CHƯƠNG 7,8,9

  Chương 7


Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau là ngày lễ 1-5, lúc 10 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao. Tôi mang túi thuốc theo người. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó và sau đó Mao Chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ giống bộ quần áo mà Tôn Trung Sơn mặc, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc và nồng nhiệt chào chúng tôi.

Sau đó một lát bộ trưởng công an La Thụy Khanh đến và chúc mừng Mao. Theo lệnh Mao chúng tôi ngồi vào xe và tiến về quảng trường Thiên An Môn.

Sau khi trở về Trung quốc vào năm 1949 tôi không đi dự ngày lễ 1-5 hay ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa 1-10, được tiến hành trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi coi những ngày đó là niềm sung sướng của tôi. Tôi thích đám đông dân chúng hân hoan, duyệt binh, nhạc, và biển cờ. Tôi nhìn một cách ngưỡng mộ lên lễ đài có các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước. Họ cũng thích diễu hành và vẫy chào nhân dân. Ngày lễ này đánh thức trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay tôi cũng sẽ đứng trên lễ đài trên quảng trường cùng với các nhà lãnh đạo đất nước và cùng với họ quan sát những gì xảy ra bên dưới.

Tôi ngồi xe đầu tiên cạnh La Thụy Khanh. Khi chúng tôi đi đến cổng Thiên Bình thì La Thụy Khanh ra khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, và kính cẩn mở cửa xe, nâng tay lãnh tụ. Mao liếc La, tự mình ra khỏi xe và cáu kỉnh nói: Hãy nhanh lên, không phải giúp tôi, mà là giúp phó chủ tịch Tống Khánh Linh. Ngày 1-5 là ngày lễ chính thức, và chính phủ cộng sản luôn giữ giữ chặt khẩu hiệu mặt trận thống nhất liên kết những người cộng sản và phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người nổi tiếng về lý tưởng thống nhất là người vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. La Thụy Khanh chạy theo xe bà, nhưng bà đã ra khỏi xe.

Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, nhưng bà cũng còn đẹp và duyên dáng, cũng như trong ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung hoa, khi tôi thấy bà lần đầu tiên. bà toát lên vẻ đôn hậu và dịu dàng. Đi qua mỗi người bà bắt tay thân mật.

Những người khác được gọi là nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược với bà. Bọn họ tất cả tỏ vẻ cao ngạo và kiểu cách. Họ chào một cách uể oải và đi lại chậm chạp. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh và lịch sự đi cùng bà vào gian tiếp khách, cạnh cổng Thiên Bình và giúp Tống Khánh Linh lên các bậc thềm đá.

Khi chúng tôi lên đến trên, thì một tràng vỗ tay vang lên chào khách. Tôi không ngờ lại thấy được một gian lớn đến thế. Trong đó có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt. Khá nhiều thức ăn, đồ uống, hoa qua. Không ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cao cấp có thể ngồi ở đây 5-6 giờ liền để xem đoàn người diễu hành.

Mao chào khách, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ và cờ đỏ rực rỡ, và được ngăn với phòng bằng một tấm rèm lớn. Tôi theo Mao lên lễ đài. Với sự ngưỡng mộ, tôi quan sát những cử chỉ chào của ông với nhân dân. Chậm rãi và nghiêm trang, Mao đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết rằng sự tự hào và vui mừng tràn trề lòng ông. Tôi cũng hoàn toàn cảm thấy thế. Quảng trường giống như một biển người rập rờn nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được. Trong đó áo trăng của sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân vàtrí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, thì đám đông này chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, và hiện ra một biểu ngữ xếp bằng hàng nghìn con người, ý nghĩa ủng hộ đảng cộng sản, nước Trung hoa mới và lãnh tụ Mao.

Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Quân nhạc cử quốc ca cộng hoà nhân dân Trung hoa. Pháo hoa bắn lên. Quân nhạc tiếp tục chơi và Đông phương hồng, sau đó Quốc tế ca và, cuối cùng, là diễu hành Giải phóng quân Trung quốc. Buổi lễ bắt đầu.

Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho trinh sát, hải quân và không quân diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc chơi những khúc quân hành. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.

Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không dời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.

Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.

Mao nói:

Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thấy bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, và sẽ yêu đất nước mình hơn.

Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về đất nước vĩ đại của mình và sẵn sàng cống hiến cho nó.

Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở gian khánh tiết, La Thụy Khanh gặp tôi và nhắc là buổi chiều chúng tôi lại tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn để tham dự chiêu đãi.

La Thụy Khanh nói với tôi:

- Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6 rưỡi. Đừng chậm đấy.

Tôi quay về nhà mình ở Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ tôi, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ nhưng tất cả kế hoạch bị hỏng.

Tôi sẽ nói với mẹ tôi gì đây? - Lý Liên than thở.

Vợ con tôi đến chỗ mẹ tôi, tôi nói rằng ngay lúc xong việc, tôi sẽ đến đó luôn. Nhưng nếu tôi không có mặt trước lúc 9 giờ tối, thì họ cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc ở tư dinh Mao và tranh thủ ăn bát mỳ. Những người khác cũng đã tới. Các tay thư ký và bảo vệ than phiền là họ thâm chí chưa kịp ăn tối nữa.

Uông Đông Hưng an ủi họ.

- Đừng lo, ở Thiên An Môn đồ ăn thừa cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập nhau thành cụm quanh bàn thôi, để người ta khỏi xì xào là nhân viên của Mao có nhiệm vụ đặc biệt lại đi phá hỏng cuộc vui dành cho những người lãnh đạo.

Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích: Mao đang sửa râu. Đến 7 rưỡi, La Thụy Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao là mọi người đã đến đày đủ cả rồi. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó.

Mao ngồi ở chiếc bàn nhà ăn. Quanh người quấn khăn tắm trắng, tay cầm những tờ giấy mỏng được ghim lại. Mao mải mê đọc chú đọc chẳng hề để ý đến Vương, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.

Vương - cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ và người ta tuyên bố là người thợ cạo Vương Hoá nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.

Sau này Mao cũng kể cho tôi nghe điều này. Mao nghi ngờ về tội trạng của Vương. Chả lẽ ông phó cạo này cắt tóc và cạo râu cho Mao từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào cắt cổ ông ta ư. Nếu như ông phó cạo được trao nhiệm vụ giết Mao, thì ông có thể làm điều này sớm hơn. Mao gọi Vương đến. Ông này quỳ xuống, nước mắt đầm đìa nhận tội rằng định giết lãnh tụ. Mao hỏi: Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?. Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi và chẳng cần gì anh nữa đâu

Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói rằng trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền và bắt ông nhận tội chống Mao. Thế là vụ việc của ông phó cạo bất hạnh được khép lại.

Mao nói:

- Khi tôi tuyên bố về sự thanh lọc, tôi đã nhấn mạnh là cần làm rõ bản chất chứ không phải làm chứng cớ giả để gán cho người vô tội.

Vương, người thợ cạo to lớn trung thành với Mao như một con chó. Rất thú vị là phần đông những người phục vụ Mao tin cẩn và trung thành thời ấy đã được lãnh tụ cứu thoát khỏi sự trừng phạt trông thấy nhỡn tiền, đó là cái chết.

La Thụy Khanh đi đến và nói Uông Đông Hưng giục Mao. Tuy nhiên Uông Đông Hưng nói rằng sự hấp tấp có thể làm Chủ tịch bị thương, và từ chối làm điều này, nói với La đừng xía vô việc này.

Cuối cùng việc cắt tóc hoàn thành, và ông phó cạo mệt lử cạo râu cho Mao. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, và cằm của ông hạ thấp xuống Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.

Cuối cùng mọi việc kết thúc và bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thụy Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riếng cho Mao. Uông Đông Hưng nói là ông đã gợi ý Mao điều này, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:Chủ tịch làm mọi thứ theo ý mình

La Thụy Khanh tiếp tục:

- Nhưng có lẽ tay phó cạo Vương già quá rồi và tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Hơi ghê đấy!

Uông nói:

- Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản đâu. Mao không muốn điều đó và cũng không nghe đâu. Ông ta sợ đưa tới một người mới với con dao cạo sắc trong tay.

La Thụy Khanh im. Ông dĩ nhiên trung thành với Mao, nhưng ông ít khi hiểu được tính đa nghi của Chủ tịch. Tất nhiên Uông Đông Hưng rõ hơn.

Nghe họ, tôi đột nhiên sợ rằng một lúc nào đó khi tôi đến chữa cho Mao đem theo bơm tiêm và kim tiêm. Và Mao chỉ cho phép tôi làm điều này chỉ khi tin tôi hoàn toàn. Nếu tôi không xứng đáng với lòng tin cậy ngay từ bây giờ, thì tôi không thể trong là bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần Mao, kể hết ý nghĩ của tôi và cố gắng làm bạn với ông ta.

Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Bầu trời được sáng lên bởi hàng nghìn ngọn lửa nhiều màu sắc chiếu sáng thành cổ. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc và hớn hở quây quần nhảy múa.

Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam. Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, ông gày gò nhưng đày sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu màu xám, thưa và dài. Ông ăn vận như một nông dân, chân đi dép rọ bằng da. Hồ Chí Minh từng sống ở Trung quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung quốc như thức ăn, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông biết tiếng Trung quốc do trong những năm dài sống ở Trung hoa, chủ yếu ở phương nam, tỉnh Vân Nam và Quảng Đông giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, và tôi rất thích ông. Mao tạo ra sự ngưỡng mộ và kính trọng, còn Hồ Chí Minh thì tính tình chan hoà hơn và không gây ra sự sùng kính một cách kinh hãi như ở Mao.

Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể cho tôi rằng chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy tiền lương trung bình khoảng 30 nhân dân tệ. Về sau tôi xem tất cả những buổi lễ tương tự là chi phí điên rồ và tộ lỗi. Đặc biệt là tổ chức những ngày lễ này trong những năm khó khăn khi ở Trung quốc hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi coi như không có trên đời. Càng ngày việc tổ chức lễ hội làm Mao cáu. Ngay quốc khách cộng hoà nhân dân Trung hoa và 1-5 làm kiệt sức lãnh tụ. Ông chỉ đến lễ đài đúng giờ. Ông rất lo lắng vào đêm hôm trước ngày lễ và thường mất ngủ, đôi khi ông không ngủ được đến sáng. Nhưng quần chúng nhân dân hăng hái làm ông sôi nổi lên, nhưng không ai trong ngày ấy nhận ra sự mệt mỏi và cáu bẳn của ông. Thật ra đôi khi trong ngày lễ ông bị cảm sốt và viêm phế quản. Về sau bệnh viêm phế quản dẫn đến khó thở.

Mao không thể mặc quần áo được. Nhưng để tham dự lễ, người ta phải mặc quần áo cho ông. Ông không thích những ngày lễ trịnh trọng, đến nỗi sau này thậm chí từ chối khỏi chức vụ Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ông cũng bỏ cả các buổi tiếp mệt nhọc và các cuộc gặp chính thức. Đầu những năm 60 Mao chỉ tham dự ngày quốc khánh cộng hoà nhân dân Trung, nhưng chỉ 5 năm một lần. Ông giải thích điều này bề ngoài như là do vấn đề tiền bạc. Dù vậy trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung quốc, và thổi vào họ những luồng kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương thích thú này lấy vượt quá tiền chi cho buổi lễ chính thức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí này.

Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên-xô tháng 9 năm 1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ chính thức.

Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang hưng thịnh, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông và sự xót ruột do chi phí tiệc tùng dường như tan biến. Tôi đợi đến cuối buổi lễ để quay về xum họp gia đình. Nhưng điều này xảy ra. Tôi ngạc nhiên biết rằng Mao rất thích khiêu vũ một cách điên cuồng. Sau cách mạng các buổi khiêu vũ được coi là định kiến tư sản, các vũ trường bị đóng cửa. Tuy nhiên đằng sau bức tờng Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Thường nhảy ở chỗ rộng rãi gian Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.

Tôi cùng Mao vào phòng to. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ của bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrot, van-xơ và tăng gô, còn Mao làn lượt nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy không đẹp, nhưng ăn nhịp tuyệt đẹp và nhảy khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông kịp đổi bạn nhảy chỉ bằng vài câu. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh chiều ấy không có mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu. Tuy nhiên chiều ấy có mặt Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ. Trong gian chỉ có một vài chiếc bàn. Các nhà lãnh đạo ngồi ở đó. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế một cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.

Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung quốc. Lúc ấy dưới con mắt người nước ngoài thì các màn nhảy này có vẻ gượng gạo, thô thiển, thậm chí còn không đứng đắn. Bản thân nhạc Trung quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, người ta lại giải thích là do chưa hoàn thiện, khác hẳn với nhạc phương đông mà người phương tây quen nghe. Tôi ngạc nhiên là buổi chiều đó lại vang lên bản nhạc, trong đó kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là tại thời điểm này Mao ra khỏi phòng và mô tả vở nhạc kịch bằng kiểu nhảy phương tây.

Khuya rồi, tôi cho là là nhiệm vụ của tôi đã xong. Tôi gặp Lý ẩm Kiều nói là tôi phải về nhà, nhưng anh ta nói:

- Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch, tất nhiên, đang vui nhảy, nhưng ông vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí đi khỏi phòng, thì Mao đánh giá điều này như là thiếu tôn trọng ông. Phía đồng chí, là sự bỏ đi, phía tôi là sự cho phép đồng chí đi.

Tôi ngạc nhiên:

- Nhưng thế này là thế nào? Chúng ta hình như không làm điều gì đáng trách cả.

Lý trả lời:

- Thế đấy, đồng chí chưa hiểu rõ Chủ tịch. Hãy nghe tôi và đồng chí sẽ hiểu tất cả.

Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở nơi nào và bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình và quyết định nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:

- Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?

Anh ta nói thêm:

- Đồng chí nên đi đi!

Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do mưa to. Tuy nhiên sau một giờ một tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện trước mặt tôi và nói là Mao trao cho anh ta đón tôi đến cuộc vui đó. Sau đấy, tôi hiểu là mình phải luôn có mặt bên Mao.

Phải cần đến 7 năm tôi mới hiểu rằng Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra là đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, mà còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.

Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư dãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.

Phó Chủ tịch ủy ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành là một ủy viên Bộ chính trị trung thực và thẳng thắn, và là người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố rằng Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thụy Khanh và Uông Đông Hưng đã thỏa mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nhân viên bộ máy Ban chấp hành trung ương. Nhưng năm 1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó.

Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Chỉ mãi đến hai giờ sáng cuối cùng tôi mới được về nhà với vợ con.

Lý Liên đưa tôi bát cháo và rất đau khổ nói rằng ngày lễ của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối và không ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi phải ngủ ở nhà bà và Lý Liên cũng phải ở lại chăm nó đến sáng sớm.

Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày thay đổi hẳn, và Lý Liên nhận xét là tôi đã theo thói quen của Mao. Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tu, cuộc ssóng của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn và lạ lùng. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ tôi thường vắng mặt tôi. Trong những năm làm việc với Mao tôi chỉ có hai tuần nghỉ phép.

Đoi khi tôi phải thức với Mao suốt đêm. Tôi trở lại nhà khi trời sáng. Lý Liên luôn luôn chờ tôi và rất lo.

Mao thường xuyên du lịch, và tôi phải tháp tùng ông. Tôi có thể vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi. Cô ta bị mất ngủ. Thằng con thứ hai của tôi, Erward sinh năm 1956, và ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.

Lý Liên cho rằng thật lạ lùng người ta buộc tôi phải sống trong một môi trường như thế. Vợ tôi không vào đảng. Người ta đánh giá vợ tôi là không tin cậy về chính trị do thành phần xuất thân và vài năm làm sở Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được cô ta những cuộc bão táp chính trị mà nạn nhân lên đến con số hàng triệu người.

Tất cả sức lực vợ tôi dành cho gia đình, nuôi nấng con cái và chăm sóc mẹ già của tôi. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà một góc con bầu không khí hạnh phúc và sung sướng để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà để tôi cảm thấy hạnh phúc và yên tâm. Lý Liên trở về Trung quốc khi là một phụ nữ trẻ, hiền lành và đầy sinh lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, và rất yêu đất nước. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức làm tôi đau lòng và thất vọng triền miên. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định và sự rời rạc cuộc sống mới ở Trung quốc - khiến vợ tôi buồn rầu và chán nản. Chúng tôi không sống mà là bơi theo dòng. Khó mà gọi gia đình chúng tôi là gia đình - Vợ tôi nói thế.

  Những hy vọng trong mắt vợ tôi đã héo dần. 

Chương 8


Giữa tháng sáu 1955 người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, thành phố nghỉ ngơi ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến đay tránh cơn nóng Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tùy tùng vừa rời đây vài ngày trước đây. Đi cùng ông có bác sĩ Châu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có lượt nào du lịch cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó nghiêm trọng.

Tôi ngồi trên đoàn tàu đặc biệt chạy hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, vàtrong ngày ấy tôi đã đến nơi.

Tôi được nói lại là Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, sớm nay đột nhiên quyết định ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Vấn đề ở chỗ đêm nay ở Bắc Đới Hà có giông, và biển có sóng lớn, gió to. Sáng nay gió đã bắt đầu mạnh lên và biển rất không hiền hoà. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối. Nhưng Mao cứ khăng khăng giữ ý định và ra biển. Theo sau ông là các vệ sĩ vẻ mặt buồn rầu.

Bảo vệ cầu cứu Uông Đông Hưng, và Uông cũng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch, chẳng để ý đến lời khuyên của ai cả, nhảy xuống nước và bơi một cách dứt khoát trên biển. Các vệ sĩ phải bơi theo sát ông. Uông Đông Hưng thất vọng. Nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm. Ông gọi La Thụy Khanh và Chu Ân Lai để họ trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Chu không biết làm thế nào, ngay lập tức thông báo cho cấp trên là Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao, tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan và kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm.

Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao chưa hết lo. Bác sĩ Chu là người nhút nhát, tuổi chừng 50.

Giang Thanh nói:

- Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra với ông ấy, thì đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à?

Tuy nhiên bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi.

Hai người lính giúp Chu xuống chiếc xuồng nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng họ lại không biết điều khiển xuồng, và xuồng chao đảo trên sóng trông như chiếc lá. Bác sĩ rất hốt hoảng. Khi Mao bắt đầu quay về bờ, thì chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn lắc lư trên sóng. Bác sĩ Chu, nét mặt sợ hãi cuối cùng cũng cập bờ, lảo đảo rời khoang thuyền. Giang Thanh nhìn ông với vẻ mặt căm thù. Chính thời điểm ấy, bà ta cho gọi tôi.

Mao quẳng cái nhìn vào Uông Đông Hưng, thét lên:

- Anh là thằng khốn nạn và đểu giả. Anh cần phải biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này. Nhưng anh không những cản tôi, mà còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác nhờ giúp!

Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh luôn luôn dưới sự che chở của Mao. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng họ cũng nằm trong hoàn cảnh phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu ông bị chết đuối thì không ai nhớ đến sự trung thành của họ hoặc là họ cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng ông lại không nghe. Không những mất chức mà còn mất đầu như chơi.

Tất cả những hành động của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào tự do của ông, các ủy viên Bộ chính trị khác cũng muốn kiềm chế ông. Không ai có thể bẻ gẫy được ý thích của ông, ông nhanh hiểu những ai có ý làm điều này.

Vụ việc ở Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thụy Khanh. Sự giận dữ của Mao trong quan hệ với họ được tích dần từng năm và cuối cùng làm giảm lòng tin của ông.

Sự kiện trên liên quan đến tôi. Bác sĩ Chu chuyển sang công việc khác và ông lãnh đạo bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi là điều trị, phòng ngừa bệnh và kiểm tra trạng thái sức khoẻỷ của Mao. Trong bất kỳ sự không vừa lòng nào của Chủ tịch toii sẽ có lỗi. Kể từ đây không những công việc mà còn tính mạng của tôi phụ thuộc vào điều là tôi sẽ chú ý đến sức khoẻ Mao bao nhiêu. Vì thế tôi cần luôn luôn cạnh với Mao, để nghiên cứu cặn kẽ cơ thể ông ta.

Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, tôi gặp ông hàng ngày. Nguyên nhân chủ yếu là bài học tiếng Anh. Tôi đi cùng Mao khắp nơi, ở cả Bắc Kinh, và ở cả các tỉnh. Tôi cần phải khám tổng thể Chủ tịch.

Điều này giúp tôi đoán trước căn bệnh tương lai khi tuổi tác ông tăng lên. Ngoài ra, khám tổng thể để giải thích nguyên nhân hàm lượng tăng cao mỡ trong máu. Tôi biết điều này khi xem y bạ của ông. Hai năm lại đây chỉ số này của Mao vượt quá quy định gần 1,5 lần. Chủ tịch bị thiệt hại do viêm nhiễm kinh niên thể nhẹ, và tôi cần phải là giải thích nguyên nhân.

Tôi không muốn kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khoẻ và thể lực của mình, và tự cảm thấy căn bệnh thừa mỡ nào đấy. Ông không thích gọi bác sĩ. Năm 1951 một nhóm bác sĩ giỏi Liên-xô đã khám ông. Do bị thăm bệnh, phân tích và hỏi han quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn và bỏ dở việc khám..

Tôi quay lại bài học tiếng Anh. Chúng tôi đọc tác phẩm Ăng-ghen Chủ nghĩa xã hội: từ ảo tưởng đến khoa học. Tại thời điểm này tôi quyết định tế nhị đặt vấn đề. Tôi giải thích Mao rằng bạch cầu tăng cao nói lên là có một viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể.

Chủ tịch ngạc nhiên;

- Đâu mà viêm nhiễm ra thế. Nó là sự bày đặt trong y học hiện đại.

Tôi trấn an ông:

- Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi muốn xác định nơi viêm nhiễm.

Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ khám tổng thể mũi, răng, và tuyến nội tiết và việc đó không chiếm quá nửa giờ. Ông đồng ý.

Hốc mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng cả. Theo thói quen của nông dân nông dân miền nam Trung quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng họ nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối cho xem răng. Tướng Bành Đức Hoài luôn luôn nói thẳng sự thật, và có một lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh miệng Mao. Ông nói răng của Chủ tịch dường như có màu xanh da lá cây và khi tôi khám miệng ông thì tôi tin điều đó. Gần như tất cả răng của ông đều có cặn cứng màu xanh nhạt. Một số cái đã bị rụng. Tôi xem lợi, bị tấy sưng. Đáng ngạc nhiên là Mao chưa bao giờ phàn nàn, dù rằng viêm nhiễm như thế trong miệng thường gây ra đau nặng. Hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn còn hơn là gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì.

- Đồng chí đã thu xếp xong rồi chứ? Mao hỏi khi tôi nói cho ông về những chiếc răng của ông.

Tôi trả lời rằng không nghiên cứu về nha khoa và khuyên ông gọi các chuyên gia.

Mao cười phá lên và nhận xét:

- Khổng tử nói: Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết - nghĩa là biết

Sau đó tôi khám bộ phận tuyến sinh dục.

Chỗ đấy bị sưng tấy. Hình như tôi đã tìm thấy nguồn viêm nhiễm. Sau khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa. Ông cho rằng tắm làm mất thời gian. Các vệ sĩ đứng trong buồng tắm. Họ lau cơ thể lãnh tụ bằng khăn bông tẩm nước nóng, còn chính Mao lúc ấy nghiên cứu tài liệu, đọc hoặc nói chuyện với thuộc hạ.

Tôi còn nhận ra rằng kích thước tinh hoàn bên phải nhỏ hơn bình thường, nhưng lại không nằm ở bìu. Sự khiếm khuyết như vậy thường là bẩm sinh và không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi cũng tiếp tục chú ý tới sự bất bình thường này. Để xác định vùng phân bố viêm nhiễm, cần phải phân tích tinh trùng của Mao. Để làm điều này tôi bao một chiếc túi mềm lên đầu dương vật của ông và mang tinh dịch về phòng thí nghiệm.

Vài ngày sau, Mao cho phép dẫn một bác sĩ răng ở đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tên ông là Trương Quang Hán. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở đại học tổng hợp liên hợp miền Tây Trung quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa.

Việc chữa răng cho Mao tiến hành cũng ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc và cạo râu. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành thành chiếc ghế để chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, rõ ràng căng thẳng và để ý đến kết quả khám của tôi, cũng như thái độ tính khí của chính Mao. Tôi ở vị trí này chỉ mới được vài tháng và chưa đủ được thông tin về tính khí ông ta. Chỉ chắc một điều là Mao thích tất cả nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng. Tô cũng cho Trương biết là Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là ông ta muốn thực hiện tất cả những gì đã nêu ra.

Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc một quyển sách về lịch sử Trung quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách trong tay. Dù rằng có đày quyền lực, ông đôi khi bị bất an khi gặp những người ông chưa quen biết. Nhưng ông, không còn nghi ngờ, biết rằng những người gặp ông đều bị xúc động được nhìn thấy thiên tử và người cai quản vũ trụ. Sách làm ông an tâm và giúp ông bắt đầu chuyện trò. Để mà bớt vẻ ngăn cách với khách, ông biết cách pha trò và trích dẫn sách. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông chú ý lắng nghe và hóm hỉnh, và người đối thoại của ông trở nên thoải mái và cởi mở. Như vậy Mao đã tận dụng tất cả những thông tin hay từ họ.

- Đồng chí đến đây rồi - Mao đặt sách ra một bên, nhận xét - Đọc sách thực là bài học kỳ diệu.

Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang chè đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và lau lau tay cẩn thận.

Mao chú ý tới nguồn gốc tên của bác sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Quang Hán, Quang nghĩa là chiếu sáng, Hán - dân tộc Hán. Trung quốc - một quốc gia nhiều dân tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung quốc thì người ta nói đến dân tộc này.

- Đồng chí cũng biết làm sáng tỏ dân tộc Hán- Mao nhận xét - Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian đấu tranh với triều đại nhà Mãn châu - nhà Thanh.

Triều đại Thanh sụp đổ năm 1911. Nó được hình thành bởi những những người đi chinh phục ở bắc Trung quốc. Dân tộc Hán vĩ đại thực tế biến thành nô lệ của những người chinh phục ngoại bang, vì thế ở Trung quốc luôn luôn có tâm lý chống Mãn thanh rất mạnh.

Khi Mao hỏi Trương gốc gác, Trương nói là quê ông tỉnh Hà Bắc, nghĩa là phía bắc con sông, nhưng từ lâu sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là bốn con sông.

- Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? - Mao tò mò.

- Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà - nha sĩ trả lời.

Trong lịch sử Trung quốc, con sông Hoàng hà thay đổi dòng chảy của mình. Khi người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc, khi ấy tỉnh nằm ở phía nam của con sông. Bây giờ Hoàng Hà lại còn tụt hẳn xuống phía nam và chảy thậm chí qua tỉnh Sơn Đông.

Mao rít thuốc và hỏi:

- Thế còn bốn con sông mang tên Tứ Xuyên?

Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn:

- Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh.

Mao cười và chữa lại:

- Không phải sông Thanh mà là sông Vũ, rộng hơn sông Thanh.

Trương cũng cười và nói:

- Tôi nhớ một bài thơ của đồng chí nói về Tứ Xuyên. Có câu: Nước sông Thanh bồi đắp bờ sương mù. Vì thế tôi cũng gọi là sông Thanh.

Mao mỉm cười và nói:

- Đấy là thơ.

Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc đại học tổng hợp liên hợp Tây Trung quốc. Người Mỹ lập nên trường này và Mao nói rằng ông rất mừng là có người Trung quốc học ở trường Mỹ. Mao nói:

- Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ gửi cố vấn đến Diên An và họ đã giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ Gorge Haitem giúp đỡ chúng ta và trị được bệnh lậu. Đó là đóng góp chính vào chiến thắng bọn xâm lược Nhật. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy.

Bác sĩ Haitem cùng với trợ lý của mình là Edward Snow có mặt ở chiến khu đảng cộng sản Trung quốc Trung quốc năm 1936 và sau đó ở lại Trung quốc để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung quốc.

Mao tiếp tục:

- Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia.

Nếu người dân thường Trung quốc nói câu này thì người ta buộc tội là phản cách mạng, bởi vì ở Trung quốc, Mỹ được gọi chính thức là kẻ thù số một, và bất kỳ sự tán dương Mỹ được xem như lời nói phản cách mạng.

- Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp đại học Mỹ - Mao nhận xét - Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo.

Ông cũng khoe với Trương rằng tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Ăng ghen Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học.

Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý khám miệng Mao. Mao phản đối.

Trương cậy hết cặn răng Mao và gắp các mẩu vụn thức ăn khỏi miệng, sau đó nói:

- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch cần đánh răng hàng ngày. Răng đồng chí tồi lắm.

Mao phản đối:

- Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Vì sao răng nó cứng và sắc.

Logic của Mao thì không ai bắt bẻ được, dù rằng khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng lớn, nháy mắt, chua cay nhận xét:

- Các đồng chí thấy đấy, thậm chí các đồng chí là bác sĩ bằng cấp hẳn hoi mà cũng chẳng thể giải thích được.

Trương đồng ý:

- Xin chịu Chủ tịch!

Sau đó Trương nói cho Mao rằng cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên.

- Nó bị sâu rồi, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, thì nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh.

- Có thật là nặng thế không? - Mao ngạc nhiên.

- Tôi thề với Chủ tịch đúng như thế - Trương trả lời.

- Thôi được, nhưng hãy tính toán cho đúng nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi.

Trương quay về phía tôi và hỏi nhỏ:

- Chủ tịch có kháng thuốc giảm đau novocain không?

- Không - Tôi trả lời - đôi lần tôi đã tiêm peneciline và novocain. Không thấy kháng thuốc.

- Có cần phải dùng tới anestesine không? - Trương lại hỏi nhỏ - Răng này khó giữ lắm, tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi.

- Chúng mình cứ làm như Chủ tịch đã nói - Tôi trả lời - Để ông ấy yên tâm.

Trương tiêm novocain và mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê rồi, thì ông nhổ chiếc răng đau.

Mắt Mao sáng lên.

- Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại! Mao kêu lên, khẽ cười.

Sau vài ngày, lượng kháng thể trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui vẻ dường như trẻ con. Ông nói:

- Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm băn khoăn tôi nhiều năm. Đó là thành công lớn. Hoan hô trường học Anh Mỹ!

Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ tiếp tục vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Ngoài ra Mao không muốn bận thân vào việc tắm rửa và đánh răng.

Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi thì nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ.

Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy rằng Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khoẻ. Mao từng là ông bố của một số con từ ba nhiều vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, tên là Lý Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Ông không thể có con, khi tuổi ông chưa tới 50. Tôi không thể giải thích được nguyên nhân. Tuy nhiên không thể chữa được.

- Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không?

Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông cực kỳ hoảng hốt.

- Hoàn toàn không phải thế - Tôi trả lời - Phần đông quan thái giám trong cung vua, hoàn toàn bị cắt cơ quan sinh dục. Vài người may mắn thì còn giữ được tinh hoàn.

Phút chốc tôi hiểu rằng Mao thậm chí không có khái niệm cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc tiếp kiến, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan.

Tôi bắt đầu nói để ông hiểu.

- Tinh dịch của ông không có tinh trùng, và vì thế ông không có con. Tuy nhiên điều này là không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục

Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui lòng về sự bất lực của ông. Ông hoảng lên sợ liệt dương. Một thời gian dài ông vẫn tin thành tâm rằng hoạt động tình đục bị hạn chế ở tuổi 20 và 60. Về sau ông kẻ cho tôi rằng ông bắt đầu cuộc sống tình dục khi chưa thành niên. Điều này xảy ra ở quê ông làng Sào Sơn. Ông vui vẻ nhớ về sự làm quen đầu tiên với tình dục thời trẻ. Bạn tình là cô bé cùng làng 12 tuổi.

Tháng 12 năm 1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, và khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung quốc đây là một trong thứ thuốc kích thích mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu say yếu tình dục không thấy mất đi, ông sống trong lo sợ. Ông muốn sống tới 80 tuổi, giữ được vẻ đẹp, khoẻ mạnh và hoạt động tình dục, và tôi là một bác sĩ cần phải giúp ông thực hiện điều lạ lùng như thế. Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục.

Mao buồn rầu:

Các ông bác sĩ, người thì khuyên thế này, người thì khuyên thế kia. Tôi nghĩ trong 10 trường hợp thì chỉ 7 là gần đúng thôi.

Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và tăng tình dục. Trong hoàn cảnh ấy thì ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung quốc. Ông vua lâu nhất Trung quốc là Hoàng đế, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung quốc. Truyền thuyết kể rằng ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng nghìn con gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái thì tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một nhà sư và năm trăm cô gái trinh bạch ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Truyền thuyết cũng xác nhận là những người được gửi đi là thuỷ tổ của dân tộc Nhật bản. Mao cho rằng Tần Thuỷ Hoàng là lý tưởng của mình và cố gắng noi gương ông vua này.

Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc ở chỗ Mao, tôi biết rằng một bác sĩ Rumani tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai ngay cả khi chỉ dùng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, thì ông mới dùng.

Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi và tôi hãy còn trẻ và không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình là vitamin H3, nhưng té ra là thuốc này chưa chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết là Mao không phản ứng với novocain, tôi quyết định đưa vitamin này cho ông dùng thử. Trong gần ba tháng người ta bằng cách này nhồi vào cơ thể lãnh tụ, nhưng chẳng đem lại kết quả.

Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng mở mang hiểu biết cho ông về lĩnh vực y học. ý nghĩ phản khoa học cản trở ông. Tôi ngày càng ngờ rằng nguyên nhân sự bất lực của ông là do tinh thần hơn là thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin là tôi chẩn đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho chế tạo glucoza và chế phẩm làm từ nhân sâm, tôi đưa cho ông và nói là đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc. Trong thời gian đấu đá chính trị hậu quả không lường được, thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, thì không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối những năm 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi lại nhỏ đi.

Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung quốc như thế đấy.

Mao tiếp tục tìm kiếm thuốc trường sinh, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ có thứ thuốc đó trên đời. Lại còn trong những dòng thơ ông bốc đồng viết là sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ba nghìn dặm. Những dòng thơ này là ngôi sao dẫn đường cho ông. Ông tin điều đó cho đến cuối đời. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài là chuẩn bị gặp chúa trời và cụ Các Mác, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe và lạc quan và lúc đó chịu đựng đau đớn và yếu, tránh biểu lộ ra ngoài để rồi sau đó tính sổ những người đối lập của mình. Sức khoẻ của Mao Chủ tịch và chính trị Trung quốc có quan hệ tương hỗ.

Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên-xô ở Bắc Kinh. Ông ta muốn dò xét phản ứng của Liên-xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung quốc -Liên-xô trong những năm ấy là xấu, và vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch này, Mao một số lần tập nhập lại vai ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, và hỏi xem liệu ông có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường và cho gọi đại sứ Liên-xô. Buổi diễn đạt được thành công.

Cũng đúng vào năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của mình là nhàbáo Mỹ Edward Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung hoa, cuốn sách trở thành phổ biến ở Trung quốc và Anh, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng cũng trong cùng năm ấy cả trước bộ trưởng bộ văn hoá Pháp Andre Malro và sau đó ông chú ý theo dõi tin tức báo chí phương tây.

Mao thường buộc tội những người khác về lòng trung thành và tính đa nghi nhưng chính bản thân ông lại là một trong người mánh khóe nhất và không những lừa từng người một, mà còn lừa toàn bộ chính quyền.

Chương 9


Trong những năm đầu tiên làm với Mao, nhiều thứ bệnh lặt vặt làm tôi không an tâm: sốt thông thường, viêm phế quản, nứt da, chai ở chân và ăn không ngon miệng. Do táo bón xảy ra hai ba ngày một lần lại phải thụt cho ông. Mao là chủ đề các cuộc thảo luận hàng ngày. Khi việc tiêu hoá đạt được bình thường, đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.

Dường như đối với tôi, những cơn mất ngủ của Mao choán hết thời gian của tôi. Mao là con người có năng lượng vô tận. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những quy tắc và chuẩn mực xác định. Ông thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt của thời gian. Quá trình bơi và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thưà nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, và ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động lớn của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông ngủ vào lúc nửa đêm, thì ngày hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ lại giấc ngủ đến ba giờ sáng, và ông cũng không thể đóng nổi mắt tới 6 giờ sáng. Chu kỳ mất ngủ của ông ngày một dài thêm, và có lúc ông không thức liền vài ngày. Sau đó ông ngả vào giường và ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền. Tôi thật khó nói được từ lúc nào Mao bắt đầu cái kiểu sống như thế. Có thể, nhịp sống sinh học của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ, vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi nghe ông đã chữa cho Mao cơn mất ngủ từ đầu những năm 30. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai thập kỷ đấu tranh công nhân và những năm nội chiến với Quốc dân đảng đã tác động tới ông.

Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phươnng cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi bộ dạo chơi. Trong những năm 30 bắt đầu dùng thuốc ngu. Đầu tiên Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng thuốc amital natri, một loại thuốc gây ngủ mạnh, dạng bột theo liều 0,1 gam. Nếu một liều không xong, thì ông cho Mao dùng 2, ba và 4 liều một lần uống. Nhưng sớm phải ngừng sử dụng. ông vẫn mệt mỏi vì thiếu ngủ, và thường xuyên lắc lư từ bên này sang bên kia. Những người quanh ông thậm chí rất lo rằng Mao có thể gục ngã và bị vỡ đầu hoặc may mắy hơn là gẫy xương. Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao tình cờ có thể dùng một lượng rất lớn thuốc ngủ mạnh, và bí mật không cho Mao biết, thay cho liều 0,1 gam, thì Phó chỉ đưa những gói chưa thuốc hàm lượng từ 0,05 đến 0,075 gam. Nhưng cơ thể Mao đòi hỏi theo mức của mình, và Chủ tịch cũng vẫn tăng liều uống.

Tôi yên tâm là Mao đã quen thuốc ngủ. Tôi chưa khi nào kê đơn cho bệnh nhân của mình mạnh đến như vậy, và tôi cũng như Phó Liêm Chương bắt đầu lo ngại về sự nguy hiểm do dùng quá liều. Khi tôi lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.

- Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?

Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng dùng thuốc ngủ. Tôi là thuộc cấp của ông, và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.

Một lần ông gọi tôi đến và hỏi:

- Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?

Mao thích đặt các câu hỏi thông thường dường như nó chứa một đđiều bí mật nào đó.

- Ba trăm sáu nhăm ngày, tất nhiên - tôi trả lời.

- Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít - Mao nói.

Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó biết rằng ông tính số lần ngủ trong thời gian một năm.

- Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, thì một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này thì cuộc đời đồng chí, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: Mặt trời và mặt trăng không hiện ra vì núi thì không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua.

Mao cười phá lên và nhận xét:

- Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi - đó là con đường đến bất tử phải không?

Điều này, tất nhiên, là đùa; tôi muốn ông giảm bớt căng thẳng tôi do mất ngủ.

Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả và gây cho Mao giấc ngủ sâu, nhưng nó tác dụng không tức thời.

Vì thế tôi gợi ý Mao trước khi ăn hai mươi phút uống hai gói bột thuốc ngủ, để nó tác dụng tương đối nhanh. Ngay lập tức sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ được dài. ở điểm này tôi không đồng ý với Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân của chúng tôi cần phải biết liều lượng mà họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, gốc gác nông dân nghèo, ít học. Bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao và vì thế, để tránh trường hợp không may nào đấy xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống.

Bởi vì Phó Liêm Chương là thủ trưởng của tôi, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi bắt đầu tán dương phương pháp mới điều trị lãnh tụ, thì Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung hoa: Một bác sĩ hay khoe khoang - đó là liều thuốc tồi, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.

Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, và tôi giảm lượng thuốc ngủ tác dụng nhanh và thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao nghe việc này, ông nhận xét:

- Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza.

Cũng có những ngày, khi Mao lo lắng đến mức phương pháp của tôi thậm chí giúp không được gì. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh họ còn có cả sự căng thẳng.

ở Mỹ người ta coi căng thẳng cũng là bệnh. Dù vậy triệu chứng này khá phổ biến ở Trung quốc. Xuất hiện không những ở Mao, mà còn cả ở vợ ông. Sự căng thẳng thường là hậu quả của những sự thất bại tinh thần. Từ lâu người ta cho là bệnh tâm thần và thất bại về mặt thần kinh là do nhục nhã và xấu hổ. Vì thế cơn mất ngủ, gây ra chính bệnh căng thẳng được giải thích là do nguyên nhân sinh lý học. Ngoài việc làm mất ngủ dẫn đến căng thẳng cũng dẫn đến các chứng sau: nhức đầu, đau kinh niên, lo lắng, tăng áp huyết, giảm tình dục, bệnh da liễu, rối loạn tiêu hoá, đái dắt, dễ bực tức và nhiều bệnh khác.

Dần dần tôi đi đến kết luận rằng sự căng thẳng phổ biến nhiều nhất trong đất nước bắt đầu từ chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng của tồn tại. Tôi va chạm với vấn đề này từ 1952, khi anh trai tôi rơi vào căn bệnh căng thẳng nặng. Anh tôi hiếm khi tăng huyết áp và xuất hiện hội chứng khác của căn bệnh này. Tất cả điều này xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của đảng với ba sai lầm cơ bản: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sự căng thẳng tiếp theo xảy ra năm 1957 trong thời gian chiến dịch chống khuynh hữu trong đảng, hậu quả của nó là hại hàng triệu người vô tội. Trong những năm cai trị Quốc dân đảng, tôi không nhận thấy hiện tượng như thế. Khi đó xấu dở gì đi nữa, thì người ta vẫn có lối thoát. ở chế độ cộng sản không có sự lựa chọn - buộc phải sống theo luật lệ của họ và giữ mồm giữ miệng. Hệ thống cộng sản gây ra hai bệnh tinh thần nghiêm trọng - bệnh thần kinh phân lập và bệnh khùng do bị đè nén.

Mọi sự thất vọng còn lại liên quan với định kiến tư sản và thiếu ý chí được xem là vấn đề tư tưởng. Đối với dân thường Trung quốc, thì bệnh tâm thần do những trắc trở cá nhân được xem là do nhục nhã và xấu hổ. Đó là sự mất mặt, nghĩa là mất đi sự kính trọng dưới con mắt người khác. Vì thế tất cả các vấn đề cá nhân phức tạp, người Trung quốc thường giải quyết trong nội bộ gia đình. Kiểu này tiếp diễn đến khi Mao chết. Bác sĩ, theo đúng quy tắc, không đi tìm nguyên nhân thất vọng tinh thần và căng thẳng, mà chỉ kê đơn thuốc cho người không may.

Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến chữ căng thẳng, bởi vì biết là điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ và tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào bị ức chế, ông nói việc tôi là ông cảm thấy bất hạnh sâu và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Sự căng thẳng của Mao là đương nhiên. Dày vò ông là bệnh mất ngủ. ngứa ngáy ở da, đầu óc quay cuồng và liệt dương. Ông thường xuất hiện những ý nghĩ độc đoán, sự lo lắng vô cớ và đa nghi. Có một lần trong thời gian nghi lễ chính thức đầu ông bỗng quay cuồng, và những vệ sĩ đứng bên cạnh phải đỡ ông khỏi ngã. Và những trường hợp như thế xảy ra tương đối thường xuyên. Tôi còn nhớ, trong buổi Mao tiếp đoàn đại biểu châu Phi, các vị khách đang lanh lợi hội đàm với ông thì đột nhiên họ tỏ ra lúng túng khi thấy Mao lảo đảo. Tôi lập tức chạy lại giúp ông. Trong cac chuyến đi, tiêu dao, và tiếp chính thức chúng tôi luôn luôn bên cạnh để trong trường hợp cần thiết đỡ ông khỏi ngã. Khi Mao nghỉ, thì những hiện tượng tương tự không xảy ra. Tôi thường xuyên kiểm tra sự làm việc của tim và huyết áp của ông, chẳng thấy gì lạ cả, tất cả đều bình thường.

Phần đông nhân dân khi có khúc mắc vấn đề riêng tư đều bị căng thẳng. Đời sống của lãnh tụ trôi đi không có hoảng loạn đặc biệt gì về thần kinh. Ông thường làm người khác bất hạnh. Sự căng thẳng của ông là hậu quả của tính đa nghi quá mức, và sự thiếu tin tưởng trong quan hệ với của ông với các chiến hữu. Ông không có bạn, và chỉ có ít người tận dụng được thiện chí của ông. Hội chứng căng thẳng xuất hiện mạnh ở Mao đặc biệt trong trong thời kỳ đấu tranh dữ dội giành quyền lực trong nước. Mất ngủ suốt tuần và thậm chí hàng tháng đã làm kiệt sức lãnh tụ. Trong hoàn cảnh tranh giành chính trị quyết liệt với phe đối lập Mao, việc điều trị cơn mất ngủ của lãnh tụ gần như vô vọng.

Mao rất muốn làm cải cách trong nước, không cần tính đến điều kiện kháh quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải tạo ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 việc tập thể hoá thực tế đã hoàn thành và nông dân đã nhận ruộng. Thế nhưng vẫn còn một số ít ruộng đất nằm trong tay sở hữu riêng. Để tiến nhanh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc, Mao xúc tiến ý tưởng xây dựng kinh tế tập thể, không cần chờ làm xong việc cơ giới hoá nông nghiệp, quá trình cơ giới hoá trong hoàn cảnh một đất nước lạc hậu như thế, lại bị tàn phá phải kéo dài hàng chục năm.

Những hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên xuất hiện năm 1953 nhưng xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người đối lập chính trị lãnh tụ, mà còn từ phía nông dân. ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh như lúc nó được lập ra. Mao trút tội xuống người lãnh đạo ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc Đặng Tử Huy và những người khác. Ông buộc tội họ là chậm chạp, thiếu cương quyết và thậm chí cả tôi phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:

- Đặng Tử Huy đi cùng với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng Trung quốc, ông ta chọn con đường không đúng.

Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đấy Mao chống lại ý kiến tập thể Ban chấp hành trung ương và đường lối chung của đảng, đưa ra cách thức riêng, theo Mao, đi tới phát triển của Trung quốc.

Tôi cố gắng tiếp xúc ít hơn với chính trị, và trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi chỉ quan tâm bởi sự phân tích của ông và cố gắng điều trị những cơn cơn mất ngủ và liệt dương của lãnh tụ. Lúc ấy tôi không biết gì cảvề cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những người đối lập ông, nhiều người trong số ấy những năm nội chiến từng là chiến hữu của ông. Trong thời gian từ mùa thu 1955 đến mùa xuân 1956 Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ở đó ông trình bày chương trình của mình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955 ông bắt đầu viết cuốn sách: Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung quốc, chọn những bài diễn văn phaty biểu của mình về vấn đề tập thể hoá và viết lời mở đầu và bình luận cho cuốn sách. Ông chuẩn bị bài phát biểu quan trọng trước Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc như thế để cố gắng lôi kéo các ủy viên trung ương đảng chấp nhận quyết định về đẩy mạnh cải cách xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng này cơn mất ngủ trở thành đồng minh của ông. Khi viết sách và soạn các bài đem in, Mao lúc đó không ngủ vài đêm liền, lúc thư dãn ông đi bơi. Do đó, cơ thể khỏe mạnh của ông bắt đầu rệu rã, và ông gọi tôi.

Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế dài. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh và trông rất mệt mỏi. Ông mời tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói là thậm chí không kịp ăn sáng và vẫn còn tiếp tục công việc cả trong bệnh viện. Mao cười và nói:

- Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?

- Đâu có thế, đô thuốc vẫn như trước đây thôi - Tôi trả lời.

- Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi mất ngủ - Mao giận dữ.

Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, dù Phó Liêm Chương nói với tôi rằng Mao không uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao là thuốc sẽ đắng.

Mao trả lời:

- Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.

Tôi đến chỗ tủ thuốc đặc biệt, chứa thuốc dành cho Mao và các ông chủ khác của đảng. Thuốc được mua từ Hồng Kông từ một hãng nào đấy và chủ yếu là thuốc Mỹừ Anh, Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra cẩn thận, do Phó Liêm Chương lãnh đạo. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên Lý năm 1947 là bí danh của Mao. Lúc ấy do sự đe doạ tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ tìm thuốc, thì Phó Liêm Chương đến và lại nhắc tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, và Chủ tịch có thể cáu chúng tôi. Tôi trả lời rằng Mao đã được báo trước điều này và đồng ý uống thuốc này, và tôi nói thêm là cần nhanh lên, vì rằng ông đang đợi tôi.

- Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.

Tôi trả lời và đi ra cổng.

- Đồng chí đã hành động vội vàng chẳng hỏi gì tôi cả!

Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.

Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức cho ông về tất cả cái gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào rằng đã có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, và tin rằng Mao sẽ sướng tai nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, và giờ đây Mao lại tin tôi hơn.

Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi và mời tôi ăn trưa với ông.

- Thuốc nên uống trước bữa ăn - tôi nói.

Sau đó tôi rót 15 mililit dung dịch 50% chloralhydrade vào chén và đưa cho Mao. Ông uống một hơi và nói là vị nó không phải khó uống như vậy và thậm chí còn giống rượu vang, mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:

- Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!

Chúng tôi còn chưa ăn xong bữa, thì thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, và ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, và lúc hai giờ thì ông đã chìm trong giác ngủ ngon lành.

Buổi chiều một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.

Mao đã ngủ 10 tiếng liền thành công. Khi tôi đến gặp ông, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:

- Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?

- Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.

- Vì sao đồng chí không đưa thuốc này tôi từ trước?

Tôi giải thích:

- Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng khó uống, và gần đây chưa có thuốc này.

Thực ra giữa amital natri và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản là Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.

Tôi cảm thấy Mao biết rõ rằng sự căng thẳng của ông gây ra bởi nguyên nhân tâm lý, và ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ, mẹ ông bán khoán ông cho nhà Phật để cầu Phật giúp đứa con bệnh tật của bà. Sau đó Mao hồi sức rất nhanh.

Mao nói với tôi:

- Tôi luôn luôn chống lại việc phá chùa chiền. Những người nghèo khi đau ốm tìm sự giúp của ông trời. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì giúp đỡ họ chỉ nhận được một nhúm tàn hương. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn của họ, làm cho họ minh mẫn và trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn hương hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi minh mẫn của tôi? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.

Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:

- Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.

Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ta ngủ được, mà còn kích thích khẩu vị, thậm chí tác dụng như ma túy. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi một số thuốc và và ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi tối khiêu vũ. 

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip