Đoàn lữ hành - Wilhelm Hauff

ĐOÀN LỮ HÀNH
Bãi cát mênh mông và nóng bỏng dưới ánh mặt trời thiêu đốt, chìm giữa đám mây bụi mịn màng của sa mạc. Một đoàn lữ hành dài đi tới, tiếng chuông leng keng của bầy lạc đà xen lẫn tiếng nhạc của mấy con ngựa hí vang. Gươm đao loang loáng dưới ánh nắng. Một đoàn hộ tống khá oai phong hộ vệ ba mươi thớt lạc đà chở nặng vải vóc quý giá. Bốn người đàn ông đứng tuổi, ăn mặc sang trọng, ngồi trên bốn con ngựa rất đẹp, mới nhìn qua cũng đủ thấy đó là những thương gia.
Một đám đông lạc đà và ngựa tải đi trước và theo sau đoàn trung tâm đó. Một người dẫn đường thúc ngựa đi nước kiệu phía trước để làm nhiệm vụ dò đường.
Đột nhiên, người dẫn đường thấy một người cưỡi ngựa đến trước mặt mình mà không hề biết anh ta từ đâu xuất hiện và cũng ngạc nhiên không kém về dáng vẻ anh ta.
Người và ngựa anh ta đều lộng lẫy, oai vệ. Con ngựa giống Ả Rập lông trắng như tuyết, yên ngựa làm bằng da hổ, bộ cương thắng bằng dạ tía cũng lộng lẫy và lạ lùng không kém y phục của người kỵ mã.
Áo quần của chàng trai lấp lánh dưới ánh mặt trời, vàng óng ả trên các đường thêu ở khăn đội đầu, ở áo, ở cái quần rộng ống và trên cán gươm trạm trổ công phu.
Người, ngựa đều đượm vẻ kiêu hãnh. Con ngựa hất mạnh đầu lên vung cái bờm dài và mượt của mình trong khi người kỵ mã ngẩng mặt hướng về phía chân trời, khuôn mặt gày, râu rậm, mũi quắp, mắt sáng và đăm chiêu, dường như anh ta muốn hút hết khoảng không mở rộng trước mặt.
Người dẫn đường thủ thế:
- Ông có ý định gì thế?
- Anh cứ yên tâm, - chàng kỵ mã đáp với một nụ cười có phần khinh miệt. – Một đoàn người ngựa đồ sộ như thế này không việc gì phải e ngại một người đơn thương độc mã. Chúng ta đã gặp nhau đột ngột thế này là bởi anh không nhìn ra phía trước. Anh có thể cho tôi biết đoàn tải là là của ai chăng?
- Của bốn thương gia giàu có mà ông thấy đi ở giữa kia. Họ khởi hành từ La Mêc-cơ đi về xứ sở của họ.
Chàng kỵ mã tức thời thúc ngựa phi nước kiệu và trong chốc lát đã đến bên cạnh các thương gia.
Đoàn lũ hành đã dừng lại để nghỉ trưa. Mấy con lạc đà quỳ xuống và các phu tải nhanh chóng dựng lên mấy cái lều.
Mấy thương gia chào hỏi chàng kỹ mã rồi mời chàng vào trong chiếc lều rộng rãi dành cho họ. Khi khách đã ngồi xuống, các chủ nhân ra hiệu cho mấy nô lệ da đen bưng rượu giải khát và thức nhắm đến.
Người lạ mặt bưng cốc thích thú nhấp một ngụm vang ướp hương thơm ngát rồi nói:
- Thưa quý vị, trước hết tôi phải nói để cho các vị rõ tôi là ai. Tôi là Xê-lim Ba-ruốt ở Bát – đát. Tôi đi từ đó đến La Méc-cơ nhưng rủi gặp một bọn cướp đường. Tôi không chống cự nổi, cũng không thể thoát thân, mặc dù con ngựa của tôi rất hay. Mấy hôm liền chúng bắt tôi đi theo chúng vượt sa mạc. Cuối cùng, trước đây hai đêm, tôi lợi dụng sơ hở của bọn canh phòng mà trốn thoát. Tôi đã đi, đi mải miết mà không biết là mình đi về hướng nào, nhưng nhờ có Đấng Tiên tri phù hộ, tôi đã đi đúng vào đường của đoàn các ngài.
- Chúng tôi rất sung sướng được giúp đỡ ngài, ngài Xê-lim Ba-ruốt ạ. – thương nhân cao tuổi nhất nói. – Nếu ngài vui lòng thì xin ngài hãy đi với đoàn chúng tôi. Nhưng trước hết, xin mời ngài cứ tự nhiên ăn uống, vì trông ngài mệt nhọc quá, cần được bồi dưỡng cho lại sức.
Xê-lim Ba-Ruốt nở một nụ cười cảm tạ thương gia và ăn uống xong, chàng làm theo các chủ nhân, châm lửa hút một chiếc điều dài.
Chàng cảm thấy vô cùng dễ chịu nỗi mệt mỏi tan dần trong niềm sảng khoái và rất muốn nhắm mắt đánh một giấc trưa thú vị. Tuy nhiên, muốn làm vui lòng các chủ nhân tốt bụng, chàng phải cố xua đuổi giấc ngủ của mình đi và nói:
- Thưa các vị, quan tể tướng ở Bát-đát là bác tôi có bổn phận đền đáp lòng hiếu khách hào hiệp cảu quý vị đối với tôi, nếu có lúc nào đó, quý vị đi qua Bát-đát. Trong khi chờ đợi, xin các vị cho phép tôi đề nghị một điều.
- Ngài Xê-lim Ba-ruốt ạ, - Ác-mét, người cao tuổi nhất đáp, - xin mời ngài cứ nói. Được làm vui lòng ngài là niềm vui của chúng tôi.
- Thế thì xin quý vị hãy cho phép tôi kể một câu chuyện. Tôi có kinh nghiệm rằng những cuộc hành trình dài dằng dặc thế này buồn tẻ lắm vì thiếu đàn địch và nhảy múa, thiếu những chuyện kể có thể giải trí ta trong buồi nghỉ trưa. Quý vị có vui lòng nghe chuyện tôi kể không?
Các thương gia vội vã xếp gối để tựa lưng, qua thái độ ấy, Xê-lim thấy rằng họ sốt sắng đón nhận đề nghị của mình.
Ác-mét ra hiệu cho bốn nô lệ nhồi thuốc vào ống điếu, và Xê-lim bắt đầu kể:

VUA CÒ
Sát-xi là vua xứ Bát-đát, Nhà vua cai trị thần dân rất nhân hậu. Ngài mến trọng quan tể tướng Măng-xo, một bề tôi trung thành, mẫn cán xứng đáng với sự ưu đãi đó.
Một buổi trưa, trong giờ nghỉ nhà vua nhấp nháp cốc cà phê thơm và hút thuốc với cái điếu bằng gỗ cẩm lai. Măng-xo lúc nào cũng có một câu chuyện hoặc một vài sự việc để kể và nhà vua vừa mân mê râu cằm vừa nghe ông ta một cách thích thú.
Một hôm, trong khi Măng-xơ nghiêng mình xá nhà vua thì vua nhận thấy nét mặt quan tể tướng không vui, ngài liền hỏi:
- Sao hôm nay khanh buồn thế?
- Muôn tâu bệ hạ, - quan tể tướng gập người cung kính đáp, -  bệ hạ đọc được lòng thần như đọc một quyển sách mở. Vâng, thần rất buồn, mặc dầu bệ hạ rất hào phóng đối với hạ thần, thần cũng không thể thỏa mãn được mọi sở thích. Thần vừa gặp một lão hàng rong có những vật kỳ diệu mà thần không đủ tiền mua!
- Chỉ thế thôi à? – nhà vua mỉm cười phán – hãy gọi lão ta lại đây! Đã lâu rồi, ta chưa ban gì cho khanh. Vả lại được ngắm những món hàng lạ lùng ấy cũng là một cách tiêu khiển thú vị đấy chứ!
Quan tể tướng, sau khi nồng nhiệt tạ ơn nhà vua, thi hành ngay mệnh lệnh. Một võ quan chạy đi tìm lão bán hàng và dẫn lão đến trước mặt nhà vua.
- Hãy cho chúng ta xem những hàng hóa đựng trong cái hòm lớn kia! – Sát-xi hướng về người bán hàng đang quỳ, phán (Thật ra thì chẳng có gì thú vị khi nhìn con người béo lùn, vàng như nghệ, quần áo rách rưới và hôi hám ấy. Ái chà! - nhà vua kêu lên khi lão ta vừa mở nắp hòm, trong đó chứa những vật khiến bậc vua chúa cũng phải kinh ngạc. Đó là những đồ trang sức chạm trổ tinh vi, nạm những viên ngọc thạch trong suốt và sáng ngời! Rồi những chiếc cốc bằng vàng mười, những vũ khí khảm vàng và nhiều vật quý khác... Tất cả đều tinh xảo và quý giá.
Măng-xo xúc động thốt lên:
- Tâu bệ hạ, có phải là tuyệt đẹp không ạ!
Sau khi đã xem kỹ từng mặt hàng nhà vua khen:
- Ừ, quả là những vật báu của thần tiên!
Nghe những lời ấy, lão bán hàng giấu mặt cười riêng. Hắn vội lấy cái hộp tư trang nhỏ nằm trong một ngăn hòm
- Muôn tâu bệ hạ.- Lão vừa nói vừa cúi sát đất xá nhà vua, - đây là một vật trông rất bình thường nhưng ở La Méc-cơ người bán đã cam đoan rằng tất cả châu báu trên trái đất cũng không thể đổi lấy nó. Cả tin, hạ thần đã mua cái hộp này với giá rất đắt mà không mở ra xem. Thần đã bị lừa, bởi vì như các ngài có thể nhận xét, trong lúc tin là sẽ được thấy một viên ngọc quý thì thần chỉ thấy thứ này đây.
Nhà vua và quan tể tướng tò mò cúi xuống. Chiếc hộp đựng một thứ bột đen rất mịn, trên đó có một tờ giấy gấp tư với những dòng chữ kỳ lạ.
- Thật là kỳ dị!-Sát –xi lật qua lật lại tờ giấy và nói với Măng-xo. – Ta không thể đọc được những chữ này, còn khanh?
- Tâu bệ hạ, xin thú thật là thần quá ngu dốt. Xin bệ hạ hãy triệu nhà thông thái Xê-lim đến. Ông ta biết tất cả các ngôn ngữ trên trái đất. Có lẽ ông ta đọc được!
- Ông ấy sẽ đọc được, - nhà vua tuyên bố
Trong khi một số võ quan đi tìm Xê-lim nhà vua phán:
- Này lão thương nhân kia, ta sưu tầm những bản sách viết vì thế ta chú ý đến cái hộp đựng tư trang và tờ giấy nằm trong hộp. Lão đòi bao nhiêu?
- Muôn tâu bệ hạ, - người bán hàng quỳ xuống tâu bày, - nếu bệ hạ đoái hoài thương kẻ hạ thần và mua giùm cho một vài món hàng như những vật trang sức hay những khí giới này…thì hạ thần xin dâng bệ hạ cái hộp tư trang này mà không tính tiền bởi vì kẻ hạ thần cũng không biết dùng cái hộp ấy làm gì!
Nhà vua liền truyền lệnh:
- Măng-xo, khanh hãy chọn đi! Khanh hãy thay ta tặng phu nhân chiếc vòng nạm kim cương và chiếc lược chạm trổ  này!
Măng-xo quá sức vui mừng, rối rít tạ ơn nhà vua và chọn một đôi súng ngắn rèn đúc rất tinh xảo.
Lão bán hàng đậy nắp hòm, cúi chào nhà vua và rời khỏi cung điện với nụ cười đắc thắng trên mội.
Nhà vua nhìn theo nói:
- Đó là một người sung sướng! Điều ấy dễ hiểu thôi. Những món hàng lão ta mang theo không phải là những thứ dễ bán đâu!
Quan tể tướng cũng hớn hở tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, ai đã chầu hầu bên cạnh bệ hạ đều được thấm nhuần ơn mưa móc. Kia, nhà thông thái Xê-lim đã đến!
Một ông già nét mặt khắc khổ đã nghiêng mình trước mặt Sát-xi. Nhà vua truyền lệnh:
- Xê-lim, khanh hãy cầm tờ giấy này và đọc đi! Nếu khanh đọc được, khanh sẽ được nhận phẩm phục mới. Còn không thì phải liệu mà nhận năm chục hèo trên lòng bàn chân để biết rằng mình đã sai trái một khi ngu dốt mà lại để cho người ta gọi mình là Xê-lim thông thái!
Xê-lim lo sợ, cầm tờ giấy xem kỹ. Một lát sau ông ta nói:
- Đây là chữ La-tinh. Những đoạn chữ này viết…
Nhà vua ra hiệu cho các võ quan và triều thần đi ra, chỉ giữ quan tể tướng lại. Cả hai chăm chú nghe Xê-lim đọc.
- Ba lần hạnh phúc đến với người tìm thấy tờ giấy này. Người ấy hãy cảm tạ thánh Ala đã ban phúc cho y hậu hĩ hơn tất cả thiên hạ. Y phải biết rằng một nhúm bột đen đựng trong chiếc hộp này có thể làm cho y ngang hàng với những đạo sỹ cao tay ấn nhất.
Thật vậy, chỉ cần hít một tý bột ấy và đọc câu thần chú “Mu-ta-bo” thì được biến ngay thành con vật này, hoặc con vật nọ tùy ý và hiểu được ngôn ngữ của loài vật. Y sẽ hoàn nguyên hình khi nhắc lại cái tiếng màu nhiệm ấy đồng thời cúi đầu ba lần hướng về phía mặt trời mọc. Suốt trong thời kỳ thay hình đổi dạng y không được cười bởi vì hễ cười thì sẽ quên mất câu thần chú và đành phải giữ cái dáng thú vật ấy suốt đời.
Nhà vua cảm thấy rất đỗi vui mừng khi nghe được và truyền pahsn:
- Xê-lim! Khanh không được tiết lộ điều bí mật này! Hãy đến gặp quản kho của trẫm để cho lão ta lấy vàng nhét đầy các túi áo, túi quần của khanh. Tạm biệt Xê-lim.
Đoạn, quay sang Măng-xo và rất bồn chồn, nhà vua nói tiếp:
- Chúng ta phải thí nghiệm ngay tức khắc hiệu lực của thứ bột này!
- Xin tuân lệnh, - Măng-xo đáp nhưng không mấy sốt sắng. – Nhưng kẻ hạ thần trộm nghĩ, nếu bệ hạ đội lốt thú dù chỉ trong chốc lát, thì cũng e thánh thể sẽ giảm bớt vẻ cao quý phần nào chăng?
- Ai biết đâu đấy? - Nhà vua nhún vai đáp. – Vả chăng trẫm không hỏi ý kiến khanh, mà trẫm truyền lệnh! Hãy đi theo trẫm. Chúng ta sẽ làm một cuộc du ngoạn trong vườn thượng uyển. Ở đó chắc chắc chúng ta sẽ gặp một vài con vật chịu chơi với chúng ta.
Một giờ sau, đuổi hết kẻ tùy tùng, nhà vua và quan tể tướng đi sâu vào mấy con đường vắng vẻ giữa những bồn cỏ và những lùm cây rậm rạp.
- Không có một con chim nào – nhà vua phàn nàn trong khi đưa mắt tìm trong đám cành lá sum sê. – Lẽ nào chúng ta phải tìm đến tàu ngựa và chuồng chó mới gặp những con vật.
- Nhà vua nhìn tứ phía. Cuối cùng ngài trông thấy trong hồ hoa súng đang nở rộ có ba con cò đang khua mỏ có vẻ đang chuyện trò với nhau. Một con cò thứ tư trịnh trọng đi giữa mấy bụi cói để tìm ếch nhái. Măng-xo reo lên:
- Tâu bệ hạ, theo dáng điệu của mấy con cò này thần trộm nghĩ câu chuyện giữa chúng phải thú vị lắm!
Nhà vua hoan hỉ phán:
- Măng-xo, khanh là một bầy tôi trung thành và một người bạn đáng tin cậy. Chúng ta hãy biến thành cò nhé, ý kiến hay đấy! Nào ta hãy nhắc lại bằng cách nào chúng ta trở lại nguyên hình. Xem nào! Chỉ cần cúi đầu ba lần về phía mặt trời mọc và đọc ba lần câu thần chú “Ma-ta-bo” . Có gì dễ hơn thế!
Măng-xo thưa:
- Đấy là một trò trẻ con, tâu hoàng thượng.
Nhà vua rút trong túi áo ra cái hộp đựng đầy bột đen, lấy một nhúm và đưa cho quan tể tướng một nhúm. Cả hai cùng một lúc hít bột và nhắc câu thần chú
Tức thì họ biến dạng ngay. Những đôi chân dài màu đỏ, đôi cánh đầy lông vũ thay thế cho đôi chân và tay của họ. Khuôn mặt có râu vươn ra và trở thành một cái mỏ rất dài.
Nhà vua rất khoái liền nói với quan tể tướng đang lấy mỏ chải bộ lông cho mượt:
- Măng-xo, ta khen ngợi khanh đó! Khanh có biết là khanh đẹp và cái mỏ này rất hợp với khanh, hơn hẳn bộ râu của khanh không?
Măng-xo nghiêng mình khoái chí:
- Tâu bệ hạ, thần nghĩ rằng là hoàng đế hay cò, bệ hạ vẫn có cái dáng vẻ oai vệ, gương mặt tuấn tú khác người. Kẻ hạ thần tự hỏi không biết những con chim kia có mắc lừa nhận lầm chúng ta là đồng loại mà trò chuyện một cách tự nhiên không?
- Chúng ta hãy lại gần xem! – Nhà vua vội vàng nói và đi vài bước về phía những con cò. – Trẫm nóng lòng muốn biết tiếng nói của loài cò.
Chỉ còn hai ba bước với đôi chân lêu nghêu, nhà vua và quan tể tướng đã đến bên hồ. Họ nghe cò nói:
- Ái chà, bà Chân Đẹp thân mến! Hôm nay nước ngọt quá. Ếch cũng ngon làm sao! Này, mời bà hãy nếm xem có mùi thơm của bùn nên rất ngon miệng.
Bà Chân Đẹp là một con cò tơ có bộ lông trắng muốt. Bà ta đang cọ mạnh cái mỏ vào thân cây côi và trả lời:
- Thưa bà Mỏ Cứng, em không có ý nghĩ ăn liên hoan hôm nay. Em có nhiều việc phải làm! Em đến bên cái hồ này chỉ để tắm rửa điểm trang. Ngày mai, bố em có tổ chức một bữa tiệc, em phải nhảy múa và ca hát trước mặt quan khách. Em biết một điệu nhảy rất lý thú. Em xin biểu diễn để bà chị xem!
Cò tơ nhảy mấy bước ngắn và vừa trườn lên ngụp xuống vừa đập đôi canh, lại phồng cổ và đi núng nính một cách khôi hài khiến nhà vua và Măng-xo bật cười.
Tiếng động bất ngờ làm bầy cò giật mình vội vàng cất cánh bay thẳng
Ha! Ha! Ha!- vua Sát-xi cười chảy cả nước mắt. Ta chưa bao giờ được thấy một cảnh lý thú như thế này. Thật đáng tiếc là chúng ta cười quá to, không thì chắc chắc chúng ta sẽ được dự một buổi tập hát.
- Tâu bệ hạ, Măng-xo bối rối thưa, - bệ hạ còn nhớ tiếng thần chú để chúng ta trở lại nguyên hình người không? Đã năm phút rồi, thần cố nhớ lại mà không được, nhưng thần vẫn nhớ một câu trong bản viết: ”Trong suốt thời gian thay hình đổi dạng, phải cố gắng đừng cười, nếu cười thì câu thần chú sẽ bay biến mất trong ký ức “…và đấy là một sự thật, thần đã quên mất câu thần chú ấy rồi.
- Trời ơi, - nhà vua run rẩy kêu lên, - trẫm cũng quên mất rồi còn gì! Nào ta hãy cố tìm xem. Phải nghiêng mình ba lần về phía mặt trời và nhắc…
- Nhắc…nhắc…mu..ma..mô. – Măng-xo ấp úng một cách thất vọng. – Ma..mô..mu…
Quan tể tướng đáng thương vắt óc một cách bất lực và cũng vô hiệu lực nhà vua lục lọi trong trí nhớ ngoan cố của mình. Câu thần chú đã bay mất khỏi ký ức của hai người!
Vua tôi nghiêng mình hàng giờ về phía mặt trời mọc, điên lên vì thất vọng. Nỗi mệt mỏi đã làm cho họ choáng váng. Họ ngã lăn trên mặt đất.
- Hỏng mất! , - Nhà vua nói, - chúng ta sẽ phải làm cò suốt đời. Ôi! Nhân dân của ta, cung điện của ta, ta sẽ trốn tất để chạy theo sự hiếu kỳ điên dại. Ta thật là dại dột. Ta bị trừng phạt như thế này là đáng lắm. Ta thật không xứng với ngôi trời, ta chỉ đáng làm một con cò, một con cò thôi!
Măng-xo quẹt mỏ rên rỉ. Sát-xi đang cố tự trấn tĩnh thấy thế quát:
- Im đi, Ta hãy chịu nổi bất hạnh này mà chớ nên than vãn. Ta hãy còn sung sướng chán trong số phận hẩm hiu này. Đôi cách cho ta lướt tự do trong khoảng không gian vô tận. Bay lượn trên không, ta vẫn còn cái cảm giác đang chỉ huy, đang truyền lệnh. Khanh hãy nghĩ xem chúng ta còn có thể là con gì tệ hơn nữa nếu ta cao hứng ước khác đi. Giá khanh hóa ra cá thì sẽ bị tù tùng trong hồ, nếu là chuột thì khanh sẽ làm mồi cho mọi thứ cạm bẫy! Hãy lại đây, anh bạn đáng thương của ta, hãy đến cùng ta đỗ trên nóc nhà kia.
Trời tối rồi, sáng mai ta sẽ bay trên thủ đô yêu quý để xem thần dân ta chịu đựng cảnh không vua này như thế nào.
Măng-xo thở dài bay theo vua cò. Đêm tối trôi qua buồn tẻ đối với hai con chim mới.
Sáng hôm sau, vua tôi cò bay lượn trên thành phố Bát-đát, thỉnh thoảng kêu lên một tiếng thảm thiết. Những người qua đường lo lắng chỉ đôi chim và nói:
- Điềm gở rồi!
Chiều đến, vua tôi cò nhìn thấy cảnh náo động và nỗi đau khổ của dân chúng thành Bát-đát thì đoán biết tin nhà vua mất tích đã được lan truyền.
Đã nhiều lần, Sát-xi bay vào hoàng cung và làm cho quan lại và kẻ hầu hạ nhận ra mình. Nhưng ai chịu nghe một con chim chứ! Chỉ còn một cách: Phải nhẫn nại và tìm cách nhớ lại câu thần chú.
Vua cò cố gắng sống tự nhiên với cái lốt mới của mình để làm gương cho quan tể tướng. Đêm đến, vua dỗ trên cành cây và ngủ, ban ngày thì nuốt một vài quả cây có thể làm trôi qua được chiếc mỏ dài. Vua cò không buồn ăn thằn lằn và ếch.
Vua tôi sống khốn khổ như thế một tuần lễ thì một buổi sáng quang cảnh Bát-đát có vẻ như thay đổi. Phố xá nhộn nhịp hẳn lên. Cờ và tràng hoa dăng khắp nơi. Một đoàn binh lính có trống và kèn đi trước diễu hành qua các đường phố.
Ở giữa đoàn diễu hành có một đội lính hầu ăn mặc sang trọng hộ vệ một thanh niên. Người thanh niên ấy cưỡi một con ngựa rất đẹp đi trong tiếng hoan hô của đám đông.
Sát-xi giận dữ kêu lên:
- Thằng con của kẻ thù ta đó. Trời đất quỷ thần ơi! Thật đúng là Mi-ra, thằng con lão phù thủy Cát-nua rồi. Lão đã thề sẽ trả thù ta vì ta từ chối không tiếp tay cho lão để lão man trá hại vua láng giềng của ta. Măng-xo, chắc khanh còn nhớ lão nói gì.
- Than ôi! –Măng-xo chán nản nói, - tâu bệ hạ, lão ta thề sẽ làm cho bệ hạ mất ngôi.
Đậu trên ống máng tòa lâu đài, Sát-xi nhìn Mi-ra một cách khinh bỉ và nói:
- Ta hiểu cả rồi! Cái lão bán bột đen cho chúng ta là tay chân của Cát-nua. Chúng ta đã tự nguyện chui vào bẫy. Thật là ngu hết chỗ nói!
Măng-xo thở dài hỏi:
- Tâu bệ hạ, chúng ta làm thế nào bây giờ?
- Chúng ta hãy đi La Mác-cơ, - vua cò quyết định.
Có thể bên ngôi mộ của Đấng Tiên tri, chúng ta sẽ tìm thấy sự an ủi. Hãy lại đây, anh bạn trung thành cùng chung hoạn nan, vị trí của chúng ta không ở Bát-đát nữa!
Sau khi đã nhắm hướng, cả hai cất cánh. Họ bay lặng lẽ. Vì chưa quen quạt cánh trên không nên họ mệt lử. Khoảng hai hay ba giờ sau, Măng-xo thở hổn hển kêu van:
- Chúa thượng ơi, nghỉ đi là vừa…Thần không còn sức lơ lửng trên không nữa. Bệ hạ bay nhanh quá! Vả lại bây giờ trời đã tối rồi. Chúng ta phải tìm một nơi để trú ẩn.
Sát-xi cúi đầu nhìn. Dưới chân họ, trong một thung lũng xanh um có một tòa lâu đài gần sụp đổ. Sát-xi quyết định:
- Chúng ta hãy đến núp dưới cái cửa tò vò còn vững chắc kia, ta hãy nghỉ dưỡng sức trước khi bay qua sa mạc.
Hai con chim hạ cánh trong một gian phòng chỉ còn những cây trụ là nguyên vẹn. Những cánh cửa bị cạy bản lề nằm trơ trên mặt đất khiến cho gian phòng đó thông dễ dàng với phòng khác.
Sát-xi và Măng-xo mò mẫm đi trong bóng tối. Một vài gian phòng được bảo quản khá tốt còn giữ lại vài đồ đạc bày biện trong nhà và những tấm thảm treo trên tường. Thình lình Măng-xo ngăn Sát-xi lại và thì thầm:
- Chúa thượng có nghe thấy không? Xin ngày hãy lắng nghe! Hình như có tiếng khóc. Một quan tể tướng mà đi tin có ma quỷ thì thật là đần độn dù là tể tướng cò đi nữa, nhưng quả thật cái lâu đài này có ma đấy!
Nhà vua nghiêng tai nghe ngóng. Quả như Măng-xo nói, vua cò nghe rõ ràng có tiếng thở dài và những lời than vãn khiến ngài muốn lao ngay đến nơi ấy. Quan tể tướng can ngăn:
- Xin bệ hạ hãy nghe thần, đừng liều lĩnh! Cái tiếng ấy có lẽ nguy hại cho sự an toàn của ta. Đừng đến đấy, ngược lại chúng ta hãy chạy đi!
Măng-xo lấy mỏ cắp cánh của Sát-xi kéo lại nhưng dưới lốt chim nhà vua vẫn giữ một trái tim dũng cảm. Người vùng khỏi mỏ quan tể tướng và theo tiếng kêu than chạy đến một ngọn tháp đổ nát có nhiều hành lang đầy những đống gạch vụn
Một cánh cửa hé mở phía trước. Nhà vau đầy cửa bước vào. Nhưng tiếng nức nở nghe rất rõ. Măng-xo đã theo kịp. Hai người mở to mắt nhìn trong bóng tối.
Tiếng khóc rõ ràng là tiếng người, tuy nhiên trong tháp chỉ có một con cú to lớn đang đứng trên nền đất. Vua cò hỏi:
- Ai khóc đấy?
Cú ngoảnh mặt về phía hai chú cò, kêu lên một tiếng hoan hỉ và nói say sưa:
- Cò! Đúng là cò rồi! ta được cứu thoát rồi!
Sát-xi và Măng-xo sửng sốt: Cú nói tiếng người và lại nói thông thạo tiếng Ả rập nữa chứ. Sát –xi hỏi:
- Ái chà! Cú ơi mày khóc, mày nói được tiếng người! Phải chăng mày là nạn nhân của yêu thuật cũng như chúng ta đang đội lốt cò đây?
Cú lấy đầu cánh lau nước mắt. Nó thở dài và nghiêng mình rất cung kính chào Sát-xi rồi trả lời:
- Tôi không biết cò là ai, cò ạ, nhưng giọng nói của cò chứng tỏ cò là bạn của những người đau khổ. Người ta có tiên đoán cho tôi từ lâu là hạnh phúc lớn sẽ do những con cò mang đến cho tôi. Tôi kính chào sự có mặt của ngài với bao nhiêu hy vọng.
- Than ôi, - Sát-xi đáp – chúng tôi đang ở trong tình trạng khó mà giúp đỡ bạn được. Khi bạn biết rõ chuyện của chúng tôi, bạn sẽ thấy chúng tôi quá bất hạnh nên chỉ có thể tỏ lòng thương xót với bạn mà thôi chứ không làm gì được hơn.
- Rồi Sát –xi kể vắn tắt cho cú nghe chuyện không may của mình và tể tướng Măng-xo
Nghe kể xong, cú nói:
- Tôi thấy số phận của chúng ta ít nhiều có giống nhau. Ngài là vua, còn tôi là công chúa Lu-xa, con gái duy nhất của vua Ấn Độ. Lão Cát-nua, người đã lừa dối ngài một cách ghê tởm, đã xin vua cha cưới tôi cho Mi-ra, con trai lão. Cha tôi đã đuổi lão phù thủy khốn nạn ấy ra khỏi cửa, lão bèn trả thù. Lão trà trộn vào đám nô lệ của tôi, mặc y phục của một người trong bọn chúng. Một hôm, tôi bảo đầy tớ đem cho tôi một cốc nước hoa quả, lão bèn bỏ vào một nhúm bột phù phép vào cốc nước đó và từ đấy tôi phải mang hình dáng mà các ngày thấy đây. Trong lúc thấy tôi mất tích gia nhân kinh hoàng tìm kiếm tôi khắp mọi nơi thì lão mang tôi đi và bỏ tôi trong cái tháp đổ nát này. Lão còn trắng trợn nói với tôi: “Hãy ở đây. Khi nào có một người đàn ông dạm hỏi mày làm vợ, mày mới trở lại kiếp người! Ta rất yên lòng vì còn khướt mày mới gặp được điều may mắn đó. Chắc là mày sẽ chết già cô đơn, ai ai cũng xa lánh kể cả loài chim. Điều ấy sẽ làm cho ta hả lòng hả dạ vì đã trả được mối thù cha mày kiêu ngạo từ chối lời thỉnh cẩu của ta!”. Cú khóc và tiếp tục nói:
- Từ thủa ấy, tâu bệ hạ, qua nhiều ngày tháng, tôi sống trong khu tháp đổ nát này, chỉ có ánh trăng bạc là niềm an ủi, khuây khỏa cho nỗi bất hạnh của tôi. Số phận của tôi còn tệ hại hơn nhà vua nhiều vì sự xuất hiện của ngài đem hy vọng lại cho mọi người còn thấy tôi mọi người đều hãi hùng và ghê tởm1.
Sát-xi nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Thật là kỳ lạ! không phải ngẫu nhiên mà chúng ta gặp gỡ nhau, tôi nghĩ rằng cuộc đời của hai chúng ta có một quãng tiếp giáp thế nào đó!
Cú thở dài nói:
- Toi cũng nghĩ như thế. Chính lão phù thủy Cát-nua ấy bắt chúng ta chịu một số kiếp giống nhau. Nhưng các ngài sung sướng hơn tôi, các ngài có thể đi khắp thế giới! Các ngài định bay đi đâu vậy?
Sát-xi đáp:
- Đi hành hương ở La Méc-cơ và xin Đấng Tiên tri tế độ.
Cú lắc đầu, đôi mắt tròn của nó ánh lên một tia láu lỉnh:
- Tôi nghĩ rằng các ngài không cần phải đi xa như thế để tìm đấng tế độ. Tôi có cách cứu giúp các ngài và cũng để tự cứu mình.
Sát-xi và Măng-xo vội vàng hỏi:
- Cách nào?
- Hàng tháng Cát-nua và một số tên bộ hạ tụ tập trong một gian phòng của tòa lâu đài này. Chúng nó chè chén và kể cho nhau nghe những trò hiểm ác mà chúng nó đã giở ra với người ta để làm vui cho bữa tiệc. Có thể một thực khách nào đó sẽ nhắc lại cái câu thần chú mà các ngài quên rồi:
- Ôi! Công chúa kỳ diệu! – Sát-xi reo lên, lòng tràn ngập niềm vui…- Thật là nàng đã cứu chúng tôi. Nàng hãy mau mau chỉ gian phòng đó cho chúng tôi và cho biết ngay ngày giờ mà Cát-nua và bè lũ tụ tập để nhậu nhẹt. Tôi van công chúa hãy làm ơn…
Vua cò chắp đôi cánh, van nài cú nhưng cú trả lời với một giọng nghiêm trang
- Nếu tôi đưa ra một điều kiện không biết đức vua có hứng thú không?
Sát-xi nhanh nhảu trả lời:
- Tất cả mọi đề nghị của công chúa đều được chấp nhận trước, chấp nhận ngay từ bây giờ. Nào, công chúa nói xem, điều kiện gì nào?
Lu-xa có vẻ e thẹn, rụt rè mãi mới đáp:
- Cũng như các ngài, tôi muốn trở lại làm người. Tôi đã nói chỉ có một cách duy nhất giúp tôi thoát kiếp cú này là có người xin cưới tôi làm vợ. Vậy, muốn tôi dẫn ngài đến gian phòng bày tiệc thì ngài hoặc ông bạn ngài phải hứa với tôi là sẽ thành chồng tôi.
Vua cò kéo Măng-xo ra một bên nói khẽ:
- Ông bạn trung thành của ta ơi, thời cơ đã đến để khanh tỏ rõ lòng tận tụy của mình, khanh hãy hứa hôn với công chúa đi!
- Muôn tâu bệ hạ,  Măng-xo sợ hãi kêu lên, - Ngài định làm cho bà nhà tôi móc mắt tôi ra hay sao đấy? Ngài nên nhớ rằng tôi đã có vợ hơn nữa tôi là một lão già gắt gỏng và xấu xí. Còn ngài đang tuổi thanh xuân, diện mạo đẹp đẽ, thân thể cân đối và hơn tất cả là chưa có vợ. Trời hình như đã xếp đặt sẵn cho ngài kết duyên với một nàng công chúa xinh đẹp và trẻ trung.
- Ai nói khanh là nàng còn trẻ và xinh đẹp? – Nhà vua lơ đãng lấy mỏ vuốt mượt đôi cánh và đáp uể oải – Không đảm bảo chút nào cả! Quả là mua mèo trong bị.
Măng-xo trình gửi bằng một giọng quả quyết nhưng vẫn rất cung kính:
- Muôn tâu bệ hạ, điều mà thần có thể bẩm với ngài là dẫu thần có phải suốt đời làm cò, thần cũng cam chịu, thần không thể đính hôn với công chưa được. Thần biết tính cả ghen của bà vợ thần.
Cuộc tranh luận kéo dài thêm vài phút nữa. Măng-xo giữ vững ý kiến, cuối cùng nhà vua phải nhận cưới công chúa làm vợ. Hai bạn cò trở lại bên cú và nói ý kiến của họ.
Lu-xa rất vui mừng tuyên bố:
- Chúng ta không cần phải chờ đợi nhiều để thay đổi hình dạng nữa đâu. Đúng là hôm nay Cát-nua và bè bạn của lão ta tụ họp. Có lẽ giờ này bọn chúng đã ngồi vào bàn tiệc rồi. Các ngài hãy theo  tôi.
Hai con cò bước những bước dài, còn cú thì vỗ cánh vay gấp rút nhưng vẫn chậm vì vướng bvào những chỗ ngoặt. Sau khi vượt qua nhiều hành lang, Lu-xa chỉ một cánh cửa đã hư hỏng, qua các khe cửa hở, có thể nhìn thấy tất cả bên trong.
Nín thở, Sát-xi và Măng-xo dán mắt nhìn và lắng tai nghe ngóng.
Trong gian phòng đèn nến sáng choang có một cái bàn bày đầy những cao lương mỹ vị. Trên một cái bàn trong có tám người đã yên vị, Sát-xi dễ dàng nhận ra lão bán bột đen; lão đang kể cho các bạn nghe chuyện thay hình đổi dạng của vua Sát-xi và quan tể tướng Măng-xo.
Sát –xi rùng mình thầm nghĩ:
- Chúng ta đến vừa kịp! Nếu ta từ chối không kết hôn với công chúa hoặc để chậm thêm một phút nữa mới thuận thì câu chuyện của lão gian thương kia sẽ kết thúc mất rồi. Lạy thánh Ala ơn trên.
Sát-xi toàn tâm toàn ý lắng nghe không sót một tiếng. Những chuỗi cười giòn của các thực khách vang lên khi nghe câu chuyện của lão lái. Cát-nua bảo:
- Thật là tuyệt! Thật là lý thú! Thế cái tiếng phù phép gì ông đã bảo chúng nó?
Sát-xi và Măng –xo lo lắng, mồ hôi toát ra ướt đẫm cả lông.
- Chao! – lão bán hàng nói, - một tiếng la tinh rất khó, không dễ gì chúng nhớ lại được đâu: “Mu-ta-bo”… Thế là…
Hai con cò không thèm nghe thêm nữa! Chúng bay ra khỏi lâu đài rất nhanh đến nỗi cú phải cố gắng lắm mới khỏi mất hút.
Sát-xi cảm động vì sung sướng:
- Thưa công chưa, trước khi trở lại làm vua, tôi xin xác nhận đã hứa sẽ cưới công chúa làm hoàng hậu. Suốt đời, tôi sẽ không quên ơn công chúa đã cho tôi niềm vui hôm nay!
Hướng về phía mặt trời mọc, Sát-xi cúi đầu ba lần và nhắc lại ba lần câu thần chú đã tìm thấy: “Mu-ta-bo!”
Măng-xo cũng làm theo nhà vua. Lập tức sự thay hình đổi dạng được diễn ra. Nhà vua và quan tể tướng nhìn nhau mừng rỡ và ôm chầm lấy nhau.
Sau phút thổ lộ tình bạn, Sát-xi quay về phía cú. Ôi! Hạnh phúc! Đôi mắt nhà vua thấy nơi mà con chim ăn đêm vừa đứng là một nàng công chúa xinh đẹp khó bề tưởng tượng nổi. Xiêm y lộng lẫy càng khiến nàng rực rỡ bội phần, nhưng đối với nhà vua thì ánh sáng của đôi mắt, nụ cười dịu hiền trên môi nàng mới thật là trang sức vô giá.
Lu-xa đưa tay cho Sát-xi:
- Muôn tâu chúa thượng, chúa thượng có hối hận là đã trót hứa hôn với tiện thiếp không?
Nhà vua vừa hôn rối rít lên bàn tay công chúa vừa đáp:
- Chao ôi! Biến cố may mắn nhất xảy ra trong đời ta lại là việc ta biến thành cò và quên mất câu thần chú!
Không chậm trễ, nhà vua, công chúa và quan tể tướng lên đường trở về Bát-đát. Nhà vua đã tìm thấy cái túi đựng tiền, cả cái hộp bột đen trong túi áo. Nhờ thế, đến làng gần nhất, nhà vua mua ngựa và trang bị cho một đoàn tùy tùng để kéo vào thủ đô một cách đàng hoàng.
Trước đây, khi Mi-ra cướp ngôi, hắn loan tin nhà vua đã chết. Nay thấy ông vua nhân đức mà họ yêu kính lại trở về, dân chúng Bát-đát sung sướng vô cùng và đón tiếp người hết sức nồng nhiệt.
Một trong những công việc đầu tiên của Sát-xi là tóm lão Cát-nua và thằng con lão ta. Lão phù thuỷ bị treo cổ trên một ngọn tháp trong tòa lâu đài đổ nát. Về thằng con lão triều đình cho chọn một trong hai hình phạt: Hoặc là chết, hoặc là nhận một nhúm bột đen.
Nó nhận hình phạt thứ hai. Từ đó nó biến thành cò trong vườn ngự uyển, ngày ngày buộc phải chứng kiến cảnh hạnh phúc của người bị cha nó nó hãm hại ngày xưa.
Một lần nhà vua tâm sự với quan tể tướng:
- Khanh có nhớ cuộc đời cò của chúng ta không? Bây giờ trẫm có thể nói với khanh lúc khanh vươn cái cổ dài ngoẵng của khanh ra và khom lưng tận đất để cố nhớ câu thần chú mà chỉ lập bập: Mu..ma..mu., trông khanh buồn cười quá.
Thế rồi Sát-xi nhại lại điệu bộ thất vọng của quan tể tướng cò làm cho hoàng hậu và các hoàng tử, công chưa cười ngặt nghẽo. Quan tể tướng lão thành mỉm cười, nghiêng mình ghé vào tai vua nói nhỏ:
- Bệ hạ đừng đẩy thần đến bước đường cùng, không thì thẫn sẽ kể lại cho hoàng hậu nghe cuộc tranh luận gay go giữa vua tôi chúng ta để xem ai là người chịu lấy nàng công chúa cú; chỉ thiếu chút nữa là công chúa sẽ không là hoàng hậu như bây giờ đâu.
- Thôi được- Thôi được! Chúng ta hãy nói những chuyện khác, nhà vua lo ngại, vội đồng tình ngay.
Thương gia cao tuổi nhất cười vang về chuyện vua cò và nói:
- Ngài làm vui cho chúng tôi nhiều lắm vì câu chuyện của ngài. Cho nên tôi đề nghị là ở mỗi trạm nghỉ chân, mỗi chúng ta sẽ kể một câu chuyện mà người đó biết. Các ông nghĩ thế nào, ông Lơ-da, ông Muy-lê và ông nữa A-li-Xi-Xát?
- Chúng tôi đồng ý, - cả ba đồng thanh đáp – Dùng thì giờ nghỉ ngơi theo cách thể là hay lắm.
Vào lúc đó, người dẫn đường hối hả chạy lại thưa:
- Thưa quý ngài, người ta báo cho biết là có những kỵ mã khả nghi, chúng rất đông và hình như có khí giới cho nên tôi lo ngại lắm. Khi các ngài quyết định dừng nghỉ tại đây, tôi đã bảo thật với các ngài là chúng ta đang ở một nơi có nhiều đoàn lữ hành đã bị tấn công mà.
Các thương gia lo sợ nhìn nhau để tìm cách thoát thân, Riêng Xê-lim Ba-ruốt vẫn rất bình tĩnh, nói:
- Xin các ngài cứ yên tâm, Chúng ta đông đảo như thế này thì dăm ba tên cướp ranh phải kiêng dè chứ!
- Đâu có phải một tốp dăm ba tên, - người dẫn đường vội vã đáp. – Đây chính là đoàn đạo tặc của vua sa mạc Oóc-ba-xăng ấy mà.
- Tay Oóc-ba-xăng kia là ai vậy? –Xê-lim Ba-ruốt hỏi Ác-mét với một nụ cười kín đáo hiện trên môi.
- Một nhân vật kỳ lạ, - người lái buôn già đáp. Thật ra thì tay ấy không cướp giật của người ta, tay ấy chỉ đòi các đoàn lữ hành nạp tiền mãi lộ thôi. Ai vui lòng nạp thì chắc chắn được an toàn tiếp tục cuộc hành trình.  Còn về bản thân Oóc-ba-xăng thì quả là bí ẩn. Có mấy người nói đó là một người Pháp đã đoạn tuyệt với xã hội và bỏ đi làm tướng cướp như người ta đi ẩn tu. Về phần tôi, tôi vô cùng biết ơn ông ta.
- Biết ơn một tướng cướp ư, ông Ác-mét? – ba thương gia kia nhất loạt kêu lên – Có họa là điên hay sao?
- Tôi cũng lấy làm lạ về lòng biết ơn ấy, Xê-lim Ba-ruốt hơi giật mình nói:
Ác-mét vuốt chòm râu bạc nói:
- Đó là cả một câu chuyện dài, tôi sẽ kể cho các vị nghe trong một trạm nghỉ sau. Bây giờ ta dỡ trại và lên đường. Mặt trời sắp lặn, đi đường bây giờ tốt rồi, trăng còn sáng lâu để chúng ta đi một chặng dài.
- Nhưng thưa ngài, - người dẫn đường lo ngại đưa ý kiến, - ngài cũng thấy bọn kỵ mã đó chứ? Các bạn phu tải của tôi và tôi rất sợ rằng chúng tôi thuộc đoàn Oóc-ba-xăng.
- Làm sao bây giờ? Muy-lê hỏi, - Có lẽ chúng ta nên dừng lại kiên quyết chờ chúng đến, Xê-lim Ba-Ruốt lần thắt lưng lấy ra một vuông vài xanh điểm mấy ngôi sao đỏ và bình tĩnh nói:
- Hãy lấy cái này buộc vào một cán giáo và cầm đi lên đầu đoàn chúng ta.
Giọng nói của Xê-lim Ba-Ruốt đượm đầy uy lực nên được tuân theo tức khắc. Người dẫn đường nhận cây cờ mới tạo nên đó, đi lên trước và toàn đoàn rùng rùng kéo theo sau anh ta.
Trong khoảnh khắc người ta đã nhận thấy rằng sáng kiến của Ba-Ruốt mang lại hiệu quả ngay. Nhìn thấy lá cờ xanh, bọn kỵ mã khả nghi quay người phóng đi rồi mất hút trong khoảng xa. Bốn thương gia kinh ngạc, Ác-mét ngắm Xê-lim Ba-Ruốt rồi hỏi:
- Hỡi vị khách lạ, ngài là ai vậy? Ngài có quyền lực gì ghê gớm mà chỉ với một hành động đơn giản, ngài đã xua đuổi kẻ thù đi và giải thoát cho chúng tôi?
- Chao, có gì lạ lẫm đâu! –Xê-lim Ba-Ruốt mỉm cười đáp – Tôi thấy bọn kẻ cướp bắt tôi đã làm như vậy thì tôi làm theo như vậy chứ cũng chả hiểu cái huy hiệu kia có ý nghĩa gì. Thôi, chúng ta lại lên đường đi, các vị.
Đoàn lữ hành tiếp tục kéo đi. Ai cũng thấy nhẹ nhõm người vì được bình yên vô sự khi đã tưởng phải liều đánh nhau với một kẻ địch đông đúc đến thế. Họ vui vẻ vượt chặng đường này và khi dừng lại một lần nữa để ngủ thì tính ra chỉ còn hai ngày nữa là vượt qua sa mạc.
Hôm sau, tờ mờ sáng, họ lại lên đường cho đến khi trời trở nên quá nóng bức thì lại dừng để nghỉ trưa. Bốn thương gia cùng với Xê-lim Ba-Ruốc ngả lưng trên các gối tựa dưới bóng mát của chiếc lều vài và A-li Xi-xát bắt đầu kể
CHÚ LÙN MUỐC-CƠ
Ngày xửa, ngày xưa, ở Nít-xê, thành phố quê hương của tôi có một con người dị dạng, cao chưa đầy năm gang tay, người ta gọi chú là chú lùn Muốc-cơ.
Có lẽ khó tìm thấy một chú oắt con trông kỳ cục và ăn mặc buồn cười hơn chú lùn ấy. Các bạn hãy tưởng tượng một cái đầu to tướng đặt trên thân hình loắt choắt. Nhìn khuôn mặt thô kệch, hum húp kia, người ta khó mà đoán ra chú bao nhiêu tuổi, đang ở lứa tuổi hai mươi hay đã sáu mươi rồi vậy? Chú quấn trên cái đầu to tướng một chiếc khăn đồ sộ cho khuất những lọn tóc nửa nâu nửa trắng như cước.
Còn về y phục thì suốt bốn mùa chủ vẫn mặc độc một kiểu quần áo ấy, cho nên cần mô tả rõ ràng hơn. Chú mang một cái thắt lưng to bản, bằng ba thắt lưng thường, bó chặt thân hình đến tận nách. Hai chân chú bơi trong hai ống quần rộng gấp bốn lần. Chú khoác một chiếc áo khoác bé xíu chỉ có tên là áo khoác vì nằm gọn lỏn trên vai chú không che được gì hết. Hai bàn chân của chú lọt thỏm trong hai chiếc giày rất to, to đến năm bàn chân tí hon của chú ướm vào cũng vừa. Chú giắt một con dao to tướng trong thắt lưng và kéo lê nó theo như một cây trường kiếm.
Các bạn hãy nghĩ xem chú lùn ấy, trong bộ y phục nói trên liệu có tránh khỏi những cặp mắt xoi mói của tụi trẻ ranh chúng tôi ở cái thành phố Nít-xê này không?
Dạo ấy, chú lùn Muốc –cơ là nhân vật mà chúng tôi chờ đợi, là niềm vui của chúng tôi. Hàng giờ, chúng tôi rình xem lúc nào chú đi dạo mát trên sân thượng của ngôi nhà chú, một ngôi nhà tối tăm và buồn tẻ. Mặc dù người ta xếp chú vào loại giàu có, con người ấy sống cô đơn, không hề có khách đến thăm viếng, không có đầy tớ, xa lánh mọi người.
Tuy nhiên, cái ngày mà bọn trẻ ranh chúng tôi báo trước đã lâu với nau, coi như ngày hội, ngày ấy là ngày mà chú lùn Muốc-cơ đi ra khỏi nhà để mua sắm trong thành phố.
Theo thường lệ, mỗi tháng chú đi ra khỏi nhà một lần. Thích thú biết bao! Chúng tôi la ó, chạy nhảy xung quanh chú Muốc –cơ như một lũ điên, tung mũ lên cao và hét đến nhức óc.
Chú lùn Muốc –cơ. Chú lùn Muốc-cơ.
Muốc –cơ nghiêm trang chào chúng tôi và bình tĩnh đàng hoàng lê đôi giày cũ đi lên giữa những tiếng la ó và những chuỗi cười nhạo báng.
Chúng tôi tập hợp thành một đám tùy tùng ồn ào và hỗn láo để trêu ghẹo chú lùn Muốc-cơ. Phải thú nhận rằng, toi là đứa tếu nhất trong đám trẻ tinh nghịch thành Nít-xê.
Một hôm thấy chú lùn Muốc-cơ ra khỏi nhà, đáng lẽ tôi chỉ trêu đùa như những lần trước, nghĩa là xô đẩy hoặc kéo chiếc áo khoác của chú, tôi lại có sáng kiến đạp bàn chân của tôi lên gót giày chú lùn. Chúng tôi cười khoái trá khi thấy chú ngã chúi xuống đất. Tôi cười to hơn ai hết!
Nhưng tôi cụt hứng khi thấy chú Muốc –cơ đi một mạch đến gặp bố tôi và ở lại đó rất lâu. Cuộc thăm viếng ấy kéo dài. Tôi thu mình trong góc tường gần cánh cửa, lo lắng, theo dõi. Khi chú lùn ra cửa, tôi thấy bố tôi cúi chào chú rất lịch sự. Sợ bị trừng phạt, tôi không dám trở về nhà nhưng vì đói quá tôi lại phải mò về. Tôi đến trước mặt bố tôi, run sợ, khúm núm trông thật đáng thương.
Bố tôi nói:
- A! Mày đã về đấy à? Thằng oắt con vô lễ kia. Mày đã chơi khăm chú lùn Muốc-cơ. Tao sẽ kể cho mày nghe chuyện của chú đấy để mày biết kính nể chú và trước hết tao sẽ cho mày một trận đòn để giúp mày nhớ kỹ điều đó!
Bữa ấy, quả tôi no đòn. Mình mẩy ê ẩm, tôi vừa khóc thút thít vừa lắng nghe câu chuyện “Chú lùn Muốc-cơ”.
Tuy nghèo xơ xác, ông bố của Muốc-cơ rất được mến tin ở Nít-xê, Mười sáu tuổi, Muốc –cơ mồ côi bố, Chú không có một nghề nghiệp gì và cũng không có một nguồn thu hoạch nào cả. Lúc sinh thời, ông bố ít thương yêu chú và cũng không chú ý đến việc học hành của chú. Sau khi ông cụ mất, mấy người bà con thân thuộc không muốn bận rộn về chú lùn khốn khổn nên khuyên chú đi nơi khác để tìm cách xây dựng cơ nghiệp. Chú trả lời:
- Tôi cũng có ý định như thế nhưng chắc là chẳng ai thèm để ý đến tôi vì những bộ quần áo trẻ con này. Xin các bác cho tôi bộ y phục và con dao găm của bố tôi.
- Mày sẽ lút mất trong bộ quần áo ấy! – một người anh họ của Muốc-cơ vừa cười vừa nói. Vì lúc sinh thời, bố chú cũng là một người to lớn và khỏe lắm!
Muốc-cơ bảo:
- Tôi sẽ có cách.
Người ta giao cho chú bé những quần áo mà chú yêu cầu. Chú xén bớt chiều dài làm nên bộ y phục ngộ nghĩnh mà chúng ta thường thấy chú mặc đấy. Rồi chú cầm một chiếc gạy cố bước những bước thật dài lên đường đi xây dựng cơ nghiệp.
Chú đi trong hai ngày, chỉ lót dạ bằng quả cây hái ở dọc đường và chỉ dừng chân lúc quá mệt. Có khi một ý nghĩ chán nản len vào đầu óc chú, chú bé nhỏ, yếu ớt và nghèo khổ thế thì làm sao mà xây dựng nổi cơ nghiệp và cơ nghiệp là cái gì cơ chứ? Chú Muốc-cơ dù đã mười sáu tuổi vẫn còn ngu dốt và ngây thơ như một đứa trẻ!
Cứ đi, đi mãi như thế cho đến một hôm, chú nhìn thấy trước mắt mình cái cổng của một thành phố lớn. Chú đi vào. Người đi lại rất đông. Bi xô bên này, đẩy bên kia lát sau chú Muốc-cơ phải lánh vào một đường phố vắng.
Chú đói lắm và mệt lả. Trên các ngưỡng cửa, không có một nụ cười, không một lời hỏi han nào có thể an ủi chú. Chú gieo mình trên một trụ đá và thở dốc.
Bất thình lình một tiếng đẩy cửa làm chú quay đầu lại nhìn. Một bà già hiện ra bên cánh cửa gỗ nẹp sắt hé mở. Bà già gọi giọng the thé:
- Mèo con! Mèo con! Lại đây! Lại đây nào các con! Nào Mi-nét và Gơ-ri-xô-nô, nào Chân trắng, Phu-nơ, Mít-xti! Lại đây!  Nhanh lên nào! Hỡi lũ mèo thân yêu của ta! Cháo đã chín rồi kià.
Nghe giọng nói uốn éo khá lạ lùng ấy, Muốc-cơ thấy lũ mèo hình như kéo ra từ khắp nơi. Có những con đen, con nâu, con xám chạy, nhảy, lách vào.
- Cháo đã chín rồi! – chú Muốc-cơ đói lả nói một mình – Bà ấy rất tốt đối với lũ mèo, chắc cung cho ta ăn cháo.
Trong lúc vài con chó đến nhập bọn với lũ khách mèo, Muốc-cơ rụt rè bước vào nhà, theo chân một con chó xù và đôi tai dài đen nhánh. Dáng điệu tự tin của con chó khiến Muốc-cơ ngihx nó là một con vật thân thuộc trong nhà.
Chú Muốc-cơ bước vào gian phòng rộng lát gạch men. Ở đấy có những cái chậu đầy cháo để sẵn trên sàn nhà. Tiếng tợp cháo nổi lên đây đó.
Khi nhìn thấy Muốc-cơ, bà già cáu kính hỏi:
- Mày đến đây làm gì hử thằng bé kia?
Chú bé đói khát đáng thương nói:
- Xin bà tha lỗi cho cháu! Vì cháu nghe bà gọi lũ mèo, lũ chó vào, cháu nghĩ rằng có lẽ bà cũng sẽ vui lòng cho cháu xin một bát cháo. Cháu mồ côi và từ xa đến. Đã hai hôm rồi, cháu chỉ được ăn vài quả cây.
Bà già đáp lại một cách chua chát:
- Ta đầu giàu có để lo cho tất cả thiên hạ? ta cho bầy mèo ở trọ là vì ta yêu mèo, nhưng ta không cho tụi ăn mày đi ngang qua đây ăn ngủ nhờ đâu!
Muốc –cơ van nài:
- Ôi thưa bà, cháu xin cam đơn với bà rằng cháu không dám xâm phạm đến khẩu phần của lũ mèo, cháu cũng không dám lạm phần bà dành cho lũ chó. Cháu chỉ xin những thứ mà bọn chúng ăn thừa còn bỏ lại mà thôi!
Muốc-cơ nói rất nhỏ nhẹ đến nỗi bà già phải đồng ý.
- Ừ, mày bé nhỏ thế kia thì chỉ cần tí chút thức ăn cũng đủ sống. Vả lại ta nghĩ ra rồi: Ta không còn trẻ nữa, trong tương lai ta cần một người giúp đỡ ta săn sóc những con vật này. Ta sẽ trả công cho mày, nếu mày bằng lòng. Về khoản tiền  công chúng ra sẽ bàn sau. Mày phải chăm sóc sáu con mèo của ta, còn những con mèo hàng xóm chỉ đến trong giờ ăn. Mày phải chải lông, xức nước hoa, thay nơ, ruy –băng ở cổ chúng, coi cho chúng chơi, canh giấc ngủ và nấu cháo bột cho chúng. Mày có chịu làm những việc ấy không?
Muốc cơ trả lời ngay:
- Những công việc ấy đối với cháu không phải là quá khó!
- Vì quá đói nên dẫu phải nhận lời hầu hạ quỷ Xa-tăng chú cũng phải nhận để có miếng ăn!
- Cháu có phải săn sóc bầy chó không ạ?- Muốc-cơ hỏi thêm và chỉ một con chó nhỏ có đôi tai dài đen đang ngồi trên hai chân sau và nheo mắt nhìn chú bé.
- Có chứ! – bà già đáp – nhưng ít hơn, bởi vì lũ mèo được ta yêu quý, chúng là những con cưng của ta.
Muốc-cơ vào giúp việc cho bà Ha-va-si, bà già có cái mũi quặp và con mắt nhìn của một phù thủy. Suốt ngày chú bé bận rộn, hết con Mi-nét đến con Gơ-ri-xô-nô rồi con Phu-nơ và con Chân trắng. Thỉnh thoảng chú dừng lại đến vuốt ve bạn chú, con chó con có đôi tai đen thường quấn quýt bên chân chú, đi theo chú khắp mọi nơi.
Một tháng trôi qua khá bình thản đối với Muốc –cơ. Nhưng bà Ha-va-si không hề đả động đến khoản tiền công của chú bé. Thức ăn của chú là món cháo y hệt như món cháo của lũ mèo. Đó là sự đền công duy nhất đối với chú bé
Hơn thế nữa, lũ mèo mau chóng trở nên không chịu nổi! Chúng nó lấy vuốt cào rách những thảm treo tường, những nệm đi-văng. Chú bé hết la mắng lại dỗ dành nhưng vẫn vô hiệu.- Chúng vẫn phá hoại tất. Nhiều lần vì chúng mà chú bé bị quở trách. Bà Ha-va-si hét lên:
- Chính mày, thằng bé ác nghiệt kia! Mày làm rách lụa bọc cái trường kỷ này! Chính mày đã làm vỡ cái lọ kia! Chính mày đã kéo đứt đường ren này! Mày lại còn cả gan đổ tội cho lũ mèo nữa ư? Này, nói dối này! Này, vu khống cho những con vật vô tội kia này!
Khi chú bé Muốc-cơ hiểu rằng roi vọt có thể là tiền công duy nhất mà bà Ha-va-ssi trả cho chú, chú nghĩ đến việc từ chức chăn mèo.
- Ta phải rời cái nhà buồn tẻ này thôi! – một hôm chú nói một mình trong lúc bà Ha-va-si đi vắng- Người ta không nói gì đến việc trả tiền công cho ta thì ta phải tự liệu lấy. Bà Ha-va-si chắc có của chìm cất giấu đâu đây, có thể trong căn buồng này, vì bà ta thường đóng cửa ở một mình trong đó và chưa khi nào bà ta cho ta bước vào. Ừ, nhưng làm thế nào để ta có chìa khóa buồng nhỉ?
Chú Muốc-cơ vắt óc suy nghĩ. Vừa lúc ấy, con chó nhỏ có đôi tai đen mon men đến gần và cắn ống quần chú, kéo chú vào trong buồng bà già. Chú nâng tấm phên che lên và thấy trước mặt mình cánh cửa hé mở. Đấy là cửa vào căn buồng chứa những bảo vật.
Chú bé Muốc-cơ vội vã bước vào Nhưng chú cảm thấy thất vọng thật sự! Chú mong tìm thấy những đống vàng hay những cái lọ to tướng đựng đầy ngọc quý thì ở đây chỉ có những quần áo cũ và một vài vật kỳ lạ được chế tạo tinh xảo.
Trong số những vật lạ đó có một cái bình rộng vành long lanh các màu cầu vồng. Muốc-cơ đưa tay cầm lên để ngắm gần hơn nhưng khi những ngón tay của chú vừa chạm đến cái bình thì chú lại vô ý để nó rơi vỡ tan.
“Bà Ha-va-si sẽ không bao giờ tha thứ sự sơ xuất này. – chú bé lo lắng thầm nghĩ,- Bây giừo việc ần thiết là phải rời khỏi nơi đây và đi cho thật nhanh! Có phải thế không chó con?” – Chú bé nói thêm trong khi vỗ vỗ lên đầu bạn nó
Để trả lời, con chó sủa một tiếng rồi chồm lên một đôi giày to tướng nằm trong góc buồng. Nó tha đôi giày đến bên chân chú bé. Một tiếng sủa thứ hai báo cho biết nó vừa tìm được một vật mới và ngay sau đó nó đến trước mặt bạn nó với một chiếc gậy rất đẹp nằm ngang trong mồm.
Chú Muốc-cơ kêu lên:
- Ổ! Một ý kiến rất hay! Chiếc gậy này sẽ giúp ta trong chuyến đi. Còn đôi giày này so với giày của ta thì tốt hơn nhiều!. Cảm ơn chó con tốt bụng! Tiền công của ta được đền bù nhờ những vật chú tìm ra đó!
Chú bé phấn khởi xỏ chân vào giày, bịt khăn và khoác áo. Sau khi vuốt ve lần cuối cùng con chó nhỏ đang ngồi trước cửa và nhìn chú đi khuất, chú nhanh chóng rời xa ngôi nhà, khua vang chiếc gậy bịt sắt trên mặt đường.
Chỉ cần mấy giây, chú đã đi hết con đường khá dài mà ở dầu kia là ngôi nhà của bà Ha-va-si. Vừa leo lên dốc, vượt quá vùng ngoại ô trong một phút, chú đã thấy mình ở trên mỏm đồi chắn trước thành phố.
- Ái chà! Nhanh quá! – chú reo, rồi mệt lử, chú ngồi phịch bên lề đường – Hình như đôi giày của ta tự nó đi chớ không phải đôi chân ta đi. Thật là kỳ lạ!
Phải chăng đây là đôi hài thần? – chú bé thầm nghĩ: “Để xem nào! Ta hãy đi nữa xem nào!”
Chú Muốc-cơ tiếp tục cuộc hành trình và nhận thấy đúng là khi đã được khởi động thì đôi giày của chú tự đi với tốc độ phi thường. Chú bé rất sung sướn. Lần đầu tiên trong đời chú làm chủ một vật sẽ giúp chú đắc lực trên đường đi tìm hạnh phúc.
Chiều đến, để dừng lại, chú đã phải kêu lên nhiều lần: “Họ nào! Họ nào!” y như chú phải họ những con ngựa hăng tiết. Chú uống nước ở một con suối nhỏ uốn khúc ở cạnh đường đi, rồi chú nằm dài trên đám rêu dưới chân cây bạch dương mà ngủ.
Chú mơ chăng? Chú thấy quỷ hiện chăng? Không rõ- nhưng thình lình trong giấc ngủ chú nhìn thấy con chó nhỏ với đôi tai dài đen đã từng khuyên bảo chú một cách quái lại trong nhà bà Ha-va-si. Con chó nói với chú:
- Cậu bé Muốc-cơ thân thương, đôi giày không những chỉ giúp cho cậu đi nhanh mà còn giúp cậu đi đến nơi nào cậu muốn. Cậu chỉ cần quay ba lần trên gót chân mình thì sẽ được đưa đến nơi mà cậu ao ước. Còn chiếc gậy xinh đẹp của cậu thì đó là một chiếc đũa thần giúp cậu tìm thấy những kho tàng của báu chôn vùi dưới đất. Nơi nào có chôn vàng, gậy sẽ gõ ba tiếng lên mặt đất, nơi có chôn bạc, gậy chỉ gõ có hai tiếng.
Chú bé Muốc-cơ tỉnh dậy khi ông mặt trời đã chiếu những tia nắng chói chang.
- Ta hãy thử một điều mà con chó nhỏ đã mách
Muốc-cơ nghĩ thế rồi mang giày. Chú xoay ba vòng trên gót chân phải.
Công việc không phải dễ dàng lắm đâu! Đôi giày quá to so với chân bé nhỏ của chú lùn, vì thế chú đã bị ngã nhiều lần trong lúc tập. Tuy vậy chú không hề nản chí và cuối cùng chú biết cách quay chân một cách ổn thỏa.
- Tôi muốn đến một thành phố lớn gần nhất! – chú ước nguyện như thế trong lúc xoay người trên gót chân.
Thế là chú cảm thấy được chở qua không gian với một tốc độ váng óc mà chú ngẩn ngơ khi thấy mình đứng giữa một nơi ồn ào, trước cổng một tòa lâu đài tráng lệ. Chú Muốc-cơ nghĩ:
“Chắc hẳn một ông vua ở trong đó! Muốn xây dựng cơ nghiệp thì ta chỉ cần cầu xin nhà vua. Nhưng ta cầu xin cái gì đây? Ta không biết một nghề gì cả! Từ ngày xa quê hương, ta chỉ biết đi mà thôi…Đi! ừ, đấy cũng là một nghề chứ sao! Một ông vua đang cần người chạy tin truyền lệnh và đôi giày của ta sẽ cho phép ta trở thành người giao liên nhanh nhất của nhà vua”
Chú Muốc-cơ nhảy lên khoái chí và thế là nhờ phép màu nhiệm của đôi giày chú chạm trán một võ quan oai vệ của nhà vua. Viên võ quan hét tướng lên nguyền rửa:
- Thằng nhãi con khốn nạn này! Mày chỉ bằng con bọ chó mà dám leo vào một viên đại úy cấm vệ quân
Chú bé vội vàng lên tiếng:
- Thưa ngài, xin ngài thứ lỗi cho cháu. Cháu muốn hỏi ngài một điều: Cháu muốn xin việc làm với ngài quản lý của đức vua để…
- Mày xin việc làm? A! A! A! Nhìn xem thằng oắt con kia! Việc làm của mày ư? Mày có thể hy vọng được nhận làm diễn viên trong nhà hát múa rối để phục vụ các vị hoàng tử và công chúa nhỏ tuổi. Ừ, mày đã muốn gặp ông quản lý hoàng gia thì mày hãy vào cái cửa này, hơi khuất trong tòa nhà bên trái kia. Nhưng mày đừng ở đấy lâu bởi vì ông quản lý không dễ tính như tao và ông ấy cũng không thích người ta đùa đâu!
- Xin cảm ơn ngài đại úy.
Chú Muốc-cơ ngắt lời ông võ quan một cách lễ phép và cúi chào rất nghiêm chỉnh chú tiến vào tòa nhà viên quản lý ở.
Nghe lời khẩn cầu của chú bé, viên quản lý cười ngất và nói:
- Mày gặp may đấy, hôm nay ta vui, nếu không ta sẽ đã hất mày ra khỏi lâu đài này! Mày mà đòi làm giao liên cho hoàng thượng à? Chân mày ngắn ngủn thế kia thì chạy làm sao chứ?
Chú Muốc-cơ khẩn khoản van nài:
- Tôi van ngài! Xin ngài hãy thử sức tôi trước khi từ chối. Tôi cảm thấy có thể đọ sức với người giao liên giỏi nhất của hoàng thượng.
Viên quản lý cười lớn tiếng:
- Mày khiêm tốn quá nhỉ? Tuy nhiên thỉnh thoảng cũng phải giải trí một chút. Chúng ta sẽ tổ chức cuộc thi. Nào, bác đầu bếp đâu, đây là một ông khổng lồ nhỏ tuổi cần phải săn sóc đặc biệt trong khi chờ đợi giờ xuất phát của cuộc chạy đua. Tôi sẽ tâu ngay với hoàng thượng.
- Chú Muốc-cơ vui vẻ đi theo bác đầu bếp to béo và trước những món ăn ngon lành chú quên ngay chuyện hôm qua chú đã phải nhịn đói và đi bộ một quãng đường dài.
Viên quản lý đến tìm nhà vua. Ông thuật lại lời khẩn cầu của chú lùn và tâu trình cuộc chạy đua này có thể là một trò vui lớn cho vua và hoàng tộc. Nhà vua rất thích được giải trí bèn phán:
- Một ý nghĩ tuyệt diệu, hãy dựng những khán đài ở trong đồng cỏ ở phía cuối vườn ngự uyển cho triều đình xem. Phái sứ giả đi truyền tin cho dân chúng trong thành phố biết để dự cuộc vui sắp tới. Trong khi chờ đợi, đừng để con người bé nhỏ kia thiếu thốn.
Viên quản lý tâu:
- Xin bệ hạ hãy yên lòng. Thần cũng đã lo liệu chu đáo.
Trong lúc sứ giả loan báo tin vui qua các phố phường và ngoại ô thì nhà vua bái tin trước cho các hoàng tử và công chúa về cuộc vui đã định. Nhờ thế, khi đến giờ xuất phát, dân chúng tụ tập trên bãi cỏ rất đông. Họ chen chúc, họ chồng chất lên nhau để nhìn cho rõ.
Chú Muốc-cơ xuất hiện. Người giao liên cừ nhất của nhà vua cũng vừa đi tới. Chú Muốc-cơ muốn chạy thi với người ấy ư? Mặc dù viên quản lý đã có lời khuyên can chú, chú vẫn tuyên bố một cách oại vệ:
- Một đấu thủ xoàng không xứng với tôi
Chỉ nhìn hai đấu thủ đứng cạnh nhau nhà vua, triều đình và cả dân chúng đều cười rộ lên, tiếng cười kéo dài mãi không thôi. Người giao liên của triều đình to cao với những bắp chân chắc nịch càng làm cho chú lìn với cái đầu to dị hình, dị tướng hơn! Y phục của chú, đôi giày của chú khôn thích hợp với cái nghề giao liên mà chú ước ao. Đức vua cười chảy cả nước mắt khi nhìn thấy đôi chân bé tý lọt thỏm trong đôi giày rộng thênh thang. Ngài phán bảo: - Hãy đem đôi giày khác cho thằng điên tội nghiệp này!
Chú Muốc-cơ lo lắng kêu nài:
- Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ cho phép, thần quen dùng đôi giày này rồi! Thiếu nó thần không thể đi hay chạy được!
Nhà vua nhún vai phán:
- Thôi được! Hãy làm theo ý muốn của nhà ngươi, con người tự phụ kia! Cho lệnh xuất phát!
Công chúa A-ma-đa, con gái đầu lòng của đức vua vẫy chiếc khăn quàng và hai đấu thủ phóng lên như những mũi tên được bắn ra
- Người vô địch môn chạy lúc đầu chạy nhanh hơn, dẫn đầu, nhưng chú Muốc-cơ đuổi kịp rồi vượt lên. Đôi giày chú bước thoăn thoắt với một tốc độ cực nhanh. Chú Muốc-cơ về tới đích trong lúc người kia chỉ mới chạy được nửa chừng.
Mọi người đã hồi hộp theo dõi cuộc chạy thi và chiến thắng của chú Muốc-cơ bây giờ làm cho họ phấn khởi. Chú được hoan hô nhiệt liệt!
Trong lúc chú bé tươi cười và chững chạc quỳ trước mặt nhà vua thì người truyền lệnh:
- Bé Muốc-cơ Trẫm phong nhà ngươi là “đệ nhất giao liên” của vương quốc. Nhà ngươi sẽ là cận thần của trẫm, được ăn tại bàn các sỹ quan trong cung điện này và hàng năm được nhận hai trăm đồng tiền vàng.
Chú Muốc-cơ say sưa với niềm vui mới! Ngày hôm ấy là ngày đẹp nhất trong đời chú bé. Chú tìm được những lời chân thành để cảm tạ nhà vua.
Từ đó chú sống một chuỗi ngày thần tiên. Chú được hưởng đầy đủ ân sủng của nhà vua và ngài tin chú hoàn toàn. Nhờ đức tính liêm khiết, cần cù, và thận trọng và cũng nhờ đôi giày có phép lạ, chú hoàn thành tốt nhiều công tác bí mật và quan trọng.
Nhà vua càng tin yêu chú Muốc-cơ bao nhiêu thì người ta lại càng ghen ghét chú bấy nhiêu! Không phải chỉ có những giao liên của triều đình ghen với chú mà tất cả những võ quan trong hoàng cung đều ganh ghét “cái thằng oắt con đã chiếm được độc quyền sủng ái của nhà vua”, họ bảo vậy. “ Giá trị duy nhất của nó là biết chạy nhanh!”. Họ thầm thì với nhau, họ tìm đủ mọi cách để làm cho đức vua bớt tin yêu chú Muốc-cơ. Nhưng họ thất bại! Chú Muốc-cơ bản tính rất tốt. Chú không tìm cách trả thù. Chú muốn tranh thủ mọi người bằng cách giú đỡ họ và làm cho họ yêu mến chú. Chú suy nghĩ về cách làm để đạt được mục đích ấy.
Chú để ý thấy vàng làm chủ được người ta và làm cho người ra sung sướng. Chú tự nghĩ:
- Ta sẽ đem vàng cho những đứa ganh ghét ấy. Chắc là chúng sẽ thương yêu ta!
Chú nghĩ đến chiếc gậy thần. Chú có nghe đức tiên đế đã cất giấu trong lâu đài một số vàng trong lúc đất nước bị xâm lược. Trước khi băng hà, người không có thời giờ, để báo cho thái tử-bây giờ là nhà vua đang trị vì- biết nơi cất giấu. Chú Muốc-cơ đi tìm kho của quý ấy khắp nơi.
Người ta thường gặp chú cầm gậy trong tay, lui tới trong các hành lang, các gian phòng trong cung điện, và trên các bồn hoa, các lối cỏ trong vườn ngự.
Một hôm chú đã tìm thấy trong vườn ngự ở một xó hầu như hoang phế, có một cây tầm xuân cao lớn với những cánh hoa màu hồng đang nở. Tìm đến gốc cây hoa thì đột nhiên gậy thần gõ ba tiếng xuống đất.
Muốc –cơ tự nhủ” “Vàng đây rồi!”
Chú làm dấu chỗ ấy và tối đến, khi chú đoán giờ này mọi người trong lâu đài đã ngủ say chú trở lại gốc cây tầm xuân, mang theo một cái cuốc và một cái xẻng.
Chú bé quá nên công việc đối với chú quả thật là quá nặng nhọc! Tuy vậy, sa hai giờ cố gắng, chú cảm thấy lưỡi cuốc va phải một mặt bằng cừng bằng kim loại ở sâu hơn ba tấc. Chú moi rộng lỗ và thấy một cái tráp bằng sắt. Chú mở nắp. Trong tráp có một cái lọ đựng đầy vàng.
Cái lọ quá nặng nên chú Muốc-cơ bê không nổi! Chút nhét những đồng vàng đầy các túi, trong thắt lưng và trong ái khoác rồi chú trở về lâu đài. Nếu không có đôi giày thần chú chẳng bao giờ đủ sức bước đi với một gánh nặng như thế nhưng đôi giày …chú rất khỏe nên chú trở về gian buồn an toàn.
Chú cất giấu chỗ vàng trong các gối đệm của đi văng và sáng hôm sau chú bắt đầu phân phát cho các quan chức trong lâu đài.
Chú Muốc-cơ khờ dại thay, chú không biết rằng người ta quen vong ân bội nghĩa, hơn cả ghen tị nữa và không phải nhờ vàng mà tìm được những người bạn tốt!
Những võ quan thấy chú Muốc-cơ phân phát vàng càng ghen ghét chú tột độ. Người này hỏi người kia:
- Nó lấy vàng ở đâu ra nhỉ?
- Nó là một tay làm bạc giả hay nó ăn trộm của đức vua-viên thủ quỹ Ác-ca chêm vào.
Tay vừa nói đó lại chính là người vẫn thường không ngần ngại đánh cắp trong kho vàng của vua. Quan bồi rượu trong hoàng cung kết luận.
- Bây giờ là lúc phải báo với đức vua
Vài ngày sau, trong lúc rót rượu cho nhà vua, ông ta có những cử chỉ buồn đến nỗi nhà vua phải hỏi lý do. Ông ta vờ ứa nước mắt thưa:
- Muôn tâu hoàng thượng, thần rất buồn vì Muốc-cơ được hoàng thượng sủng ái còn lũ thần thì hầu như chẳng có nghĩa lý gì ở đây! Không những quan hầi chúng tôi mà cả các hoàng thân cũng thế. Thật vậy, trong các hoàng thân không có ai được ban nhiều vàng như thằng Muốc-cơ trâng tráo đó.
- Ta không hiểu nhà người nói gì? – Nhà vua phán
- Ta chỉ cho Muốc-cơ hai trăm đồng tiền vàng, khanh cũng nhận suýt xoát như thế1
Quan hầu rượu tâu:
- Muôn tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng hãy hỏi viên quản lý, viên thủ quỹ, bác đầu bếp, người sẽ thấy số vàng mà Muốc-cơ vung tay vượt quá xa con số tiền lương của nó.
Rất ngạc nhiên, nhà vua cho điều tra ngay và đã xác định chú Muốc-cơ tiêu pha quá nhiều so với số lương của chú! Người nghĩ rằng Ác-ca có lý khi tố cáo Muốc-cơ ăn cắp của nhà vua. Người ra lệnh bắt giữ chú Muốc-cơ và nế có thể thì bắt quản tang.
Tối hôm ấy, chú Muốc-cơ trở lại kho vàng vì chú đã tiêu hết số vàng đã moi trước. Chú vừa nhét những đồng tiền vàng trong áo khoác và chuẩn bị lắp cái lỗ thì bọn lính gác tóm cổ chú.
Người ta giải chú đến gặp đức vua. Nhà vua giận dữ vì bị đánh thức trong giấc ngủ say. Ngài hăm họa chú giao liên một cách dữ dội. Ngài lên án chú đã ăn cắp vàng cuả hoàng gia và chôn dưới đất.
Chú Muốc-cơ tự bào chữa ráo riết:
- Muôn tâu hoàng thượng, thần thề là chẳng chôn gì hết. Thần chỉ đào lên thôi. Thần tìm thấy trong lọ này một kho vàng. – Chú nói thêm và chỉ cái lọ và cái tráp mà người ta vừa đem đặt dưới chân nhà vua.
- Gớm chưa! –Ác-ca nhăn nhở nói. – Muôn tâu bệ hạ, thần tin chắc người ta đếm số vàng đựng trong lọ này, người ta sẽ tìm lại được phần lớn số vàng mà công khố đã bị mất.
Chú Muốc-cơ giận dữ hét lên:
- Tôi không phải là một thằng ăn trộm!. Tôi không hề lấy gì trong công khố
Nhà vua truyền lệnh:
- Hãy dẫn nó đi và xiềng nó lại! Tội trạng của nó nặng lắm vì nó đã được ta ưu đãi bao nhiêu
Trong lúc chú Muốc –cơ rầu rĩ nằm trong ngục và than trách về sự phản phúc của loài người thì viên thủ quỹ Ac-ca mang cái lọ đầy vàng trút ra vốc từng vốc trên tay. Số vàng này đảm bảo cho lão được yên lành và giàu sụ với số vàng lão đã lấy trộm bởi vì nó phá tan mối hiềm nghi về sự quản lý gian dối của lão.
Lão tìm thấy dưới đáy lọ mảnh giấy tự tay đức tiên đế viết và ký, truyền lệnh cho người tìm thấy kho vàng đem trả ngay cho nhà vua trị vì. Lão thiêu hủy mảnh giấy đó. Trong lúc ấy, chú Muốc-cơ vừa run sợ vừa khóc than vãn:
- Làm thế nào bây giờ? Nếu ta thú thật là nhờ có gậy thần mà ta tìm được kho vàng thì nhà vua sẽ tịch thu chiếc gậy thần mà chắc cũng chẳng tha tội cho ta! Ôi! Đôi giày yêu quý của ta, ước gì giày có thể chở ta đi xa cái ngục này! Nhưng ta bị xích chặt quá đến nỗi không quay được ba vòng theo phép thuật, ta chỉ còn chờ chết! Trời ơi! Trời ơi!
Suốt đêm chú Muốc-cơ trằn trọc suy nghĩ về số phận của mình. Cuối cùng chú tự nhủ, dù sống thiếu chiếc gậy thần và đôi giày muôn dặm cũng còn hơn chết. Chú nhờ xin nhà vua cho chú được gặp riêng và chú thú thật nhờ đâu chú đã phát hiện ra kho vàng trong vườn ngự uyển.
Nhà vua chưa tin chú nên đòi thử phép lạ của chiếc gậy thần. Vừa cho bí mật chôn một đống vàng dưới đất và báo chú Muốc-cơ hãy đi tìm. Muốc-cơ tìm ra ngay đống vàng.
- Hãy cho người đến thắt cổ viên thủ quỹ của ta – nhà vua truyền lệnh – Còn về phần mày, Muốc-cơ  trẫm tha tội chết như đã hứa.
Chú Muốc-cơ phủ phục dưới chân vua để cảm tạ. Nhưng nhà vua phán tiếp với một nụ cười độc ác.
- Mày sẽ suốt đời trong ngục, nếu mày không cho trẫm biết nhờ phép gì mà mày chạy nhanh như thế! Cho tới lúc này, ta chỉ ngỡ mày là một người tài giỏi, nhưng đã có phép lạ trong chiếc gậy thì chắc trong việc đi nhanh của mày cũng có phù phép hãy chọn lấy thú nhận hay là ở tù chung thân!
Chú Muốc-cơ hết lời van xin nhưng vô ích! Chú buộc phải thú nhận lúc đi nhanh là nhờ có đôi giày thần. Tuy nhiên, về bí mật phải xoay ba vòng trên gót chân thì chú giữ miếng không nói đến.
Muốn thí nghiệm về đôi giày ngay tức khắc nhà vua bèn mang giày và đi vài bước trong vườn
Thế là chú Muốc-cơ được trả thù! Đôi giày lôi nhà vua chạy thất điên bát đảo đến nỗi mệt lử và cuối cùng ngã xuống bất tỉnh.
Khi nhà vua tỉnh lại, ngài hét lên:
- Cút đi thằng nhỏ kia! Ta không muốn gặp lại mày nữa! Nếu ngày mai người ta còn thấy mày lảng vảng trên đất đai của ta, ta sẽ giao mày cho đao phủ. Còn chiếc gậy và đoi giày từ nay là của ta. Nào, hãy cút đi cho nhanh.
Hoàng sợ, chú bé Muốc-cơ lấy hết sức lực, vắt chân lên cổ mà chạy! May thay vương quốc không rộng lắm, cho nên sáng hôm sau khi mặt trời mọc lên thì chú đã vượt biên giới từ lâu.
Chú mệt quá, đói xỉu đi và khát nước đến chảy cả cổ. Khi nhìn dưới rặng lá xanh có một con suối nhỏ, chú sung sướng thở phào nhẹ nhõm. Chú uống nước suối cho đỡ khát rồi chú đi men theo dòng suối. Chú đến giữa một khu rừng đã đẵn gỗ có một thảm cỏ mượt mà. Đây đó có mấy cây vả to đẹp trĩu quả. Chú Muốc-cơ tự nhủ: “Ta nằm đây đánh một giấc đã. Lúc thức dậy, ta sẽ nghĩ xem ta nên làm gì đây! Loài người độc ác quá!. Ta muốn xa lánh mãi mãi. Có lẽ tốt hơn hết là cứ để cho chết đói”. Chú nhắm mắt, thở dài rồi thiếp đi.
Bụng đói meo, ít lâu sau chú Muốc-cơ tỉnh giấc. Những quả vả chín mọng đu đưa trên đầu chú. Chú hái một bọc to và ăn ngon lành! Chú nói một mình:
- Chà ngon tuyệt! Không, chớ nên để cho mình chết đói! Cách chết ấy không hợp với ta chút nào nhất là khi ta có những quả vả tuyệt ngon để ăn. A! Bây giờ thì ta khát nước. May quá, con suối ở gần đây thôi.
Chú cúi mình soi bóng trong dòng nước trong veo và bỗng kinh hãi lùi lại! Hình ảnh của chú hiện trên mặt nước không giống như trước! cái mũi bây giờ to bự, to theo những kích thước quái gở, còn đôi tai thì dài ra ít nhất là hơn nửa thước.
Chú vừa khóc vừa kêu gào:
- Trước kia, bé nhỏ và còm cõi, ta chưa đã xấu xí hay sao? Nay trở thành kinh tởm như thế này nữa! Bây giờ ta có đôi tai lừa, tai của một con lừa thực sự!
Chú nằm bệt trên đất thất vọng. Chú kêu la, chú lấy tay đấm vào đầu. Chú than thở, rên xiết hàng giờ rồi dần dần trở lại bình tĩnh. Chú triết lý:
- Xét cho cùng, ta bị như thế này là đáng kiếp thôi. Ta đã xử dự với tụi đố kỵ và nhà vua y như một con lừa, không hơn không kém!
Để xua tan nỗi buồn, chú đi thơ thẩn trong rừng, cái đói lại đến! Chú lại ăn quả vả. Và ở đây đủ giống đủ loại, nhiều vô kể, chỉ mất công chọn thôi!
Ăn no, cảm thấy khỏe ra và vui vẻ chú nghĩ rằng có lẽ cuộc đời dành cho chú những ngày tươi đẹp và không nên cho là đã thất bại nhanh quá như thế trên con đường đi tìm hạnh phúc. Chú cam nhận những nét xấu xí mới xuất hiện trên mặt mình. Chú nghĩ:
- Kệ kiếp này, mặt ấy! Biết bao người có mũi to chứ! Còn về đôi tai thì ta có thể cuộn lại quanh đầu và giấu trong chiếc khăn bịt đầu.
Chú đưa tay lên làm thử nhưng ngạc nhiên và sung sướng nhận thấy đôi tai đã trở lại như thường. Chú chạy vội ra suối. Cái mũi của chú cũng trở lại như cũ, chú nghĩ:
- Có lẽ do những quả vả ta vừa ăn! Những quả mới này thuộc một giống khác. Ái chà! Không phải trong tay ta đã nắm được một cách làm giàu rồi sao?
- Được lắm! Và vì ta đã hiểu biết loài người cho nên từ nay ta sẽ khôn hơn!
Chú Muốc-cơ hái một mớ cành cây mềm dẻo đan hai cái rổ cho dễ mang. Chú lót lá cây vào rồi chú chất đầy hai rổ vả mà chú đã ăn. Thế rồi, đội hai rổ vả trên đầu, chú trở lại con đường vào vương quốc mà chú vừa trốn khỏi.
Vừa đến hoàng cung, chú Muốc-cơ đứng rình trước cổng với một cái rổ đựng đầy vả, thứ vả mà chú đã ăn lần đầu. Chưa đến mùa, trái cây còn hiếm vì thế chú Muốc-cơ nghĩ rằng bác đầu bếp sẽ không từ chối mua những quả vả chín mọng và rất đẹp để dọn lên bàn ăn của nhà vua.
Chú tính toán không sai tý nào. Khi bác đầu bếp rời hoàng cung để mua sắm, bác dừng lại trước rổ vả của chú Muốc-cơ.
- Vả ngon quá!-bác reo lên- ta mua cả rổ cho mày. Mày muốn lấy bao nhiêu? Chú bé Muốc-cơ chỉ đòi giá phải chăng. Sau khi nhận tiền, chú tìm chỗ ẩn náu. Chú không đi xa lâu đài để có thể biết hết những sự kiện sắp xảy ra.
- Chú không bị thất vọng vì chờ đợi. Khi bác đầu bếp vừa dọn những quả vả của Muốc-cơ lên bàn ngự thiện thì mọi người đều kêu lên một tiếng: “Ồ” tán thưởng. Những viên quan háu ăn đều tình người ra. Nhà vua vượt xa tất cả…
Người muốn chính mình chia vả cho các thực khách để được phần còn lại nhiều hơn. Người chia hai quả cho mỗi hoàng tử và mỗi công chúa, một quả cho các bà mệnh phụ và các quan thượng thư và người ăn một cách ngon lành số quả còn lại.
Sau vài phút, công chúa A-ma-đa hét lên trong khi nhìn đức vua:
- Muôn tâu phụ vương, người làm sao vậy? Người có mệt không ạ?
Tất cả những người dự tiệc đang bận rộn với món tráng miệng đều ngẩng lên nhìn. Một giây phút kinh hoàng khó tả: Cái mũi và hai tai của nhà vua to quá! Vả chăng ai đã ăn quả vả đều có cái mũi và đôi tai dài hơn bình thường. Hễ ăn nhiều quả vả chừng nào thì mức dị dạng lại tăng lên chừng ấy!
Làm sao tả được cơn thịnh nộ của nhà vua! Những tiếng la hét của người đã đến tai chú Muốc-cơ và chú khoái chí quá chừng
Những hôm sau, một dòng người dằng dặc không ngớt diễu hành trong cung điện. Đó là những thày thuốc từ các nơi trong vương quốc và từ nước ngoài đến. Triều đình đã mất hàng tấn các loại thuốc nước, thuốc bột, thuốc viên nhưng vô hiệu. Người ta thử dùng phẫu thuật, nhưng cũng không ăn thua. Hễ cứ cắt đi, mũi và tai lại mọc y như cũ.
Chú bé Muốc-cơ nghĩ rằng đã đến lúc chú cần xuất hiện
Với số tiền đã thu được về khoảng bán quả vả, chú mua một chiếc áo dài đen và một bộ râu giả rồi cải trang. Không ai có thể nhận ra chú dưới lốt đó. Chú tự xưng là một danh y đi ngang qua vương quốc và cho báo với đức vua như thế. Chú mang một cái túi đựng loại quả vả đã giúp chú trở lại với khuôn mặt bình thường.
Chú thay đổi giọng nói và bảo với các võ quan vào tâu với đức vua rằng chú sẽ chữa được cho nhà vua cái bênh làm cho người buồn phiền và cũng sẽ chữa lành cho cả triều đnh.
Khi nhà vua nghe thuật lại lời cam kết ấy, ngài phán:
Ôi, thôi! Biết bao danh y đã phải đốt sách thì anh này quả thật tự phụ khi nghĩ rằng mình sẽ thành công nơi mà những người khác thất bại
Tuy  vậy người ta cũng đưa ông bác sỹ bé nhỏ đến yết kiến nhà vua và triều đình
Ông bác sỹ bé nhỏ nhận thấy trên nét mặt các bệnh nhân là họ ít tin ở tài trị bênh cứu người của ông ta.
Giọng cục cằn, nhà vua hỏi:
- Nhà người mang cái gì trong túi này?
Ông bác sỹ trịnh trọng đáp:
- Tâu hoàng thượng, đó là thuốc chống độc mà đức vua cần.
Đức vua lại hỏi:
- Nhà ngươi tính tiền công thế nào?
- Một đồng vàng về một cái tai hoàn nguyên hình. Hai đồng vàng với một cái mũi được trả lại kích thước cũ- Chú Muốc-cơ vừa trả lời vừa đưa một quả vả cho một bà mệnh phụ
Hiệu quả trông thấy ngay tức khắc, tai và mũi của bà ngắn dần lại trông thấy. Mọi người đổ xô đến nhận những quả vả.
Muốc-cơ cố gắng để khỏi bật cười và tuyên bố:
- Quý vị hãy yên lòng! Tôi có đủ thuốc cho mọi người. Nhưng phải trả tiền trước khi nhận thuốc. Đấy! Tốt lắm!
Nhà vua cố kiềm chế để không lao mình đến bên ông bác sỹ tài tình như các người khác và lo lắng nhìn rổ vả cứ vơi dần. Cuối cùng, rời khỏi ngai vàng người làm hiệu cho Muốc-cơ theo người vào trong buồng để châu báu bạc vàng.
Chú Muốc-cơ đã bỏ vào trong túi những đồng tiền vàng vừa thu được thay cho những quả vả.
Nhà vua quay về phía Muốc-cơ truyền lệnh:
- Hãy lựa chọn trong kho báu này thứ mà ông thích, ông bác sỹ lừng danh ơi. Ta sẵn dàng cho ông cái gì quý nhất của ta miễn ông cứu ta khỏi tật nguyền.
Chú Muốc-cơ với dáng điệu trang nghiêm đi một vòng trong gian buồng rộng. Bất thình lình cặp mắt chú sáng lên! Chú nhảy một cái, xỏ chân và đôi giày rất nhanh và la lên trong lúc nhà vua sửng sốt:
- Đây là cái bảo vật duy nhất mà ta muốn nhà ngươi trả lại cho ta, hỡi tên vua vô liêm sỉ! hãy giữ mãi cái mũi to lớn và đôi tai lừa của nhà ngươi. Điều đó sẽ nhắc cho nhà ngươi nhớ đến hành động tàn ác và bất công mà nhà người đã thi thố với thằng bé Muốc-cơ vô tội này!
Chú nói xong, giật bộ râu giả ném dưới chân nhà vua, quay ba vòng trên gót phải đôi giày thần và ra lệnh:
- Hãy đưa ta về quê hương của ta, thành phố Nít-xê
Từ dạo đó, chú bé Muốc-cơ sống ở Nít-xê giàu có nhưng cô độc. Kinh nghiệm cho chú thấy rằng đi lại, giao thiệp với thiên hạ chẳng có gì hay!
Bố tôi nói thêm khi kết thúc câu chuyện:
- Chơi với trẻ con cũng thế! Nhưng bố nghĩ rằng từ nay con và các bạn con sẽ không chế nhạo chú lùn Muốc-cơ nữa. Con hãy hứa với bố điều ấy. Nếu không…
Tôi vội vã hứa với bố điều mà người yêu cầu. Và từ đó chú lùn Muốc-cơ được tất cả bọn tôi cúi chào sát đất y như chào một ông quan lớn
Thưa các ngài, đó là câu chuyện độc nhất mà tôi biết “chuyện chú lùn Muốc-cơ”
A-li-Xi-át kể xong, đoàn lũ hành lại đi và cuối cùng đã vượt qua sa mạc
Các thương nhân khao khát cành cây lá xanh tươi từ lâu nay, bây giờ gặp lại thì reo mừng chào đón. Bước chân ngựa, chân lạc đà, đều nhanh hẳn lên và khi dừng lại buổi tối thì đoàn cắm trại ngay bên cạnh giếng Biếc-kên-hát, nghĩa là cách Lơ –Kê-rô chưa đầy ba giờ đường
- Tối nay là tối cuối cùng chúng ta ngồi cùng chiếu với nhau, - Xê-lim Ba-ruốt nói với Ác-mét, thương gia cao tuổi nhất. – Đến mai, chúng ta sẽ phân tán ra mọi nẻo trong thành phố cũng như trong cuộc đời.
- Những giây phút chúng ta sống bên nhau trong hành trình này sẽ mãi mãi tươi mát trong lòng chúng ta. – Ác-mét vừa vuốt chòm râu dài vừa nói – Vả chăng, sao chúng ta lại không nối tiếp cuộc giao du rất tốt đẹp ở buổi đầu này cơ chứ  hỡi bạn Xê-lim Ba-ruốt?
- Vâng, sao lại không chứ? – mấy thương gia khác đồng thanh hưởng ứng – Chúng tôi chịu ơn ngài nhiều lắm! Không có ngài, không có sáng kiến của ngài trương lá cờ lạnh lùng ấy lên thì của cải của chúng tôi đã trở thành mồi ngon cho đoàn cướp Oóc-ba-xăng
Xê-lim Ba-ruốt mỉm cười thay lời đáp, chàng hỏi Ác-mét:
- Ngài đã tỏ ý không tán đồng cái tiếng đồn về sự hung bạo của Oóc-ba-xăng, tôi mạo muội xin hỏi ngài vì sao vậy?
- Tôi sắp nói đấy, Ác-mét bảo và ngồi xuống chiếc gối, - Mời các bạn ngồi đi, bởi vì câu chuuyện này dài đấy. Và vì xảy ra với những người thân yêu nhất của tôi, tức là con trai và con gái của toi cho nên các bạn hiểu rằng đối với Oóc-ba-xăng, lòng tôi cảm nghĩ khác hẳn bất cứ một thương gia nào ở Lơ-Ke-rô.
- Nhưng thôi, chuyện đó thế này:

CHUYỆN NÀNG PHÁT –MÉT
Các bạn hầu hết đều biết Mu-ta-pha là con trai lão, và Phát-mét em gái nó. Anh em chúng nó thương yêu nhau như thế nào chắc các bạn đều biết rõ
Cách đây hai năm, nhân ngày sinh nhật thứ mười sáu của con bé, Mu-ta-pha có tổ chức một cuộc liên hoan để mừng em Phát-mét thân yêu của nó
Nó mời tất cả bạn bè của em gái nó và bày biện ở trong vườn những món ăn và bánh ngọt hấp dẫn. Lão làm chủ tọa buổi họp với niềm vui khó tả. Thật là thú vị khi ngắm những khuôn mặt rạng rỡ của bọn trẻ
- Bố ơi, Mu-ta-pha thưa – kho trời tà bóng thì ánh nắng dịu đi. Nếu bố cho phép, con sẽ đưa Phát-mét và các bạn của em dạo chơi trên biển bằng chiếc thuyền của chúng ta
Cô gái reo lên:
- Hay quá, hay quá!
Thấy dáng điệu của chúng dễ thương lão phải nhận lời. Lão dặn đi dặn lại Mu-ta-pha phải cẩn thận, thế rồi bọn chúng đi xa dần.
Vài giờ sau, con lão trở về một mình, ướt như chuột, mặt tái xanh và mệt lả. Nó phủ phục dưới chân lão khóc nức nở không nói nên lời.
Nhờ những thanh niên đi theo nó nên lão mới biết được chuyện gì vừa xảy ra
Các cô gái rất thích chuyến đi du ngoạn nên nài Mu-ta-pha đi xa hơn, đến tận các mỏm đá cách bờ biển vài dặm. Ở đó chắc sẽ được ngắm cảnh tuyệt đẹp của hoàng hôn trên mặt biển. Mu-ta-pha miễn cưỡng chiều bọn họ vì nó đã nghe nói có một chiếc tàu cướp biển thường lui tới trong vùng. Nỗi lo lắng của nó lại càng tăng khi thấy con thuyền của mình lại đi khá xa bờ biển
Cuối cùng, để được yên tâm, nó ngừng chèo và tuyên bố dứt khoát với cô em gái là phải trở về bến
Không còn kịp nữa, Nó vừa nói dứt lời thì một chiếc xuồng chở đầy người mang khí giới xuất hiện
Xuồng vòng quanh mũi đất. Chẳng mấy chốc xuồng đã ngăn cách khách du ngoạn với đất liền và chặn đường về của bọn họ
Thấy vậy, các cô gái sợ hãi và tuyệt vọng la ó ầm lên. Khó mà bảo nổi các cô giữ bình tĩnh. Mu-ta-pha nói cho các cô rõ là nếu có các cử chỉ rối loạn, các cô sẽ làm đắm thuyền. Không ai chịu nghe lời nó. Khi chiếc xuồng của bọn cướp cặp vào chiếc thuyền do con trai lão lái, Phát-mét và các bạn của nó đều nhảy mạnh qua một bên để tránh. Chiếc thuyền mất thăng bằng, chìm tức khắc.
Nhiều thanh niên ở trên bờ đã thấy rõ hành động của chiếc xuồng cướp biển. Họ vội đến nơi xảy ra tai nạn để kịp cứu vớt những cô gái dại dột
Nhưng hỡi ơi! Vẫn thiếu mất hai người trong bọn họ. Đó là Phát-mét xinh đẹp và dịu dàng của lão cùng Dô-ra-ít cô bạn gái thân thiết của nó. Mu-ta-pha đã có những cố gắng tuyệt vọng nhưng tụi cuố biển đã chiếm được hai cô gái. Tính mạng của Phát-mét và Dô-ra-ít đang bị đe dọa.
Nhận được tin này và thấy trước mắt lão Mu-ta-pha quỳ im lặng, mặt tái nhợt, lão quá tức giận, giơ quả đấm trên đầu nó và kêu lên:
- Đồ khốn nạn, Vì mày mà con gái tao mất tích! Vì mày mà tao mất hết niềm vui và sự an ỉu trong những ngày tuổi già. Cút đi! Ta đuổi và nguyền rủa mày! Mày sẽ không có hạnh phúc, không được nghỉ ngơi nếu mày chưa đem được Phát-mét về cho ta. Ta nguyền rủa mày.
Mu-ta-pha hét lên một tiếng thê thảm, nhưng lão nào có nghe gì! Lão lấy chân đạp và cái trán bơ phờ của nó. Đau khổ quá nên lão ở lì trong phòng, bị ám ảnh bởi những ý nghĩ đen tối về số phận ghê rợn của Phát-mét
Tuy vậy, Mu-ta-pha dần dần trở lại bình tĩnh. Lời nguyền rủa bất công của lão làm cho nó có thêm nghị lực và nó tự nhủ hình phạt ấy quá nặng đối với tội lỗi của nó. Nó tự hứa sẽ tìm được Phát-mét và cả nàng Dô-ra-ít thân yêu của nó.
Thật vậy, Mu-ta-pha có một cảm tình nồng cháy với cô bạn của em gái mình. Đã hai lần nó muốn bày tỏ nỗi lòng với lão về dự định xin kết hôn với cô ấy nhưng nó vừa nới được vài tiếng lão đã ngăn lại và bảo nó:
- Bố mẹ của Dô-ra-ít đều nghèo! Dòng dõi của bọn họ không môn đăng hộ đối với nhà ta. Bố cấm con, không được yêu nó.
- Các bạn ơi, phải chăng ở mọi lứa tuổi người ta đều phải học cách sống. Lão ngờ là Mu-ta-pha sẽ nghe lời lão, từ bỏ ý định cưới Dô-ra-ít ấy thế mà ý nghĩ đầu tiên của nó là cứu Dô-ra-ít cùng một lúc với em gái nó
Nó vội vã thu xếp hành lý và dò hoi hành trình của chiếc tàu biển. Nó được biết chiếc tàu này chuyên buôn bán nô lệ và phiên chợ lớn về việc buôn bán này sẽ mở ở Bát-xô-ra trong vài ngày nữa. Nó quyết định đi ngay vào thành phố. Không có tàu đi Bát-xô-đa nó bèn đi đường bộ.
Hành lý nhẹ nhàng, nai nịt cẩn thận, nó lên đường trên lưng một con ngựa hay, mang theo vũ khí tốt cùng một số tiền lớn.
Nó đi được bốn ngày đường nghĩa là một nửa lộ trình thì bất thình lình nó bị bốn người cưỡi ngựa xông đến đánh.
Trong chốc lát, nó biết là nó phải đối phó với những tên cướp và tự nhủ tính mạng sẽ không bị uy hiếp nếu biết cách bỏ tiền ra đúng lúc. Nó nói:
- Hãy cầm lấy tất cả vàng của tôi, nhưng các ông hãy làm phước cho tôi xin con ngựa, tôi đang bận và..
Bọn họ trả lời cục cằn:
- Mày sẽ trình bày với thủ lĩnh. Chúng ta chỉ được lệnh dẫn mày đến trình với chủ tướng.
Mu-ta-pha kinh ngạc hỏi:
- Thủ lĩnh của các ông nắm được lộ trình của tôi ư?
- Oóc-ba-xăng biết bất cả- bọn họ đáp lại vẻ đầy kính phục với chủ tướng
Cái tên ấy lóe lên như một luồng ánh sáng trong tâm tư Mu-ta-pha. Ở Át-ca-ra người ta nói rất nhiều về đầu lĩnh của bọn cướp thường bắt hành khách nộp tiền nhưng vẫn đảm bảo tính mạng cho họ. Một tia hy vọng len vào ý nghĩ của thằng con tôi. Nó không kháng cự nữa mà ngoan ngoãn đi theo những người kia. Sau hơn một giờ phi ngựa họ đến doanh trại của những người sống ngoài vòng pháp luật đó. Doanh trại đóng trong một thung lũng hẹp phủ cỏ dày và có những cây rậm rạp rủ bóng xuống một con suối nước trong vắt. Có khoảng hai chục chiếc lều trang trí rất sang trọng xếp theo hình bán nguyệt. Tiếng đàn và tiếng hát vang lên trong nhiều lều.
Một đàn lạc đà và ngựa bị xích chân đang gặm cỏ.
Mu-ta-pha được dẫn đến một cái lều lộng lẫy chắc chắn là chỗ ở của tên cầm đầu. Một lão già bé nhỏ, nước da rám nắng và láng bóng với những nét độc ác và nham hiểm khiến Mu-ta-pha cảm thấy khó chịu. Nó tự nhủ:
- Nếu đó là Oóc-ba-xăng thì đời tôi thế là hết! Người ấy là sự tàn bạo hiện hình!
Nhưng ngay tức khắc nó được yên lòng
- Thủ lĩnh đâu? – một người dẫn nó đến cất tiếng hỏi
Lão già bé nhỏ và ghê tởm ưỡn người trên mấy chiếc gối, trả lời:
- Thủ lĩnh không ở đây, tôi thay.
- Nhưng ai sẽ ra lệnh cho chúng ta bây giờ? Chúng ta phải làm gì với tên này? Phải giết nó hay để nó nộp tiền chuộc mạng?
Lão già nhỏ bé tiến đến gần Mu-ta-pha và bắt đầu nhìn ngắm nó với niềm vui độc ác. Lão ta đứng nhún chân, nhổ nước bọt vào mặt nó và sắp sửa bạc đãi nó hơn nữa thì bức màn che cửa vào lều được vén lên, nhường chỗ cho một người trẻ và đẹp bước vào
Con trai lão thường nhắc cho lão nghe nhiều lần về sự xuất hiện của con người ấy – con người mặc y phục lộng lẫy và oai vệ mà thoạt trông thấy ai cũng phải kính nể. Thấy người ấy nó liên tưởng đến chuyện “Nghìn lẻ một đêm” vì những đường nét của con người xa lạ này mang vẻ oai nghiêm kỳ diệu
- Có chuyện gì xảy ra thế? – người ấy cau mày hỏi – Hát-xan, tại sao mày dám cư xử như vậy đối với một tù binh?
- Tôi nghĩ rằng…tôi tưởng –Hát-xan ấp úng
Một tên cướp giải thích:
- Ông ta nói là ông ta thay thế thủ lĩnh
- Đồ vô liêm sỉ -Oóc-ba-xăng kêu lên (vì chính ông ta đấy) và xông đến lão già bé nhỏ - Hãy đi cho khuất mắt ta, nếu không thì mày sẽ chịu số phận định dành cho tên tù binh này! Chủ tỉnh Xu-li-ê-ca – ông ta nói thêm trong khi nhìn rất nghiêm khắc thằng con trai lão, còn Hát-xang thì đã sợ hãi chạy khỏi lều – mày biết tại sao mày ở đây chứ? Lương tâm mày chắc đã mách cho mày biết rằng mày rất xứng đáng với hình phạt đang đợi mày.
- Thưa ngài …Oóc-ba-xăng, Mu-ta-pha trả lời, ngạc nhiên và lo lắng – tôi không phải là chủ tỉnh Xu-li-ê-ca tôi không hiểu tại sao có sự nhầm lẫn như thế được? Tôi là con trai ông Ác-mét, thương gia ở At-ca-ra. Tôi đang đi tìm em gái và vị hôn thê của tôi vừa bị một tàu cướp biển bắt đi.
- Hãy chấm sứt những lời dối trá – Oóc-ba-xăng cục cằn nói – Tao sẽ cho mày gặp một người đã biết mày rất rõ. Hãy đến đây, Xê-lu-i-na
Một bà già bước vào lều ngay tức khắc. Bà ta nhìn Mu-ta-pha với con mắt hằn thù.
- Bà có nhận ra người này không? – Oóc-ba-xăng hỏi
- Nó chối không nhận là chủ tỉnh
- Nó nói dối đấy, thưa Đại vương- bà già nói giọng chua chát. – Tôi xin thề trên mộ Đấng tiên tri là chính nó đấy! Xin Đại Vương hãy giết nó đi, như thế mới thỏa vong linh của con tôi đã chết oan uổng
Oóc-ba-xăng quay sang Mu-ta-pha nói một cách khinh bỉ
- Chủ tỉnh khốn nạn! Mày thấy chưa? Có khó gì mà không vạch được mặt mày! Ta sẽ không làm bẩn dao găm của ta vì máu của mày đâu nhưng ngày mai, lúc bình minh, ta sẽ buộc mày vào đuôi ngựa của ta và mày sẽ chết như thế!
Một tiếng cười rít lên. Đây là tiếng cười của Hát-xan. Nó lấy làm thú vị về số phận buồn thảm của con người đã làm cho nó bị quở. Mu-ta-pha cảm thấy tính mạng của nó thế là đi đời không có một lời van xin, chống cãi nào có thể khiến mọi người thấy rõ họ lầm lẫn
- Ôi bố ơi – nó đau đớn thì thầm –lời nguyền rủa của bố đè nặng lên đầu con! Em Phát-mết thân thương, nàng Dô-ra-ít yêu dấu, ta vĩnh viênc mất hai em rồi.
Khi những người lính canh đã đưa nó đi đến đẩy mạng nó ra phía cửa lều thì Mu-ta-pha chạm trán một tù binh mới đến có ba tên cướp áp giải
- Ôi! – nó kêu lên kinh ngạc. Nó ngỡ nhìn thấy chính nó trong gương soi bởi lẽ người này giống nó một cách đặc biệt. Oóc-ba-xăng và những người có mặt đều sững lại vì kinh ngạc. Cuối cùng Oóc-ba-xăng hỏi:
- Trong hai người, ai là thủ lĩnh Xu-li-ê-ca?
- Chinh ta đây! – người mới đến nói một cách kiêu hãnh. Ta không sợ mày đâu, đồ kẻ cướp. Nếu mày đụng đến ta thì hãy coi chừng cái đầu của mày và của bọn lâu la dưới trướng mày sẽ bị treo trên giá cho mà xem!
- Số phận của mày đã được quyết định. Mày đã hứa là để cho bọn chúng ta nghỉ ngơi thoải mái trên lãnh thổ của mày rồi mà không giữ lời, mày đã bắt làm tù binh một người trong bọn chúng ta. Mày phải chết! Không có một lời đe dọa nào có thể ngăn cản ta hành động theo lẽ công bằng của ta. Mày đến đây thật là đúng lúc.
Ông ta ra hiệu dẫn tên tù binh đi, rồi rút dao găm cắt đứt những sợi dây trói Mu-ta-pha. Ông ta nói:
Người khách lạ, hãy tha thứ cho ta vì đã lầm lẫn anh với thằng chủ tỉnh khốn nạn kia! Nhưng thật khó mà phân biệt vì hai người giống nhau quá chừng. Mời anh hãy ngồi trên các gối dựa này. Trời sắp tối rồi. Chúng ta hãy dùng bữa tối. Trong lúc đó anh hãy kể cho ta nghe tại sao chiều nay anh lại đi trên con đường ấy, trong lúc mọi người của ta đang mai phục chờ tên chủ tỉnh.
- Thưa ngài, - Mu-ta-pha kính cẩn van cầu –đội ơn ngài có lòng chiếu cố nhưng xin ngài đừng giữ tôi ở bên ngài lâu hơn nữa! Nếu tôi không đến Bát-xô-ra kịp thời để ngăn cản việc bán em gái tôi và Dô-ra-ít làm nô lệ, nếu tôi mất cả hai người này, tôi sống cũng bằng thừa
- Hãy yên lòng, - Oóc-ba-xăng nói –Sáng mai lúc mặt trời mọc ta sẽ dẫn anh đến một con đường tắt đi Bát-xô-ra chỉ trong một ngày rưỡi. Hãy ăn uống và nghỉ ngơi cho lại sức. Con ngựa của anh cũng cần nghỉ ngơi như anh.
Mu-ta-pha nghe theo lời Oóc-ba-xăng. Mệt lử và đói lả, sau một bữa ăn thịnh soạn, nó nằm trong lều nghỉ ngơi yên tĩnh.
Có tiếng noi thì thầm rất gần làm nó tỉnh dậy trước khi mặt trời mọc, Nó lắng tai nghe ngóng Oóc-ba-xăng đứng trước cửa lểu và Hát-xan thưa trình với ông ta một cách nóng nảy:
- Ngài không thấy chăng, thưa thủ lĩnh? Ngài để cho thằng ấy sống thì thật là nguy hiểm cho chúng ta quá! Nó có thể phản bội và đến Bát-xô-ra nó sẽ kể tội với ông chánh án việc chúng ta trả thù tên thủ lĩnh Xu-li-ê-ca. Xin ngài cho tôi giết nó. Tôi chỉ cần một mũi kiếm chính xác là đủ khử nó. Nó đang ngủ.  Như thế chúng ta sẽ bịt đầu mối và không phải lo lắng về sự thóc mách của nó.
Với một giọng khinh bỉ và tức giận. Oóc-ba-xăng ra lệnh:
- Câm mồm ngay đi. Hát-xan! Tại sao nhà ngươi nghĩ đến việc vi phạm luật tiếp khác? Nếu Mu-ta-pha không là người lương thiện như ta đoán thì ta cũng phải bảo vệ anh ta dù cho tính mạng ta có bị đe dọa đi nữa! Hãy đi đi, mày là con rắn độc, ta nói cho mày biết trước là con dao găm của ta đang động đậy trong vỏ đó.
Mu-ta-pha đã dậy. Oóc-ba-xăng vào trong lều nói:
- Cầu cho sự yên tĩnh đến với anh, anh bạn ạ. Đã đến giờ xuất phát. Hãy ăn món kem hoa quả này trước khi đi. Ta sẽ dẫn bạn đến con đường vào thành phố Bát-xô-ra.
Vài phút sau, hai người cưỡi ngựa đã băng qua một khu rừng rậm. Mặt trời lên từ từ trên tầng mây. Đột nhiên Oóc-ba-xăng dừng ngựa. Hai người đang ở bìa rừng. Có một con đường mòn đi sâu về phía chân trời. Oóc-ba-xăng chỉ đường cho Mu-ta-pha.
- Đây là đường đi của bạn. Chúng ta hãy từ biệt nhau! Ta không hiểu bạn sẽ giữ kỷ niệm về ta thế nào? Vì ta mà bạn lo ngại hãi hùng không biết bao nhiêu! Ta tự nhận là ta có món nợ với bạn và cần phải trả. Hãy cần con dao găm có trạm trổ này. Mỗi lần gặp khó khăn,  bạn hãy gửi con dao ấy cho ta. Ta sẽ chạy ngay đến với bạn! Hãy cần lấy cái túi tiền này nữa. Bạn chỉ có một mình để chống lại với những kẻ thù sẽ có thể rất đông. Vàng là vũ khí tốt nhất đấy.
Mu-ta-pha cảm động nắm bàn tay đang chìa ra cho nó
- Ngài Oóc-ba-xăng, vì tình bạn tôi xin nhận các quà tặng. Nhưng ngài hãy cho toi biết tại sao ngài không bắt tôi thề giữ bí mật về căn cứ của ngài và những gì tôi đã nghe đã thấy tại nơi ngài ở?
- Oóc-ba-xăng lắc đầu một cách phong nhã, mỉm cười và nói:
- Ta đánh giá bạn rồi. Tạm biệt bạn!
Ông ta phi ngựa và biến mất trong rừng rậm.
Mu-ta-pha lại lên đường, tràn ngập lòng biết ơn và niềm hy vọng. Hình như nó cho là không thể có thất bạ khi thánh A-la đã dun dủi cho nó gặp những người như Oóc-ba-xăng trên đường đi.
Đến chiều hôm sau nó đến Bát-xô-ra nhưng ở đó nó được tin đau đớn là phiên chợ lớn buôn bán nô lệ đã kết thúc hai ngày trước đó! Nỗi buồn của nó càng da diết hơn khi nó được biết một chiếc tàu cướp biển đã đem đến lúc phiên chợ gần tan hay nô lệ gái có nhan sắc đẹp tuyệt trần. Nó run lên dò hỏi:
- Các cô ấy thế nào rồi? Ai mua được các cô ấy?
Người ta trả lời:
- Chủ tỉnh Thi-u-li-cô. Lão ấy rất giàu nên đã trả một số tiền lớn để mua hai nô lệ kia.
Mu-ta-pha cố giấu nỗi xúc động. Nó được biết thêm nhiều chi tiết về hình dạng và nơi ở của Thi-u-li-cô bởi nó tin chắc hai nô lệ mà người ta nói đến là em gái và người yêu của nó.
Nó được biết thêm Thi-u-li-cô là một người đã lớn tuổi, lão sống trong một lâu đài tráng lệ mà lão đã xây cách Bát-xô-ra chừng ba mươi dặm, lão ta vừa đi khỏi thành phố cách đây vài giờ.
Mu-ta-pha vội vàng nhảy lên yên ngựa để chạy theo người đại phú hào kia hòng giành giật lại những cô gái. Nhưng đó là một dự định không thể thực hiện được. Nó không thể nghi đến một mình nó lại có thể đánh bại một đám tùy tùng đông đảo. Tốt hơn là phải hành động bằng mưu trí.
Nó quyết định sẽ lợi dụng sự giống nhau với chủ tịch tỉnh Xu-li-ê-ca và sửa vài nét khác nhau giữa nó và kẻ thủ đã chết rồi của Oóc-ba-xăng. Nó cắt râu nó thành hình mũi nhọn và nhuộm cho sẫm nâu hơn. Nó thuê nhiều đày tớ nhiều ngựa, rồi sau khi đã trang bị và mang đầy đủ khí giới để người ta lầm nó là một quý tộc đi du lịch. Nó lên đường thẳng tới lâu đài của Thi-u-li-cô.
Năm ngày sau, nó đến đó. Nó không phải chờ đợi lâu. Thi-u-li-cô ngỡ nó là chủ tịch tỉnh thực sự đã tiếp nó trọng thể với một nhiệt tình nồng hậu
Suốt ngày, lão dẫn Mu-ta-pha đi tham quan các tòa nhà trong lâu đài, những vườn cây bao bọc chung quanh và phía ngoài là một bức tường cao để bảo vệ. Sau bữa ăn tối, lão dẫn nó đến một gian phòng đã dọn sẵn.
Nhiều lần Mu-ta-pha đã lái câu chuyện về hai nô lệ xinh đẹp mà lão ta vừa mua được. Nhưng Thi-u-li-cô lắc đầu tâm sự:
- Đừng nói nữa! Tôi chưa thấy ai buồn thảm hơn chúng nó! Vì tôi quen thấy người ta sung sướng khi ở gần tôi cho nên tôi đã bắt đầu hối hận vì đã trót mua chúng nó. Vâng, chúng nó xinh đẹp thật, nhưng nhìn một phụ nữ khóc lóc suốt ngày là một cảnh tượng chán ngấy.
- Tôi không đồng ý với ngài, Mu-ta-pha trả lời sung sướng được biết em gái nó và Dô-ra-ít vẫn igữ được tuyết sạch giá trong không cho ông chủ làm nhơ bẩn thể xác.
Tâm hồn bình thản, nó ngủ ngon giấc
Một ánh sáng bất ngờ làm nó bừng tỉnh. Nó ngồi dậy, Trước mắt nó là Hát-xan ghê tởm, miệng nhếch đến tận tai, với tiếng cười ma quái, đang cầm trong tay một cây đèn và nhìn nó một cách độc ác.
- Này chủ tỉnh Xu-li-ê-ca, lão già nói khẽ, mày sống lại hở? Nhưng mà chính tay tao đã thắt thòng lọng vào cổ mày, thắt cẩn thận lắm. Mày đến đây làm gì? Tìm em gái mày và con kia hẳn? Mày trả lời đi!
- Mày muốn gì ở tao? Mu-ta-pha trở lại bình tĩnh sau cơn xúc động mạng – Và tại sao mày ở đây?
- Mày lại hỏi tao ư? – Hát xan nói một cách giận dữ - Vì mày mà tao không thể sống ở đó được. Tao phải từ bỏ Oóc-ba-xăng. Hắn giận tao từ khi tao đề nghị giết khách của hắn. Và may mắn, may mắn cho tao, tao lại làm việc với ngài Thi-u-li-cô. Ngài Thi-u-li-cô sẽ thích thú biết bao khi biết chủ tỉnh Xu-li-ê-ca là ai!
- Đồ khốn nạn! Mu-ta-pha rít lên và giơ quả đấm
- Hãy nghe đây! Hát-xan nói tiếp với giọng đe dọa. Chúng ta còn có thể thỏa thuận với nhau được. Tao sẵn sàng làm bạn đồng minh với mày giúp mày giải thoát hai cô gái với một điều kiện. Mày gả em gái cho tao. Mày có chịu thế không?
- Không trả lời, Mu-ta-pha giận dữ ghê tởm lao đến Hát-xan. Chắc Hát-xan cũng phòng trước là con tôi có thể phản ứng như vậy nên hắn thả rơi ngay chiếc đèn trên đất, đèn tắt ngấm và nó nhảy trốn qua các hành lang kêu cứu.
Mu-ta-pha mặc vội quần áo. Vừa lúc ấy tụi gia nô và tụi tuần tra được báo động đã chạy đến! Chàng thanh niên nhảy phóc lên bậc cửa sổ, rồi từ trên một khoảng rất cao, nhảy xuống vườn. Nó hơi choáng váng khi nó rơi từ trên cao xuống nhưng không để mất thời gian, nó vội chạy trốn rất nhanh. Nó nghe thấy những tiếng kêu hét của bọn người đuổi theo nó.
Nó leo lên tường bọc ngoài, nhờ sức đôi tay, may là ở đây vắng vẻ, nó cố bám những chỗ lồi lõm trên tường để tụt xuống và cuối cùng nó đã xuống đất, mệt lử, nhưng tự do.
Nó núp trong một khu từng gần đấy, và nó có thời gian trong đêm tối còn lại để suy nghĩ về những việc nó cần phải làm.
Dự định đầu tiên của nó bị thất bại, nó không thể nghĩ đến việc gặp mặt lại tên chủ tỉnh nếu không cải trang
Tùy tùng của nó, người và ngựa đều ở trong tay Thi-u-li-cô, may mắn thay túi tiền không rời khỏi thắt lưng nó. Lòng chứa chan hy vọng, nó nhớ những lời dặn bảo của Oóc-ba-xăng “vàng là vũ khí tốt nhất”
Nó lại lên đường, băng qua rừng. Mặt trời đã mọc. Nó định đến làng gần đấy thuê một con ngựa và vào thành phố để gặp ông thầy thuốc lừng danh. Nó định mua hai liều thuốc cần thiết cho việc giải phóng Phát-mét và Dô-ra-ít theo phương án mới của nó. Thần thời vận giúp nó, và chưa hết ngày hôm ấy nó đã đi ngựa vào thành phố để tìm ông thày thuốc.
Nó trao cho ông thầy thuốc một số tiền khá lớn nên đã nhận được thứ thuốc ngủ rất mạnh làm người uống thiếp đi như đã chết và một thứ thuốc giải phá ngay tác dụng cúa món thuốc ngủ.
Nó mua một chiếc mũ, một bộ y phục thầy thuốc. Nó mang một bộ râu giả trắng như cước, chất lên lưng một con lừa đủ các thứ chai lọ và trở lại con đường dẫn nó tới lâu đài Thi-u-li-cô.
Nó không gặp trở ngại gì. Cái danh hiệu thày thuốc của nó đã mở nhiều cánh cửa cho nó bước vào. Thi-u-li-cô là một con người hưởng lạc, nó rất sợ chất nên đón tiếp bác sỹ Sa-ca-măng-bu-đi-ba-ca với niềm vui mừng khó tả.
- Tôi lấy làm vinh dự được ngài đến tahưm tôi, ngài Ka-sa, à , không, Ma-chi-i-a, phải rồi, Ba-đi-ba-ba thân mến ạ. Hiện nay, nói cho đúng, tôi không thấy có triệu chứng gì về bệnh tật, nhưng những bạn đồng nghiệp của ngà thường khuyên tốt hơn hết là phải lo chữa bênh ngay khi đang khỏe mạnh.
- Quả như vây, ông thày thuốc giả hiệu tuyên bố trong khi vuốt chòm râu bác học.
- Và tôi ao ước,  Thi-u-li-cô nói tiếp, - sau khi khám bệnh cho tôi xong, ngài khám qua cho bọn nô lệ và những tôi tớ của tôi. Tôi rất sợ bệnh tật, không phải chỉ riêng sợ cho bản thân và cho những người khác.
- Ngài quả có tấm lòng đôn hậu
- Bởi vì-lão chủ tỉnh nói tiếp- khi những người khác mắc bệnh, họ có thể truyền bệnh cho tôi, điều rủi ro ấy khó lường trước được.
- Sa-ca-măng-bu-đi-ba-ba khen ngợi hết lời về sự khôn ngoan của ngài chủ tỉnh vì như thế hắn sẽ được gặp những nô lệ của ngài. Hắn khácm cho Thi-u-li-cô, cho y một thứ thuốc lợi hại (những chai lọ chất trên lưng lừa chỉ đựng toàn nước lã) và tuyên bố sẵn sàng khám cho tụi nô lệ.
Ông chủ tỉnh đưa ông thày thuốc đến một gian phòng nhỏ liền vách với hậu thất và nói:
- Để cho một người đàn ông vượt qua ngưỡng cửa của gian phòng dành cho phụ nữ thì quả là khiếm lễ.
Và ngài làm thế nào để tôi có thể bắt mạch họ được
- Mu-ta-pha cố gắng che giấu sự thất vọng hỏi lại
- Ngài Ba-ba thân mến,  Thi-u-li-cô nói – điều đó rất dễ thôi.. Ngài thấy cái lỗ thủng trong bức tường rồi chứ! Tôi sẽ gọi từng con nô lệ một. Ngài sẽ xem mạch cho chúng như thế cũng đủ. Chung quy chúng chỉ là những nô lệ thôi mà!
Mu-ta-pha không dám đề ngị cho khám cẩn thận hơn những người phụ nữ và tuyên bố có thể bắt đầu buổi khám bệnh. Lấy cơ tìm một vài thứ thuốc trong số chai lọ mà con lừa mang, nó viết trên một mảnh da thuộc một bức thư như sau:
“ Phát-mét thân yêu, nếu em muốn được thày thuốc giải thoát hãy uống thứ thuốc mà người ta sắp cho em. Thuốc ấy sẽ làm cho người ta tưởng em đã chết. Em đừng lo sợ, anh sẽ cứu em dễ dàng ngay sau khi em ra khỏi hậu thất và ở trong tay anh”
Mu-ta-pha trở lại bên cạnh Thi-u-li-cô và giấu bức thư trong tay áo thụng.
- Chúng ta bắt đầu - Thi-u-li-cô nói – tôi gọi nhé:
- Rô-xan-ba!
Một cánh tay trắng nõn luồn qua lỗ thủng của bức tường và Mu-ta-pha ấn ngón tay trên mạch đập với dáng điệu nghiêm nghị rồi tuyên bố:
- Sức khỏe rất tốt
Sáu tên đã được gọi như thế. Ông thày thuốc giả sốt ruột cắn môi,  cuối cùng cái tên chờ đợi đã vang lên:
- Phát-mét
Mu-ta-pha run rẩy nắm lấy cổ tay bé nhỏ đang đưa về phía nó và luồn rất khéo bức thư dưới chiếc vòng bạc mà cô gái đeo trên tay. Rồi nó lắc đầu một cách lo ngại.
Thi-u-li-cô thấy nó im lặng, liền hỏi:
- Có gì thế?
- Bệnh nặng lắm,  Mu-ta-pha nói – Tội nghiệp người thiếu phụ này
- Có truyền nhiễm không? Thi-u-li-cô kinh hãi hỏi lại
- Không hẳn là truyền nhiễm. Nhưng tôi khuyên ngài, khi cô ấy chết rồi phải chôn ngay tức khắc.
- Thế nào? –lão chủ tỉnh run lên vì khiếp đảm – Bệnh nặng đến thế ư? Ôi, tôi không gặp may. Một con nô lệ mà tôi đã trả hai nghìn đồng tiền vàng để mua. Thế không có thuốc gì cứu nó được ư?
- Tôi sẽ cố gắng xem – Mu-ta-pha nói – nhưng tôi không dám hứa gì cả. Tôi được mời quá muộn. Hãy cho nó uống hết thuốc trong lọ này – nó nói thêm trong lúc đưa lọ thuốc ngủ. – Ngày mai rồi sẽ trở lại xem bệnh có thuyên giảm không.
- Nếu ngài cứu được nó, ngài Ka-sa-ca-bu-ca-măng-ba-đi-ba-đi ạ.  – lão tỉnh trưởng nói – Tôi sẽ không tính thiệt hơn gì về tiền thưởng đâu! Bởi vì tôi đã mua nó quá đắt cho nên tôi không đành để mất nó, nhưng hãy coi chừng, nếu nó chết thì ngài phải để cái đầu ngài lại đây thôi.
- Đồng ý, Mu-ta-pha nói.
Nó rời lâu đài sau khi cất giấu y phục thầy thuốc trong một khu rừng gần đấy.
Đêm đên, nó ẩn náu trong những bụi rậm ở nghĩa địa riềng của nhà lão Thi-u-li-cô.
Nó vừa cởi bộ y phục thầy thuốc được một giờ thì tin tức về cái chết của Phát-mét được lan tuyền. Chị nô lệ đọc bức thư giấu dưới chiếc vòng bạc và đã uống thuốc, thế là chẳng mấy chốc thần chất như đã cướp đoạt chị ta.
Ám ảnh bởi ý nghĩ Phát-mét chết vì một bênh truyền nhiễm, Thi-u-li-cô truyền rút ngắn tang lễ và chở rất nhanh quan tài đến nơi chôn cất. Cũng khôgn chào vĩnh biệt người chết, lão ta đóng cửa lại, lấy khăn tay tẩm dầu gió, bịt mũi để khỏi hít các khí độc.
Những gia nô được phân công chôn cất Phát-mét rất xúc động vì cái chết quá nhanh, vì đêm xuống, vì những tiếng khóc than kể lể từ các mộ gần đó vang vọng lên. Họ làm việc một cách vội vàng và chạy trốn, bỏ cả dụng cụ lại, đợi đến ngày mai sẽ đến thu nhặt.
Khi Mu-ta-pha thấy chỉ còn một mình nó, nó thắp một ngọn đèn đã chuẩn bị từ trước. Rồi nó mở nắp quan tài, cúi xuống nhìn Phát-mét đang ngủ say,
Đột nhiên nó kêu lên đau đớn, Dưới mắt nó, khuôn mặt rất xanh xao kia không có một nét gì của em gái nó cả.
- Chao ôi mệnh số - Mu-ta-pha thầm thì, chán nản – ta phải từ bỏ cứu những người thân yêu của ta chăng? Rồi đây ta sẽ làm được gì cho các cô ấy chứ? Ta không còn vàng nữa…Nhưng hãy can đảm lên nào! Người thiếu phj này phải được cứu sống! Ít nhất, ta cũng còn được niềm vui đã trả lại tự do và cuộc sống cho một người phụ nữ không quen biết!
Nó cạy răng người thiếu phụ và đổ lọ thuốc thứ hai vào mồm chị. Hiệu quả đạt ngay tức khắc! Thiếu phụ mở mắt. Chị ta kinh ngạc nhìn quanh, bắt gặp Mu-ta-pha. Chị ta hỏi:
- Ôi, vị cứu tinh của tôi! Người đã đưa tôi thoát khỏi ngục tù, tôi phải trả ơn ông thế nào cũng không xứng đáng. Tại sao người lại chú ý đến tôi, con người bị giam hãm khốn khổn này? Tôi chưa hề được gặp ngài lần nào cả!
Mu-ta-pha thở dài:
- Than ôi! Do sự nhầm lẫn mà tôi đã cứu chị và tôi không đáng được chị biết ơn. Em gái tôi tên là Phát-mét. Tôi cứ tưởng đã cứu em tôi thoát khỏi bàn tay của lão Thi-u-li-cô
- Tôi hiểu rồi, thiếu phụ trả lời – Có lẽ ngài nói về một trong hai người nô lệ mới được đưa về
- Phải – Mu-ta-pha đau đớn đáp
Phát-mét lại nói:
- Xin ngài đừng nản lòng! Em gái ngày và cô gái đều bị nhốt trong gian buồng nhìn ra sân trong. Đấy là buồng thứ sáu bên phải đi từ của vào.
- Những tin tức ấy, than ôi, không còn giúp cho tôi được gì nữa, - Mu-ta-pha thở dài
- Có chứ! – thiếu phụ nói rất nhanh-và đây là lý do. Trong sân ấy có một cái giếng do một cống ngầm cung cấp nước. Thi-u-li-cô rất hãnh diện về cái giếng ấy Một hôm tôi đang khâm phục ngắm giếng thì lão tao nói cho biết để dẫn nước vào trong sân, lão đã xoay hướng một con suối chảy trong các khu rừng mà ngày thấy đấy, rất gần cái tảng đá trong đó, bắt nó chảy về vườn lão. Lão ta nói thêm rằng cống dẫn nước nằm dưới đất và có chiều cao hơn một thân người. Chỉ cần một người khỏe mạnh và khéo tay đi vào theo cống nước để nạy mtộ hòn đá ccủa giếng nước là tự thấy mình ở trong sân của hậu nhất
- Đã năm tháng tôi là nô lệ, tôi tìm cách trốn thoát. Tôi đã nhiều lần buồn phiền vì không có sức mạnh của nam giới để đi trốn theo con đường của cống nước.
Mu-ta-pha vui mừng khôn xiaát và kêu lên
- Phát-mét, cô sẽ trở về tổ quốc và gặp lại những người thân yêu của cô! Tôi hứa như vậy, Cô đã mách cho tôi phương tiện để cứu em gái tôi và Dô-ra-ít khi tôi không còn chút hy vọng nào!
- Tuy nhiên! – thiếu phụ lại nói – anh đừng nên đi một mình theo cống nước vì lâu đài được canh phòng cẩn mật. Anh phải có hai tùy tùng can đảm.
- Tôi có đủ - Mu-ta-pha mua một con ngựa và lên đường đến doanh trại Oóc-ba-xăng. Nó được tiếp đãi thân mật Những câu chuyện về cuộc phiêu lưu của nó làm cho những người nghe chú ý đặc biệt Oóc-ba-xăng rất thích thú khi được biết Mu-ta-pha đóng vai thầy thuốc. Nhưng khi nghe cái chức vụ và Hát-xan đang giữ bên cạnh tên chủ tỉnh, ông ta hét lên giận dữ:
- Đồ phản bội đáng ghét! Ta sẽ treo cổ nó bằng chính bàn tay ta! Đi, chúng ta phải đi ngay! Cái ngày mà ta được dự lễ thành hôn của Mu-ta-pha và Dô-ra-ít mới là ngày mà ta toại nguyện.
Ông ta gọi thêm ba người tâm phúc và giây lát sau, ông phi ngựa cùng với Mu-ta-pha theo sau là ba người tùy tùng, nhằm hướng lâu đài Thi-u-li-cô mà đi tới.
Hai ngày sau, bọn họ đến thành phố mà “bác sỹ Sa-ca-măng-ba-đi-ba-ba” đã để Phát-mét người nô lệ được cứu thoát ở lại. Chị ta cho họ biết những chi tiết chính xác về địa điểm cống nước ngầm. Chị ta còn xin được tham gia vào việc giải phóng những bạn cùng cảnh bị giam hãm, rồi tất cả lại lên đường để đến khu rừng có con suối. Mọi người chờ đợi đêm đến, họ giao cho Phát-mét giữ mấy con ngựa, rồi trườn trong cống nước theo hàng một. Họ tiến những bước vững chắc tuy có những đoạn nước lên đến thắt lưng.
Họ đã đem theo những chiếc kìm bằng sắt, họ bẩy mạnh mấy viên gạch lát và không gặp trở ngại gì khi cạy viên gạch có đục nhiều lỗ nằm ở giữa bể chứa nước.
Oóc-ba-xăng là người đầu tiên đi rón rén vào trong sân. Đêm tối mù mịt, sáu tên nô lệ nằm ngủ trên những chiếc chiếu trước cửa nội thất. Bọn Mu-ta-pha phải đi mò mẫm và đếm các cánh cửa để lần mò đến phòng giam Phát-mét và Dô-ra-ít.
- Có thế chứ! Mu-ta-pha thì thầm trong lúc ấn kìm cẩn thận cậy ổ khóa.
Vừa lúc ấy một tiếng thét vang lên:
- Cứu tôi với, Giúp tôi với – giọng của Hát –xan tru trẻo.
Nó đang thu hình trong khung cửa ở phòng giam hai cô thiếu nữa và đã nhận ra người đang tìm cách vào phòng.
Tiếng kêu tắc nghẹn trong cổ họng nó. Hai bàn tay khỏe mạnh đã bịt miệng nó, trói gô nó lạ trong lúc các nô lệ da đen thức giấc thình lình đều im lặng khi thấy những lưỡi dao găm của bọn lâu la đi theo Oóc-ba-xăng.
Tiếng kêu của Hát-xan không làm cho Mu-ta-pha lùi bước. Nó nhảy vào trong phòng, trong đó dưới ánh đèn chập chờn, Phát-mét và Dô-ra-ít đang khóc lóc tỉ tê.
- Các bạn ơi, Ác-mét nói tiếp, đôi mắt ướt lệ. Khi tìm thấy em gái và người yêu bình yên, trong trắng. Mu-ta-pha sung sướng vô cùng.
Hai năm đã trôi qua, bây giờ kể lại, lão còn cảm thấy sâu sắc niềm hạnh phúc ấy. Các con lão chạy trốn không bị cản trở. Oóc-ba-xăng ở lại sau và khi đã trở về gặp các bạn hưũ, ông ta nói:
- Ác giả ác báo! Thi-u-li-cô mất hai cô nô lệ xinh đẹp nhưng lại bắt được một vật cầu phúc rất linh nghiệm
- Thật ư, Mu-ta-pha hỏi – cái gì thế?
- Cái dây treo cổ !- Oóc-ba-xăng tuyên bố một cách trang nghiêm. – Chính Hát-xan đã hiến cho lão ta. Nhưng chúng ta đừng ở lại đây lâu. Thi-u-li-cô đã không quên phái mật sứ đi khắp mọi nơi. Đến bình minh, chúng ta phải xa nơi này mới xong.
Nói đoạn, Oóc-ba-xăng lên ngựa và đèo Phát-mét còn Mu-ta-pha thì đèo Dô-ra-ít. Những tên cướp cùng cô Phát-mét kia đều đã lên yên.
Một cuộc phi ngựa lặng lẽ và rất nhanh kéo dài đến cả ngày sau cho đến Bát-xô-ra. Đến cửa ô thị trấn, ông ta nghiêng mình một cách trang trọng trước hai cô thiếu nữa và nói:
- Cầu cho hai cô được sung sướng! Tình yêu và hạnh phúc đang chờ đợi hai co. Về phần tôi, tôi xin trở về với sa mạc.
Oóc-ba-xăng kéo Mu-ta-pha lại ôm hôn thắm thiết rồi nhảy lên ngựa biến mất với ba tùy tùng.
Một chiếc tàu sắp nhổ neo đi Át-ca-ra nhận chở con lão. Mười lăm ngày sau lão xiết cahựt trong tay những người mà lão không hy vọng gì được gặp lại! Người nô lệ mà con trai lão đã cứu sống được đưa về nước. Cái ngày mà lãi đặt bàn tay duyên dáng của Dô-ra-ít trong tay Mu-ta-pha là một trong những ngày đẹp nhất trong đời làm cha của lão. Vì đã đau đớn, khóc than khôgn biết bao nhiêu nên cái gia tài nhỏ bé và nguồn gốc thấp kém cuả con dâu đối với lão chẳng thấy đáng ngại bên cạnh cái hạnh phúc mà cháu Mu-ta-pha dũng cảm dáng được hưởng.
- Con gái bác bây giờ thế nào? Xê-lim Ba-ruốt hỏi giọng cảm động – Cô ấy có chồng rồi chứ?
- Không. Ác-mét lắc đầu đáp – Nó van xin tôi hãy để cho nó ở với tôi, Nó nói: hạnh phúc của anh nó thế là đủ đối với nó và nó muốn được đảm nhiệm việc giáo dục những đứa con của Dô-ra-ít và Mu-ta-pha”
- Tính đồng bóng của cô gái thôi! Mu-lây nhận xét.
- Hãy giới thiệu một thanh niên đẹp trai với cô ta rồi cô ta sẽ thay đổi ý kiến ngay!
- Lão không nghĩ như thế - Ác-mét buồn rầu nói – Hình như con Phát –mét của lão đã để quả tim lại ở..sa mạc.
- Thế nào? – A-li-Xi-át kêu lên, ông bạn đáng kính muốn nói là cô con gái của ông đã phải lòng tên Oóc-ba-xăng ư? Nếu tôi có một đứa con gái mà nó mê tít một tên côn đồ như vậy tôi sẽ chôn sống nó, vâng thật thế, chôn sống nó với chính đôi bàn tay của tôi!
Ác-mét trả lời như ông đang tự nói với mình:
- Khi người ta suýt mất một đứa con, người ta mới thấu hiểu, đối với người cha, hạnh phúc của con trả là luật lệ tối cao. Chà – ông noi thêm, rất khẽ, - Giá trong chuyến đi này lão gặp được Oóc-ba-xăng.
Xê-lim Ba-ruốt đứng dậy bất thình lình và xin lỗi ra khỏi lều
- Sáng hôm sau, khi vầng đông nhuộm hồnh những nóc tròn tòa nhà và các tháp thờ ở xa Ác-mét bị thức tỉnh đột ngột. Một bàn tay vừa đặt trên vai ông lão, Xê-lim Ba-ruốt đứng trước mặt ông, đẹp trai, mảnh dẻ trong bộ y phục chói ngời những đường thêu kim tuyến. Chưa khi nào ông thấy anh ta cảm động như thế mặc dù ông thấy anh ra có dáng điệu bình tĩnh.
- Anh cần gì ở lão hở Xê-lim Ba-ruốt? Ác-mét ngạc nhiên hỏi
- Tôi đi đây! Chàng thanh niên trả lời. –phải thê thôi! Nhưng trước khi đi tôi muốn cảm ơn bác Ác-mét về niềm hạnh phúc bác tạo cho tôi qua câu chuyện tối hôm qua. Trong cuộc đời phiêu lưu và nguy hiểm của tôi, nó như một dòng nước làm cho tôi trong sạch, mát mẻ…
- Anh nói gì thế Xê-lim? Cuộc đời giang hồ nào mà anh nói vậy? Anh là cháu quan tể tướng Bát-đát kia mà!
- Đúng thế, Nhưng mà tôi cũng là “vua của sa mạc”
- Óóc- ba-xăng! Ác-mét kêu lên kinh ngạc, nghi hoặc và hy vọng lẫn lộn. Oóc-ba-xăng, người mà con gái tôi yêu
- Không Oóc-ba-xăng tên tướng cướp - Oóc-ba-xăng nói bằng giọng đắng cay - Oóc-ba-xăng lãnh chúa tàn ác đã giết cha mẹ nó khiến nó căm phẫn. Oóc-ba-xăng mà người ta vu khống, ngườ I ta sợ hãi…
- Và người ta cũng yêu nữa chứ! Ác-mét dịu dàng nói thêm trong lúc để bàn tay lên vai chàng thanh niên kiêu ngạo. – Anh để tôi về Át-ca một mình sao? Trong khi anh đã biết ở đó người ta đang chờ đợi anh?...
Tiếng lục lạc của đoàn lữ hành reo vui trên con đường vàng…vui vì hạnh phúc đang đi qua bãi cát.

CỎ HẮT HƠI (CHUYỆN CHÚ NA-SÔNG)
Các bạn ạ, không phải chỉ ở Bát-đát hay ở thời vua Ha-run An-ra-sít mới có những thày pháp và những bà tiên. Trong thành phố của nước Ba-tư tôi đã được chứng kiến một chuyện mà tôi xin kể:
Trong đường phố tôi ở có người thợ giày nghèo khổ tên là Ô-lim. Vợ ông là Rai-a và đứa con nhỏ, một cậu bé lên mười rất dễ thương tên là Y-a-cuốp.
Cửa hàng của ông Ô-lim bé nhỏ tăm tối, chật hẹp, tồi tàn. Suốt ngày ông ngồi cặm cụ khâu vá những đôi giày cũ để nhận tiền công mấy xu một đôi.
Vợ ông cũng đóng góp phần mình vào việc thu chi của gia đình. Bà trồng rau và cây ăn quả trong một khu vườn ở ngoại ô. Bà đem ra chợ bán những rau quả thu hoạch được. Y-a-cuốp giúp mẹ làm vườn và bán hàng. Khi nào có người mua nhiều hàng, nó giúp họ xách giỏ về tân nhà. Mỗi lần như thế nó thường được nhận quà: bánh ngọt hay tiền lẻ mà nó rất hãnh diện mang về cho mẹ. Y-a-cuốp được mọi người thương yêu, chiều chuộng.
Một buổi sáng, khi Rai-a và Y-a-cuốp vừa dọn hàng xong thì một bà già dừng lại trước mặt hai mẹ con và ngắm các mặt hàng.
Chưa khi nào bà mẹ và cậu bé trông thấy một mụ già ghê tởm như thế! Mụ ta mặc một chiếc áo rách bẩn thỉu. Mụ đi lom khom, chân mụ bước khập khiễng tay chống một chiếc gậy.
Hàng nghìn nếp nhăn hiện trên khuôn mặt mụ già. Đôi mắt mụ hấp háy dưới mi mắt đỏ quạch. Cái mũi thậtdài của mụ như cái mỏ vịt, mang một cục bướu thòng xuống đến cằm. Như có lò xo, đầu mụ ngọ nguậy liên hồi trên cái cổ có da bọc xương và dài như bất tận.
Rai-a bán rau ở chợ đã mười sáu năm mà chưa bao giờ thấy mặt mụ già dễ sợ này. Bà ước ao thầm là người khách dị hợm ấy không dừng lại ở hàng mình. Nhưng mụ già hỏi với giọng the thé:
- Có phải bà là Rai-a không?
Rai-a đáp:
- Thưa bà vâng. Bà cần mua gì ạ?
Mụ già chỉ trả lời bằng tiếng càu nhau với vẻ mặt cáu kỉnh. Mụ ra đưa hai bàn tay thọc sâu vào thúng quả, dùng mấy ngón tay bẩn thỉu của mình sờ nắn mạnh những quả táo, quả lê, quả đào.
Rai-a không dám nói gì! Mụ đàn bà quái ác ấy đã khiến bà khiếp sợ. Y-a-cuốp nhìn thấy nỗi bất bình và lo lắng của mẹ Nó không chịu nổi sự trâng tráo của mụ khách hàng. Nó đột ngột kéo giỏ quả cây về phía nó trong lúc mụ già đang sờ mó và ngửi một quả mơ rất đẹp. Nó hỏi cộc lốc:
- Thưa bà, bà đã chọn xong rồi chứ?
Mụ già đưa mắt nhìn nó một cách khinh bỉ, bỏ quả mơ xuống, cầm một quả lê lên và càu nhàu:
- Quả xấu quá! Hàng tồi quá! Năm mươi năm trước đây hàng tốt hơn nhiều. Cái gì cũng bẩn cả.
Y-a-cuốp phẫn nộ trả lời:
- Chính bà làm bẩn các quả ấy đấy. Bà làm giập quả cây trong các ngón tay và dưới cái mũi bụ của bà. Khách hàng sẽ chê những của này!
Mụ già trừng trừng nhìn chú bé, mắt như nảy lửa:
- A, mày không thích những cái mũi dài hả? Tốt lắm, Người ra sẽ trả cho mày một cái mũi còn dài hơn bao nhiêu kia.
Mụ già cầm một bắp cải lên, mụ ta bóp nắn và ngửi quanh bốn phía rồi bỏ xuống. Vẻ mặt khinh bỉ, mụ nói:
- Hàng tồi lắm, Không tươi héo cả rồi
Y-a-cuốp nổi khủng hét lên:
- Bà khó tính hơn bác đầu bếp của quan tể tướng, hơn cả vị đầu bếp của hoàng đế. Bắp cải của chúng tôi mà không tươi à? Còn tươi hơn cái đầu xấu xí của bà nó cứ ngọ nguậy mãi trên cái cổ gày gò kia, rồi có lúc nó rơi ra và lăn vào giỏ của tôi chứ chẳng không. Tôi dám chắc là trên đời này không ai dám mua một bắp cải gớm ghiếc như vậy đâu.
Mụ già cười khẩy đáp:
- Mày không thích những cái cổ dài, ta biết rồi! Thế thì hãy yên lòng! Mày sẽ được vừa ý, mày sẽ không có cổ. Đầu mày sẽ cắm chắc vào giữa hai vai. Mày sẽ khỏi phải lo để rơi mắt nó
Sự giằng co giữa hai bên kéo dài làm Rai-a rất khổ tâm. Bà lên tiếng:
- Thế nào? Bà có mua gì không nào? Nếu không, xin mời bà đi nơi khác. Bà đừng án trước cửa hàng này và nhận xét như thế thì tôi còn mong bán cho ai được chứ!
Mụ già đáp cộc lốc:
- Cho tôi sáu bắp cải. Nhưng vì tôi phải chống gậy nên không thể mang được. Bà bảo con bà mang hộ đến nhà cho tôi. Tôi sẽ đền công cho cậu ấy.
Dáng điệu ác nghiệt của mụ già làm Y-a-cuốp hoảng sợ. Nó khóc, Bà mẹ do dự. Tuy vậy, sợ mất lòng khách hàng sộp vì thiếu lịch sự, bà mẹ dằn lòng bảo giọng dứt khoát:
- Y-a-cuốp con đi theo bà đi. Nào! Nhanh lên nào!
Y-a-cuốp nuốt nước mắt, mang giỏ bắp cải trên lưng, bước theo sau đôi chân khập khiễng của mụ già.
Bọn họ đi suốt một giờ. Cậu bé mệt hết hơi, mồ hôi dầm dề, Mụ già đứng lại trước một ngôi nhà bé nhỏ ở cuối thành phố trong một khu hoang vắng. Mụ rút trong túi áo ra một cái móc hoen rỉ, hình dáng kỳ lạ rồi ấn vào một cái lỗ khoét trên cánh cửa. Cửa rít ken két và mở ra Y-a-cuốp dừng lại sửng sốt.
Ngôi nhà ấy trông bề ngoài bé nhỏ nhưng trái lại rất to rộng. Nó gồm nhiều phòng lớn trang trí và bày biện sang trọng lạ thường. Những đồ dùng trong nhà đều bằng gỗ quý khảm vàng. Tường đều bọc bằng cẩm thạch hoặc màu lụa. Sàn nhá chói lọi. Y-a-cuốp cúi xuống thấy đó là một tấm gương không có vết. Chú bé nhận thấy người ta chỉ có thể đi trên sàn nhà với những đôi giày đặc biệt.
Sau khi khép cửa, mụ già rút trong túi áo lấy một cái còi bằng vàng và đưa đến gần miệng. Y-a-cuốp rùng mình khi nghe một hồi còi kéo dài rít lên chát chúa và ảm đạm. Ngay tức khắc, một đàn chuột lang chen nhau xô đẩy nhau từ đâu không biết chạy đến vây quanh mụ già.
Y-a-cuốp sửng sốt nhận thấy mấy con vậy bé nhỏ ấy đi trên hai chân sau, chúng mặc quần áo và mang vỏ quả bồ đào làm đẹp.
Mụ già vung gậy hét lên:
- Đôi giày đi trong nhà của ta đâu? Chờ ngày mai à?
Mấy con chuột lang đem hai cái gáo dừa bọc da màu đỏ mang vào đôi chân cho mụ già. Mụ vứt gậy và đi lại trên sàn nhà. Mụ lướt rất nhanh và rất khéo. Nắm tay Y-a-cuốp, mụ kéo nó vào trong một gian nhà bếp to lớn. Mụ bắt thằng bé ngồi trước một cái bàn và nói:
- Ngồi đây! Cháu hãy nghỉ ngơi trong lúc bà chuẩn bị cho cháu một bữa xúp đặc biệt, khác hẳn những đĩa xúp mà cháu thường ăn. Hãy ăn uống thỏa thích. Bà tin rằng suốt đời cháu sẽ không quên.
Mụ già lại hét lên sau khi đã huýt còi lần nữa:
- Hô là! Chúng mày đâu? Tất cả vào vị trí! Chúng ta hãy thết cậu bé thân mến này!
Mấy con chuột lang nữa lại xuất hiện – bọn này mang tạp dề làm bếp-cùng với rất nhiều sóc mang những cái thìa rất to.
Bầy chuột lang và sóc chạy cuống lên! Chẳng mấy chốc trong bếp bùng lên ngọn lửa. Mụ già bỏ mỡ, bơ và trứng và xoong rồi bắc lên bếp, nấu món xúp đã hứa.
Một mùi thơm ngon lành tỏa ra trong gian phòng và mơn trớn mũi Y-a-cuốp trong lúc cậu bé sốt ruột chờ món xúp đã được báo trước.
Cuối cùng, biết món xúp đã chín, mụ già trút vào đĩa sâu bằng bạc đặt đĩa xúp còn bốc hơi trước mặt Y-a-cuốp và nói:
- Ăn đi! Đừng để sót một mẩu vụn nào. Chúng ta sẽ giúp cháu trở thành một tay bếp ngoại hạng bởi vì cháu biết thưởng thức những món ăn ngon. Hê! Hê! Hê!
Tiếng cười của mụ già vang lên một cách dễ sợ. Nếu Y-a-cuốp biết suy nghĩ thì nó đã đứng dậy rời khỏi bản ăn và chạy ngay về tìm mẹ. Nhưng món xúp quá đỗi hấp dẫn mà trong tâm trí trẻ con thì đói và bệnh háu ăn rất đáng kể.
Trong lúc Y-a-cuốp ăn ngon lành đĩa xúp mụ nhìn nó lẩm bẩm:
- A, phải rồi! Cái cây bé nhỏ, cái cây bé nhỏ mà mày sẽ không bao giờ tìm thấy, cái cây bé nhỏ tươi mát mà người ta hít…A! A! Mày sẽ không tìm ra cái cây ấy bởi vì chính ta cũng không tim ra. Mặc vây! Nếu mẹ đẻ mày có tìm thấy nó thì chuyện ấy sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Y-a-cuốp đã ăn xong đĩa xúp. Nó cảm thấy một nỗi mệt mỏi dễ chịu kéo đến như là một giấc ngủ khó cản lại. Cũng một phần vì mấy con sóc đến đốt trầm hương Ả-Rập trong mấy chiếc bếp con khiến cho làn khói thơm quyện trong không khí làm cậu bé ngây ngất.
Nó vươn vai cố gắng ngồi dậy. Nhưng nó không cựa quậy nổi và nhẹ nhàng ngả người lên mấy chiếc gối trên đi –văng rồi ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ thật kỳ lạ ám ảnh bởi những mộng mị: Y-a-cuốp mơ thấy mụ già mặc cho nó một tấm da sóc và nói với nó:
- Bây giờ mày phải hầu hạ bà! Hãy lấy xi đánh bóng đôi giày cho bà!
Nó rời khỏi đi văng nhanh nhẹn như một con sóc chính cống. Nó lấy dầu và bắt đầu đánh bóng lộn những chiếc gáo dừa mà mụ già mang trong chân. Trong cửa hàng bé nhỏ của bố nó, nó thường đánh giày cho các khách, Nó làm việc này khá thạo
Giấc mơ kéo dài…
Hình như một năm đã trôi qua mà Y-a-cuốp chỉ làm mỗi việc đánh giày cho mụ già. Sau thời gian ấy nó nhận việc bảo quản cái sàn nhà bằng thủy tinh, lau chùi những vết bẩn tí xíu với cái vỏ quả hạt dẻ bọc dạ rất mềm.
Lại một năm trôi qua với công việc ấy! Sau đó mụ già bắt Y-a-cuốp sàng lọc ánh nắng mặt trời, lấy những nguyên tử của nó ra để dùng làm bánh cho mụ già thường dùng. Mụ không thể ăn thứ gì khác vì mụ không còn răng nữa.
Y-a-cuốp làm việc này trong một năm. Rồi thì nó và lũ sóc nhận nhiệm vụ lấy nước cho mụ già uống. Công việc này rất tinh vi bởi vì không phải xách nước ở giếng đào hay hứng nước ở giếng nổi, chú bé phải dùng vỏ hạt dẻ hứng sương trên những cánh hoa hồng. Đó là thứ nước duy nhất mà mụ già uống.
Năm sau, Y-a-cuốp xuống nhà bếp làm người giúp việc. Chú bé rất khéo tay nhanh trí nên chẳng bao lâu đã trở thành phụ bếp, rồi phó bếp và cuối cùng là đầu bếp. Những món bánh ngon lành, những món pa-tê, những món sốt phức tạp, những món ăn cầu kỳ, Y-a-cuốp đều nắm được bí quyết. Lắm lúc chính cậu bé phải ngạc nhiên về tài nghệ phi thường của mình.
Đã bảy năm Y-a-cuốp săn sóc hầu hạ mụ già. Một hôm mụ bảo:
- Ta sắp đi đây. Bắt một con gà tơ làm thức ăn cho ta. Ta muốn đến lúc về gà vừa chín. Đừng quên rắc rau thơm. Mày biết lấy rau ở đâu rồi chứ? Trong buồng dọn cơm ấy.
Mụ già đi khỏi, Y-a-cuốp – vẫn trong giấc mộng – bắt gà, vặt lông và mổ. Nó để gà trên đĩa và vào phòng dọn cơm để tìm rau thơm.
Nó lục lọi khắp nơi đột nhiên chú ý đến một cái tủ nhỏ. Nó mở tủ. Tám chiếc giỏ đựng đầy một thứ cây kỳ lạ, nhánh và cây đều màu xanh. Hoa đỏ thắm viền vàng chói lọi. Cây có mùi thơm thấm thía.
Y-a-cuốp đưa cây lên mũi và nhận thấy đó là mùi thơm của món xúp ngon lành mà mụ già đã cho nó ăn hôm nó mới đến. Đúng rồi! Chính là mùi thơm ấy vì nó ăn nóng lắm khiến Y-a-cuốp bắt đầu hắt hơi rất mạn rồi tỉnh dậy.
Nó mở mắt, Nó đang nằm ngủ trên đi-văng trong ngôi nhà mụ già. Chung quanh nó, những con sóc và chuột lang đi đi lại lại và kêu ầm ĩ. Y-a-cuốp ngạc nhiên tự nhủ:
Chao ôi! Giấc mộng lạ lùng! Ta sẽ kể cho mẹ nghe chắc mẹ thú lắm. Có lẽ ta đã ngủ lâu lắm! Cầu mong cho mẹ đừng quá lo ngại!
Nó đứng dậy, nhưng ngay sau lúc đó nó va mũi vào cái bàn bên cạnh. Nó đau đớn kêu “Ái”
Ta thật dại dột đã ngủ quá lâu! – nó nghĩ thế- Chân tay rã rời. Ta đi lại rất khó khăn. Ta không quay đầu được vì các khớp xương cổ quá cứng. Chắc chắn là mẹ sẽ mắng ta.
Nó đi một cách khó nhọc đến cửa và mở cửa. Bầy sóc chạy toán loạn quanh nó. Nó nói:
- Hãy đến với ta, những con vật xinh xắn bó bỏng kia ơi. Ở trong cái nhà này chắc chúng mày buồn lắm. Đến đây nào! Chà! Chúng nó chạy trốn! Chúng nó sợ ta thì phải? Mặc kệ chúng, Ta không chờ chúng đâu!
Nó rời khỏi nhà, khép cửa rồi bắt đầu rảo bước rất nhanh.
Trời đã sáng tỏ. Điều đó làm nó yên lòng về thời gian mà nó đã ngủ. Đường phố rộn rịp khách qua lại. Họ chen đẩy nó, Tất cả tiếng ồn ào ấy làm cho nó bực mình
Giữa tiếng ồn ào, đã nhiều lần nó nghe thấy những người đi bên cạnh trao đổi:
- Chao ôi! Thằng bé này xấu xí quá! Xem kìa, cái mũi dễ sợ chưa? Và hai bàn tay nữa!
“ Nó ở đâu kia, thằng bé ấy? Y-a-cuốp tự hỏi và quay đầu nhìn tứ phía – Ta không thấy nó đâu cả! Ta sẽ hài lòng được nhìn thấy nó. Nhưng ta không muốn mất thời gian để mẹ ta phải nóng lòng chờ đợi”
Nó rảo bước nhanh hơn Cuối cùng nó đã đến chợ. Tim nó đập mạnh khi thấy mẹ nó ngồi sau hàng rau quả.
Gương mặt bà xanh xao và buồn bã. Như không chú ý đến những kẻ đi qua trước mặt, bà tựa đầu vào lòng bàn tay. Y-a-cuốp đặt nhẹ nhàng bàn tay mình lên vai mẹ và nói:
- Mẹ yêu ơi, xin mẹ đừng giận con! Con ở nơi ấy quá lâu không phải là lỗi của con đâu. Con xin giải thích để mẹ rõ.
Rai-a giật mình rồi nói cộc lốc:
- Mày muốn gì? Thằng ranh con xấu xí kia? Để cho tao yên nào, không thì sẽ biết tay tao!
- Mẹ ơi! - Y-a-cuốp kêu lên, nước mắt tuôn dầm dề - Mẹ yêu quý!
Rai-a kinh ngạc và phẫn nộ đáp:
- Y-a-cuốp của bà ư? Mày dám xưng là Y-a-cuốp của bà? Các bác nghe chưa? Cái thằng ghê tởm này tự xưng là thằng bé Y-a-cuốp đáng thương của tôi.
Một loạt tiếng ồn ào khinh bỉ lan nhanh trong các bà lắm điều ấy. Mụ bán cá kêu lên:
- Có thể nào như thế được? Thật là trơ trẽn khi đến làm tình làm tội chị Rai-a đáng thương, nhắc đến thằng bé kháu khỉnh của chị. Cách đây bảy năm, người ta đã bắt cóc nó. Thế còn chưa đủ hay sao mà còn để cho những đứa u mê, những con quỷ ngu đần đến chế nhạo chị ta? Không thể để như thế này được. Nếu mày không xéo khỏi đây tức khắc, thằng vô lại đáng nguyền rủa kia, tao sẽ rứt tai và cái mũi của mày ngay!
Tất cả các bà bán hàng đồng thanh một cách dễ sợ khiến Y-a-cuốp phải vắt chân lên cổ mà chạy, không dám nói thêm gì nữa để mẹ nó có thể nhận ra nó.
- Ta đến của hàng của bố, nó nói một mình trong lúc cố nén để khỏi bật ra tiếng khóc. Có lẽ bố nó sẽ đón nhận hay hơn.
Bác Ô-lim đang sửa một chiếc giày cũ. Y-a-cuốp đứng trước mặt bố nói:
- Xin chào bác cả!
Bác Ô-lim nhìn nó một cách lạ lùng và nói:
- Chào cậu! Cậu cần gì?
- Thưa có..và không ạ. Trước đây chú hy vọng sẽ được bố nhận ra ngay. Đọc trong cặp mắt bố nó nỗi ghê tởm kỳ dị, nó đau khổ quá chừng! Nó gợi chuyện:
- Cháu nhìn thấy bác làm việc chăm chỉ, cháu nghĩ chắc bác cần một người giúp việc. Bác không có cậu con trai sao?
Ô-lim thở dài, lau một giọt nước mắt:
- Thưa cậu, tôi có một đứa chứ! Khốn thay, người ta đã bắt cóc thằng bé cách đây bảy năm!
Cách đây bảy năm! - Y-a-cuốp kinh ngạc thì thầm: phải chăn những điều bác ấy nói đều là sự thật.
Ô-lim có vẻ như mê mải với những kỷ niệm buồn rầu nói tiếp
- Người ta bắt cóc thằng bé trong một ngày phiên chợ, thằng Y-a-cuốp xinh xắn của tôi ấy. Tôi từng nói với vợ tôi: “Bà đừng dại dột cho con đi theo các bà khách. Có ngày người ta sẽ bắt cóc nó mất!” và chuyện đó đã xảy ra. Một mụ già mà trước đó người ta chưa hề thấy xuất hiện yêu cầu vợ tôi cho thằng bé mang rau quả đi theo mụ ra về nhà, thế là thằng bé đi. Tội nghiệp, có phải nó đâu muốn đi ngay. Nó vâng lời mẹ thôi. Thế rồi nó không trở về nữa! Mất con, dạo ấy vợ tôi suýt phát điên lên vì đau khổ. Từ đó, bà ấy cũng như tôi thấy cuộc đời không có gì là thú vị cả!
Y-a-cuốp vừa run vừa hỏi:
- Thưa bác, không người nào biết rõ cái mụ bắt cóc trẻ con là ai sao?
- Không ai biết mụ ta! Tuy chúng tôi mất công tìm kiếm, chạy chọt, chúng tôi cũng không biết gì thêm. Chỉ có một bà chị họ của vợ tôi năm nay chín mươi tuổi nói: Đấy có lẽ là cái bà tiên kia, bà tiên mỗi thế kỷ đi ra khỏi nhà hai lần. Đoán theo những đặc điểm trên hình dạng vợ tôi tả, bà chị họ cho là bà ta đã gặp mụ tiên ấy cách đây năm mươi năm.
Ô-lim thở dài quay lại công việc của ông
- Bố không nhận ra mình! - Y-a-cuốp tự nhủ-Ta đã thay đổi quá chăng? Ôi, mụ tiên ác nghiệt đã cướp bảy năm cuộc đời ta. Mụ đã thế cho ta cái gì đây chứ?
Lúc ấy Ô-lim nhìn Y-a-cuốp với ánh mắt chế giễu.
- Nếu cậu không cần tôi giúp gì thì xin cậu cảm phiền đừng để cái mũi bự của cậu che mất ánh sáng trước cửa hàng tôi. Cái mũi kỳ quá! Người ta nặn ra cậu chắc không quan tâm đến sản phẩm của mình! Mang nó đi đâu cậu cũng sẽ va nó vào khắp nơi.
- Y-a-cuốp đưa tay lên sờ mũi. Eo ơi, cái mũi dài gấp đôi bàn tay nó
Đau khổ quá, nó run lẩy bẩy và nói với Ô-lim
- Xin lỗi bác, bác hãy làm ơn cho cháu mượn một cái gương
Ô-lim nhún vai bực tức  trả lời:
- Tôi không có! Toi không được là một thiếu niên bảnh trai như cậu và tôi không nghĩ đến việc ngắm mình để thấy đường nét tuyệt mỹ của cái thân hình bé nhỏ của tôi. Nếu cậu muốn có gương, xin mời cậu bước đến hiệu bác thợ cạo Xca-băng mà hỏi và để yên cho tôi làm việc.
Ô-lim cúi xuống vừa làu bàu vừa tiếp tục làm công việc của mình trong khi Y-a-cuốp rảo bước đến hiệu bác thợ cạo. Nó rất biết bác này vì nhiều lần nó đã chơi đùa, nhảy nhót trên đầu gối bác. Khi bước vào hiệu nó nói với bác thợ cạo:
- Bác Xca-băng, xin bác cho làm ơn cho cháu mượn cái gương. Cháu muốn ngắm mình một tý.
Ngay lúc ấy, bác thợ cạo, mấy người giúp việc và mấy ông khách đều quay lại nhìn Y-a-cuốp vừa bước vào trong cửa. Một chuỗi cười dữ dội vang lên! Bác Xca-băng hay tay ôm bụng cười ngất và hét tướng lên:
- Thưa ông lớn, ngài muốn tự ngắm mình ư? Hay lắm! Khi người ta có cái thân hình cân đối như vậy thì tự ngắm mình trong gương là một cái thú thần tiên. Tôi không phải là người phàm tục hay ghen tị để tước của ngài niềm vui ấy. Ngài cứ tự ngắm mình tùy thích và tha hồ để thấy rõ cái thân hình cân xứng, cái cổ vừa trắng vừa uyển chuyển, hai bàn tay búp măng, cái mũi xinh đẹp của ngài. Ôi, biết bao là sự hoàn thiện hoàn mỹ! Ngài cần tự ngắm, tự phục, tôi thông cảm lắm! Ngài hẳn là một tay chinh phục vô địch và ngàu đã khiến bao trái tim thổn thức, ngài thiếu niên xinh đẹp của tôi nhỉ?
Vừa nói, bác phó cạo vừa đưa gương cho Y-a-cuốp. Cậu bé nghiêng mình trên hình ảnh của mình và tự ngắm một cách tuyệt vọng.
A! Mụ già, mụ già ghê tởm đã giữ lời hứa với thằng bé dại dột từng chế nhạo cái cổ, cái mũi, đôi bàn tay của mụ! Mụ biến nó thành con quái vật đến nỗi mẹ và cha nó cũng không thể nhận ra thằng bé Y-a-cuốp kháu khỉnh của họ qua thân hình bất hạnh này!
Cái mũi dài lòng thòng trên cằm. Cặp mắt lồi lờ đờ, một cái đầu to tướng cắm giữa hai vai rộng, không có cổ. Một thên trên xấu xí gù cả trước ngực và sau lưng với đôi ống chân yếu ớt loèo khoèo. Hai cánh tay dài với những ngón tay lông lá và đầy mấu y như giống như khỉ. Đó là hình ảnh mà tấm gương phản chiếu Y-a-cuốp nhìn, thấy rùng rợn.
Xca-băng đang cười nhắc lại:
- Ê, cậu có thấy khá bảnh trai không nào? Này, tôi bàn với cậu một việc, Đối diện với hiệu tôi, một bác thợ cạo cạnh tranh với tôi vừa thuê được một tên khổng lồ để câu khách. Nếu cậu bằng lòng ở lại giúp việc cho tôi, tôi xin cung cấp cho cậu cái ăn, cái mặc, chỗ ở bởi vì tìm một chú lùn-lùn tịt như cậu – thân hình của cậu là của một đứa bé lên mười chứ mấy!-còn khó tìm hơn là một tên khổng lồ. Cậu có muốn giúp việc cho tôi không? Cậu chỉ cần đứng trước cửa hiệu đưa khăn lau mặt cho khách. Tôi cam đoan rằng cậu sẽ nhận được bộn tiền thưởng.
- Nghe lời bác thợ cạo đề nghị làm như một vật kỳ dị để câu khách. Y-a-cuốp cảm thấy đắng cay, tủi nhục vì bị xúc phạm. Tuy vậy, nếu mụ tiên độc ác kia đã giữ lại cái thân hình trẻ con của nó, mụ cũng không thể ngăn cản tư duy của nó phát triển và trưởng thành. Chàng thiếu niên suy nghĩ về bổn phận đầu tiên cuả mình là phải làm cho mọi người đừng ghét bỏ nó. Nó từ chối rất nhã nhặn và rút lui sau khi xin lỗi đã trót làm mất thời giờ của bác thợ cạo
Lòng nó nặng trĩu. Cái buồn nhất là không phải tại nó xấu xí mà vì bố mẹ nó không thương yêu nó nữa. Nó muốn cố gắng một lần nữa và nó đến gần mẹ nó, Bất thình lình nó nói với bà Rai-a, giải thích những sự việc xảy ra với nó, nhắc lại nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ, những chi tiết làm cho bà Rai-a vô cùng cảm động, Không biết tính sao về những điều bà nghi ngờ, bà bèn chạy đến cửa hàng bác thợ giày, đưa Y-a-cuốp đi theo.
Bà kể lại những gì thằng lùn vừa kể. Ô-lim kêu lên:
- Đàn bà thật là ngu ngốc! Hồi nãy, thằng nhóc dễ sợ ấy đã đến hỏi tôi về thời thơ ấu của Y-a-cuốp. Có thể nhờ thế mà nó biết được những gì nó vừa kể lại cho bà nghe. Đồ khốn nạn, hãy đợi đó! Khi muốn chế giễu chúng tao, mày sẽ nhận được gì?
Bác thợ giày xông đến Y-a-cuốp trước khi đôi chân bé nhỏ của thằng bé đáng thương có thể đưa nó thoát khỏi nơi nguy hiểm, thì nó đã nhận được vô số quả đấm điếng người làm nó phải hét lên
Người ta chạy đến vừa la ó vừa đuổi theo nó. Không ai thèm giúp đỡ nó, người xấu xí khó tìm được bạn và và người che chở. Kiệt sức vì đau khổ và mệt mỏ, nó gieo mình lên bậc cửa một nhà thờ ở một phố hoang vắng. Nó nằm ở đấy cả đêm, than thở và khóc mãi cho đến khi giấc ngủ đến.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy nó suy nghĩ về số phận trời dành cho nó. Bố mẹ nó đã đuổi nó. Nó làm gì để kiếm sống bây giờ? Lời đề nghị của bác thợ cạo Xca-băng làm tổn thương lòng tự trọng của nó. Nhưng nó phải sống! Một niềm hy vọng lờ mờ hiện ra từ nơi sâu thẳm trái tim đẫm máu, hy vọng về một ngày mai tươi sáng hơn thì ai trong chúng ta mà không mang trong đáy lòng?
Nó nghĩ bảy năm ở trong nhà bà tiên nó học khối điều vô ích như đánh bóng những đôi giày bằng sọ dừa và lau bóng sàn nhà thủy tinh thì điều trái lại, nó cũng đã trở thành một anh bếp mà tài nghệ khó người sánh kịp. Nó sung sướng tự nhủ:
“Hoàng đế chúng ta là một người thích ăn ngon, Đã nhiều lần ta nghe mẹ ta nói về cái tính háu ăn ấy của hoàng đế với quan đầu bếp của ngài. Nếu ngài là một chiến tướng như đức Tiên đế thì ta chẳng mơ ước gì. Nhưng với ngài, ta có thể nên người hữu dụng, người cần thiết đằng khác để hoàng đế có những món ăn hợp khẩu vị của ngài. Ta có lối thoát rồi!”
Tràn đầy hy vọng và quyết tâm nó đến ngay tòa lâu đài mà nhà vua đang nghỉ mát trong dịp lễ Bát-đa để săn bắn trong khu rừng nhiều muông thú này. Nó van xin hết sức khẩn khoản các lính gác để được phép vào trong sân thưa chuyện với viên quản lý. Khi nhìn thấy Y-a-cuốp viên quản lý khó mà nhịn được cười, nhưng chức vụ buộc ông phải giữ vẻ nghiêm nghị. Với một cử chỉ đầy quyền lực, ông cắt ngang những trò nhạo báng quanh con người bé nhỏ, rồi hỏi chú:
- Cậu muốn gì? Làm người lùn của hoàng thượng chăng? Ta sẽ nhận cậu ngay tức khắc.
Y-a-cuốp đỏ mặt lên khi nghe nói thế. Nó lễ pháp trình thưa:
- Bẩm quan lớn, cháu đến xin làm bếp. Cháu rất thạo nghề nấu ăn. Nếu bác đầu bếp vui lòng thử tay nghề của cháu thì cháu hy vọng và tin tưởng đức hoàng thượng để được hài lòng.
Nó ăn nói một cách nhỏ nhẹ, lễ phép khiến viên quản lý vốn là người tốt bụng, cầm tay nó dẫn ngay đến gặp bác đầu bếp. Vừa đi, viên quản lý vừa nói:
- Cháu dại quá! Cháu muốn làm bếp trong khi có thể lợi dụng cái khổ người bé nhỏ và hình dạng của cháu để làm thằng lùn cho nhà vua, Ta cam đoan hình thù của cháu người ta trôgn sẽ vui thích lắm và cháu sẽ làm giàu dễ dàng nếu làm hề cho nhà vua.
Khi thấy chú bếp tập sự, bác đầu bếp bật cười chảy cả nước mắt. Bác nói với Y-a-cuốp:
- Không khéo mày tưởng bếp của ta thấp như những chiếc ghế đẩu? Mày hãy đợi cao hơn một chút nữa mới trông được các xoong nấu
Y-a-cuốp tha thiết van xin:
- Xin bác hãy thử xem cháu có thể làm gì! Hãy đặt cháu làm một món ăn rất khó rồi bác sẽ biết ngay tài nấu nướng của cháu. Làm thí nghiệm này, bác có mất công mất của gì lắm đâu?
Giọng nói của nó quá chân thành khiến bác đầu bếp nhìn viên quản lý rồi nói:
- Thôi được, Chúng ta có nhiều dự trữ. Cháu có làm hỏng vài quả trứng, một thìa bột thì kho của hoàng thượng không vơi đi đâu. Chúng ta lại được chứng kiến một hoạt cảnh rất vui1 Nào hãy thử đi!
Bác đầu bếp đi trước dẫn theo viên quản lý và Y-a-cuốp vào nhà bếp
Đây là một ngôi nhà đồ sộ. Hai mươi cái bếp lò đang reo phần phật, cả một đám đông các ông bếp và phụ bếp đang chăm chú theo dõi mấy cái xoong. Một mương nước chảy qua ngôi nhà đưa nước vào bể nuôi cá. Mười buồng chứa đủ các sơn hào hải vị, thịt, rau, mở cửa thành hai dãy. Bác đầu bếp gọi bác phụ bếp:
- Ê, này, hoàng thượng truyền dọn điểm tâm món gì vậy?
- Cháo Thái lan và chả viên Hăng-bua
Quay lại phía Y-a-cuốp, bác đầu bếp hỏi một giọng có ít nhiều chế giễu:
- Cháu có biết làm các món ấy không?
- Thưa bác, cháu làm được ạ
Bác phụ bếp nhìn chú lùn một cách khinh khỉng và kêu lên:
- Ồ! Chắc là không! Ít nhất là hắn chịu thua món chả mà công thức chúng tôi còn giữ bí mật
- Thế mà cháu làm được đấy!- Y-a-cuốp nói một cách tự tin làm cho mọi người kinh ngạc-Dễ thôi mà! (đến đây nó hạ giọng chỉ để bác đầu bếp và phụ bếp đủ nghe). Muốn làm chả viên phải cho tôi bốn thứ: thịt, rồi mỡ vịt, rượu vang đỏ, và gừng. Tôi sẽ thêm một nhóm cỏ “khoái dạ” băm nhỏ.
Bác đầu bếp và bác phụ bếp giật mình đánh thót một cái vì kinh ngạc và kêu lên:
- Thật đúng công thức! Trời đất quỷ thần nó học ở đâu mà nắm được nhỉ?
- Chắc cháu là tay bếp lành nghề- Bác đầu bếp nói thêm và lắc đầu có vẻ ngỡ ngàng, ta cũng chưa nghĩ đến thứ rau cỏ đó. Nhưng đừng bắt chúng tớ tin vào lời nó, bác đợi cháu thực hành đấy!
Y-a-cuốp sung sướng gật đầu. Sau khi khoác tạp dề và xin một cái ghế đẩu, nó bắt đầu nấu nướng.
Người ta đặt vừa tầm tay nó những thức nó yêu cầu, Nhiều ghế đẩu được đặt cạnh nhau, cái này bên cái kia để nó di chuyển trên khoảng đường dài của bếp lò.
Mọi người im lặng. Người ta phục những thao tác lành nghề, tác phong nhanh nhẹn của con người bé nhỏ ấy. Khi những đĩa thức ăn được đặt lên bếp lửa, nó ngồi xuống và bắt đầu đếm thong thả một, hai, ba, bốn…đến năm trăm. Đến con số ấy, nó ra hiệu cho bác phụ bếp đưa nó một cái đĩa và một cái liễn đựng xúp rồi nó đổ thức ăn đựng trong hai cái xoong vào bát và đĩa. Nó quay lại nói với bác đầu bếp:
- Thưa bác, xin mời bác nếm thử món cháo và những viên chả, xong xin bác cho ý kiến.
Trịnh trọng, bác đầu bếp nhúng chiếc thìa bằng vàng trong bát cháo múc một ít, đưa thìa lên môi nếm rồi tặc lưỡi tuyên bố:
- Tuyệt, Quả là thật tuyệt!
Bác lại lấy nĩa nhón một viên chả với vẻ trịnh trọng như hồi nãy. Sau khi nếm, bác thán phục nói:
- Ôi! Thật là vượt xa sự mơ tưởng của ta!
Viên quản lý, bác phụ bếp lần lượt nếm món ăn và đều công nhân chưa bao giờ họ được ăn ngon như thế. Người ta đem dọn bữa điểm tâm cho hoàng đế trong những chiếc đĩa bằng vàng.
Trong lúc đó, Y-a-cuốp khiêm tốn nhận những lời khen thưởng nồng nhiệt của bác bếp và viên quản lý.
Một tiếng đồng hồ sau, một viên thái giám xuất hiện trước cửa nhà bếp truyền lệnh:
- Hoàng thượng truyền lệnh cho người đã nấu bữa điểm tâm mà người vừa dùng lên hầu người
Bác đầu bếp nắm tay Y-a-cuốp nói:
- Đi, đi cháu! Đến mà nhận những lời ban khen xứng đáng với cháu. Bác không bao giờ có ý nghĩ cướp công cháu.
- Hạnh phúc đến quá bất ngờ khiến Y-a-cuốp run lên. Khi nó quỳ trước mặt hoàng đế, nó không cảm thấy tủi nhục nữa trước những tiếng cười ầm ĩ mà thân hình của nó đã gây ra trong đám quan chức hầu cận nhà vua.
Vả chăng trận cười ấy lặng đi rất nhanh vì nhà vua cau mày nhìn bọn tùy tùng và phán:
- Nhà ngươi là một vĩ nhân và trấm muốn mọi người đều phải biết như thế! Từ ngay ngươi sẽ  là đầu bếp riêng của trẫm. Trẫm phong cho nhà ngươi chức phó trưởng bếp. Trẫm chỉ dùng những món ăn do chính ngươi nấu nướng. Những người phục vụ trẫm đều mang tên mà trẫm đặt cho nên từ nay ngươi sẽ được gọi là Na-sông.
Vua hướng về phía bác đầu bếp và nói tiếp:
- Còn phần khanh, khanh hãy đến bảo quan thủ kho xuất kho khanh một trăm duy-ca. Như thế cũng chưa là quá đáng để thưởng khanh về cái giây lát thần tiên mà ta được hưởng trong lúc dùng bữa ăn sáng. Kể từ khi ta trị vì, ta chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc sâu sắc như lúc ấy!
Bác đầu bếp và Y-a-cuốp Na-sông sung sướng tột bực quay về, nghiễm nhiên như hai người bạn tốt nhất đời.
Ngày tháng trôi qua, cậu bếp mới của nhà vua sung sướng và chăm chỉ trong công việc của mình. Na-sông làm vừa lòng đức vua. Trước kia, ngài dễ cáu kỉnh, bây giờ mỗi ngày ngài lại một dịu hiền, cởi mở hơn sau mỗi bữa ăn do Na-sông nấu dọn. Nhiều khi Na-sông trổ tài vượt bực thì nhà vua đòi nó cùng với viên đầu bếp đến cạnh bàn ăn và tự tay ngài cho họ ăn:
- Ăn món này đi! – Ngài nói với họ và xúc họ một miếng ngon. – ta nghĩ đấy là phần thưởng cao nhất ta có thể ban cho các ngươi!
Cả triều đình, cả kinh đô kính nể anh bếp được nhà vua sủng ái! Không ai nghĩ đến chuyện nhận ra “ngài Na-sông”, thằng bé dị hình khốn khổ đã từng khóc trong khi soi gương ở nhà bác thợ cạo Xca-băng. Khi nó đi chợ chọn mua rau, quả, thịt, cho bếp nhà vua thì người ra đua nhau vái chào và cười duyên với nó. Những ngày ấy, Na-sông cho những tên nô lệ đi theo nó khuân hết các mặt hàng mà mẹ nó bày ra. Nó đi rất nhanh qua trước mặt bà Rai-a và không hề ngoảnh lại vì ngại mình cảm động quá sẽ làm cho mẹ nhận diện mình một lần nữa và vẫn không đạt kết quả.
Hai năm trôi qua. Một sự ngẫu nhiên đến làm thay đổi nếp sống của Na-sông.
Một buổi sáng, nó đi chợ về để ý đến một mụ đáng lẽ rao ầm ĩ món hàng của của mình bày ra mà không nói gì cả. Hàng đó là ba con ngỗng to ngon lành nhốt chung một lồng. Na-sông đang tìm-đúng là ngỗng-để làm món ăn ngày hôm sau. Nó trả tiền không mặc cả theo đúng giá người bán đòi, rồi mang lồng ngỗng trên vai nó trở về cung vua.
Trong khi rảo bước, nó nghe một con ngỗng rên rỉ và thở dài y như người vậy
Ngạc nhiên, nó dừng lại để cái lồng ngỗng xuống đất và tự bảo mình:
- Ta thấy con ngỗng này khỏe mạnh, thế mà lầm rồi, nó ốm! Có lẽ ta phải nhanh nhanh làm thịt cho nó khỏi phí
- Nếu anh làm thịt tôi-ngỗng tức tối bảo-thì anh không phải chờ đợi lâu để theo tôi về âm phủ đâu! Hãy tin là thế!
Na-sông rất đỗi ngạc nhiên kêu lên:
- Một con ngỗng biết nói! Chuyện này mà có thật sao? Hãy yên lòng người đẹp của ta ạ, ta không xử sự với một con chim quý như với các gia cầm thông thường đâu! Ta nghĩ chắc có phù chú bùa yểm gì đây! Ta không quên là cách đây mấy năm ta đã làm một con sóc! Ta đánh cuộc là mày không từ một quả trứng nở ra như bạn ngỗng của mày!
Ngỗng nhìn Na-sông một cách buồn bã và nói:
- Anh không lầm đâu! Tôi không ngờ rằng Mi-mi con gái của chân nhân “1”  “1” Chân nhân: người tu hành đắc đạo (NXB) Oa-téc-bốc thần thông lại phải thành thức ăn trong dạ dày nhà vua!
Xúc động vì nỗi buồn của ngỗng, Na-sông nói;
- Hãy yên lòng đi, Mi-mi tiểu thư ơi! Tôi sẽ không vặn cổ cô đâu và giữ cho cô không bị người khác mổ, tôi sẽ để cô ở trong một cái lồng trong phòng tôi. Tôi sẽ nói với mọi người là tôi đang vỗ béo cô để dâng lên hoàng thượng xơi, nhưng thật ra, tôi chỉ chờ thời cơ để giải phóng cô.
Ngỗng nhìn ân nhân của mình một cách cảm phục, Na-sông mang lồng ngỗng lên vai và trở về tòa lâu đài. Nó bắt đầu vào việc xây dựng nhà ở cho cô khách trọ.
Mỗi ngày, sau khi hoàn thành công việc nó leo nhanh lên phòng của mình để cho Mi-mi ăn quà, bánh và trò chuyện với cô bạn. Nhờ thế nó biết rất rõ cô gái của Oa-tê-bốc chân nhân cư trú trên một hòn đảo ở gần bờ biển Ấn độ, cô đã bị một bà tiên thù địch với bố cô biến cô thành ngỗng và mang cô đi biệt xứ.
- Bà ta thề là em phải chết – Mi-mi rùng mình kết thúc câu chuyện. – Nhờ anh mà mụ già ác nghiệt không hoàn thành được việc trả thù!
Na-sông hỏi Mi-mi vài chi tiết về mụ tiên độc ác và qua hình dáng Mi-mi ta, nó nhận ra ngay mụ già mua bắp cải ngày xưa. Nó kể lại cho cô bạn mới nghe câu chuyện của nó. Những câu chuyện trao đổi của đôi bạn thường chấm dứt không thay đổi bằng lời an ủi củaMi-mi:
- Tất cả những nỗi đau khổ của chúng ta sẽ chấm dứt! Anh đã hứa đưa em về với bố mẹ em sau khi dành dụm được đủ số tiền lộ phí đến hòn đảo quê hương em. Bố em sẽ trả lại cho em hình dáng ban đầu. Điều ấy chẳng khó khăn gì đối với cụ. Còn về phần anh em có một kinh nghiệm về phù phép. Theo anh kể về lời lẽ của mụ tiên già, thì cái cây mà anh chỉ cần tìm được đúng loại cây ấy và hít thử nó thì sẽ trở lại là người thanh niên tuấn tú trước kia.
- Xin thánh Alo chứng giám lời cô nói!- Na-sông chứa chan hy vọng khẩn cầu như thế.
- Trong khi chờ đợi sự biến dạng tốt đẹp mà cả hai đều mơ ước, những câu chuuyện giữa Na-sông và cô khách trọ là niềm khích lệ và niềm an ủi đối với hai người đau khổ.
Họ kết bạn với nhau được hai tháng thì một ông vua láng giềng của Ba-tư đến thăm viếng hoàng đế tại cung mùa hè của hoàng đế và săn bắn với ngài
Trước khi vị khách đến ít hôm. Na-sông được mời lên nghe nhà vua truyền rằng:
- Vua Ri-an-da sẽ ở lại triều đình ta một tháng. Người rất sành ăn và đầu bếp ngài nổi tiếng vô địch trên hành tinh này. Bởi vậy trậm đợi nhà ngươi vươn lên một bậc để giữ uy thế của trẫm và làm tiêu tan sự khoác lác của của Ri-an-da. Đừng tiếc tiền của trẫm! Trẫm thích nhà ngươi lãng phí vàng, ngọc của trẫm còn hơn là phải đỏ mặt, thẹn thùng với vua Ri-an-da. Nếu nhà ngươi làm ta vừa lòng ta sẽ hậu thưởng. Nếu không…Nhưng ta sẽ hài lòng bởi vì ta đã ra lệnh cho ngươi phải giành thắng lợi.
Na-sông hứa sẽ cố gắng hết sức để làm vừa lòng nhà vua. Nó bắt tay ngay vào việc lên các thực đơn, cái nào cũng đầy vị ngon, thức quý cả. Trong muời lăm hôm, các món ăn dọn ở bàn ngự thiện đều là đề tài chuyện vãn của thần dân và chỉ nói về các món ăn kỳ tài mà Na-sông dọn ra cho hai vị vua dùng, những người ít háu ăn nhất cũng đủ thèm rõ dãi.
Hoàng đế rạng rỡ. Vua Ri-an-da dùng bữa ăn năm lần mỗi ngày với một thích thú luôn luôn mới mẻ và Na-sông được gọi lên sau bữa ăn để nhận những lời khen của hai vị thực khách.
Sau ngày thứ muời lăm, trong lúc khen ngợi người phó trưởng bếp như anh ra đáng được khen vua Ri-an-da nói:
- Na-sông nhà ngươi cho ta ăn những món ăn tuyệt diệu, thực đơn nhà ngươi đa dạng một cách lạ lùng! Nhưng có một điều làm ta ngạc nhiên là nhà ngươi chưa dọn cho chúng ta món “pa-te đế vương”, món ăn tuyệt nhất trong thiên hạ.
Na-sông chưa bao giờ nghe nói đến món chả hấp mang tên kỳ lạ ấy, tuy vậy nó không hề nhíu lông mày và cúi đầu cung kính trả lời:
- Muôn tâu thánh thượng kẻ hạ thần chưa dọn món ấy vì món “pa-te đế vương” được coi như là món ăn vĩnh biệt của người đầu bếp mà hạ thần thì ao ước còn được vinh dự phục vụ thánh thượng lâu dài:
Hoàng đế chủ nhà nói:
- Nhà ngươi trả lời hay lắm Na-sông ạ! Nhưng vị hoàng thượng bạn ta đã làm vinh dự cho nhà ngươi khi hai người đòi dọn món “pa-tê đế vương”, cho nên trẫm muốn ngay trong thực đơn ngày mai sẽ có ghi món ăn ấy!
- Lệnh hoàng thượng sẽ được thi hành! –Na-sông trả lời và cúi chào sát đất. Nó cố lấy một dáng điệu hoan hỉ
Nó lui ra lòng nặng trĩu. Món pa-tê ấy là gì? Tất cả những cố gắng của nó trong mười lăm ngày qua được ích gì nhỉ? Thế mà lúc nào cũng nghiêng mình trên những bếp lò để theo dõi rất nhiệt tâm những xoong thức ăn y như các xoong ấ là nồi luyện đá thành vàng không bằng.
Na-sông leo nhanh lên phòng riêng kể lại cho cô bạn ngỗng nghe nỗi khổ tâm của nó. Cô bạn ngỗng chăm chú nghe rồi nói:
- Đừng buồn, anh Na-sông thân mến ơi em không biết cách nấu món “pa-te đế vương” nhưng em cũng biết công thức nấu. Đây là những gì anh cần dùng.
Na-sông rạng rỡ khi nghe Mi-mi kể các món cần thiết khi nó làm món pa-tê đó và vội vàng thực hành. Thí nghiệm đầu tay của nó được bác đầu bếp và viên quản lý khen tuyệt diệu.
Sau khi nếm một miếng pa-tê Mi-mi nói:
- Cách làm chưa chắc là chính xác! Nhưng khi những người làm nghề tuyên bố nó xứng đáng là món ăn của vua chúa thì anh có thể tin tưởng khi pha nấu
Sáng hôm sau, Na-sông trịnh trọng dâng lên hai vua món pa-tê trang trí đầy những bông hoa
Vua Ba-tư tọng ngay một miếng đầy mồm và nói một cách hoan hỉ:
- Quả tôi có một anh vua bếp! Thật là tuyệ! Y vẫn thành công với món pa-tê này cũng như các món khác.
Ri-an-da ngửi món pa-tê mà anh bếp đã dọn trên đĩa của ngài. Ngài nhắm một tí, lắc đầu và nói:
- Thật ngon đấy! Nhưng chưa phải là món “pa-tê đế vương”
Hoàng đế Ba-tư lại suýt nghẹt thở phẫn nỗ. mặt ngài xám ngắt rồi đỏ bừng ngài quắc mắt nhìn Na-sông rồi thét lớn:
- Mày nghe thấy chưa? Thằng trâng tráo khốn nạn., thằng chúa vụng, thằng bếp đáng ở với chó kia! Ông bạn đế vương của ta tuyên bố đây không phải là món pa-tê mà ta truyền lệnh cho mày dọn! Mày thực hiện lệnh của ta thế à? Ta sẽ cho băm cái thân hình khả ố của mày để làm chả cho mà xem!
Na-sông run rẩy và xám ngắt phủ phục dưới chân hai vị vua và cố sức trấn tĩnh, Giấu một nụ cười đắc thắng trước cơn giận dữ của hoàng đế Ba-tư và thích thú thấy hoàng đế cùng tên bếp bị bắt bí, vua Ri-an-da nói:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ đừng quở chú bé khốn khổ này! Chú ấy đã làm hết sức mình nhưng chú không thể theo kịp viên đầu bếp của tôi và cũng chưa nắm hết các bí quyết trong nghệ thuật nấu ăn, đặc biệt là món pa-tê tuyệt diệu này. Hương vị của món ăn tuyệt vời đó là do một loại thảo mộc chỉ mọc riêng ở đất nước tôi.
- Thế loại thảo mộc ấy tên gì? – Hoàng đế trong cơn thịnh nộ run lên hỏi
- Cỏ hắt hơi – vua Ri-an-da đáp
Nhà vua liền truyền lệnh cho anh bếp dở chết, dở sống không đem món “pa-tê đế vương” chế biến đúng công thức có cỏ hắt hơi làm gia vị dọn cho chúng ta thì đầu mày sẽ lăn xuống dưới cái bậc thang này! Ta phán rồi đấy
Na-sông trở về buồng riêng, người như đã chết Thấy bạn lại thất vọng, Mi-mi hỏi thăm nguyên do rồi an ủi:
- Được rồi! Chưa phải là cùng đường chuột chạy đâu! Bố em có dạy cho chị em chúng em nhận biết các loại thảo mộc. Em biết loại –cỏ hắt hơi- đó. Vua Ri-an-da nói loại có ấy chỉ mọc trên lãnh thổ của ông ta thì đó là do ông không biết hoặc vì ông cố tình nói dói để lòe anh và hoàng đế. “Cỏ hắt hơi” thường mọc dưới những gốc cày lật, trong những nơi ẩm ướt
Cặp mắt sáng ngời tia hy vọng Na-sông reo lên:
- Trong vường hoa gần hồ có một cụm cây lật ấy
- Chúng ta sẽ đi đến đó- Mi-mi nói-em sẽ tìm “cỏ hắt hơi”
Na-sông ôm ngỗng trên tay và rời phòng mình, Bọn lính gác ngỡ nó chạy trốn cơn giận dữ của nhà vua nên cố cản nó lại. Nó nói:
- Xin các bác cho tôi đi! Tôi đến vườn hoa tìm những thứ cần thiết để làm món pa-tê kia. Vườn hoa có tường che kín. Tôi không có khả năng chạy trốn được đâu mà các bác lo.
- Thế thì hãy đi đi-võ qua trực gác bảo- Nếu anh không về trước mặt trời lặn thì tôi sẽ thả chó đuổi anh đấy!
Na-sông cám ơn rồi bắt chân lên cổ chạy nhanh đến chùm cây lật và cái hồ trong vườn ngự uyển. Mi-mi lấy mỏ đài bới, rứt tỉa cây và cỏ tìm kiếm rất lâu. Vì lo lắng, tim Na-sông đập nhanh trong lồng ngực. Nếu ngỗng không tìm được, nó tính chỉ còn cách là nhảy xuống hồ để tự tìm sự yên tĩnh và quên hết những khổ đau kỳ quái chồng chất bấy nay! Mi-mi lo ngại thì thầm:
- Trời sắp tối rồi mà tôi không tìm thấy gì!
Nhưng khi nó ngoảnh đầu nhìn bốn phía, nó phát hiện trên bờ bên kia có một cây lật cổ thụ đứng một mình, đồ sộ tỏa cành lá sum sê, bóng trải dưới đất đen dày như đêm tối.
- Ta đến đó nhanh lên! Mi-mi gọi Na-sông trong khi nó bay về hướng cây lật với tốc độ đôi cách cho phép nó. Nó thầm nói chỉ để cho nó nghe.
- Đây là hy vọng cuối cùng của chúng ta!
Na-sông chạy đứt hơi đuổi theo Mi-mi. Khi nó đến gần cây lật, nó thấy bạn nó đang vỗ cánh hoanh hỉ. Mi-mi hét lên:
- Em đã tìm thấy “cỏ hắt hơi” Ở đây có một bụi rất xanh tốt! Anh sống rồi!
Nó lấy mỏ trao cho Na-sông đang tràn trề hạnh phúc, một đoạn cây nhỏ nó vừa rứt được. Thấy bạn ngạc nhiên và xúc động ngắm thân cây mảnh dẻ có lá màu xanh, có hoa đỏ tươi viền vàng chói lọi.  Mi-mi lại hỏi:
- Anh làm sao thế? Tại sao anh lại tái mặt?
Na-sông cảm động quá run lên, nói lắp bắp:
- Ôi, hình như ! Ừ, tôi, có lẽ không lầm đâu. Cũng cái mùi thơm này…mùi thơm của bát xúp trứ danh của mụ tiên ác. Đúng là cũng cái cây này tôi đã ngửi ở nhà mụ già ác nghiệt kia để trở thành dị dạng như thế này! Vâng, bây giờ tôi có thể quả quyết…
- Đừng ngửi cái hoa này như thế! Mi-mi dõng dạc bảo! Sau này, lát nữa đã! Trời sắp tối rồi. Chúng ta chỉ còn đủ thời gian để nhổ một bui và trở về phòng ngay để khỏi bị người ta thả chó ra xé xác chúng ta.
- Na-sông nghe lời cô bạn gái. Mấy phút sau, một tay ôm ngỗng, một tay ôm chặt mớ cỏ quý, nó trở về phòng riêng.
Khi nó tin chắc không có ai nhòm ngó nó bèn đưa cái mũi dài của nó ngập trong bó cỏ và hít mạnh cái mùi thơm nồng nàn. Nó khấn thầm:
- Thánh Ala ơi! Xin ngài hãy cứu con! Hãy cho con cởi cái lốt xấu xí này!
Cái mũi dài ngoẵng của phó trưởng bếp tan đi như tuyết dưới ánh mặt trời, Sung sướng Mi-mi đập cánh rối rít. Gương mặt Na-sông lại trở nên thanh nhã. Thân hình lớn lên và thẳng thớm ra, cổ trồi lên uyển chuyển và trắng mịn. Trong chốc lát, Na-sông không còn nữa: Y-a-cuốp- chàng thanh niên bảnh trai đã thay thế! Nó ôm chặt ngỗng vào trong đôi tay hét lên:
- Mi-mi thân yêu, nhờ em mà tôi có hạnh phúc này! Tôi không bao giờ quên ơn em! Chúng ta hãy đi ngay về xứ sở của bố em để bố thu lại nguyên hình người cho em - Y-a-cuốp cầm cái túi đựng tất cả số tiền mà nó dành dụm được gồm có vô số đồng vàng do nhà vua ban thưởng một cách hào phóng. Nó gói quần áo trong một gói nhỏ và ôm ngỗng lên, nó ra khỏi cung điện.
Lính gác cho người thanh niên lạ mặt đi qua. Ngay tối hôm đó Y-a-cuốp lên đường đến hải cảng gần nhất. Sáng hôm sau, nó đến nơi sau một đêm đi bộ ròng rã. May thay có một chiếc tàu mới trương buồm để đi Ấn đô, Y-a-cuốp trả tiền rất hậu nên dễ dàng được nhận chở đến hòn đảo chân nhân Oa-téc-bốc cư trú. Cuộc hành trình thuận buồm xuôi gió. Oa-téc-bốc suýt chết vì sung sướng khi được gặp lại cô con gái yêu quý. Ông lập tức làm phép thu lại nguyên hình cho con, một cô thiếu nữ xinh đẹp duyên dáng nhất thiên hạ. Y-a-cuốp lâu nay vẫn đinh ninh tin tưởng là thế bởi vì trong kiếp gia cầm, Mi-mi vẫn giữ dáng đi đứng ung dung, thanh nhã.
Oa-téc-bốc tặng Y-a-cuốp rất nhiều phẩm vật. Nó rời đảo trên một chiếc tàu mang đầy của cải. Mi-mi theo tiễn bạn một đoạn đường trên mặt biển. Cô đưa bàn tay cho Y-a-cuốp hôn và nói:
- Tạm biệt và ước nhanh chóng gặp lại anh! Em hy vọng là cuộc sống sẽ cho chúng ta đoàn tụ để không bao giờ phải xa nhau. Số phận đã gắn bó chúng ta quá khăng khít nên trong tương lai chúng ta không thể sống như những người xa lạ. Nhưng chúng ta hãy còn quá trẻ, hãy để thời gian làm việc lo gì!
Y-a-cuốp trở về thành phố quê hương. Lần này nó không phải mất công khó nhọc gì để làm cho bố mẹ nhận ra, Câu chuyện kể về những nỗi cơ cực của nó làm bố mẹ khóc ròng. Hai ông bà hối hận vì đã hắt hủi đứa con bé bỏng, tội nghiệp. Bây giờ ngắm chàng thanh niên tuấn tú vốn là thằng Y-a-cuốp xưa kia vợ chồng ông Ô-lim khôn xiết vui mừng và hãnh diện.
Ông Ô-lim thôi không vá chữa giày cũ nữa. Bà Rai-a cũng hết bán rau quả ở chợ. Nhờ sự hào phóng của Oa-téc-bốc, Y-a-cuốp tậu được một cửa hàng rộng rãi mua nhiều vải lụa, đồ trang sức quý giá. Nhờ biết buôn bán nên chẳng bao lâu Y-a-cuốp đã trang bị được một chiếc tàu và giao dịch với Ấn độ.
Người ta kể rằng anh trở thành một nhà buôn giàu có, kết hôn với Mi-mi, cô con gái của pháp sư Oa-téc-bốc thần thông và đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc.
Còn về phần ông vua thì món “pa-tê đế vương’ là nguyên nhân cảnh bát hòa dai dẳng giữa hai bên. Vua Ri-an-da bảo hoàng đế Ba-tư đã cho chú bếp trốn mất để cứu tính mạng chú ta. Hoàng đế  lấy làm bất bình về những lời trách móc đó, và thế là một cuộc chiến tranh tốn kém và kéo dài đã nổ ra.
Tất cả đều vì một thằng nhóc con bà hàng rau quả đã dám nhạo báng cái mũi dài của bà khách hàng. Nguyên nhân nhỏ, hậu quả khó lường

Dịch qua bản tiếng Pháp
(Contes merveilleux của Vallerey Nhà xuất bản “Fernand Nathan” Pa-ri  1953

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: