CHƯƠNG 10,11,12

  Chương 10


Vốn tránh xa chính trị, nên tôi không hề hay biết sự căng thẳng giữa Mao và ban lãnh đạo trung ương đảng ngày càng tăng. Nhưng vào đầu năm 1956 tôi nhận thấy, Chủ tịch bị một sự bất an nào đó về chính trị ám ảnh. Sau này tôi mới biết, năm 1956 là thời điểm xảy ra một biến cố. Chính lúc đó, mầm mống của cuộc Cách mạng văn hóa, của sự xáo trộn chính trị ghê gớm đã được gieo, mà sau này nó đã làm chao đảo cả đất nước suốt một thập kỷ liền.

Bản tường trình bí mật của Khơ-rút-xốp tố cáo Stalin tại Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên xô vào tháng hai năm 1956 đã đưa đến biến cố đó.

Mao không tham dự Đại hội đảng ở Mát-xcơ-va. Đoàn đại biểu Trung quốc do Chu Đức, người đã cùng với Mao thành lập Hồng Quân và chỉ huy đội quân du kích đó trong chiến tranh, dần đầu. Khi đó, Chu Đức khoảng 70 tuổi, đẹp lão với mái tóc đen dày và có nụ cười hiền hậu. Ông không hề có tham vọng chính trị. Sau giải phóng, ít nhiều ông đã co về cuộc sống riêng tư và đã từng giữ những vụ quan trọng: Phó Chủ tịch Chính phủ trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (từ năm 1949 đến năm l954), phó Chủ tịch nước cộng hoà nhân dân Trung hoa và phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (từ năm 1954 đến năm 1959). Khi ông không chính thức đi thị sát tình hình, thì ông dành thời gian chăm sóc những giò phong lan trong nhà vườn của ông ở Trung Nam Hải, nơi ông trồng tới hơn một nghìn giò. Chúng tôi thường gọi ông là Tổng tư lệnh và ông được nhân dân Trung quốc kính trọng, vì ông đã góp phần đưa đảng cộng sản Trung quốc lên nắm chính quyền.

Chu Đức đã không được chuẩn bị trong cuộc công kích của Khơ-rút-xốp. Ông đã đánh điện hỏi Mao về việc đó và xin chỉ thị ông nên phản ứng như thế nào. Đồng thời, ông đề nghị Trung quốc nên ủng hộ việc chỉ trích của Khơ-rút-xốp.

Đặng Tiểu Bình, lúc đó cũng ở Moskva, đã tán thành đề nghị của Chu Đức. Mao liền tỏ thái độ. Ông nổi giận nói: Chu Đức là kẻ dốt nát. Đồng chí ấy muốn chúng ta chỉ trích Stalin và quên sạch những nguyên tắc đạo đức cơ bản của cách mạng. Cả Khơ-rút-xốp và Chu Đức đều không thể chấp nhận được.

Thêm vào đó, Mao lại có lòng tin huyền bí vào vai trò của người lãnh đạo. Ông không hề băn khoăn khi cho rằng, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của ông mới cứu vãn và thay đổỉ được đất nước Trung hoa. Ông chính là Stalin của Trung quốc và ai cũng biết điều đó. Mao hình dung, ông là đấng Cứu thế của đất nước. Việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin đã buộc Mao phải đề phòng rồi có lúc quyền lực của ông bị xới mòn và địa vị lãnh đạo của ông gàp trắc trở. Có lẽ, Mao chỉ tán thành việc chỉ trích Stalin, một khi việc đó mang lại cơ hội cho chính cá nhân ông. Sau khi Stalin chết và Khơ-rút-xốp lên thay vào năm 1953, Mao đã chúc mừng việc bổ nhiệm này. Nhưng khi Stalin bị chỉ trích, thì Mao trở thành đối thủ không đội trời chung đối với Khơ-rút-xốp. Dưới con mắt của ông, người lãnh đạo mới của Liên xô đã phạm một nguyên tắc cơ bản của cách mạng. Đó là nguyên tắc trung quân bất di bất dịch. Mặc dù Khơ-rút-xốp chịu ơn Stalin về tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại chống Stalin.

Hơn nữa, theo Mao, bằng việc chỉ trích của mình, Khơ-rút-xốp đã bắt tay với Mỹ, tức là bất tay với tên đế quốc đầu sỏ. Ông tố cáo: Ông ta đã trao gươm cho người khác để bầy cọp có thể nuốt chửng chúng ta. Nếu họ không muốn giữ thanh gươm đó, thì chúng ta sẽ giữ nó. Chúng ta có thê sử dụng nó hữu hiệu. Liên xô muốn chỉ trích Stalin, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta sẽ kiên định đi theo đường lối của Stalin.

ấy thế, khi Mao kể cho tôi về thái độ của ông đối với vị lãnh tụ Xô viết đã quá cố, tôi mới sửng sốt nhận ra rằng, Stalin và ông không bao giờ có thể đồng hành với nhau được. Sự cừu địch của Mao đối với vị lãnh tụ Liên-xô này thật ghê gớm, hệt như thời kỳ chính phủ Xô Viết ở tỉnh Giang Tăy vào đầu những năm 1930.

Năm 1924, khi đảng cộng sản Trung quốc mới gần ba tuổi, Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho tổ chức đảng còn non trẻ này cùng với Quốc dân đảng thành lập một liên minh chính trị. Vì ở Trung quốc đang xảy ra loạn lạc và không có một chính phủ trung ương nào, nên Quốc tế cộng sản muốn những người cộng sản Trung quốc hợp tác với những người quốc gia để đánh đổ các thủ lĩnh ở những vùng khác và thống nhất đất nước do một chính phủ lãnh đạo. Một mặt trận thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, nàm 1927, Tưởng Giới Thạch đã dồn hết sức chống lại những người cộng sản ở đô thị làm cho số đảng viên giảm đi mau chóng. Khi đó, Mao đã trở về quê ông ở Hồ Nam, nơi ông đã chứng kiến những cuộc nôi dậy của nông dân. Theo kinh nghiệm, những cuộc nổi dậy ở Trung quốc thường xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy Mao hiểu rằng, nếu có một cuộc cách mạng xảy ra ở đất nước này trong thế kỷ 20, thì khởi điểm của nó chính là từ nông dân và họ sẽ là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng đó. Ông đã đưa ra một chiến lược táo bạo, mặc dù nó không tuân theo học thuyết Mác-Lê nin chính thống. Nhưng những điều kiện lịch sử ở Trung quốc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Theo diễn giải của Mao, đảng cộng sản sẽ là người lãnh đạo nông dân nổì dậy. Tại những vùng núi hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, để thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng rằng cuối cùng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng. Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoa học ở Liên-xô khi mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn, nhưng một bộ phận Quốc tế cộng sản lại chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung quốc, vì đảng kiên trì đưa những hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. ở khu Xô Viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể: Stalin gọi tôi là người cộng sản ngu dốt - đỏ vỏ trắng lòng. Ban lãnh đạo khu Xô viết Giang Tây lâm vào tình trạng lao đao khi quân Tưởng Giới Thạch bao vây khu căn cứ ở vùng núi và bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là chiến dịch tảo thanh. Ông ta gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung quốc. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây để khỏi bị tiêu diệt. Họ đã thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng là cuộc Vạn lý trường chinh. Ngay trong cuộc Vạn lý trường chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông.

Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói:

- Khi đó chúng tôi đã bị tiêu diệt 100% trong những vùng do Quốc Dân đảng kiểm soát ở Trung quốc, và ở khu Xô viết 90% bị tiêu điệt. Lẽ ra chúng tôi phải buộc Stalin hoặc Liên-xô chịu trách nhiệm về thảm họa đó, thì chúng tôi lại khiển trách một số đồng chí của chúng tôi vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ.

Không phải Stalin, mà chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải báo cáo về tai họa này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người tả phái phiêu lưu. Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, ý và Hy Lạp, đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, đến cả cái rắm cũng không. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử và để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta.

Tôi thường nghe rằng, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên-xô và được để lại khi người Xô viết di tản đến vùng Mãn Châu khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận rằng, thực ra Liên xô đã giúp và tôi khó mà cãi lại ông được.

Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh - thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên-xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, thì Stalin không muốn những người cộng sản chiến tháng. Mao nói tiếp:

- Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, thì tôi đi hội đàm ở Liên-xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: Nếu đồng chí không muốn hội đàm, thì chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về.

Nhưng rồi, một Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên-xô và Trung quốc cũng đã được ký. Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra càng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường cho rằng, Liên-xô và Trung quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận diu này. Ông nói:

- Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung - Triều tại sông áp Lục, tôi đã nói với Stalin chúng tôi sẽ điều quan đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba.

Mao báo cho Stalin rằng, nếu ông ta không muốn tham chiến và nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, thì họ sẽ không chỉ đe dọa Trung quốc, mà còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên-xô nữa.

Cuối cùng, há miệng, thì có thể mắc quai. Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên-xô. Một khi Liên-xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung quốc, thì Trung quốc có thể mua lại vũ khí của Liên-xô. Trung quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên-xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm thủ lĩnh ở Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng. Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Với tất cả những lời lẽ công khai thì Liên-xô là người anh của Trung quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa của chính chúng ta. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ chủ tớ. Mao nói: Họ muốn nuốt chửng chúng ta. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông rằng, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng và đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô Viết.

Tuy nhiên, Mao không bao giờ để lộ sự chỉ trích của ông, vì với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao liên hệ mật thiết với Stalin.

Bản tường trình của Khơ-rút-xốp cũng làm cho chính sách đối nội của Trung quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi cho Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khơ-rút-xốp đã phản ánh tư cách của ông ta. Vì vậy, ông đã không hiểu được sự trung thành của Chu Đức.

Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khơ-rút-xốp được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, thì Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung quốc đều có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ góa của Nhậm Bích Thế là: Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế tôi đã vắng mặt. Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao Chủ tịch.

Mao không bao giờ tha thứ cho Khơ-rút-xốp vì ông ta đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào nãm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, loại người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô Viết đã làm ông không hài lòng.

Ngay năm 1956, Liên-xô đã đảm nhận nhiều công việc giúp Trung quốc. Dưới sự giám sát trực tiếp của đảng cộng sản Trung quốc, một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai và nó quán xuyến cả những vùng nông thôn. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc là được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rõ nét trong phương diện kinh tế quan liêu. Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung quốc mà Mao ao ước thật khó mà đạt được. Những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lý hình mẫu phát triển của Liên-xô. Người ta đã thiết lập những thể chế và cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên-xô mà không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông.

Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khơ-rút-xốp chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng đối với địa vị của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương Khơ-rút-xốp và lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống. Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng và nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hóa đầy tai hại.

  Chương 11


Việc Mao tự viết về mình thật là thiếu liêm sỉ.

Năm 1970, ông nói với Edgar Snow ông là hoà thượng đạt san, dịch từng chữ có nghĩa là hoà thượng đội mũ. Nhưng heshang dasan chỉ là vế đầu của một câu thơ. Vế thứ hai là vô phan vô thiên mới là vế quan trọng, nhưng lại thường không được nhắc đến. Vô phan vô thiên, có nghĩa là không tóc, không Trời, tức là coi Trời bằng vung, để nói về một người bất phục. Vì người nữ phiên dịch của Mao khi đó không được đào tạo về lĩnh vực văn chương, nên đã dịch câu nói của Mao thành một nhà sư đội mũ cô đơn lang bạt khắp nơi. Edgar Snow và những nhà khoa học khác suy ra rằng, Mao tự ví mình như một người độc hành đáng thương. Nhưng thực ra, Mao muốn nói rằng, chính ông là thiên, là Trời: vô phan vô thiên.

Mao đã nổi dậy chống lại mọi quyền lực và doạt được mọi thứ. Đieu này không chỉ có giá trị đối với những quyết định trong lĩnh vực chính trị cao nhất, mà còn có tác dụng đối với cả những việc lặt vặt hàng ngày. Tại Trung Nam Hải, không có gì xảy ra nếu không được ông chuẩn y. Thậm chí ông quyết định cả việc vợ ông mặc bộ y phục nào.

Mao không có bạn và sống hoàn hoàn cách biệt. Ông dành rất ít thời gian cho vợ và không quan tâm lám đến con cái. Mặc dù sự lịch thiệp của Mao trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi đã gây cho tôi ấn tượng rằng, Mao không những tỏ ra đáng yêu, thân mật và còn nhân hậu nữa. Một lần tôi và Chủ tịch đi xem biểu diễn nghệ thuật ở Thượng Hải. Trong tiết mục đi trên dây, một em nhỏ đã bị thương nặng. Trong khi khán giả lặng người đi và mẹ của em nhỏ khóc lóc trước sự không may đó, thì chỉ có Mao vẫn thản nhiên tán chuyện và cười vang như không có điều gì xảy ra. Tôi cũng biết, ông không bao giờ hỏi han về số phận của em nhỏ đi trên dây. Tôi không thể hiểu nổi sự lạnh nhạt của Mao. Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều cảnh tang tóc, nên ông chai sạn với nỗi đau khổ của con người. Người vợ đầu của ông là bà Đường Khai Tuệ và cả hai người em ruột của ông đều bị Quốc dân đảng sát hại. Con trai cả của ông cũng đã hy sinh trong cuộc chỉến ở Triều Tiên. Ông cũng đã mất những người con trong cuộc Vạn lý trường chinh vào giữa những năm 30. Nhưng không bao giờ tôi thấy ông để lộ bất cứ sự xúc động nào vì những mất mát này. Việc ông sống sót trong khi nhĩeu người khác đã hy sinh càng làm cho ông tin tưởng ông sẽ rất thọ. Ông nói, chính những người chết đã phù hộ cho cách mạng.

Mao không bao giờ thiếu thông tin. Mặc dù suốt ngày ông nằm trên giường và không mặc quần áo, nhưng ông thường đọc và được các cộng sự của ông báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng về những sự kiện ở Trung quốc và trên thế giới, từ những mưu mô lặt vặt ngay xung quanh ông, những diễn biến tại những nơi hẻo lánh ở Trung quốc cho đến những sự việc xảy ra ở những đất nước xa xôi khác. Mao không ưa hình thức và lễ nghi. Sau khi Mao được bổ nhiệm làm Chủ tịch nước ít lâu vào năm 1949, vụ trưởng Vụ Lễ tân Dư Tín Thanh đề nghị ông nên tuân theo lễ nghi quốc tế trong khi đón tiếp các đại sứ nước ngoài, như mặc quần áo màu sẫm, đi giày da đen. Mao đã nổi giận. Ông nói:

- Chúng ta là người Trung quốc, chúng ta có tập quán riêng của chúng ta. Tại sao chúng ta lại phải theo người khác?

Từ đó ông thường mặc bộ đồng phục kiểu Tôn Trung Sơn và đi giày vải. Khi các chính trị gia hàng đầu khác noi gương vị Chủ tịch của họ, thì tên của bộ đồng phục đã thay đổi và bộ đồng phục màu xám kiểu Mao đã trở thành mốt. Vụ trưởng Vụ Lễ tân, người dám cả gan khuyên Mao tuân theo nghi thứ quốc tế đã bị cách chức. Ông ta đã tự vẫn trong thời kỳ Cách mạng vàn hóa. Mao coi lịch trình, công việc hàng ngày, nghi thức và lễ nghi như là phương tiện để kiểm tra chính mình. Ông không hề bị lệ thuộc vào bất cứ quy định nào, ông thưng chơi bời quá độ. Khi đi dạo, ông thường về nhà bằng đường khác. Ông hay tìm tòi những cái mới, những điều chưa được thử nghiệm không những trong cuộc sống riêng tư mà còn cả trong lĩnh vực chính trị. Ông mê nhất lịch sử Trung hoa. Ông thường nói: Chúng ta phải nghiên cứu về quá khứ để phục vụ hiện tại. Ông đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần cuốn lịch sử 24 triều đại - một bộ biên niên sử chính thống, được triều đại vừa mới chiến thắng sắp xếp trong khoảng thời gian từ năm 221 trước công nguyên đến năm 1644 sau công nguyên.

Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Mao khác cơ bản với những người bình thường khác ở Trung quốc. Lĩnh vực đạo đức không có chỗ trong chính sách của Mao. Tôi hoảng sợ khi nghe thấy rằng, Mao không chỉ tự ví mình với những vị hoàng đế Trung hoa, mà còn tỏ ra khăm phục những tên bạo chúa bất nhân nhất. Mao đặc biệt khâm phục vua Chu, kẻ trị vì triều đại nhà Thương trước công nguyên. Dân tộc Trung hoa ghê tởm vua Chu và khiếp sợ trước sự tàn bạo của vị vua này. Đối với nhà vua, sinh mạng của bầy tôi chỉ là cỏ rác và nhà vua thích bêu xác những nạn nhân bị hành quyết, để cảnh cáo những người nổi loạn chống lại nhà vua. Bể tắm của nhà vua thường đổ đy rượu vang.

Tuy vậy, Mao cho rằng, sự quá thái của vua Chu không có nghĩa gì so với những việc làm của nhà vua. Vua Chu đã bành trướng lãnh thổ Trung hoa, kiểm soát cả một vùng duyên hải từ Bầc tới Nam và đã thống nhất nhiều sắc tộc khác nhau. ấy thế, nhà vua đã ra lệnh giết một số vị quan có tài và trung thành. Thí dụ điển hình là một vị quan đã lập được nhiều công trạng, nhưng chỉ vì can ngăn hành động bành trướng của vua Chu mà bị xử trảm. Vua Chu sống rất xa hoa và có hàng nghìn cung tần mỹ nữ, nhưng vua nào mà chẳng thế.

Vua Tần Thủy Hoàng, 22l-206 trước công nguyên, người lập nên triều đại nhà Tần và vương quốc Trung hoa tồn tại gần hai nghìn năm, cũng là người được Mao hâm mộ. Ông thường ví mình với vị hoàng đế này. Như vua Chu, Tần Thủy Hoàng cũng bành trướng lãnh thổ Trung hoa và đã thống nhất vô số các quốc gia nhỏ. Ông đã đưa ra đơn vị đo trọng lượng và khối lượng, đã xây dựng mạng lưới đường bộ. Nhưng người Trung hoa khinh bỉ ông, vì ông đã tàn sát những người theo đạo Khổng và đốt những cuốn sách cổ. Mặc dù vậy, Mao nói, Tần Thủy Hoàng chỉ làm điều này để cố gắng thống nhất đất nước Trung hoa và xây dựng đế quốc Trung hoa mà không bị ngăn cản. Ngoài ra, ông ta chỉ giết 260 người theo đạo Khổng thì có gì quá thảm khốc? Khi nhận xét về Tần Thuỷ Hoàng, người ta không được cường điệu những điều không quan trọng mà quên đi những điểm nổi bật.

Mao cũng rất khâm phục Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (627-705 sau công nguyên), một trong số ít phụ nữ nắm giữ quyền lực ở Trung quốc và là cái đích mà sau này Giang Thanh đã cố đạt được. Khi Mao hỏi tôi nghĩ gì về Võ Tắc Thiên, tôi đã nói thẳng: Bà ta là người đa nghi, gian giảo và đã giết hại quá nhiều người. Mao nói:

- Đúng vậy, nhưng Võ Tắc Thiên cũng là một người cải cách xã hội. Bà ta đã bênh vực quyền lợi của địa chủ nhỏ và trung bình trong việc nộp tô cho giới quý tộc và những dòng họ lớn. Nếu bà ta không đa nghi và không tin vào những tay do thám của bà thì làm sao bà phát hiện được những âm mưu của giới thượng lưu và của những gia tộc lớn chống lại bà? Và tạì sao bà lại không hạ thủ những kẻ âm mưu chống lại bà?

Đối với vua Tùy Dạng (604- 618 sau công nguyên) cũng vậy. Dưới con mất của người Trung quốc, ông vua này là tên bạo chúa xấu xa nhất. Ông mê gái và mê rượu. Ông sống rất xa hoa, đồi trụy. Những cô gái trẻ đẹp đã phải kéo con thuyền du ngoạn của ông ngược dòng bằng những sợi dây lụa. Vô số người đã chết trong khi đào kênh của vua. Nhưng Mao lại liệt ông vào hàng những kẻ cai trị giỏi nhất. Tất cả các con sông ở Trung quốc đều chảy từ Tây sang Đông. Riêng kênh của vua lại nối miền Bắc với miền Nam. Vì vậy, vua Tùy Dạng cũng là người vĩ đại hiếm có.

Mao quan tâm đến lịch sử Trung quốc hơn cả. Nhưng ông cũng đã đọc ít nhiều về một số nhân vật lịch sử phương Tây. Trước hết, ông đánh giá cao Napoleon. Theo Mao, bằng lực lượng pháo binh mạnh, Napoleon đã làm một cuộc cách mạng về chiến lược quân sự. Ngoài ra, vị tướng Pháp này đã ứng dụng khoa học vào chính sách bành trướng. Ông không chỉ đưa quân đến Ai Cập mà còn đưa cả các nhà khoa học đến đó để nghiên cứu nguồn gốc của nền văn minh phương Tây. Mao cũng muốn tổ chức một chuyến đi nghiên cứu như vậy. Năm 1964 ông đã dự định thực hiện chuyến thám hiểm khoa học tìm hiểm về nguồn gốc của con sông Hoàng hà ở tỉnh Thanh Hải xa xôi. Sông Hoàng Hà đã từ lâu gắn chặt với cái nôi của nền văn hoá Trung quốc khiến Mao có ý định lần về quá khứ của nền văn hóa này và cả nguồn gốc của nó nữa. Uông Đông Hưng được giao nhiệm vụ tập hợp và điều hành một nhóm những nhà sử học, trắc địa, địa chất và những chuyên viên thủy học và năng lượng học. Uông ta đã kiếm được những con ngựa vùng Nội Mông cũng như quân trang, quân dụng. Tôi và Mao cùng nhau tập cưỡi ngựa. Ngày 10 tháng tám 1964 chuyến đi bị hoãn lại, năm ngày trước Mao nhận được tin Mỹ định đổ thêm quân vào Việt Nam hòng làm chủ tình thế. Ông quyết định bí mật phái ra chiến trường những người lính Trung quốc được cải trang bằng những bộ quân phục Việt Nam, để hỗ trợ cho đồng minh của ông.

Về chính bản thân ông, quan điểm lịch sử của Mao cũng có nhiều điểm không đúng. Những tài liệu về quá khứ của đất nước Trung hoa đã giúp ông nắm được và điều chỉnh được hiện tại và ông kết hợp điều đó với chính sách đối ngoại của đất nước. Tôi biết, những mưu mô trong các triều đại vua chúa tác động đến tư tưởng của ông mạnh hơn cả chủ nghĩa Mác-Lênin. Dĩ nhiên, Mao vẫn là một người cách mạng. Mục đích của ông là thành lập nước Trung quốc, mang lại sức mạnh và cuộc sống tốt đẹp cho đất nước. Thế nhưng quá khứ lại dẫn dắt sự lãnh đạo và lối hành xử đầy thâm hiểm của ông nhằm vào tầng lớp lãnh đạo cao cấp.

Nếu xét đến những thay đổi mà Mao cố đạt được, thì những thay đổi đó lại chẳng đóng góp được gì vào lịch sử của Trung quốc. Quan điểm của Mao là sử dụng văn hóa Trung quốc. Ông muốn đổi mới nền văn hoá đó, nên điều cần thiết là phải học hỏi nước ngoài và kết hợp những tư tưởng mới lạ với tình hình Trung quốc. Ông thường nói, kết quả sẽ không mang tính chất của Trung quốc, mà cũng không mang tính ngoại lai, chẳng phảỉ là lừa, mà cũng chẳng phải là ngựa, mà là con la.

Bằng chủ nghĩa xã hội, Mao muốn khơi dậy tiềm năng sáng tạo của dân tộc Trung hoa và đưa đất nước Trung quốc trở lại thời hoàng kim trước đây. Ông cần sự ủng hộ cần thiết của Liên-xô, vì đó là một nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung quốc. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, Mao đã tâm niệm rằng, Trung quốc phải đi theo một hướng riêng. Liên xô là một tấm gương đối với ban lãnh đạo mới của Trung quốc. Nhưng khi Mao nói về chủ nghĩa xã hội, ông thường đề cập đến một chủ nghĩa xã hội mang tính chất đặc thù của Trung quốc, một chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước Trung quốc hạnh phúc và vinh quang. Ông thường nói, việc nhập cảng ồ ạt tư tưởng và hàng hóa của nước ngoài mà không có sáng tạo của mình thật đáng lên án. Ông không bao giờ có ý định tiếp thu mô hình xô-viết mà không có phê phán. Ngay hôm đầu chúng tôi quen nhau, ông đã tỏ ra rất khâm phục công nghệ, sự năng động và nền khoa học của Mỹ và phương Tây. Với quan điểm phát triển theo một hướng riêng, và nhờ có kiến thức, mà ông thường không cường điệu, coi Liên-xô là một tấm gương sáng duy nhất đối với việc xây dựng lại đất nước Trung quốc.

Mao có một cách nhìn đặc biệt về vai trò của riêng ông trong lịch sử. Ông là người lãnh đạo vĩ đại nhất, kẻ trị vì vĩ đại nhất trong tất cả những kẻ trị vì, là người đã thống nhất đất nước Trung quốc và muốn đưa đất nước này trở lại thành cường quốc như trước đây. Với tôi, Mao không bao giờ dùng chữ hiện đại hóa. Ông không phải là người hiện đại. Thay vì điều này, ông nói về việc làm cho đất nước phồn vinh và lấy lại được tầm vóc trước đây của nó. Là một kẻ nổi loạn, một kẻ không thích sùng bái, nhưng ông lại muốn dựng lên Vạn lý trường thành của riêng ông. Sự vĩ đại của bản thân ông và nhân dân Trung quốc đan xen vào với nhau. Cả đất nước Trung quốc là của Mao và ông có thể thử nghiệm tùy thích. Mao là Trung quốc và ông nghi ngờ bất cứ ai tỏ ý muốn bàn về vị trí của ông hoặc không chia xẻ quan điểm của ông. Ông đã loại những đối thủ của ông một cách không thương xót. Đối với ông, sinh mạng của những người dưới quyền hoàn toàn vô nghĩa.

Lúc đầu, tôi khó tin rằng, Mao lại sẵn sàng hy sinh những công dân của nước ta đề đạt được mục đích của ông. Từ khi Mao gặp tổng thống ấn độ Jawaharlan Nehru vào tháng 10 năm 1954, tôi mới biết rằng Mao đã dành sẵn những quả bom nguyên tử cho con hổ giấy và không ngần ngại hy sinh hàng trìệu người Trung quốc để chiến thắng trong cuộc đấu tranh chống bọn đế quốc. Ông quả quyết với Nehru: Đừng có sợ bom nguyên tử. Trung quốc rất đông dân. làm sao một quả bom nguyên tử lại có thể xóa sổ tất cả họ được. Nếu ai có thề ném vào người khác một quả bom nguyên tử, thì tôi cũng có thể làm được việc đó. Tôi đâu có sợ trước cái chết của mười hay hai mươi triệu dân. Nghe đến đó, ông Nehru phát hoảng. Trong bài diễn văn đọc ở Moskva năm 1957, Mao tuyên bố, ông sẵn sàng hy sinh 300 triệu dân Trung quốc, một nửa dân số Trung quốc. Ngay khi Trung quốc có mất đi nửa số dân, thì đó cũng chưa phải là tốn thất lớn lao, vì đất nước này vẫn có thể sản sinh ra nhiều người nữa. Riêng trong thời kỳ đại nhảy vọt trước đây đã có hàng trìệu người Trung quốc chết đói, làm cho tôi thấy ràng, Mao hệt như những tên bạo chúa mà ông vốn khâm phục. Ông thừa hiểu, nhiều người đã chết ra sao, nhưng ông không hề mảy may động lòng.

Từ cuộc nói chuyện đầu tiên giữa chúng tôi về lịch sử Trung quốc, tôi đã có thể rút ra những bài học cho bản thân. Quan điểm lịch sử của Mao rất bổ ích đối với tôi. Ông là trung tâm để vạn vật quay quanh ông. ý muốn của ông là trên hết. Sự trung thành là yêu cầu cao nhất. Ông đòi hỏi ở những người dưới quyền ông, vợ ông, bạn gái của ông, các cộng sự và nhưng người phục vụ ông, cũng như những người lãnh dạo chính trị mà ông đã chia xẻ quyền lực với họ, sự trung thành tuyệt đối và trọn vẹn.

Sự trung thành này dựa vào sự tin cậy ít hơn vào sự lệ thuộc. Vì Mao không có khả năng mang lại những tình cảm khác, nên ông cũng không thể trông chờ người ta dành cho ông mối thiện cảm. Trong tất cả những năm là bác sỹ riêng của Mao, tôi thường chứng kiến việc Mao củng cố lòng trung thành của người khác cũng như của tôi đối với ông như thế nào.

Với vẻ dễ mến, ông đã chiếm được lòng tin của người khác và làm cho họ thú nhận những khuyết điểm của họ. Mao đã bỏ qua tất cả và làm cho họ có cảm giác yên tâm. Bằng cách này, ông đã thâu nạp được những cộng sự trung thành nhờ sự bao dung bên ngoài của ông. Bất cứ những ai trung thành mới Mao, đều bị lệ thuộc vào ông, và càng lệ thuộc vào ông, thì họ càng khó thoát khỏi sự khống chế của ông. Không một ai ở Trung quốc dám ủng hộ một người nào đó đã không trung thành với Chủ tịch. Có một số người đáng tin cậy, vì Mao đã cứu bản thân họ hoặc làm cho họ yên tâm, hoặc họ coi ông là cứu nhân của đất nước Trung quốc. Ngược lại, những người khác thường là những kẻ xu nịnh. Mao cũng thích được bợ đỡ, ngay cả khi ông thừa biết họ chẳng nghiêm chỉnh gì, vì ông hiểu rằng, thời gian sẽ phân loại được những kẻ nịnh thần với những người thực sự trung thành. Rút cuộc, những kẻ nịnh bợ sẽ bị phế truất, nếu họ không còn tác dụng nữa.

Phương châm của Mao là: Phục vụ nhân dân và khắp đất nước Trung quốc, đâu đâu lời hiệu triệu này cũng được quảng cáo bằng chữ trắng viết trên nền đỏ với bút tích của Mao. Đằng sau cánh cổng của nước Trung hoa mới sau lối vào khu vực Trung Nam Hải ở phía Nam, có một tấm biển mang dòng chữ vàng cấm thường dân Trung quốc ngó nghiêng vào bên trong khu Cấm Thành hiện đại, nơi những ngươi lãnh đạo cao cấp nhất của Trung quốc sống và làm việc. Trong những buổi họp nghiên cứu chính trị định kỳ ở Trung Nam Hải, chúng tôi thường được nhắc nhở là phải phục vụ nhân dân và đảng thay vì phục vụ cá nhân mình. Lời hiệu triệu này luôn cổ vũ tôi và là một trong những lý do khiến tôi nhất thiết phải gia nhập đảng cộng sản.

Nhưng sau khi bắt tay vào công việc ít lâu, tôi nhận thấy rằng, Mao là trung tâm để vạn vật quay quanh, là một cái mỏ quí và người được bảo vệ, được bợ đỡ và được nịnh hót. Mọi việc đều được làm vì Mao. Ông không bao giờ phải nhúng tay, không bao giờ tự xỏ tất đi giày, tự mác quần áo hay tự chải đầu. Khi tôi lưu ý với Uông Đông Hưng rằng, phải tập trung sức lực của nhóm Một vào việc phục vụ Mao, chứ không phải phục vụ nhân dân, thì ông ta nói phục vụ nhân dân chỉ là một khái niệm trừu tượng. Uông nói: Chúng ta phải phục vụ một cá nhân cụ thể. Nói là phục vụ Mao có nghĩa là phục vụ nhân dân, không đúng sao? Đảng đã tin tưởng giao công việc cho đồng chí, tức là đồng chí đã làm việc cho đảng hay à không phảỉ như vậy?

Thật là non dại và thơ ngây làm sao khi tôi đã tin vào lời nói của Uông Đông Hưng. Thế rồi sau này tôi đã hiểu rằng, hệt như các vị hoàng đế đã ruồng bỏ không thương tiếc những thuộc hạ của mình, khi những người này không hoàn toàn đồng ý với sự nghĩ của các vị hoàng đế, Mao cũng có thể phế truất tất cả những cố vấn và cộng sự của ông, nếu họ không hoàn toàn nhất trí với ông. Lúc đầu, người ta đã không trừng phạt các quan chức cao cấp vì đôi khi họ có những ý kiến khác với Mao. Nhưng Mao vẫn để bụng và một khi ông biết được ai đó dưới quyền không trung thành với ông, đến khi thời gian chín muồi, ông có thể đánh gục cả những chién sĩ cách mạng lão thành mà không hề đắn đo. Những người như Chu Ân Lai có vẻ biết được điều đó và hoàn toàn tuân phục Mao. Những người khác như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu thì không thế, nên họ phải rút lui. Khi một người lãnh đạo cao cấp có tư duy độc lập, thì ông ta sẽ bị loại.

Một khi Mao nghi ngờ những ai trong ban tham mưu của ông có quan hệ mật thiết với những quan chức cao cấp quan trọng khác, như Chu Ân Lai, Lâm Bưu hoặc Lưu Thiếu Kỳ, thì ông sẽ phế truất họ ngay. Mao cảnh cáo tôi: Mọi tai họa đều do cái miệng. Tôi biết số phận của tôi phụ thuộc vào sự nín lặng của tôi. Trong khi xảy ra những trào lưu chính trị làm xáo trộn cả đất nước Trung hoa trong hai thập kỷ liền, tôi đã ghi lòng tạc dạ lời giáo huấn của Mao Chủ tịch và chỉ giới hạn mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông. Khi là bác sỹ riêng của Mao, tôi đã biết được tính tàn nhẫn của ông. Tôi đã nín lặng, để khỏi mang vạ vào thân và chỉ nói khi Mao muốn. Mặc dù vậy tôi vẫn kính trọng ông. Ông là con người vĩ đại của Trung quốc, là người đã cứu đất nước chúng ta, là ngọn núi cao nhất của chúng ta, của tất cả những người lãnh đạo của chúng ta. Đối với tôi, Trung quốc là một đại gia đình duy nhất và gia đình này cần có một người chủ. Đó là Mao Chủ tịch. Tôi muốn phục vụ ông và cũng là phục vụ nhân dân Trung quốc.

  Chương 12


Khi vi hành với Mao, tôi mới biết người ta đã sửa soạn cho những chuyến đi của ông như thế nào. Sự an toàn và sức khỏe của ông là trên hết. Tại Trung Nam Hải, Mao được bảo vệ rất cẩn mật bằng các biện pháp an ninh đa dạng, nhưng những biện pháp đó dần dần trở nên quá nhàm, đến nỗi hầu như tôi không để ý đến chúng nữa. Chỉ trong các chuyến đi chu du, các biện pháp bảo vệ đặc biệt đó mới lại bộc lộ.

Mao thường hay đi đây đó, ít khi ông sống một thời gian dài ở Bắc Kinh. Tại thủ phủ ở phía Bắc này, ông cảm thấy như không phải ở nhà. Ông thích về quê ông ở miền Nam hơn và về những nơi ông thích lưu lại như Quảng Châu, Hàng Châu, Thượng Hải và Vũ Hán. Ông thường ở lại những nơi đó hàng tháng trời và miễn cưỡng trở về Bắc Kinh vào các ngày lễ mồng l tháng Năm hay ngày quốc khánh, hoặc để tiếp khách nước ngoài. Khi đi chu du, Mao cũng có những sở thích của ông. Nếu ông quyết định đi Hàng Châu vào buổi sáng, thì thường thường chúng tôi phải lên đường vào chiều hôm trước. Ngay những người tháp tùng ông cũng không được thông báo chính xác điểm dừng của cuộc hành trình và nếu Mao đã định đi đâu từ lâu, thì thường vào chiều hôm trước chúng tôi mới được thông báo vì lực lượng an ninh sợ chuyến đi của ông có thể bị tiết lộ. Bởi vậy, ít khi chúng tôi có quá một hay hai ngày để chuẩn bị.

Mao thường chu du bằng một đoàn tàu hỏa của riêng ông có mười một toa lịch sự. Đoàn tàu được để trong một căn nhà đặc biệt, cách xa ga chính của thành phố Bắc Kỉnh để Mao đi lại thuận tiện. Mao và Giang Thanh có những toa riêng, mặc dù Giang Thanh chỉ một lần duy nhất cùng đi với chúng tôi. Toa thứ ba của đoàn tàu được dùng làm phòng ăn và nhà bếp. Trong toa sang trọng của Mao có một chiếc giường gỗ đồ sộ, một giá sách lớn chiếm mất khá nhiều chỗ.

Bốn toa ngủ có giường tầng được dành cho đám vệ sỹ của Mao vốn là nhân viên an ninh của cơ quan trung ương, cho nhân viên trên tàu và ban tham mưu của Mao gồm thợ chụp ảnh, phục vụ và đầu bếp. Tất cả họ dùng một toa ăn riêng. Một toa khác chứa dụng cụ y tế dành cho trường hợp cấp cứu và có thêm một toa dự phòng nữa. Cái đuy nhất mà đoàn tàu còn thiếu là máy điều hòa nhiệt độ, đến nỗi vào mùa hè trong tàu nóng như thiêu như đốt. Tuy nhiên, vào đầu những năm 60 Mao đã nhận được một đoàn tàu mới của Đông Đức. Đoàn tàu được trang bị đầy đủ tiện nghi với hệ thống chiếu sáng gián tiếp, với những máy móc hiện đại nhất và tất nhiên còn có cả hệ thống điều hòa nhiệt độ. Uông Đông Hưng, Lâm Khắc, thư ký riêng của Mao và tôi có một toa riêng có buồng ở. Trong những căn buồng rộng, rất tiện lợi này được kèm thêm một chiếc bàn và một chiếc giường, trong buồng tắm có hệ thống nước nóng.

Những biện pháp an ninh trên đường cũng rất khác thường. Trong khi có cuộc hành trình, tất cả các hoạt động giao thông trên tuyến đường sắt đó đều bị đình trệ, làm đảo lộn cả các lịch trình giao thông trong suốt một tuần lễ cho đến khi mọi việc trở lại bình thường. Những nhà ga thường đông hành khách và người bán hàng thì được nhân viên an ninh trấn dẹp. Thật là rờn rợn khi vào những nhà ga vắng ngắt và trên những lối đi chỉ thấy lính canh. Khi một cộng sự khác và tôi cho Uông Đông Hưng biết là thiếu người bán hàng, ông ta liền cho một vài nhân viên an ninh đóng giả thành người bán hàng, làm cho quang cảnh có vẻ giống tự nhiên.

Tỉnh nào mà đoàn tàu của Mao đi qua, thì tỉnh đó phải chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho ông và phải chuẩn bị sẵn một người lái tầu và một đầu tàu. Ngoài ra, cùng với những nhân viên an ninh của Bắc Kinh ngồi trong tàu và có mặt ở những điểm dừng, còn có một vài trăm lính do các Ban an ninh của các tỉnh bố trí và trên suốt chặng đường cứ năm chục mét có một người gác. Có lần tôi nói chuyện với trưởng Ban an ninh của địa phương nằm trên tuyến đường sát giữa Bắc Kinh và Mãn Châu Lý, một thành phố ở biên giới giữa vùng Mãn Châu và Liên-xô, người có nhiệm vụ canh gác khi Mao từ Moskva về vào năm 1950. Giữa mùa đông tháng giá, trong suốt hai tuần lễ, những người lính đã bảo vệ tuyến đường sắt dài hàng trăm cây số này từng giờ từng phút. Cũng trong suốt hai tuần lễ, người nói chuyện với tôi đã phải chui rúc trong một ngôi mộ trên tuyến đường sắt đó. Mọi người đều biết, trong đoàn tàu có một só quan chức cao cấp, nhưng mãi về sau người ta mới biết chính Mao cũng có mặt trong số đó. Mao đi chẳng theo lịch trình nào, bởi vì tàu chỉ chuyển bánh khi Chủ tịch thức, chừng nào ông còn ngủ thì đoàn tàu còn đứng yên. Bởi vậy, chằng thể biết khi nào thì tàu chạy, hệt như giấc ngủ của Mao vậy. Khi ông ngủ, đoàn tàu dừng lại tại ga phụ của một sân bay quân sự, hay một ga để dồn toa hoặc tại ga phụ của một nhà máy đã được dọn dẹp trước khi ông đến. Như thế cũng là để dễ bảo vệ Mao hơn. Đôi khi Mao lại đi máy bay. Tôi đi bằng máy bay cùng với ông lần đầu vào mùa hè năm 1956. Sau đó ông giành mùa đông để viết cuốn sách Chủ nghĩa xã hội nở rộ trên đất nước chúng ra. Ông đã đến thăm Hàng Châu và Thượng Hải và tìm cách đẩy mạnh kế hoạch tập thể hóa nông nghiệp cấp tốc của ông. Vì thế ông muốn đi đến đó bằng máy bay, chủ yếu là để thu thập kinh nghiệm như ông đã nói. Trước đó Mao mới đi máy bay một lần. Tháng 8. 1945, một chiếc máy bay của Mỹ đã chở ông cùng với đại sứ Mỹ Patrick Hurley từ Diên An đến Nam Kinh, nơi ông sẽ tham dự cuộc đàm phán tai hại giữa những người cộng sản và những người quốc gia, nhằm ngăn ngừa cuộc nội chiến bùng nổ.

Tất cả những người có trách nhiệm đều lưu tâm đến việc bảo vệ an ninh cho Mao. Những biện pháp an ninh đặc biệt tỉ mỉ được thực hiện. La Thụy Khanh, bộ trưởng công an đã làm việc trực tiếp với tư lệnh không quân là tướng Lưu Nha Lâu để bay thử và trang bị thêm cho chiếc máy bay kiểu LI- 2 của Liên-xô trở thành chiếc máy bay an toàn nhất.

Buổi sáng, tướng Lưu Mao và cấp phó của ông cùng đi với chúng tôi đến sân bay quân sự Tân An nằm rìa phía Tây thành phố, cách không xa Cung điện mùa hè. Trong khi có chuyến bay, giao thông đường không trên toàn đất nước Trung quốc bị đình chỉ và những tốp máy bay chiến đấu kiểm soát toàn bộ không phận. La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và một loạt thư ký, nhân viên an ninh và cần vụ đã bay trước trên một chiếc máy bay khác của Liên-xô, loại IL-14. Cả hai người lái xe, người đầu bếp, thợ chụp ảnh, hai chuyên gia về thực phẩm và những nhân viên an ninh bay trên hai máy bay khác. Những thành viên khác của ban tham mưu tổng cộng 200 người, đi cùng với xe của Mao - một loại xe hòm ZIC sang trọng của Liên-xô, có bọc thép chống đạn được sản xuất riêng cho ông, đã được một đoàn tàu đặc biệt đưa đến trước. Chiếc xe này sẽ chở Mao từ sân bay về biệt thự của ông ở Quảng Châu. Đoàn tàu được để trong một gian phòng lớn tại sân bay Bạch Văn đề phòng trong trường hợp Mao muốn tiếp tục cuộc hành trình bằng tàu hỏa.

Máy bay của Mao nhỏ và chỉ có một cánh quạt. 24 ghế ngồi trước đây đã được gỡ bỏ và toàn bộ bên trong khoang được bố trí lại. Trong phần phía trước của máy bay, người ta lắp một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và hai chiếc ghế cho Chủ tịch. Còn phía sau có bốn chiếc ghế tiện lợi dành cho những người tháp tùng ông, gồm hai vệ sỹ, một thư ký riêng và tôi. Phi công của chúng tôi chính là viên tư lệnh không quân Hồ Bình. Khi chúng tôi lên máy bay, Mao chào tư lệnh Hồ: Trong chuyến bay này tôi phải ra tình huống cho đồng chí. Ông tỏ ra ôn tồn để viên phi công yên tâm.

Thật là một vinh dự lớn lao và thật là hạnh phúc đối với tôi khi được phép bay cùng với Chủ tịch - Hồ Bình trả lời. Tôi nhận thấy ngay, giữa những lời nịnh hót được Mao chấp nhận và sự thăng quan tiến chức mau chóng của kẻ xu nịnh có một sự liên quan trực tiếp. Trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa, Hồ Bình đã được thăng cấp làm Tổng tham mưu trưởng không quân. Tuy vậy, năm 1971 ông bị tống giam vì đã dính líu vào âm mưu của Lâm Bưu chống lại Mao. Thế là tất cả những công trạng phục vụ Chủ tịch của ông đều bị xóa sạch.

Chuyến bay của chúng tôi được chia thành hai chặng. Trong khi bay, chúng tôi học tiếng Anh. Đến gần trưa chúng tôi đáp xuống Vũ Hán. Chúng tôi được các quan chức địa phương đón tiếp, trong đó có bí thư thứ nhất tỉnh ủy Vương Nhậm Trọng và cán bộ lãnh đạo đảng của tỉnh Vũ Hán là Lưu Khắc Nông, người đã tổ chức bữa đại tiệc đón chúng tôi trong một nhà khách tráng lệ, trước kia là biệt thự của Tưởng Giới Thạch. Tòa biệt thự này nằm trong vùng nghỉ mát đẹp như tranh bao quanh một cái hồ ở phía Đông, đối diện với trường đại học tổng hợp Vũ Hán. Những người phục vụ vui vẻ và ân cần. Họ được đào tạo trong các khách sạn của Anh và Pháp, mà trước năm 1949 chúng là một nét đặc sắc của Vũ Hán. Giống cá chép màu bạc của vùng Vũ Xương là một món ăn tuyệt ngon mà Mao rất ưa thích.

Trong chuyến đi, đâu đâu tôi cũng có dịp chứng kiến việc Mao được xu nịnh thế nào. Trong việc này, Vương Nhậm Trọng tỏ ra khá xuất sắc. Ông ta khẳng định:

- Người ta không thể đơn giản so sánh Stalin với Chủ tịch. Stalin đã giết quá nhiều người. Ngược lại, đảng ta không chỉ khoan hồng kẻ đối lập với đảng là Vương Minh, mà thậm chí đảng còn cố gắng hòa thuận với ông ta.

Mao vui vẻ đáp lại:

- Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa mâu thuẫn trong nhân dân với mâu thuẫn giữa chúng ta và đối phương. Đề giải quyết những mâu thuẫn trong dân chúng, chúng ta không được phép bắt hoặc thủ tiêu những người độc đoán.

Vương nói:

- Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch.

Và tôi có cảm tưởng rằng, lời tâng bốc của ông ta chỉ là một con tính thuần túy. Cho đến khi nổ ra cuộc Cách mạng văn hóa, ngôi sao chính trị của Vương không ngừng lên cao. Khi cuộc Cách mạng bắt đầu, ông trở thành một trong những phó chỉ huy của Cách mạng và ông bị thất sủng sau khi ông xúc phạm đến Giang Thanh và công khai diễn thuyết mà không được bà ta đồng ý.

Gần mươi tám giờ, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Vân ở thành phố Quảng Châu. Tại đây đã diễn ra cuộc đón tiếp không kém phần xúc động. Bí thư thứ nhất của tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông Đào Chu đã đến và cả người lãnh đạo đảng của tính là Trần Dư. Trong khi xe chạy, tôi nhìn qua cửa xe để cố tạo nên ấn tượng đầu tiên về Quảng Châu. Tôi sửng sốt về sự bẩn thỉu và sự ồn ĩ ở đó. Rác rưởi tràn ngập khắp nơi và nước cống chảy lênh láng trên đường phố. Sự ồn ào đơn điệu ở Quảng Đông còn lẫn cả tiếng guốc gỗ gõ lọc cọc trên mặt đường nhựa.

Chuyến vi hành của Mao tại Quảng Châu được giữ tuyệt mật. Các thành viên tham mưu thuộc nhóm Một hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoàì. Chúng tôi không những không được phép rời khỏi vị trí của mình, mà còn không được nói chuyện qua điện thoại, không được tiếp khách hay nhận thư từ. Thư của chúng tôi viết về nhà được một người đưa thư đặc biệt chuyển đi. Mấy ngày ngay trước khi lên đường, Uông Đông Hưng phái chúng tôi đi thị sát. Chuyến đi này do những nhân viên Ban an ninh tỉnh Quảng Đông chỉ đạo. Sau vấn đề đảm bảo an toàn cho Mao là làm sao để ông thật thoải mái. Sau khi giải phóng Bắc Kinh ít lâu, điều đã trở thành lệ là người ta tịch thu những biệt thự trước đây hoặc xây mới những biệt thự khác cho giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng. Lúc đó, Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương đã cho xây ở những quả đồi Ngọc Thạch gần Núi Thơm năm biệt thự cho năm nhân vật lãnh đạo cao nhất là Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Nhậm Bích Thế.

Theo lời của cả hai vệ sỹ không biết bơi của Mao là La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng, người ta đã xây một bể bơi cho Mao. Bởi vì đối với họ, sự an toàn của Mao là trên hết, nên họ đã quyết định chiều dài của bể bơi chỉ bằng hai lần chiều dài của bồn tám và nước thì chỉ sâu đến đầu gối.

Mao nổi giận lôi đình về cái bể bơi vô tích sự, chỉ đáng đành cho trẻ con. Cơn thịnh nộ của ông càng bùng lên dữ dội khi trung một phiên họp Bộ chính trị, ông Bành Đức Hoài vốn cứng rắn, đã phản đối Mao xài tiền của nhà nước cho những hưởng thụ cá nhân của ông. Mao đã bồi hoàn cho nhà nước những chi phí xây bể bơi, nhưng ông thường không đến biệt thự này. Những biệt thự và bể bơi ở Bắc Đới Hà cũng được sung công hoặc được xây mới.

Vào năm 1950, Dương Thượng Côn đã tịch thu những ngôi nhà ở đó và phân cho tất cả các chính trị gia cao cấp mỗi người một biệt thự. Người ta đã xây cho Mao một ngôi nhà mới, được gọi là nhà số 8. Sau đó, biệt thự bắt đầu được xây ở các tỉnh và các vị lãnh đạo tỉnh đua nhau xây biệt thự theo kiểu nhà Mao. Thế vẫn chưa đủ. Ai cũng cho rằng, hiện đại là tốt nhất, nên nhiều vị lãnh đạo đảng đã cho bày trong nội thất những chiếc đệm mút và bệ xí ngồi theo kiểu phương Tây.

Bởi vậy, khi đi đâu Mao cũng thường đưa theo chiếc giường bằng gỗ cứng của ông và ông dùng bô. Thậm chí, khi sang Moskva vào năm 1949, ông cũng đưa theo giường riêng và trong chuyến viếng thăm Moskva năm 1957 ông đã sử dụng bô vệ sinh bởi vì trong điện Kreml chỉ có bệ xí bệt.

Đào Chu là người đầu tiên đã cho xây một ngôi biệt thự mới và sang trọng cho Mao và Giang Thanh. Trong việc này ông đã phạm ít sai lầm hơn người khác. Vì thế Mao rất thích lưu lại ở Quảng Châu. Nhà khách Tiểu Đảo, nơi chúng tôi lưu lại, nằm trên một hòn đảo nhỏ, bao quanh đảo là hai nhánh của con sông Ngọc. Trong vườn đầy hoa thơm chuối ngọt và những giống cây nhiệt đới. Ba ngôi nhà ở trên hòn đảo đó được dành cho Mao. Một trong ba ngôi nhà trước đây là nhà nghỉ của bác sĩ Tôn Trung Sơn, nhưng vì Đào Chu chê nó quá nhỏ nên ông đã cho xăy thêm một ngôi nhà khác mang số 1. Giữa phòng ngủ của Mao và Giang Thanh có một phòng lớn, trong đó người ta có thể xem phim được. Trong ngôi nhà thứ ba, sau này người ta đã xây một bể bơi với kích thước của thế vận hội và ở đó người ta có thể giải trí, đọc sách và ăn uống. Những biệt thự số 4, 5 và 6 bình thường là dành cho Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức, nhưng tháng 6 năm 1956, La Thụy Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và tôi đã được thu xếp đến đó.

Tại thành phố Quảng Châu, người ta luôn gặp phải những biện pháp an ninh nghiêm ngặt như ở những nơi khác, vì Đào Chu, La Thụy Khanh và lực lượng an ninh lo ngại đối phương từ Hồng Công có thể thâm nhập vào. Họ biết rằng, trong lãnh thổ thuộc địa của Anh cách đó khoảng 150 cây số có vô số điệp viên của Quốc dân đảng và những phần tử phản động lăm le muốn ám sát Chủ tịch. Trên khắp hòn đảo đều có những người lính có vũ trang của đơn vị bảo vệ trung ương canh gác. Các phương tiện giao thông đường sông đều bị đình chỉ và những chiếc tàu tuần tiêu luôn rẽ sóng canh chừng những khả năng đột nhập. Trên đảo cực kỳ tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng hót của những con chim vùng nhiệt đới.

Vì bộ phận bảo vệ trung ương của Uông Đông Hưng đã phái toàn bộ một đơn vị đến Quảng Châu, nên chỉ riêng đoàn tùy tùng của Mao từ Bắc kinh đến đã có tới 200 người. Thông thường thì cứ từ 8 đến 10 người ở trong một căn phòng của tòa nhà của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông nằm ở đầu cầu nối hòn đảo với đất liền. Các nhân viên của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông và của nhà khách trên đảo đã không thu xếp nổi nơi ăn chốn ở cho chừng đó con người. Ngược lại, nhà bếp của Mao lại được trang bị rất tốt, hợp vệ sinh không chê vào đâu được, sao cho không xảy ra những vấn đề về sức khỏe và tổ chức. Thực phẩm của Chủ tịch hàng ngày được chở đến bằng máy bay từ công xã Tụ Sơn ở Bắc Kinh và được đầu bếp của ông chế biến. Mao thường thưởng thức các loại trái cây hảo hạng, dùng rau và cá vùng Quảng Đông, nhưng ông thường rưới thêm dầu ăn cùng với nhiều gia vị cay của tỉnh Hồ Nam.

Việc cung cấp thực phẩm cho lực lượng an ninh lại là cả một vấn đề. Vì không có tủ lạnh và thực phẩm dành cho 200 con người phải để ngoài trời nóng, nên rất dễ có nguy cơ ngộ độc thức ăn. Việc thanh toán rác rưởi cũng khó khăn không kém, đã thu hút lũ chuột cống và chuột nhắt kéo đến.

Uông Đông Hưng đã điều cho nhân viên nhà bếp ở Quảng châu một số cộng sự từ Bắc Kinh đến để giúp việc và chăm lo việc vệ sinh cũng như việc cung ứng và bảo quản thực phẩm. Còn tôi thì chịu trách nhiệm về tất cả những vấn đề y tế. Mặc dù Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh đã cố gắng hết sức để lấp liếm trước Mao những khó khăn do ban tham mưu của lực lượng an ninh gây ra, nhưng Chủ tịch vẫn để ý thấy. Ông vạch ra cho Uông Đông Hưng:

- Các anh canh gác khắp nơi cứ như là các anh sẵn sàng đương đầu với kẻ thù mạnh. Các anh muốn tự làm tất cả dường như các anh không tin vào lãnh đạo địa phương và tin quần chúng vậy.

Chính Mao lại không cảm thấy có nguy cơ gì. Ông biết quần chúng ngưỡng mộ ông. Tại sao họ lại muốn làm cái gì đó đối với ông? Sau khi chúng tôi đến ít lâu, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân cũng đến Quảng Châu, kéo theo cả các vị lãnh đạo đảng của tỉnh và các quan chức địa phương. Mao đã triệu tập một cuộc họp. Trong khi các quan chức chóp bu của đảng ở trong nhà khách trên đảo, thì tôi dọn sang ngôi nhà của Ban an ninh ở bên kia cầu. Các vị trong tỉnh ủy và các chính trị gia của địa phương được thu xếp ở trong các nhà khách khác, do thành đội Quảng châu và ủy ban tỉnh Quảng Đông quản lý. Đào Chu tổ chức một bữa tiệc chào mừng các vị khách mới đến và mời Mao làm khách danh dự. Đào Chu nói, đầu bếp Quảng Đông đã chuẩn bị những món đặc sản của đất nước và ông ta hy vọng Mao sẽ thưởng thức các món ăn này. Song Mao đã không nhận những lời lẽ văn hoa lịch sự đó và từ chối lời mời. Uông Đông Hưng, Diệp Tử Long và tôi phải thay ông đến dự tiệc, rồi sau đó tôi phải tường thuật lại cho ông biết.

Trước khi khai tiệc một tiếng rưỡi, Điền Chu, trưởng phòng nhân sự của Cơ quan an ninh đến và đi lại phía tôi.

Các nhân viên hóa thực phẩm đã phát hiện ra trong thức ăn có chất xianua (một loại hóa chất cực kỳ độc - N.D) và ông ta tỏ ra đặc biệt lo ngại. Người ta đã phong tỏa nhà bếp, không một nhân viên nào được phép ra ngoài. Uông Đông Hưng yêu cầu tôi lập tức theo ông vào nhà bếp.

Bảy bàn ăn dài đã được dọn ra thịnh soạn và người ta chỉ đợi thực khách đến. Tôi đi vào phòng xét nghiệm cạnh nhà bếp, nơi có hai nhân viên hóa thực phẩm vừa từ Bắc Kinh đến đang kiểm nghiệm các loại đồ ăn cao cấp, cơm và thức uống. Sự căng thẳng làm cho họ toát cả mồ hôi, nhưng khi thấy tôi họ bớt lo và muốn nghe lời khuyên của tôi.

Phó Ban công an tỉnh Quảng Đông, một người tên là Tô nói, các nhân viên nhà bếp đã được kiểm tra nhiều lần. Mặc dù vậy ông vẫn lo ngại. ở Hồng Công có hàng nghìn gián điệp mà nó lại rất gần. Có lẽ một phần tử tội phạm nào đó đã đột nhập vào và đầu độc thức ăn.

Điều hết sức kỳ lạ là chỉ có măng mới có chất xianua. Những đồ ăn khác đều không sao cả. Măng này lấy từ vườn của nhà khách. Tôi cho đào một ngọn măng tươi và mang đi kiểm nghiệm. Lại tìm thấy chất xianua. Tôi theo xe đến ngay thư viện của Học viện y học Tôn Dật Tiên, ở cách nhà khách chỉ vài phút. Tại đó tôi mới biết, măng trong thiên nhiên có chứa một lượng rất nhỏ chất xianua, nhưng không gây nguy hiểm cho sức khỏe.

Đào Chu rất đỗi vui mừng. Ông ta mỉm cười bắt tay tôi, cám ơn tôi luôn miệng và đề nghị nâng ly chúc sức khỏe tôi trong bữa tiệc.

Phó Ban công an cũng cảm ơn tôi. Ông ta nói:

- Đồng chí làm chúng tôi rất hài lòng. Cách đây vài phút, bí thư Đào còn bối rối, đe trừng phạt tôi và nhân viên của tôi. Nhưng bây giờ mọi việc đã rõ, bữa tiệc co thề bắt đầu đúng giờ. Không có đồng chí, có lẽ chúng tôi phải bó tay trước vấn đề hóc búa này mất.

Trong bữa tiệc, khi tôi đứng lên để cám ơn Đào Chu về lời chúc của ông, thì ông ta đến cạnh Uông Đông Hưng và nói một câu ngạn ngữ cổ của Trung quốc: Tướng nào, quân nấy. Uông khoái chí với lời khen đó. Ông ta tự hào rằng, quyết định của ông tiến cử tôi làm bác sỹ riêng của Mao đã được công khai thừa nhận.

Ngay sau bữa tiệc, tôi đến gặp Mao. Ông đang nằm trên giường và đọc một cuốn sách về triều đại nhà Minh. Tôi kể cho ông về chất xianua và ông đã đổi lỗi cho Liên-xô trong vụ lộn xộn này.

Ông lưu ý:

- Tôi không chấp nhận việc tiếp thu mọi thứ của nước ngoài mà không có phê phán.

ý ông muốn nói, việc kiểm tra thực phẩm cũng như những biện pháp an ninh nhiều mặt đều xuất phát từ người anh cả của Trung quốc. Ông nói tiếp:

- Bây giờ thức ăn không những được kiểm tra ở Bắc Kính mà còn được kiềm tra ở cả những nơi khác của đất nước. Việc này tạo ra những rắc rối vô lý. Đồng chí hãy bảo Uông Đông Hưng nên chấm dứt việc đó đi.

Uông Đông Hưng bực tức vì tôi đã nói với Mao, nhưng ông ta biết tôi có lý và phải thay đổi việc kiểm tra thực phẩm.

Sau đó ít lâu, người ta thôi không dùng hai phòng xét nghiệm thực phẩm nữa, việc kiểm tra được thực hiện ở Bắc Kinh và cơ quan an ninh đã chuyển cho thành phố Bắc Kinh việc quản lý công xã Tụ Sơn. Tuy nhiên, việc thay đổi đó chỉ là hình thức. Phần lớn thực phẩm dành cho Mao vẫn tiếp tục được cung ứng từ công xã Tụ Sơn, mặc dù việc cung ứng được chủ thị là không chỉ lấy thực phẩm từ nơi đó, mà còn lấy từ những vùng khác.

Khi Mao biết đã có sự thay đổi, ông cười:

- Tôi đã nói học tập Liên-xô, thì không phải chúng ta học ở Liên-xô người ta ỉa đái như thế nào, đúng không? Tôi không muốn chỉ học Liên xô, mà tôi còn muốn học cả Mỹ nữa.  

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip