy bị coi khinh rất bất bình, đã mấy lần bàn với Bình Bạch báo thù, song Bình Bạch ngăn trở. Thấy các con bất hòa, nhân lúc còn sống Bình Trường Phát chia gia tài, mấy năm sau Bình Trường Phát chết. Khi cha chết, Bình Y càng ra mặt coi khinh ba người em do mẹ kế sinh ra. Bình Bạch biết hai em mình rất căm tức Bình Y, nên nhiều lần đã dùng lời hơn lẽ thiệt khuyên nhủ, can ngăn Bình Duật, Bình Lâu không được gây ra tai họa. Hai người em thấy anh hết lòng dạy bảo đành nén giận, không dám trái lời. Bọn Bình Y thì vẫn khinh ghét họ như trước.
Bình Y có một người con gái, gả cho con trai Chu Hiếu Tư, người cùng huyện. Do mắc bệnh hiểm nghèo con gái Bình Y chết. Gia đình Chu Hiếu Tư cho người đến nhà họ Bình báo, được tin Bình Y vô cùng oán hận, cho rằng gia đình thông gia họ Chu không thương yêu con gái mình, để đến nỗi mắc bệnh chết. Bình Y hằm hằm tức giận bảo Bình Bạch cùng với anh em họ đến gây gổ. Bình Bạch ngăn lại nói:
- Anh ạ, chúng ta không nên làm thế, người xưa thường nói "chết có số", số cháu năm nay chết, nếu còn ở nhà, chưa đi lấy chồng thì nó cũng chết. Hơn nữa, quan hệ mẹ chồng nàng dâu xưa nay chẳng có điều tiếng gì. Nay cháu chết, bên ấy họ cũng đau xót chứ, sao anh lại đến đó gây sự, làm như thế là không nên. Anh đừng đến đó nữa.
Bình Y thấy Bình Bạch không nghe theo, bực tức nói:
- Con gái anh, nó còn trẻ khỏe như thế, lẽ nào vừa mắc bệnh đã chết. Con gái chú, năm ngoái ốm, năm nay cũng ốm, sao không chết? Chú không muốn đi với chúng tôi thì thôi, chú đừng tin vào số mệnh nữa. Tôi thật không sao hiểu được.
- Anh đừng nghĩ, do anh em xích mích nên tôi không đi.
- Bình Bạch nói. - Quả thực việc này không thể làm được, anh hãy suy nghĩ kĩ những lời em nói. Không đi mới thục sự là tình cảm anh em.
Bình Y không thèm trả lời, giận dữ bỏ đi. Bình Bạch khuyên nhủ nhiều lần, nhưng Bình Y vẫn không từ bỏ ý định. Bình Bạch biết dù có khuyên can nữa thì cũng vô ích, nên chỉ buồn rầu than thở.
Bình Y hẹn với Bình Thân, Bình Phẫu tập hợp một số tên vô lại trong họ, cùng một số trai tráng khác, tất cả hơn mười người, sồng sộc kéo nhau đến nhà họ Chu. Chu Hiếu Tư đang tiễn khách ngoài cửa, nhìn thấy bọn họ định ra tiếp đón, song lại thấy người đến rất đông, người nào người nấy mặt cứ hằm hằm. Chu Hiếu Tư bèn chạy vào trong nhà theo dõi, vào tới cửa bọn Bình Y đã quát thét chửi bới. Mấy người thân thấy ầm ĩ chạy vào khuyên can, song bọn người này bất chấp, tất cả xông thẳng vào nhà tìm bà thông gia. Thấy họ xông vào, bà thông gia chạy xuống bếp ẩn nấp, rồi bà nghe thấy tiếng quát: "Nó không ở đây, Phải ra đằng sau tìm ngay!". Bà thông gia vội chui vào bếp, song chỉ chui được nửa người, may mà có bó rạ che đi. Trong lúc vội vàng chúng không nhìn thấy, chúng bèn bắt đứa ở ra tra khảo, đứa ở không chịu nói, Bình Thân vớ ngay chiếc búa bổ củi dựa ở chân cột định giết. Sợ quá đứa ở buộc phải nói:
- Vừa thấy bà chủ xuống bếp, chắc rằng ở đằng sau.
Chúng chạy ùa cả xuống bếp lục soát, thấy hai chân bà thòi ra ngoài cửa bếp, bèn lôi ra, lột hết quần áo. Trên gác bếp sẵn có củi cành, mỗi đứa rút một thanh đánh bà túi bụi. Khi thấy khắp người bà sưng húp, thâm tím chúng mới dừng tay. Bình Y lấy một chiếc khóa dây tròng vào cổ, lôi đến khóa vào chân người chết. Bọn chúng lại xúm vào chửi bới hết sức độc địa, sau lại ra hố xí lấy cứt nhét vào mồm bắt bà ăn. Mấy tên vô lại đang hành hung bà thông gia thì thấy có tiếng quát bên ngoài, một số người ập vào. Bọn chúng tưởng đó là tốp người nhà họ Chu tới đánh, định chống lại, nhung đấy lại là người của quan trên cử đến, do Chu Hiếu Tư dẫn về. Người dẫn đầu tay cầm lệnh bắt, nói:
- Quan trên có lệnh bắt các người.
Bọn người ấy sững ra đứng im để những người thi hành công vụ lấy khóa, khóa tất cả lại, rồi cởi chiếc khóa ở cổ bà thông gia khóa Bình Y, giải đi.
Hùng hổ ra oai đánh đập người
Cùm chân tất cả thật đáng đời.
Vốn là, Chu Hiếu Tư đứng sau cửa, nhìn thấy bọn người ấy hùng hổ ập vào nhà, ba người con trai lại chưa về, một mình địch sao nổi chúng, bèn vội vã thoát ra ngoài, hộc tốc tới huyện báo quan. Đúng lúc quan huyện đang ở công đường, tức khắc ra lệnh bắt, bởi thế mới nhanh như vậy. Ngay lúc ấy, công sai giải bọn Bình Y tới, Chu Hiếu Tư quỳ trước công đường vừa khóc vừa tố cáo việc hành hung của bọn người vô lại.
Quan huyện nghe thấy vô cùng tức giận, cho lính hầu đánh mỗi tên bốn mươi gậy, sau đó hỏi tội. Bọn lính lệ kéo Bình Y ngã sấp, đánh túi bụi. Quan huyện lúc ấy đang xử bọn Bình Y thì có hai viên thừa sai của quan phủ vào, nói có việc khẩn cấp mời quan huyện đi ngay, thật là may cho bọn Bình Y. Biết quan phủ có việc khẩn cấp, nên quan huyện không dám coi thường, dặn mọi người giam bọn Bình Y lại, lập tức lên kiệu tới phủ đường. Chu Hiếu Tư cùng mọi người ra về.
Thấy anh không nghe lời, Bình Bạch rất lo lắng, ông sai người tới nhà họ Chu nghe ngóng. Lát sau trở về nói với Bình Bạch rằng, họ đã đến nhà họ Chu hành hung, bị công sai bắt giải lên huyện rồi. Bình Bạch nghĩ: "Nguy rồi, ta biết quan huyện là người rất cứng rắn và quyết đoán. Chuyện này làm sao mà ông ấy xử lí nhẹ được". Rồi Bình Bạch bảo: "Lấy ra đây cho ta bộ quần áo!" Vốn là, trong sáu anh em, thì Bình Bạch là người có học hành, có danh vọng, đã đỗ tú tài. Người dân trong vùng có việc gì khó khăn ở huyện đường đến nhờ, anh đều giúp đỡ. Bình Bạch mặc áo mầu lam, gọi người cùng lên huyện, song quan huyện lên phủ chưa về. Bình Bạch bèn bỏ một tờ giấy vào chiếc hòm đựng đơn từ tại cửa huyện đường, rồi ra chờ ở phòng tiếp khách. Lát sau thì quan huyện về, nhận được giấy của Bình Bạch, ông cho gọi ngay Bình Bạch. Bình Bạch là người đức độ và ngay thẳng, quan huyện rất nể phục. Gặp nhau họ chào mấy câu xã giao, hỏi han chuyện trò, tới khi trời gần tối, quan huyện mời Bình Bạch ở lại dùng cơm. Vì có việc muốn nói, nên Bình Bạch không từ chối, nhân lúc uống rượu. Bình Bạch nói tới chuyện vừa xảy ra, xin ông cho qua việc này. Quan huyện nói:
- Vì việc ấy mà anh đã đến đây, lẽ ra tôi phải giúp anh, nhưng đây là hành động phi pháp, giải quyết vụ này rất khó. Anh bảo tôi nên xử thế nào?
Bình Bạch chau mày nói:
- Phép công là thế, là cha mẹ của dân, mà xử phạt theo tình riêng làm trái pháp luật quả là khó. Số tôi thật long đong vất vả!
Rồi ông kể hết cho quan huyện nghe nỗi khổ của mình, đã khuyên giải các anh nhưng họ không nghe, ông nói:
- Nay thấy họ chịu tội, lòng tôi đau như cắt.
Nói xong, nước mắt ông ứa ra, nhỏ xuống chén rượu. Quan huyện thấy thế thương tình nói:
- Tình yêu thương của anh như thế, lẽ nào tôi lại không thương. Anh đừng đau buồn nữa. Song phải làm thế nào khuyên nhà họ Chu nguôi giận, thì việc này mới giải quyết được.
Bình Bạch vội cảm ơn, nói:
- Tôi vô cùng biết ơn lòng tốt của quan, tôi sẽ sang bên ấy nhận tội.
Từ biệt quan huyện ra về, canh hai Bình Bạch tới nhà họ Chu gõ cửa. Chu Hiếu Tư vẫn còn thức, ba đứa con cũng đã về biết chuyện xảy ra, họ nghiến răng căm giận. Thấy tiếng Bình Bạch bên ngoài, họ chạy ùa ra định trút cơn thịnh nộ, song . Chu Hiếu Tư ngăn lại, nói:
- Các con không được lỗ mãng, anh em nhà ấy chỉ có ông là người đạo đức. Việc xảy ra hôm nay nhất định ông ấy không liên quan. Các con hãy ở lại, để mình ta ra gặp là được rồi.
Chu Hiếu Tư trở ra, Bình Bạch vội quỳ xuống nói:
- Tội em đáng chết.
Chu Hiếu Tư vội quỳ xuống đỡ ông dậy, nói:
- Anh có gì cần dạy bảo, xin mời anh vào nhà, ta nói chuyện. Nếu anh thế này, em cũng phải quỳ, như thế sao tiện.
Lúc ấy Bình Bạch mới đứng dậy. Chu Hiếu Tư mời vào trong nhà. Bình Bạch nghẹn ngào không nói thành lời, nước mắt rơi lã chã, lúc lâu mới nói:
- Số em thật không may, gặp phải những người anh ngỗ ngược. Hôm nay họ đã xúc phạm đến gia đình anh, thấy thế em như ngồi trên đống lửa. Nay đã bị bắt, đúng là gieo gió gặt bão, song em là anh em của họ, sao có thể đang tâm thấy họ bị tra khảo đánh đập? Bởi thế đêm nay em đến đây, cầu mong anh ra ơn cho đứa em này.
Chu Hiếu Tư thấy Bình Bạch xin tha cho Bình Y, ông rất không muốn, nhưng vì Bình Bạch là người quân tử, trung hậu, không thể xem thường, chỉ nói :
- Việc ấy đã đưa lên cửa quan, bàn với em cũng vô ích thôi. Em nghĩ rằng, quan huyện quyết không che chở cho riêng em, xin anh cứ yên tâm.
Bình Bạch thấy ông ta vẫn chưa nguôi giận, chỉ biết kêu thương, van nài. Song Chu Hiếu Tư chỉ nói:
- Thôi thì cứ theo phủ quan phân xử, còn nếu bảo em rút đơn thì em thấy không được.
Bình Bạch thấy Chu Hiếu Tư vẫn không tha thứ, lại khóc lóc van xin.
- Không giấu gì anh, quả thực, vừa rồi em đã lên huyện xin, quan cũng chịu xử lí nhẹ, nhưng còn chờ anh mở rộng đường sống, thì việc này mới xong. Chu Hiếu Tư nghe thấy quan huyện định tha, song lại nghĩ:
"Quan đã hứa với người ta, thì ngày mai phải đánh tho bọn độc ác ấy mấy gậy, cũng coi là xử lí công tâm, thì tội gì mà mình không thể tất nhân tình với anh ta". Thế rồi Chu Hiếu Tư nói:
- Em chỉ sợ quan huyện nói là hôm nay kiện, ngày mai lại thôi, quở trách em là đồ phản phúc, bởi thế em do dự. Quan huyện đã bằng lòng tha, hơn nữa anh đêm hôm cất công tới đây thì sao em lại tiếc một tờ giấy xin thôi kiện, ngày mai em sẽ cùng anh đi đệ đơn.
Bình Bạch nghe xong rất mừng, quỳ xuống tạ ơn. Chu Hiếu Tư đỡ dậy, rồi tiễn Bình Bạch ra khỏi cửa. Về tới nhà đã là canh tư.
Hôm sau Bình Bạch cùng Chu Hiếu Tư lên huyện đệ đơn xin thôi kiện. Quan huyện gọi bọn Bình Y ra, quát:
- Bọn ngươi mặc sức làm càn, không kiêng nể ai. Bản huyện định xử tử các ngươi, nhưng vì anh các ngươi đến cầu xin, nên đã nguôi giận đôi chút, bởi thế ta tha cho các ngươi. Lần sau còn hành hung như thế, ta quyết không tha thứ.
Bọn người ấy cúi đầu cảm tạ, quan huyện lại bảo phải cúi đầu nhận tội trước mặt Chu Hiếu Tư ngay tại công đường, chúng không dám trái lời. Thật là:
Cá mắc lưỡi câu may thoát chết
Vẫy đuôi cút thẳng chẳng ngoái đầu.
Bình Y về nhà không những không cảm ơn người em đã can mình, ngược lại vẫn hận thù Bình Bạch đã không cùng mình đi gây sự. Bình Bạch cũng chẳng thèm để ý đến.
Mấy hôm sau, mẹ Bình Bạch mắc bệnh chết. Lẽ ra bọn Bình Y phải để tang một năm, song bọn họ không tuân theo luật lệ. Trong ngày tang lễ đầu tiên, người chết chưa nhập quan. Bình Y và hai đứa em cùng mẹ đã ngồi ở hiên nhà bên chơi trò đố rượu, hò reo cho tới sáng, bọn chúng không hề bén mảng tới trước linh sàng. Bình Duật, Bình Lâu uất ức không chịu nổi, đòi cùng với Bình Bạch kéo nhau đến mắng chửi. Bình Bạch nói:
- Đây là bản thân chúng vô đạo đức, chẳng hại gì đến chúng ta, dù có đến tìm chúng thì chúng cũng chẳng thèm để ý mà ngược lại còn bị chúng đánh chửi.
Hai người em đành thôi. Mấy hôm sau, anh em Bình Bạch đưa quan tài Trương phu nhân đi chôn cất. Khi ấy, Cam phu nhân đã mất từ lâu, an táng cùng với Bình Trường Phát. Bình Bạch muốn an táng mẹ bên cạnh cha, nhưng Bình Y, Bình Thân và Bình Phẫu ngăn lại không cho chôn, chúng nói:
- Mảnh đất này của con gái nhà họ Điền, cách đây hai năm chúng tôi mua về để đó, sao người chết lại đưa đến đấy chôn.
Bình Duật, Bình Lâu thấy vô lí, muốn xông tới đánh. Bình Bạch ngăn lại, rồi tìm một mảnh đất khác chôn mẹ.
Hai tháng sau, vợ Bình Y mắc bệnh chết, Bình Bạch gọi hai em cùng đến cúng lễ. Bình Duật nói:
- Họ chẳng coi mẹ mình ra gì, thì chúng ta cũng chẳng chị em gì nữa! Lần này chúng ta cũng không đi.
Bình Bạch khuyên nhủ mãi, nhưng hai người chỉ cười khẩy bỏ đi. Bình Bạch đành phải đi một mình tới lễ bái, khóc lóc. Song anh thấy Bình Duật và Bình Lâu, người thì thổi sáo, người thì hát hò vui đùa ở gian nhà bên cạnh.
Bình Y thấy thế giận dữ nói:
- Ở bên này có tang, thế mà hai đứa ở gian bên kia vẫn hát xướng, thật là vô đạo đức!
Thế rồi Bình Y sai Bình Thân và Bình Phẫu tới đánh. Bình Bạch cũng mang gậy chạy tới. Vừa đi vừa quát mắng ầm ĩ, chỉ sợ hai người em bị đánh đập, nên cố ý đánh động cho hai người kia chạy trốn. Bình Duật nghe thấy tiếng quát thét bỏ chạy, còn Bình Lâu, vì mấy hôm trước đi ủng, chân bị toạc da nên chạy chậm. Bình Bạch tới nơi, dùng gậy quật vào người nói:
- Sao mày không tới linh sàng cúng, mà còn ở đây hát xướng?
Bình Lâu chưa kịp trả lời thì bọn Bình Y tới, đứa cầm then cửa, đứa cầm gậy đánh túi bụi, bất kể vào đâu. Thấy bọn chúng đánh Bình Lâu quằn quại, không đứng dậy được, Bình Bạch bèn ngáng người ngăn chúng lại. Thấy thế Bình Y quát:
- Sao không để chúng tao đánh cho thằng súc sinh này một trận?
- Nó tuy không tốt, - Bình Bạch nói, - song đánh như thế đủ rồi, xin các anh tha cho nó! Nếu như các anh còn muốn đánh nó, thì em xin chịu thay, chứ không nỡ thấy nó bị đánh.
Thấy vậy bọn Bình Y quay lại đánh túi bụi vào người Bình Bạch, đến nỗi mình mẩy thâm tím, sưng húp, đầu vỡ toác, máu túa ra đầm đìa, lúc ấy chúng mới chịu dừng tay.
Bình Duật trở về thấy hai người bị đánh. Bình Lâu trọng thương, không ăn uống được, Bình Bạch tuy đau đớn nhưng vẫn chống gậy đến Bình Y xin nhận tội. Không chịu nổi, Bình Duật giấu Bình Bạch tự viết đơn trình lên huyện, tố cáo Bình Y không tang mẹ kế. Quan huyện cho công sai về bắt, thấy đó là bọn người đến gây gổ ở nhà họ Chu trước đây, quan huyện rất căm giận, định xử trọng tội. Nhưng vì kính nể Bình Bạch, lại không biết ý ông, nên quan huyện cho mời Bình Bạch tới.
Bình Bạch muốn đi, nhưng khắp người đau đớn, mặt mũi thâm tím, không muốn gặp, chỉ viết một lá đơn bẩm lên, xin quan không xử phạt, rồi nhờ công sai trình giúp lên quan. Công sai hỏi vì sao Bình Bạch lại muốn như thế, Bình Bạch không chịu nói. Bình Duật đứng bên cạnh kể hết đầu đuôi, công sai nghe xong rất bất bình. Trở về, công sai dâng tờ trình lên quan. Quan huyện xem, gật đầu nói:
- Ta ngờ anh ấy không muốn xử tội, nên mới sai các người về hỏi Bình Bạch, quả nhiên đúng như thế!
- Sao anh ấy không đến, mà chỉ giao tờ trình cho các anh mang về. - Quan huyện hỏi công sai.
Công sai bèn thưa lại hết những lời Bình Duật nói. Nghe xong quan huyện đùng đùng nổi giận, lập tức sai người bắt bọn Bình Y ra công đường, quát hỏi:
- Bọn ngươi còn táng tận lương tâm hơn cả cầm thú. Ta chưa hỏi các ngươi về tội không để tang mẹ kế. Bình Bạch là người đã cứu sống các ngươi, vậy mà các ngươi lại đánh anh tàn nhẫn như thế. Hãy đánh chết nó đi.
Nói xong ông rút hết cả ống roi vất xuống đất. Sai nha cũng thấy rất bất bình, chỉ mong sao kết liễu đời chúng cho hả giận, rồi họ hùng hổ, lăn xả lôi bọn chúng ngã sấp ngã dụi. Nhưng quan huyện lại nghĩ: "Xử tử chúng sẽ làm cho người đời vui lòng, song lại làm cho Bình Bạch đau lòng. Đó chẳng phải là lẽ kính trọng người hiền", rồi cho dừng lại không đánh nữa. Quan huyện hỏi Bình Y:
- Các ngươi trở về có còn dám coi thường anh ấy nữa không?
- Bẩm quan không dám ạ. - Bình Y nói.
Quan huyện lấy trong tay áo ra tờ giấy bẩm trình của Bình Bạch cho chúng xem, nói:
- Có người kiện các người không tang mẹ kế, lẽ ra bản huyện xử tử các ngươi. Bình Bạch không hận thù các ngươi về chuyện ấy, mà lại còn xin bản huyện tha cho các ngươi. Đã hai lần ta tha chết cho các ngươi, đều là do nể Bình Bạch, các ngươi phải hiểu thế mới được.
Ba tên cúi đầu cám ơn quan huyện. Quan huyện lại mắng chửi chúng hết sức thậm tệ, rồi mới tha về.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip