Cho những ngày biển lặng.

1.

Đom đóm vẫn lập lòe, bay rợp trên những bụi hoa nguyệt kiến hệt như cái ngày bà mất.

Tôi ngồi bên hiên, để cái oi nồng của gió bụi ban ngày bốc hơi chầm chậm ngay dưới mũi. Miếng dưa cắn dở trên tay tôi trông chẳng khác nào một mảnh trăng lưỡi liềm đỏ quạch.

"Nguyệt kiến thảo chỉ là một loài hoa dại, nhưng khi đêm về, chúng đẹp và kiêu hãnh theo cái cách thầm lặng của riêng chúng."

Bà vẫn thường bảo tôi như vậy lúc còn sống.

Người ta đã đem tro cốt của bà rải ở đâu đó ngoài khơi một vùng biển nằm tận phía Nam Fukushima.

Tôi không dự vào chuyện ấy, dù cha mẹ tôi đã la hét trong nước mắt và họ hàng thì dùng tất cả những câu từ mềm mỏng lẫn cay độc nhất họ có thể nghĩ ra để ép tôi theo cùng. Nhưng tôi không muốn. Có lẽ họ thật sự bỏ cuộc khi trông thấy tôi nói chuyện một mình phía sau vườn – nơi bà tôi vẫn dành cả tuổi già ở đó.

Họ nghĩ tôi đã phát điên vì đau buồn, và thế rồi cả dòng họ bỏ mặc tôi cứ làm gì thì làm.

"Có lẽ con bé gặp khủng hoảng, nó vẫn thân nhất với bà nó từ tấm bé... Cứ để con bé một mình cho tới khi bình tĩnh lại," chú tôi bảo với cha mẹ như vậy. Thế là tôi được yên thân.

Tôi lấy làm cảm kích chú, dù vẫn ghét cay ghét đắng cái giọng ông nói, như suýt khóc vì thương hại.

Chỉ là tôi không muốn dự đám tang của bà.

Tôi dành cả ngày hôm ấy để chăm bón cho những cây nguyệt kiến thảo, và ngồi dưới hiên sương đọng suốt đêm để ngắm những con đom đóm bay chập chờn quanh vườn như một hội hoa đăng của giống người tí hon. Đương nhiên, tôi còn nghe mãi những bài nhạc jazz rất thịnh từ cái đài radio nhiễu sóng mà bà bảo là của hồi môn hồi thời con gái.

Tôi không muốn thấy người ta đốt trụi bà trong lò thiêu, rồi lại nhét bà vào bất kì cái bình nào trông có vẻ sang trọng mà họ tìm được. Cái thực tại mà ở đó bà đã chết vẫn chưa bắt kịp tôi. Hay chính tôi chưa bắt kịp nó? Tôi chẳng biết.

Nói tôi trốn chạy sự thật cũng có lý. Nhưng tôi thích nghĩ rằng mình đang tưởng niệm bà theo cách riêng của tôi hơn.

Tại sao đám tang cứ phải mặc định rằng phải có hương khói, quan tài, đọc kinh cầu nguyện hay những linh cữu dát vàng nạm ngọc? Tôi đang cử hành một tang lễ ngay trong khu vườn của bà. Và tôi dám cược rằng bà thích những bụi nguyệt kiến thảo hơn là đám vòng hoa to tướng đi kèm mấy dải băng "thành kính phân ưu" sặc mùi bộ tịch ấy.

Ba năm sau cái hôm bà nằm vật trên băng ca xe cấp cứu và không bao giờ gượng dậy, tôi vẫn chăm sóc lũ nguyệt kiến chu toàn. Dù rằng chúng chẳng còn tươi non như hồi bà còn cầm vòi tưới nước quanh sân, những đóa hoa cả thẹn dưới trăng vẫn muôn đời đằm thắm.

Đêm nay, chúng chiêu đãi tôi một buổi thưởng nguyệt trong ngần dưới bầu trời mùa hạ, được dệt nên bằng tiếng ve nhức buốt. Loài đom đóm cũng chẳng chịu thua, tấu lên bài nhã nhạc lộng lẫy bằng ánh đèn xanh leo lét, kinh diễm tới thê lương.

Có một dạo bà nói với tôi về giống côn trùng phát quang ấy bằng một giọng điệu thần bí, nửa tin nửa ngờ:

"Linh hồn người chết rồi sẽ hóa thành đom đóm, đợi đến ngày dứt nợ để rời xa chốn nhân gian này."

Tôi năm lên mười đã tin sái cổ vào cái huyền thoại ấy. Và bây giờ tôi vẫn không khá gì hơn, dù chưa từng thấy một mảnh linh hồn nào rơi ra từ những cú đập cánh khẽ khàng của lũ đom đóm.

Nhưng trong cánh rừng lấp lánh một vũ điệu ánh sáng huyễn hoặc màn đêm, tôi nghe từng cơn gió im hơi, như nín thở khi lách mình qua những cánh hoa nguyệt kiến mỏng tang màu tím nhợt.

Giữa cái không khí trang nghiêm bất chợt của trời đất đang chuyển mình lặng lẽ, tôi dõi mắt tìm một con đom đóm mang linh hồn dịu dàng của bà tôi.

2.

Cuối tháng Chín, tôi nhập học vào cao trung Karasuno ở tỉnh Miyagi.

Chẳng còn cách nào khác — cha mẹ tôi gần như thổ huyết khi tôi nói mình sẽ không học cao trung và ở lại quê hương Fukushima, cốt chỉ để trông chừng cái vườn của bà. Hoặc nếu cha mẹ tôi muốn con mình tốt nghiệp trung học, thì hãy cho tôi đăng ký một trường nào đó gần nhà, trường ất ơ gì cũng được, miễn là tôi có thể về Vườn nguyệt kiến bất cứ lúc nào mình muốn.

Nghe thật lố bịch, nhưng tôi bắt đầu xem cái vườn ấy là của mình và đặt cho nó một cái tên sến sẩm theo lối Hollywood.

Tôi gào lên với cha mẹ — lần đầu tiên trong đời.

“Cha! Mẹ! Con không muốn chuyển đi.”

“Đấy không phải chuyện con có thể quyết định. Cha con đã tìm được một công việc rất tốt ở Miyagi, và không đời nào gia đình chúng ta lại chết gí trong cái nghiệp chày lưới ở dưới miệt duyên hải nắng gió này nữa!”

“Tuổi thơ của con ở đây, mộ phần bà của con ở đây… con không thể đi. Nơi này, nơi này là nhà của con!”

Nhà?” Gương mặt mẹ tôi như bị một bàn tay vô hình nhào nặn tới biến dạng. “Hay tất cả những gì con tiếc là cái khu vườn chết tiệt đầy sâu bọ ấy hả?!”

“Khu vườn chết tiệt ư?” Đó là nơi duy nhất tôi được phép khóc cho thỏa thích, là nơi duy nhất tôi cảm nhận được sự chở che giữa tiếng la hét và nguyền rủa.

Họ không hiểu sao?
Họ chưa từng thấy tôi khóc một lần nào kể từ năm lên tám, vì những cánh hoa nguyệt kiến đã đón đỡ tất cả giọt lệ của tôi rồi.

Tôi gầm lên như một con thú hoang bị thương.

“Còn cha mẹ? Đến cuối cùng tất cả những gì cha mẹ muốn cũng chỉ là tiền mà thôi!”

“Con có biết mình đang nói gì không hả?” Tôi thấy mẹ tôi chết lặng, nhưng tôi không sao dừng được cơn phẫn uất đang dâng lên ngùn ngụt như cột lửa.

“Không một ai đưa bà đi bệnh viện dù bệnh tình của bà trở nặng… chỉ vì hôm đó là Chủ Nhật!”

“Con dám—”

“Bệnh viện không làm việc và cha mẹ chẳng chịu để mất một đồng nào cho viện phí, thế nên chúng ta đợi đến hôm thứ Hai để dùng tiền bảo hiểm chi trả…”

“Mẹ bảo không được nói nữa!”

“Ừ thì cha mẹ làm việc quần quật để nuôi sống gia đình này, rồi sao nữa?

Cha mẹ có bao giờ nghĩ tới bà cần một bữa cơm gia đình cùng con cháu hơn là một xấp tiền giấy trong tay?
Cha mẹ có bao giờ dừng làm việc lại mà nhìn xem con đang cầu nguyện cho những cuộc cãi vã chấm dứt trong tuyệt vọng?

Cha, mẹ, nhìn con đi, xem con phát điên đến thế nào! Con đau đớn thế này chính vì cha mẹ, bà chết cũng chính vì—”

“Câm miệng!”

BỐP.

Mẹ tôi tát tôi một cú trời giáng.

Khuôn mặt cha tôi méo xệch, đôi mắt lóe lên nỗi bàng hoàng không thể diễn tả.

Tôi đã ngã vật xuống đất nếu không có chú tôi ở phía sau chụp lấy đôi bả vai run rẩy của tôi. Chú ấy lại dùng cái giọng thương hại ấy: “Trời ơi, cháu! Sao thế này…”, chỉ là tôi không còn tâm trí để đáp lời chú.

Tôi vùng khỏi chú và chạy đi, nhắm mắt nhắm mũi. Mặt đất dưới chân quay cuồng; tất cả trái ưu phiền trong tôi chín muồi cùng một lúc và bắt đầu rút cạn dưỡng chất từ buồng tim, nuôi lớn hạt mầm u uất trỗi dậy như bão tố.

Tôi bị chính cơn lũ quét trong cõi lòng cuốn phăng, quăng qua quật lại tới xác tâm vỡ nát.

Vị mặn tràn ra khắp miệng. Cho tới khi tôi nhận ra mình đang cắn môi tới bật máu — cũng là khi gian phòng của bà hiện ra trước mắt tôi như một phép lạ.

Ồ, tôi đã chạy tới đây trong cơn loạn lạc thần hồn. Tôi thậm chí không biết đã khóa cửa lại và ngồi bên mép giường của bà từ lúc nào. Tiềm thức tôi hành động theo một chuỗi ý nguyện mà tôi chẳng tài nào lường trước được.

Tôi đặt mình nằm trên giường bà, tay chân buông thõng. Tôi có thể nằm như vậy cho tới lúc cảm nhận mình chết hẳn.

Tiếng người xôn xao, cào bên vách những thanh âm hỗn tạp: tiếng mẹ đay nghiến, tiếng cha nguyền rủa, tiếng chú van nài — tất cả xoáy vào tai tôi như một bản điếu văn.

Nước mắt tôi lăn dài trên gò má bỏng rát, nơi tôi chắc rằng vẫn còn đỏ hằn dấu tay của mẹ. Tôi giật mình — không phải vì đau. Tôi giật mình nhận ra mình đang khóc.

Kể từ ngày bà mất, tôi chẳng thể khóc nổi một tí gì. Tôi cứ ngỡ mình sẽ vĩnh viễn trơ ra như đá sỏi, cho tới hôm nay.

Tôi khóc nấc lên từng tiếng một, rành rọt tới chói tai. Tôi mặc kệ những người khác có nghe được giọng nức nở thảm hại của tôi đi nữa; nếu tận thế là ngay giây phút này, tôi vẫn cứ khóc — không thể ngừng. Có gì đó trong tôi vừa vỡ tung ra như con đập bị dòng thác dữ tấn công cho tới khắc thời tan tác.

Một giọt nước làm tràn cả đại dương. Khi người ta mong manh nhất, chỉ cần một cú đập cánh bướm cũng làm dậy lên cuồng phong xoáy lốc.

Tôi chẳng thèm bật đèn. Tôi ôm tấm chăn bà vẫn thường ủ ấm tôi mà rưng rức tới khi một mảng vải to ướt sũng.

Chợt nhớ về hôm tôi biết tin người chị họ — con gái chú tôi — qua đời; tôi cũng khóc nhiều như thế.

Chị ấy không đẹp rực rỡ, nhưng có một nụ cười thật xinh; chị là người duy nhất gọi tôi với kính ngữ (gắn “-san” sau tên tôi các thứ). Chị dùng kính ngữ với tất cả mọi người, ai cũng quý chị. Họ bảo chú tôi phước lớn, có một đứa con gái ngoan.

Người ta không cho tôi nhìn mặt chị lần cuối, và tôi rấm rức chạy về khóc trong lòng bà. Dường như tôi vẫn theo tiềm thức chạy về phòng của bà kể từ ngày ấy.

“Chị ấy sẽ mãi không mỉm cười được nữa, bà ơi. Không bao giờ con thấy nụ cười của chị lần nữa. Người ta sẽ thiêu nó ra tro, người ta thiêu xác chị, cái khuôn miệng xinh xắn ấy… ôi chao…”

“Này nhé, đây là bí mật giữa bà với cháu, không được nói cho ai đâu đấy.”

Tôi vẫn nhớ ánh mắt hiền từ, đôn hậu mà thấu suốt cả đời người của bà hôm ấy; đôi mắt lấp lánh như chứa cả nghìn con đom đóm bên trong, đen thâu rừng thẳm.

“Bà là người đầu tiên nhìn thấy chị cháu trong bồn tắm. Đứa cháu gái đẹp đẽ của bà... Nó đã cười rất tươi.”

Mãi sau này tôi mới hay chị tự sát.

Tôi chẳng sợ máu me; tôi vẫn thường tưởng tới cảnh chị nằm trong một miền nước mênh mông màu đỏ ối, làn da trắng sứ mịn như lông tơ chim bồ câu, và khuôn miệng yêu kiều cong lên cười với thế gian chút vàng son sau cùng.

Tôi mãi khóc, đắm chìm vào cái huyền bí miên man ở ranh giới giữa tro tàn và dĩ vãng.

Cho tới khi một con đom đóm vụt bay từ cửa sổ khép hờ, thức tôi dậy khỏi cơn mộng mị.

Hoàn hồn, tôi nhận ra giờ đã khuya. Tôi chẳng nhận ra mặt trời đã tắt tự bao giờ, nhưng gió lạnh mang hơi trăng ùa vào từng nếp chăn góc nệm; tôi phải thừa nhận trời đã về khuya và có khi những chùm hoa nguyệt kiến đã nhuộm tím một góc vườn.

Con đom đóm lạc bầy tỏa ra ánh sáng xanh lục như một ngọn đèn neon biết bay. Tôi ngắm nó lượn lờ quanh phòng như bị thôi miên, mặc cho nó cướp hồn đoạt phách. Dáng nó có chút thẹn thùng và dò xét. Nó đáp lên vai tôi trong một thoáng tò mò, rồi uyển chuyển cất cánh vào màn đêm vô tận phía bên kia cửa sổ — hòa mình vào thiên nhiên man dại nơi nó thuộc về.

Tôi sờ lên vai mình, nơi mấy phút trước còn thấy một sắc lục dạ quang chớp nháy neo đậu.

Vầng trăng khuyết xuyên qua song cửa, tưới xuống thịt da những vùng trắng loang lổ, tinh khôi. Gió hong khô mắt tôi, và trăng dỗ dành bằng giọng hát ru không lời reo ngân trên đầu rặng liễu.

Tôi choàng tay ôm lấy chính mình đang đổ sụp, cố chắp vá những mảnh hồn tàn khốc đang chực rách toang. Tôi nghe đám lá nguyệt kiến va vào nhau, xôn xao; thở một hơi dài ảo não:

“Ngủ ngon.”

3.

Đó là một buổi sáng sương dày. Mắt tôi sưng húp vì trận khóc tối qua, khiến cả nhân gian càng trở nên mù mịt.

Thoạt tiên, tôi đến từ biệt Vườn nguyệt kiến, và cả lũ đom đóm. Hẳn rồi, bọn đèn chớp bé nhỏ vẫn còn quanh quẩn đâu đó trong những kẽ lá – tôi tin thế.

Cảnh tượng trông thật tang thương.
Hoa Nguyệt Kiến rũ xuống cả. Chúng vốn héo rũ mỗi khi trời sáng, nhưng hôm nay lại ra vẻ rã rời như bị nhấn chìm cả đêm rồi nổi lềnh bềnh trở lại sau một trận đại hồng thủy, nhất là khi sương sớm phủ trắng đặc. Vài cánh hoa đã rụng hẳn xuống nền đất nhơ nhớp, từ nay cam chịu sự giày xéo của mưa giông nắng dữ.

Thế nhưng, một cảm giác thân thương vẫn trào dâng khắp huyết quản khi tôi chạm tay vào lớp sương còn đọng giọt trên cành lá.

Dường như đêm qua không chỉ riêng mình tôi khóc.

Có những lúc, sự quyến luyến đủ sức giết người ta từ trong ra. Tôi đau đớn như thể một lưỡi dao găm đang chẹt giữa những rãnh xương sườn.

"Chú sẽ trông chừng chúng giúp cháu."

Giọng chú vang lên, làm vỡ tan cái bong bóng vô hình đang bao bọc tôi trong huyễn tưởng tách lìa thực tại.

Trước khi kịp nhận ra, chú đã ở ngay bên tôi từ lúc nào. Bàn tay chú đặt trên vai tôi, ánh mắt chú ôm lấy ánh mắt tôi bằng một cái nhìn triều mến, khắc khoải bạt ngàn.

Tôi biết chú thương tôi, nhưng cũng hiểu rằng một phần là vì tôi càng lớn càng giống chị họ – đứa con gái chết trẻ của chú.

Buồn thay, khi bạn được yêu thương mà không phải vì chính bạn. Tuy thế, tôi vẫn biết ơn chú, cái người đàn ông khốn khổ ấy.

"Thưa chú, con đi."

Tôi cúi đầu chào.

Khi ngẩng mặt lên, mái tóc hoa râm của chú đượm nắng sớm, thoáng xanh lại. Chú cười, hiền từ như bà ngày xưa.

Khốn nạn thay, ngay cả tôi cũng thấy mình yêu thương chú, bởi vì chú gợi nhớ đến một ai đó.

"Ngon, đợi có dịp nghỉ thì về đây thăm chú, thăm Vườn nguyệt kiến." Chú xoa đầu tôi thật nhẹ.

Tôi kinh ngạc đến quên cả thở: chú biết cái tên đó.

Có lẽ những con đom đóm đã mách cho chú nghe những điều tôi thì thào cùng sương đêm.

Chú quay vào nhà khi tôi còn chưa kịp hỏi vì sao chú biết. Tôi cứ đứng chết trân dưới mái hiên thật lâu, cho đến khi mặt sân hóa thành bùn nhão chôn chặt đôi chân tôi.

Nhưng tiếng cha mẹ vẫn réo inh ỏi ngoài cổng, như còi báo động. Tôi nhận ra: sau tất cả những nỗ lực tuyệt vọng, cha mẹ vẫn là kẻ chiến thắng, dù con cái có vùng vẫy đến đâu.

Tôi quàng vội chiếc ba lô to tướng, cảm nhận sức nặng đè trĩu từ lưng xuống tận gót.

Ngoái nhìn khu vườn lần cuối, tôi vẫy tay chào buồn bã. Rồi khi chạy ngang bàn thờ, có gì đó níu tôi lại. Tôi ngắm di ảnh của bà, sống mũi cay xè. Tôi tự nhủ: chắc chỉ tại hơi nhang xộc lên phế quản.

"Con! Làm gì lâu thế hả?"

Tiếng mẹ tôi chát chúa gọi. Tôi quệt mũi, quay ngoắt đi, không ngoảnh lại.

Đó là lần duy nhất tôi đứng trước bàn thờ của bà mà không bị ai ép buộc.

4.

Đầu tháng chín, sau khi nhà tôi chuyển hẳn lên Miyagi và cha tôi yên ổn với công việc chế biến hàu trong công ty thủy hải sản do một người bác ruột mới mở, sắc mặt cha mẹ tôi tươi rói cả một tháng đầu.

Tôi cũng dần chấp nhận thực tại, dù cứ cách vài ba hôm là tôi lại nhớ lũ Nguyệt Kiến phát điên.

Tôi nhập học vào trường Cao trung Karasuno, và không mấy khó khăn để vào lớp chọn dù tôi chẳng học hành gì ráo.

Không cố ý khoác lác đâu – ý tôi là tôi rất ít khi cố gắng trong việc trường lớp. Tôi cứ trôi dạt giữa mớ đề cương một cách vô hướng và để mọi chuyện lại cho số mệnh.

Tôi không phải một mọt sách thiên tài hay thần đồng gì sất, chỉ là một đứa biết làm thế nào để đạt điểm cao. Không phải tôi không gian lận (thỉnh thoảng có thật), nhưng tôi giỏi suy luận ra đáp án đúng, trực giác lại mạnh.

Khung cảnh quanh trường cũng không tệ, đến nỗi tôi có thể nằm ườn ra ngắm núi non và những ngọn đồi xanh rì lá thông trong giờ chuyển tiết mà chẳng chút phàn nàn.

Bàn của tôi nằm ngay cạnh cửa sổ, chếch về bên phải và, dĩ nhiên, cuối lớp. Tôi không muốn đối mặt với giáo viên lắm, ngay cả khi đó là cô chủ nhiệm đáng mến của lớp tôi.

Chúng tôi vừa kết thúc tiết Anh văn và chuyển sang tiết sinh hoạt lớp. Thứ bảy mà, một buổi chiều hoàn hảo để lăn đùng xuống bàn bất tỉnh cho tới khi chuông reo tan học.

Tôi gối đầu lên xấp tài liệu in đầy công thức câu điều kiện và không hề có ý định ngẩng dậy, dù tiếng cô chủ nhiệm vẫn vang lên ngọt ngào như thường lệ. Tôi khá thích cô, chủ yếu vì chất giọng đặc sệt vùng Tohoku.

“Hôm nay cô xin thông báo với các em, lớp chúng ta có hai học sinh mới.”

Cô nói chậm rãi, và tôi có thể tưởng tượng ra nụ cười nồng hậu của cô dù chẳng cần ngẩng mặt lên.

Khỏi phải nói, lớp tôi lập tức bàn tán xôn xao.

Ối giời, con người ta thì thích những cái mới: quần áo mới, địa điểm mới, câu chuyện mới… và đương nhiên cả học sinh mới.

“Nào, mời các em tự giới thiệu bản thân.”

Tiếng bước chân lạo xạo vang lên; có vẻ cô đã nhường chỗ cho hai đứa học sinh mới bước lên bục giảng.

Cổ tôi bắt đầu mỏi, tôi không biết có nên ngồi thẳng dậy không, nhưng hai mí mắt cứ díp chặt như bị ai đè cả hai khuỷu tay lên. Tôi nói rồi đấy, tôi thiếu ngủ.

“Ch–chào mọi người, mình là Yamaguchi Tadashi, mình có sở thích… và môn học mình thích nhất là…”

Đương nhiên tôi không cố tỏ ra thiếu lịch sự, nhưng thật sự chẳng tập trung nổi vào cái gì ngoài tiếng gió hú từ trên đồi cao dội về qua cửa sổ.

Ôi, cuộc đời thật chán khi phải ngồi nghe ai đó giới thiệu bản thân. Tôi chẳng mê cái lối bộ tịch đó bao giờ.

“Rất mong được mọi người giúp đỡ!”

Giọng nam cao kết thúc bằng câu quen thuộc đầy tính dân tộc, theo sau là một tràng pháo tay ì đùng. Vị chủ nhiệm khả kính tiếp tục gọi đứa học sinh thứ hai.

“Xin chào.”

Lại nam sinh à? Tôi thở dài.

Tsukishima Kei.”

Và bài phát biểu của cậu ta chấm hết ở đó.

Tôi bật đầu dậy – hay đúng hơn, bị một cơn tò mò giật ót ngẩng lên. Không phải vì cách nói chuyện ngắn gọn dễ gây dư luận ấy, mà là vì cái tên.

Kei.

Những khuôn mặt lạnh lùng nhất trong lớp tôi cũng không khỏi hoang mang. Vài người rít qua kẽ răng: “Kiêu thế là cùng.”

Tôi liếc về phía cô chủ nhiệm, người nhà giáo mẫu mực đang ra sức ra hiệu cho cậu học sinh trên bục giảng nói thêm điều gì ngoài cái tên. Sau một cú huých vai của cậu bạn bên cạnh, tên xấc xược nọ mới “à” một tiếng.

“Sở thích của tôi là nghe nhạc, văn học nước ngoài và…” – hắn tuôn ra một tràng vô cảm như đang tua băng đĩa, rồi dứt điểm bằng câu khô khốc – “mong được giúp đỡ.”

Đến đây thì tôi tin chẳng ai muốn giúp hắn. Nhưng có lẽ hắn cũng chẳng cần. Nhìn cái cách hắn phớt lờ ánh mắt phán xét của lớp tôi thì rõ.

Tôi quan sát kĩ cả hai.

Cậu trai tự giới thiệu đầu tiên rõ ràng rụt rè hơn: mái tóc lục sẫm cúi thấp, hai bàn tay không ngừng xoắn tít vì lo lắng. Nhưng ánh mắt bối rối của cậu ta lại được trấn an khi hướng về phía cậu bạn cao hơn – cái tên vừa gây chú ý không nhỏ trong cộng đồng vốn đã phức tạp của lớp tôi.

Người này tóc ngắn vàng sáng, da trắng khiết, cặp mắt hẹp dài tựa linh miêu, sau cặp kính gọng vuông khiến ai cũng dè chừng mỗi khi hắn bước tới gần. Có lẽ phần lớn là vì chiều cao đáng sợ của hắn. Không đùa đâu, tôi đoán hắn phải trên mét tám.

Thế nhưng, khổng lồ vậy mà vóc người hắn không hề thô kệch; trái lại toát lên vẻ nho nhã, thanh lịch. Không phải loại vạm vỡ cơ bắp, hắn giống kiểu thư sinh mảnh khảnh, với những cái tay chân dài thẳng tắp.

Cậu ta cao lớn đến thế, nhưng lại mang tên của một loài côn trùng bé nhỏ.

Tôi nghĩ thầm, trong khi hắn tiến về phía tôi và dừng lại cách bàn tôi chừng hai bước, thả chiếc túi đỏ chói đang khoác trên vai lên chiếc ghế trống. Không nói không rằng, hắn ngồi xuống như thể chỗ đó vốn được định dành cho hắn từ thuở khai thiên lập địa.

Một sự sắp xếp ngẫu nhiên từ cô chủ nhiệm đáng mến. Và tấm lưng áo thênh thang của hắn, kể từ giây phút ấy, đã chắn trước mắt tôi suốt những năm cao trung còn lại.

5.

"Con về rồi đây."

Không một tiếng trả lời.

Tôi chẳng buồn quan tâm, cũng không dám nhìn sắc mặt của cha mẹ. Tôi ngồi xuống bàn, cúi gằm mặt xuống và bắt đầu gắp lấy gắp để những mẩu thức ăn nhạt thếch. Đáng lý ra tôi phải thấy biết ơn vì bữa ăn và thể hiện nó bằng cách ngốn ngấu tất cả cho nhiệt tình, nhưng tôi lại đang cố nuốt tất cả xuống thực quản như bị trời đày.

Không phải vì mùi vị của những món trên bàn dở tệ. Không, mẹ tôi nấu ăn rất ngon. Chỉ là có gì đó trì trệ cứ nặng nề đè xuống mâm cơm, khiến tôi áp lực tới mức không dám thở, đừng nói là ăn uống cho ngon lành.

Nhà chúng tôi đã luôn dùng bữa tối cùng nhau trong cái bầu khí quyển kiệt quệ ôxi kể từ lần cãi vã hôm ấy.

Sau khi rửa xong đống chén đĩa, tôi về phòng, quăng mình xuống giường. Cảm giác tấm nệm dưới thân biến thành chất lỏng, đặc quánh, hanh hao mùi biển mặn.

Tôi chẳng buồn nhấc người dậy bật đèn, cứ ngửa mặt ra cho bóng đêm vây bủa hàng giờ và chờ đợi một cái gậy bóng chày hiện ra từ hư không gõ thật mạnh vào đầu tới khi tôi ngất lịm. Ấy là cách tôi thiếu ngủ.

Thế rồi tôi bắt gặp một con mắt màu xanh neon chớp nháy liên hồi trên trần nhà và bắt đầu di chuyển qua lại. Phải mất một lúc lâu tôi mới nhận ra đó là gì.

Đom đóm.

Suýt thì tôi hét lên. Nhưng tôi giữ miệng mình lại trước khi những tiếng càu nhàu của cha mẹ đập lên cửa phòng.

Như mọi gia đình có trẻ tới tuổi vị thành niên, quan hệ giữa tôi và hai đấng sinh thành đang đi tới bờ vực. Ở đó, tôi ở phía bên này, còn cha mẹ tôi ở phía bên kia. Giữa chúng tôi là một cây cầu treo rung lắc dữ dội mà chẳng ai dám bước chân qua để chạy về phía đối diện. Thành thử ra, chúng tôi cứ đứng cách nhau một cái vực sâu hun hút — cái vết nứt không bao giờ liền lại của lòng tự trọng bị xé toạc tới hoại tử.

Con đom đóm nọ vẫn bay quanh phòng tôi bằng những cú đập cánh mắt thường không theo kịp. Sắc xanh nhạt chập chờn trong đêm như một bóng đèn huỳnh quang, bé xíu và vô hại.

Tôi không sao dời mắt khỏi nó.

Khu này chưa từng có đom đóm, dù có nhiều đêm tôi căng mắt ra tìm trong những bụi cây mọc dại trước sân, mong có cơ may nào gặp được một ánh đèn nhỏ lấp lánh ấy hay không. Nhưng tôi vẫn chẳng tìm ra. Tôi thất bại, hệt như cái cách tôi níu kéo những mối quan hệ trong đời.

Có lẽ nào chú đom đóm này đã theo tôi lên tận đây từ vùng cực bắc của Fukushima thương mến?
Có lẽ nào nó cũng là một thành viên trong cái quân đoàn đèn chớp tí hon vẫn trú ngụ nơi khu vườn nhỏ xinh tại quê nhà mà tôi đã đặt cả thời thơ ấu của mình ở lại?

Tôi chẳng tài nào biết được, chỉ biết rằng tôi nhớ lũ đom đóm của tôi phát điên. Tôi nhớ Vườn nguyệt kiến phát điên.

Tôi ngắm những cú lượn vòng cung đẹp mắt của cái đốm sáng màu lục tinh nghịch nổi bật trong không gian đen ngòm, mê mải tới thiếp đi. Trước khi bị giấc ngủ gây mê và những mệt mỏi ban ngày đánh gục, một dòng suy nghĩ lúc đêm tàn phất ngang tâm trí tôi — thoảng mùi lá thông và nắng tịch dương trên những triền đồi gió lộng.

Kei, nghĩa là đom đóm.

6.

Kể từ lần hắn tự giới thiệu, tôi không nghe ai gọi hắn bằng cái tên ấy nữa. Đương nhiên là vì hắn chẳng thân thiết được với ai đến mức họ có thể gọi hắn bằng tên. Nhưng đến cậu bạn dính chặt theo hắn như hình với bóng cũng không gọi hắn là Kei.

Người nam sinh với mái đầu màu xanh sẫm thường vây quanh hắn và nhốn nháo một cách gọi rất đặc biệt mà tôi nghe loáng thoáng rằng là—

"Tsukki!"

Đấy, chưa thấy dáng người đâu đã nghe tiếng vọng từ cửa lớp dội vào:

"Hôm nay cậu phải đến đăng kí câu lạc bộ nhé!"

"Thôi đi, Yamaguchi. Tớ đã bảo tớ không đăng kí đâu."

Tên đom đóm to xác trả lời lãnh đạm và ngồi vào bàn, cố tỏ ra bận rộn với tờ đề cương vật lý. Nhưng cậu bạn còn lại vẫn chưa có ý định buông tha.

Suốt từ hai tuần đầu đi học, đây là lần đầu tiên tôi trông thấy hai người họ cãi nhau to.

Cậu tóc xanh đang nói về câu lạc bộ bóng chuyền gì gì đấy, và cậu tóc vàng thì bác bỏ tất cả.

"Karasuno quả thực đã mất danh tiếng và không còn mạnh như xưa, nhưng các senpai vẫn không ngừng cố gắng. Nghe nói còn có hai đứa năm nhất rất cừ mới nhập hội nữa. Nếu quyết tâm thì chắc chắn có thể—"

"Quạ gãy cánh mãi mãi vẫn không thể bay cao."

"Chưa thử mà cậu biết là không thể?"

"Đơn giản là tớ không hứng thú. Tớ cũng không cần chiến thắng hay gì cả."

"Nhưng cậu thích bóng chuyền!"

"Tớ không có."

"Cậu chỉ đang lừa dối mình mà thôi! Tsukki mà tớ biết không thế. Tớ biết cậu hẳn rất sốc sau chuyện của anh trai cậu, nhưng đừng vì một chuyện nhỏ mà cậu—"

"Im đi, Yamaguchi!" — cậu trai đeo kính đứng bật dậy — "Cậu không hiểu gì về tớ cả. Vậy nên thôi ngay cái chuyện làm phiền tớ với những suy nghĩ ấu trĩ của cậu đi!"

Hắn gần như hét vào mặt cậu nam sinh tóc lục sẫm, và sự to tiếng đó làm cả những đứa bàn đầu phải ngoái lại xem phía cuối lớp đang có chuyện gì.

Tôi chống cằm, đăm chiêu nhìn cái cách tên bốn mắt phía trước tôi ngồi lại chỗ cũ và khởi sự đeo tai nghe như chưa có chuyện gì xảy ra.

Còn cậu nhóc kia?
Sững sờ như người qua cơn sét đánh.

Tôi trông thấy những nốt tàn nhang trên má và mũi cậu run lên kịch liệt, hai cánh môi mím vào nhau tím tái nhưng rồi chẳng nói chẳng rằng. Cậu quay trở lại chỗ ngồi của mình ở dãy giữa và không thể hiện biểu cảm gì từ lúc đó tới cuối giờ.

Tôi không giỏi nắm bắt tâm lý con trai, nhưng tôi biết một điều là khi chúng đã phát cáu với nhau thì có trời mới ngăn nổi. Tôi chẳng dại gì mà xen vào. Ai đảm bảo cái tên gắt gỏng kia chẳng túm lấy cổ tôi mà dạy dỗ cho vài bài học?

Tôi không nghĩ hắn thuộc loại nhẫn nhịn chỉ vì bạn là phái nữ. Hắn là kiểu sẽ xử tệ với tất cả, bất kể giới tính. Như cái cách hắn mỉa mai những lời cay độc với bọn con trai và từ chối thẳng thừng, đến tàn nhẫn, những hộp kẹo chocolate của đám con gái. Trong mắt hắn, mọi người đều bình đẳng.

Tôi khá ưa cá tính đó của hắn, dù đôi khi tôi ghét ánh mắt hắn nhìn tôi như nhìn ruồi muỗi tới đâu. Ít ra thì hắn không bốc mùi bộ tịch; hắn thành thật với suy nghĩ của mình hơn bất kì ai tôi từng gặp.

Nhưng dường như lần này hắn đã đi quá giới hạn, và tôi phải thừa nhận tôi không đồng tình với cách hành xử của hắn. Nếu sự thành thật khiến người khác tổn thương thì nó không phải sự thành thật nữa, nó là sự thô lỗ.

Nhưng tôi quá lười để nói gì đó với hắn, và cũng chẳng có tư cách để nói. Điều duy nhất tôi làm lúc bấy giờ là nằm ườn ra trong tiếng chuông giục học sinh vào lớp, thầm tự hỏi tại sao những cơn gió hôm nay không đượm mùi lá thông.

7.

Những tiết học chính khóa kết thúc lúc năm giờ đã rút cạn tôi tới từng mảnh hồng cầu, và rồi một tiếng rưỡi học thêm làm đầu tôi úng thối ra bã.

Tôi vật vờ đi trên đoạn đường nhỏ đã lên đèn và cảm thấy bên trong mình nát bét.

Lúc đi lên dốc cầu và soi mình xuống dòng kênh trong veo bên dưới, tôi thấy mình tiều tụy như một con tàu ma cứ trôi dạt mãi giữa đại dương xám khói chờ ngày sóng đánh cho tan xác. Tôi tìm gì đó trong những làn nước.

Kia rồi, ánh trăng.

Cái thứ chất lỏng sóng sánh nơi đáy nước bỗng dâng cao, bóng loáng mặt kênh là tia sáng từ thiên thể ngự trị màn đêm muôn thuở. Ngọc nữ của bầu trời, vị nữ vương mà đám sao khuya đời đời phụng sự. Tôi cảm giác tâm trí mình cũng quỳ mọp xuống bên dưới nàng, cái ánh trăng mỹ miều chết chìm nơi nước lạnh.

Ngay cái lúc tôi định bỏ chiếc cặp lỉnh kỉnh đầy tài liệu và bút bi trên vai mình xuống và nhảy bổ về phía thứ ánh sáng nhu hòa ẩn hiện dưới chân cầu, một bàn tay thô ráp chụp lấy cổ tay tôi.

"Ối, cô em lớp 1-4 đấy phải không? Làm gì lại về muộn thế này?" – một giọng nói khản đặc vang lên.

Tôi quay người lại, cau mày vì lực siết khá mạnh của gã, và tôi dám chắc rằng gã có thể bẻ cổ tay tôi như vặt cổ gà.

"Xin lỗi, nhưng anh có phiền không nếu tôi bảo anh suýt thì làm gãy tay tôi?"

"Ô hô! Đương nhiên là senpai đây sẽ không làm vậy."

Gã cười rách phổi, trông thích thú tợn. Tới nỗi tôi có thể thấy hàm răng ố vàng của gã bên dưới cặp môi thâm đang phì phèo điếu thuốc lá nặng mùi.

Cả trường này không ai lạ gì gã. Tuần nào gã cũng làm thầy hiệu trưởng tức điên lên mà mắng mỏ vào tiết sinh hoạt đầu giờ vì những chiến tích lẫy lừng trong việc tham gia tệ nạn và lập băng kéo đảng.

Gã học trên tôi một lớp nhưng già hơn chừng chục tuổi bởi năm nào cũng lưu ban. Chính thế mà cái điệu “senpai” của gã làm tôi buồn nôn kinh khủng. Tuy thế tôi biết mình cũng không nên đắc tội gã. Tôi không ngại thêm vài vết bầm nhưng sẽ lùm xùm tới phía nhà trường.

Giá mà gã kiếm chuyện với tôi ở chỗ nào vắng vẻ chút. Cây cầu này là điểm bắc ngang địa phận của trường và khu dân cư, hơn nữa đã tới giờ học sinh ra về sau khi học xong lớp phụ đạo nên sẽ có nhiều người qua lại. Tôi không muốn bị bắt gặp khi đang là nạn nhân của bạo lực học đường và được cả xã hội bay vào che chở xót thương các thứ.

Cách duy nhất bây giờ là cố tỏ ra hòa nhã.

"Ồ, cảm ơn." Tôi cố nặn ra một nụ cười khả ố khi gã cuối cùng cũng thả tay tôi ra. "Tôi đang trên đường về nhà, xin hãy tránh sang một bên đi ạ."

Có những người chúng ta không nên dây dưa.

"Em biết là tiền bối quý em như nào mà, đúng không?"

Và cũng có những người bắt buộc ta dây dưa với họ. Tôi thở dài.

"Lấy làm hân hạnh." Ối giời, tôi đương bộ tịch chết được. "Nhưng rất tiếc, tôi đang có chuyện đi gấp."

Sau khi quan sát tình hình, tôi xét thấy gã chỉ có một mình, chẳng còn tên đồng bọn nào khác. Nhưng điều đó không làm cái thân hình to cộ của gã bớt áp đảo và cũng không làm giảm những bước chân chắc nịch cứ ngày càng dồn tôi lùi sát vào thành cầu.

Khi lưng tôi cảm nhận được một tảng kim loại lạnh toát của thanh lan can ép lên lớp áo đồng phục, gã tiến tới chìa ra điếu thuốc đang hút dở trước mặt tôi kèm theo vài tia nhìn giễu cợt.

"Làm với anh một điếu nhé, cô em?"

"Xin lỗi, tôi không hút thuốc."

"Đừng lo, sẽ mê tơi ngay ấy mà!"

"Nhưng..." – tôi cắn vào má trong, nhìn lên gương mặt bặm trợn đang mất kiên nhẫn cách tôi một gang tay và đoán rằng gã sẽ cho tôi một trận ra trò nếu tôi từ chối.

Thú thực, tôi từng muốn hút thuốc, nhưng sẽ chẳng bao giờ ngờ cơ hội ấy lại đến nhanh tới vậy. Rồi bỗng nhiên một hình ảnh xẹt ngang trí óc tôi.

Trên bức phông nền ảm đạm của một chiều mưa mùa hạ, chú tôi ngồi trước bàn thờ người chị họ, ngắm nụ cười của cô con gái chú chẳng thể ôm lấy và nhả khói những hơi dài thườn thượt, thứ khói đặc quánh của những mông muội bình phàm vẫn bám đeo đời chú suốt từ hồi người vợ trẻ bỏ trốn theo nhân tình.

Hôm ấy là lần đầu tiên và duy nhất tôi thấy chú hút thuốc. Ánh mắt chú đờ đẫn và xa xăm như đang lang thang tận miền nào hư vô lắm. Tôi không bao giờ thấy đôi mắt ấy nhỏ lệ, có lẽ nước mắt của chú đã bốc hơi trong ngọn lửa hỏa táng đám ma và thoát ra ngoài theo làn khói thuốc giăng mờ mịt cõi trần ai điên dại.

Chú tôi đã thấy gì trong cái màn sương ảo não ấy, với chiếc đầu lọc trên môi và nicotine âm ỉ nơi chóp mũi?
Chú có hoảng loạn hơn hay bình yên đi?
Chú tìm gì trong đống tro tàn cháy rụi?

Tôi đã tự hỏi tất cả những thứ đó khi bàn tay đưa ra chạm tới điếu thuốc còn rực lên đóm lửa của gã đàn anh đang buông lời trêu chọc.

Tôi chẳng màng tới gã, cũng không màng tới cái gì nữa.
Tôi gần như phát điên ngay giây phút ấy.

Trên chiếc cầu nhỏ bắc ngang dòng kênh còn lóng lánh những trăng, tôi thấy mình ô uế. Chiếc đầu lọc đang nằm kẹp giữa những ngón tay tôi rồi.

"Ngu xuẩn."

Một cái bóng cao lêu nghêu đổ trùm xuống thành cầu dưới chân tôi.

Trước cả khi tôi kịp định thần, hắn đã vươn tay giật lấy điếu thuốc trên tay tôi, vứt ngay xuống đất, nghiến nó ra bằng mũi giày cho tới khi những tàn lửa cuối cùng tắt lịm.

Đó là Kei, tên đom đóm to xác của lớp tôi.

Có trong mơ tôi cũng không tài nào tưởng tới một ngày tên độc tài kiêu mạn ấy có thể hạ cố cứu giúp một kẻ lạ mặt không quen biết.

Nhưng hắn đã đứng đó, dưới ánh trăng tròn vành vạnh, hắt bóng xuống chiếc kính gọng vuông những giọt sáng pha lê.

"Mày bảo ai ngu xuẩn cơ?"

Vị tiền bối ưa bạo lực của chúng tôi dường như không chút hoảng sợ sự cách biệt về chiều cao của hắn và gã. Gã cứ mặc nhiên gầm lên, trên mặt vằn rõ những gân guốc xanh tím.

"Tôi bảo anh đấy, tiền bối ạ." Hắn nhếch mép. Và tôi không cho là hắn lương thiện hơn gã đàn anh này là mấy. "Sẽ thật ngu xuẩn khi anh giở thói côn đồ ngay đây. Nếu anh định giơ nắm đấm lên thì hãy nhìn xung quanh cho kĩ đi đã."

Những tiếng bước chân ngày một gần, và tôi thấy cả toán học sinh với đủ thứ túi xách, balo tạt ngang cầu, để lại vài ánh mắt kì thị.

Gã cũng bắt đầu nhận ra giờ về nhà của học sinh đã đến và gã sẽ chết toi nếu cả một đám đông trông thấy gã – cái tên bị ném đá nhất trường – ức hiếp hai đứa hậu bối năm nhất tay không tấc sắt.

Thấy chưa? Tôi đã bảo là tìm một nơi vắng vẻ đi mà, thật tình.

"Nhân tiện thì nhà của hiệu trưởng nằm ở cuối con phố, anh có muốn vào làm một cốc trà không?" Hắn nói một cách cay nghiệt. "Nếu tôi nhớ không lầm thì trước toàn thể học sinh trường, anh đã hứa với hiệu trưởng sẽ đi vào nề nếp. Đó cũng là lý do anh giải tán mớ anh em xã hội của mình, phải không nào?"

"Mày!" – gã túm lấy cổ áo hắn, nghiến răng ken két.

"Bởi vì chỉ cần phạm lỗi một lần nữa, anh sẽ bị đuổi thẳng.
Tôi nói đúng không, senpai?"

Nụ cười của hắn cứ ngày một giễu nhạo hơn bao giờ hết, nhưng câu từ lại đanh thép sắc sảo tới mức thứ binh khí cứng cáp nhất cũng phải chào thua. Tôi sẽ không muốn làm kẻ thù với một tên như thế đâu, không đời nào.

Và dường như tên đàn anh tội nghiệp của tôi cũng đang có suy nghĩ tương tự. Bằng chứng là dù gã đang nổi sùng tới mấy thì cũng không thể thu nắm đấm lại mà tung vài quả vào mặt cậu trai cao kều trước mặt.

"Mày chưa xong với tao đâu!" Trong mắt gã bùng lên vài tia căm hận và gã buông cổ áo hắn ra bằng cách hất hắn sang bên.

Tôi thấy gã lùi ra vài bước, nhổ một bãi nước bọt cho bỏ tức rồi tan biến vào màn đêm như một loài ác quỷ lần mò về địa phủ.

Tôi và hắn đứng yên trong bóng tối, nhìn theo cái bóng ma quái của vị tiền bối không đáng kính trọng lượn lờ rồi mất hút phía cuối đường. Vài phút trôi qua, trên chiếc cầu nhỏ chỉ còn lại hai đứa năm nhất chúng tôi, thi thoảng lại vụt qua bóng dáng của vài lứa học sinh về muộn.

"Không một lời cảm ơn sao?" – hắn lên tiếng trước mà không thèm nhìn tôi, ánh mắt dán chặt về phía ánh trăng còn soi mình nơi mặt nước.

Hai tay hắn tựa lên lan can uể oải, khuôn mặt không thể hiện một cảm xúc nào rõ rệt, chỉ thấy trầm uất phủ đầy trên những lọn tóc vàng rơi lơi giữa trán.

"Tôi nghĩ cậu không phải người thích lo chuyện bao đồng," tôi đáp, và cũng hướng mắt theo hắn nhìn về phía dòng kênh biếc. "Cậu không phải loại sẽ cứu người hoạn nạn... Ý tôi là, nếu cậu có cứu tôi thì cũng là do cậu vô tình làm thế khi muốn dập tắt cái thứ đang làm gai mắt cậu mà thôi."

Hắn bật cười mỉa mai:
"Vậy là cậu nghĩ cậu không nợ tôi gì cả?"

"Vâng, tôi không nợ cậu gì cả." Tôi khởi sự ngẩng mặt lên, nhìn bầu trời vần vũ như sắp chuyển giông, nhưng vầng nguyệt quang vẫn tỏa sáng dịu dàng bất chấp lũ mây đang giăng mờ mấy chòm tinh tú.

"Nhưng dù gì đi nữa, cảm ơn cậu." Tôi điềm tĩnh nhìn vào mắt hắn khi cả hai chợt quay lại, trông thẳng vào nhau như soi gương.

Hắn thở hắt, cười khẽ. Đoạn, hắn đứng thẳng dậy, đút tay vào túi quần. Trên vai hắn là chiếc túi đỏ chói hai quai làm tôi phải tự hỏi: hắn thích chơi nổi thế à?

"Dù lúc nãy từ 'ngu xuẩn' của tôi là dành cho cả hai người, nhưng giờ thì cậu lại tỏ ra thông minh hơn tôi tưởng," hắn bảo. "Quả thực là vậy. Nhưng cậu có đoán được điều gì làm tôi gai mắt không?"

Trước khi tôi kịp trả lời, hắn đã tiếp tục bằng cái giọng điệu ngạo nghễ đặc trưng:

"Một người thân của tôi đã mất vì lao phổi, lúc cuối đời vẫn không thể từ bỏ thuốc lá, dù cho nó là thứ đã giết chết mình."

Hắn hất hàm về phía tôi, dè bỉu:
"Tôi chúa ghét những đứa vị thành niên hút thuốc. Bất kể chúng có lý do nông nổi gì.

Này nhé, tôi không cần biết chuyện gì đã xảy ra trong cái bộ não nhỏ bé của cậu lúc ấy, nhưng tôi không muốn trên đời lại xuất hiện thêm một kẻ lạc lối trong mớ khói tù mù đó nữa. Tôi không thể chịu nổi nếu nó xảy ra trước mặt mình."

Hắn thì thầm như trăn trối:

"Nhất là khi cái ánh mắt của cậu thảm hại không chịu được, thậm chí còn chẳng có chút thèm muốn nào đối với cái điếu thuốc trước mặt. Tôi đâm bực.
Tôi không biết, nếu cậu không thèm muốn nó hay gì hết, thì tại sao lại tự nguyện động vào thứ độc địa đó?"

Tôi dời tiêu cự khỏi đôi mắt đầy hồ nghi và cáu bẳn của hắn, chăm chăm nhìn vào điếu thuốc khi nãy bị hắn gí nát dưới chân. Lầm bầm vài câu không rõ là nói với ai:

"Ừ nhỉ, tại sao người ta có thể đưa tay ra, dù cho không hề thèm muốn cái gì đó ngay từ đầu?"

Khi hắn đang định mắng tôi "ngu xuẩn" lần hai thì một ánh sáng lóe lên nơi đầu điếu thuốc vốn đã tắt ngấm.

Ma trơi đã thắp nó cháy trở lại chăng?
Hay gió đêm bỡn cợt đã thổi bùng ngọn lửa? Không, ấy là...

"Đom đóm!"

Hắn giật mình:
"Gì cơ?"

"Không, tôi không gọi cậu."

Tôi ngồi thụp xuống một cách mừng rỡ, nhìn ngắm sinh vật phát quang trước mắt mình say mê tới quên cả thời không.

Dường như tôi vừa để cái tên của hắn vọt ra đầu lưỡi, nhưng chớ có trách tôi vô phép. Tôi không tài nào nén được xúc cảm mãnh liệt mỗi khi đứng trước những cái đèn chớp bé bỏng ấy. Lòng tôi bồi hồi như gặp lại cố nhân.

"Tôi không hề biết vùng này có đom đóm. Đây là con thứ hai tôi thấy kể từ khi đặt chân tới Miyagi. Con đầu tiên đã xuất hiện trong phòng tôi từ dạo nhập học, nhưng chẳng bao giờ tôi thấy lại nó nữa."

Tôi không ý thức được mình đang phát âm suy nghĩ thành lời độc thoại.

Tôi cảm nhận được hắn nhìn tôi bằng ánh mắt đáng quan ngại, nhưng thây kệ. Tôi đang tự hỏi đây có phải con đom đóm đã bay lạc vào phòng tôi đêm nọ hay chăng.

Chính lúc ấy, nó cất cánh bay đi, bỏ lại điếu thuốc nằm chơ vơ lại nền đất bụi. Tôi nhổm người dậy, cố không rời mắt khỏi ánh sáng xanh vẩn vơ chao liệng trên đỉnh đầu.

"Ê này! Đừng có đi về hướng đó chứ!" – hắn kêu thất thanh khi tôi chạy vụt theo con đom đóm về phía bờ kênh.

Tôi băng qua dốc cầu, chui xuống thanh ngăn cách vỉa hè và bờ kênh, men theo đám cúc dại mà đi xuống một khoảng đất trống cạnh mặt kênh đang rút nước theo thủy triều. Lòng tôi bát ngát trời xanh, trong ngần trẻ nhỏ, rộn ràng theo tiếng gọi của người bạn tí hon vi vu giữa đồng hoa thảo vô danh.

Đứng dưới trăng, dưới một rừng đom đóm bay lên từ rặng lau già phơ phất, tôi thấy mình như một pho tượng đồng không tuổi, bất tử với thời gian băng hoại. Nghĩa là tôi có thể chết ngay lúc đó mà không hối tiếc.

Tôi ngồi bó gối xuống bên vệ cỏ mềm đẫm sương, thở phào một hơi nhẹ nhõm. Cảm tưởng như trái đất vừa ngừng quay và tận thế đã quét sạch loài người, chỉ để lại mình tôi với khung cảnh kinh hồng tuyệt bích.

"Suýt nữa thì tôi ngã nhào xuống kênh đấy, đồ ngốc."

Cái giọng chảnh chọe âm vang bên tai làm tôi chợt nhận ra nhân loại vẫn chưa diệt vong. Và nếu họ chết hết thì hắn vẫn sống sờ sờ ngay bên cạnh tôi như một kẻ phản diện bám trụ tới tận lúc hạ màn.

"Tôi có bảo cậu chạy theo tôi à?" – lần này đến lượt tôi vặn ngược lại hắn. Nhưng hắn cứ trơ trơ ra đó như bị ánh trăng rằm ngậm nuốt cả thần hồn.
"Nghe tôi nói gì không hả? Ê?"

"Thật đẹp..."

Hắn co chân, ngồi im lìm cách tôi ba gang tay mà trầm trồ tới hóa đá.

Đôi mắt màu hạt dẻ bên dưới gọng kính đen vuông vức mở to, như muốn thâu trọn tất cả sắc lục quang lấp lánh vào tầm mắt.

Trăng đổ xuống làn da mỏng tang thứ màu trắng của vĩnh hằng kiêu bạc, và đôi môi hắn mở hờ tựa hai vệt mây sa.

Kei – hắn cũng đang tỏa sáng.

Tôi lắc lắc đầu, tỉnh trí sau một khoảnh khắc bị ai đó cướp hồn đoạt vía.

"Tôi có thể hiểu vì sao cậu thích đom đóm tới thế," hắn bảo bằng một tông giọng hiếm hoi không chút châm chọc.

Tôi lơ đãng ngắm nhìn lũ đom đóm sáng choang bay loạn như vũ hội, nhẩm đếm chắc phải mấy mươi con. Chợt nhớ về khu vườn của bà ngày ấy, từng ký ức nhóm mãi trong tâm trí một bếp than hồng không bao giờ nguôi.

"Tôi không biết cậu có một nụ cười đơn thuần tới vậy."

Hắn nghiêng mặt về phía tôi, đặt chiếc túi đỏ trên vai sang bên, chỉ còn chiếc tai nghe hiệu Somy vẫn yên vị quanh cổ như vật tùy thân.

Tôi quay ngắt đi trong xấu hổ. Tôi không biết mình bắt đầu mỉm cười từ lúc nào, nhưng trên hết, tôi không thích lời khen ấy. Bằng một cách thần kỳ nào đó, hắn phát hiện ra sự khó chịu của tôi.

"Xin lỗi nếu tôi có nói gì không phải lẽ," hắn bảo, trông có vẻ thành thật.

"Không, cậu chẳng làm gì sai cả." Tôi bối rối khi thấy hắn tỏ ra ray rứt. "Chỉ là tôi không thích người ta bàn về nụ cười của tôi. Tôi cũng không thích cười, chỉ có vậy."

"Có vấn đề gì với nụ cười của cậu sao?" – hắn tò mò, cũng dễ hiểu.

Tôi dừng lại một quãng, rồi ngập ngừng nói khi gió đêm đong đưa cùng những cây cỏ lau trên nền khúc thủy nguyệt ca:

"Chú tôi có một cô con gái rất đáng yêu. Theo vai vế thì tôi phải gọi là em họ, nhưng vì cô ấy sinh trước tôi bốn năm nên tôi cứ gọi là chị, rồi dần thành quen... Chị ấy có một nụ cười thật xinh.

Từ dạo người ta hỏa táng chị, tôi chỉ còn thấy nụ cười ấy trên di ảnh. Nhưng rồi càng lớn, tôi nhận ra nó lại ẩn hiện trên chính khuôn mặt mình. Tôi nhớ cái hôm tôi bước qua tuổi mười lăm, kinh ngạc đứng trước gương và nhận ra mình trông y hệt chị."

Tôi cười khổ:
"Thảo nào chú tôi chẳng xuýt xoa mỗi lúc tôi cười. Chú bảo, tôi cười xinh như chị tôi thuở sinh thời."

Một con đom đóm đậu lại trên mu bàn tay tôi. Tôi nâng niu nó dưới tầm mắt tựa hồ là bảo vật:

"Cậu có tưởng tượng được không? Điểm tựa duy nhất của tôi kể từ ngày bà tôi mất, cái người tôi tưởng chừng yêu tôi hơn chính bản thân mình... hóa ra lại thảm hại tới đáng thương.

Chú tôi vẫn luôn tìm kiếm nơi tôi một bóng hình quá khứ. Chú tôi yêu ký ức, nên chú buộc phải yêu tôi. Chứ đến bao giờ người ta lại thương lấy con nhãi không biết trời cao đất dày mà quấy nát tôn ti trật tự của dòng họ kia?"

Không gian lặng tờ. Bầu trời như thấp xuống sau câu nói cuối cùng của tôi.

Tôi hẳn phải điên rồi mới kể cho hắn nghe những chuyện ấy. Nhưng liệu hắn có bình thường không khi vẫn một mực chăm chú lắng nghe?

Tôi bỗng thấy tội lỗi vì bắt hắn ngồi nghe mình than thở.

"À, tôi xin lỗi vì—"

"Tôi không biết chị gái cậu trông như thế nào. Và dù có biết đi nữa," hắn cắt lời như thường lệ, bất chợt đứng thẳng dậy một cách nghiêm nghị, "tôi sẽ không bao giờ thấy cậu hay nụ cười của cậu giống bất kỳ ai.

Mỗi người đều là một cá thể độc lập, có bản quyền thuộc về chính họ. Tất cả những ai vi phạm bản quyền đều cần bị phạt vạ."

Cái khí thế quan tòa ấy làm tôi bật cười.

"Nhưng nếu phải so sánh..."

Hắn ngoảnh đầu nhìn tôi, ánh trăng phía sau cũng như đang gần lại:
"Khi nãy cậu mỉm cười trông thật giống một đóa hoa nguyệt kiến."

"Nguyệt kiến thảo chỉ là một loài hoa dại..."

"Nhưng khi đêm về, chúng đẹp và kiêu hãnh theo cái cách thầm lặng của riêng chúng."

Hai giọng nói hòa lẫn vào nhau giữa hai bờ hư thực. Một âm vực phát ra nơi người thiếu niên trước mặt, một âm vực vọng về từ sâu thẳm cõi lòng. Những điều hắn vừa nói giống hệt câu bà tôi từng bảo, trùng khớp tới không ngờ.

Hắn không phải người thường. Hắn phải là phù thủy – đã thọc chiếc đũa thần vào tận cùng tim phổi của tôi mà moi ra những câu từ tôi khắc cốt ghi tâm.

"Cậu là phù thủy à?"

Hắn nhướng mày:
"Cậu cũng vậy thôi. Làm sao cậu biết một người yêu thương mình vì điều gì mà không hề hỏi qua ý họ nhỉ?"

Hắn đưa tay ra kéo tôi đứng dậy, bảo rằng trời đã khuya, hắn không phiền đi cùng tôi một đoạn dù nhà hắn ở phía ngược lại. Tôi bắt lấy bàn tay mảnh dẻ ấy như bấu víu vào chiếc phao cứu sinh.

Phủi phủi cỏ trên váy áo đồng phục, tôi sực nhớ ra lý do hắn đi học về một mình.

"Cái cậu Yama gì đó không học chung lớp học thêm với cậu sao?" Tôi mượn cớ đánh tiếng.

Tầm giờ này hôm nào tôi chẳng thấy hai người họ đi về cùng nhau như trăng với sao, như hình với bóng. Có lẽ cậu bạn tóc xanh sẫm vẫn chưa dám đối diện với tri kỷ của mình sau chừng ấy biến cố, mà chính tên tóc vàng cao kều này cũng không phải loại sẽ chủ động hàn gắn.

Hắn cau mày:
"Yamaguchi đã không đến lớp học buổi tối. Cậu ấy đi về từ sớm."

Tôi lưu luyến nhìn ánh đèn xanh nhập nhoạng giữa ngát trời thơm thảo trăng thanh. Một cảnh tượng tình cờ bên bờ kênh nông thôn bình dị lại diễm lệ hơn bất kỳ kim ốc xa hoa nào của thị thành.

Có công trình nào kỳ vĩ hơn thiên nhiên tạo hóa? Có ánh điện nào lung linh bằng những chiếc đèn lồng đom đóm đốt lên vạn nỗi hoài niệm tráng ca?

Tôi biết vẻ đẹp này cũng sẽ thành phù du. Không con đom đóm nào sáng mãi muôn đời. Nhưng ít nhất, tôi thấy mình may mắn vì đã ở đây ngay giây phút này, cùng người thiếu niên bên cạnh.

Tôi cầu nguyện cho tham ái lòng mình tiêu vong. Hãy ngưỡng vọng cái đẹp trong thực tại, mặc kệ mai sau nó hương tạ hoa tàn.

"Hãy trân trọng thực tại của cậu, Tsukishima. Hãy chấp nhận rằng cả đời cậu sẽ không bao giờ gặp một ai hiểu cậu như thế nữa đâu."

Tôi quay đi, bỏ lại rừng đom đóm mơ màng mộng cảnh.

Bước chân lên mặt đường đá sỏi, tôi vẫy tay chào, mỉm cười một lần sau cuối. Tôi có thể thấy hắn đứng trân trối nhìn tôi đầy bất mãn.

"Cảm ơn cậu vì đã dập điếu thuốc ấy. Còn giờ thì chào nhé. Tôi có thể tự về được."

Tôi xốc lại chiếc cặp trên vai, băng ngang sang lề đường bên phải.

"Tôi muốn cậu có chút thì giờ để gặm nhấm cái khoảng trống bên cạnh cậu và suy nghĩ xem mình nên làm gì."

Cứ thế, tôi tiến vào màn đêm hun hút. Đây đó, những dãy nhà đã lên đèn làm đoạn đường bớt tối. Tôi nghĩ, đêm nay mình có thể ngủ một giấc thật ngon.

8.

Sáng hôm sau, cả trường dậy sóng vì tin gã du côn mà tôi đụng độ đêm trước đã chính thức bị đuổi học. Lý do: hiệu trưởng tận mắt trông thấy hắn đấm một nam sinh năm nhất ngay trước cổng trường.

Khỏi phải nói, tôi tất tả chạy lên phòng y tế ngay khi nghe thiên hạ kháo nhau vụ ấy, dáo dác tìm khắp lớp mà vẫn chẳng thấy bóng dáng tên bốn mắt cao kều kia đâu.

Quả nhiên, lúc tôi đến nơi thì hắn đang ngồi băng bó vết thương trên chiếc giường trắng toát và còn đủ sức lạnh nhạt chào tôi một câu:

“Buổi sáng tốt lành.”

“Tôi cược năm mươi nghìn yên là cậu cố tình chọc điên gã ta trước,” tôi ngồi xuống chiếc ghế kim loại bên cạnh tủ thuốc, vừa thở dốc vừa nói.

“Chẳng trách tôi được, chính đàn anh của cậu chặn đường tôi ấy chứ.”

Tôi nhận miếng bông băng đã thấm vài giọt thuốc sát trùng từ tay cô y tá, nhẹ nhàng chấm quanh vết thương còn đỏ hỏn trên má phải hắn.

Khi hỏi rõ ngọn ngành, hắn kể rằng đã tính toán từ trước: thấy thầy hiệu trưởng từ đằng xa nên mới dám chọc khích gã tiền bối bất hảo vài câu cho bõ tức, cũng để chắc chắn rằng gã sẽ bị tống cổ ngay lúc ra đòn vũ lực.

“Tôi dự là sẽ ăn một cú đấm là cùng, nào ngờ gã nhanh tay thụi cho tôi mấy quyền đau điếng vào bụng. Chỉ trách ngài hiệu trưởng đi đứng chậm chạp hơn tôi tưởng,” hắn thở dài kể lể, mặc kệ cô y tá đang kê thuốc giảm đau mà cũng phải ngoái lại nhìn hắn đầy ngạc nhiên.

Quả tình tôi có chút ân hận, vì suy cho cùng hắn cũng vì cứu tôi nên mới kết oán với gã đàn anh kia. Tôi chạy bạt mạng xuống đây bởi lẽ nếu hắn xảy ra chuyện gì, tôi sẽ cắn rứt lương tâm cả đời. Thấy vết thương trên mặt hắn, tôi xót lắm.

Nhưng khi nhìn nụ cười gian manh cùng vẻ đắc thắng lúc hắn nói về những toan tính, tôi lại không ngăn nổi lòng thương cảm cho kẻ vừa bị đuổi học.

Tôi thở dài:

“Chẳng rõ ai mới là nạn nhân ở đây nữa...”

“Ê, tôi nghe được đấy nhé?” hắn dẩu môi, khiến tôi phải thầm nghĩ: con người này trẻ con hơn tôi tưởng.

Tôi vừa định vặn lại thì cánh cửa phòng y tế bật tung như bị đại bác bắn.

Một nam sinh trên vai còn mang cặp, chưa kịp bỏ giày, đã lao vào căn phòng sặc mùi thuốc sát trùng, tiếng gào đầy tang thương:

“Tsukki!! Tớ xin lỗi! Đáng lẽ tớ không nên ngó lơ cậu... Đáng lẽ tớ phải ở đó với cậu... Tớ thề tớ sẽ không bao giờ để cậu một mình nữa, Tsukki!!”

Cậu ta gần như quỳ sụp xuống sàn, vùi gương mặt ướt đẫm mồ hôi hay nước mắt lên đầu gối người bạn chí cốt, vừa khóc vừa xin lỗi.

Gì thế này?
Tôi không nghĩ Yamaguchi phải cầu xin tha thứ; đáng lẽ người phải nói lời đó là cái tên hay buông lời cay độc kia chứ… Nhưng ngay lập tức, hắn bắt gặp khuôn mặt nhăn nhúm của tôi và đáp lại bằng một tia mắt sắc lẻm.

Chỉ Yamaguchi vẫn không gượng dậy nổi, mái tóc lục sẫm run rẩy như khóm cỏ mây yếu ớt trong gió. Cậu nắm chặt tay người bạn đang ngồi bình thản với mớ bông băng thuốc đỏ, tựa hồ như van lơn.

“Đứng lên đi, Yamaguchi,” hắn nói, điệu bộ chẳng khác nào bảo quần thần miễn lễ. “Tớ không sao. Cậu không có lỗi gì cả.”

“Không, Tsukki, tớ sai rồi. Tớ không nên coi chuyện anh trai cậu là nhỏ nhặt. Rõ ràng nó không hề nhỏ. Rõ ràng tớ biết cậu đau đớn trong sự lừa dối ấy đến nhường nào...” Yamaguchi nghẹn ngào.

“Cậu nói đúng. Tớ chẳng hiểu cậu gì cả. Tớ chỉ biết nói điều mình muốn mà chẳng quan tâm cảm xúc của cậu, tớ—”

“Cậu hiểu tớ hơn bất kỳ ai.”

Tiếng nấc dừng lại. Cả tôi cũng nín thở khi hắn đỡ Yamaguchi đứng lên, nở nụ cười hiền hậu không còn chút gì mỉa mai thường trực. Tôi chợt thấy mình đang chứng kiến điều vĩ đại nhất của lòng người, cái thanh sạch nhất giữa muôn vàn nhơ nhuốc.

Ánh mắt Yamaguchi sáng lên như hai khối ngọc bích, rồi tan chảy thành dòng lệ dưới hơi ấm từ tinh cầu tưởng chừng lạnh lẽo nhất. Ai bảo chỉ mặt trời mới khiến đôi mắt trong vắt tan thành suối lệ? Mặt trăng trước mắt tôi đâu chói chang, vậy mà lại ủ ấp những vì sao rơi trên gương mặt người tri kỷ bằng sự dịu dàng hiếm có.

Hắn khẽ đưa tay lau đi giọt nước mắt:
“Ngay từ đầu, kẻ ấu trĩ là tớ. Tớ không muốn thừa nhận mình yếu đuối. Tớ không muốn đối diện với quả bóng chuyền và quá khứ đáng hổ thẹn... Tớ xin lỗi.”

Chỉ ba tiếng ấy thôi là đủ. Ngàn vạn lời khác phút chốc trở nên dư thừa.

Đôi môi Yamaguchi run run, gương mặt méo mó đến đáng thương. Có lẽ cậu chưa từng thấy dáng vẻ khiêm nhường của người bạn tưởng chừng quen thuộc mà khó đoán này. Cuối cùng, cậu chỉ kịp hét lên:

Tsukki!!”

Rồi lao tới ôm chặt hắn, đến mức hắn phải la:
“Ê! Vết thương ở bụng tớ vẫn chưa lành đâu đấy!”

Nhưng tất nhiên, chẳng ai quan tâm cả.

Tôi khẽ gật đầu chào cô y tá, rời khỏi phòng. Sau lưng, tiếng mừng rỡ của Yamaguchi và lời càu nhàu của Tsukki vang vọng. Tôi bất giác thở phào.

Có lẽ câu lạc bộ bóng chuyền của trường tôi năm nay sẽ náo nhiệt lắm đây.

9.

Tôi về phòng sau một ngày kiệt quệ nhưng không thể nằm ườn ra như mọi khi.

Chú tôi viết thư cho tôi. Phong bì nằm nhẵn nhụi trong hòm thư trước cổng, suýt nữa đã bị cơn mưa làm ướt nhèm nếu tôi không kịp trông thấy.

Tôi quẳng chiếc cặp xuống giường, ngồi ngay vào bàn và bật chiếc đèn huỳnh quang trên đỉnh đầu. Vuốt ve mép giấy tem thư, lòng tôi cồn cào như đói ngấu một cái gì để lót dạ.

Đương nhiên tôi không định nuốt cả tem cả thư vào bụng, chỉ là tôi thèm kỉ niệm. Tôi đói mùi gió bụi của miệt Fukushima nắng cháy, thèm những âu yếm vỗ về trong vòng tay chú.

Không rõ vì phấn khích hay sợ sệt, tôi bóc thư bằng những ngón tay run lẩy bẩy. Những nét chữ tròn trịa, nghiêng ngả trên trang giấy như mảnh vỡ của mấy xác tàu đắm dạt vào bờ sau bão.

Chú tôi vốn không phải tạng người văn chương; lối viết của chú đặc sệt chất dân lao động, bình dân, không hoa mỹ. Nhưng tôi thích thế.

Đôi khi cái hoa mỹ là không cần thiết trong một bức thư tay. Bạn không cần phải là một bậc kì tài văn nghệ mới có thể viết rằng mình đang nhung nhớ một người ở cách hàng ngàn dặm địa đồ.

Tôi thích một lá thư bình dân kiểu ấy hơn tất cả kịch phẩm của Shakespeare hay pho tiểu thuyết của Victor Hugo, ít nhất là vào một ngày đầu óc tôi đã quá tải sau hai tiết Quốc ngữ lê thê, không thể dung nạp thêm thứ văn chương khỉ gió nào nữa.

Tiếng mưa chầm chậm va vào cửa sổ khi tôi đắm chìm trong những dòng mực đầu tiên.

---

Búp bê dễ ưa của chú,

Dạo này cháu thế nào? Lên Miyagi sống có quen không? Chuyện trường lớp vẫn ổn chứ? Ngay đầu thư đã vồ vập hỏi thế này cũng không phải lẽ, nhưng chú sốt ruột quá. Chú cứ linh cảm xấu rằng cháu sẽ gặp chuyện gì đó rắc rối. Hãy bảo chú rằng linh cảm ấy sai đi nhé.

Dưới này chú vẫn mạnh. Chỉ mỗi tội mấy hôm nay biển động, chú lo năm nay bà con thuyền chài khó lòng ra khơi. Nhưng rồi sẽ ổn thôi, cháu ạ. Dân mình vốn lì đòn trước những cơn tam bành của tự nhiên, có bao nhiêu trận bão cũng thế thôi.

Cha mẹ cháu khỏe chứ? Hẳn công việc trên ấy cũng tốt hơn nhiều. Chú định viết cho anh chị trước, nhưng không hiểu sao khi ngồi vào bàn, đặt bút xuống, chú lại viết cho cháu.

Đi học có bị ai bắt nạt thì cứ đánh tiếng với chú. Có đang kéo lưới, chú cũng bơi ngay lên Miyagi mà trấn nước cho nó một bài học. Cháu đừng sợ, lũ bắt nạt là bọn chết nhát nhất. Chú đã dạy cháu gì nào? Bảo vệ bản thân, bảo vệ bản thân, và bảo vệ bản thân. (Câu này nét mực chú viết rất đậm, hằn cả sang trang sau.)

Chú vẫn chăm sóc Vườn nguyệt kiến cho cháu. Chú hiểu vì sao cháu yêu nó đến thế. Ban đêm, khu vườn như một thế giới khác. Nhiều lần chú bị lũ đom đóm mê hoặc, thức hay mơ cũng chẳng hay, đến khi trăng lặn trời đông hửng sáng mới giật mình thấy mình còn ngồi ngoài hiên.

Nếu chú có mắc bệnh mộng du, thì chắc cũng chẳng lạ khi người ta thấy chú loanh quanh tưới nước, bắt sâu cho mấy đóa hoa tím muốt ấy suốt đêm. Chú mê mẩn nó bao nhiêu, lại mong có cháu ở đó bấy nhiêu.

Những ngày rằm, ánh trăng rọi xuống mặt, xuống cổ, xuống tay chân chú những cái bóng bàng bạc, như mang theo hơi lạnh u minh cướp mất hồn phách.

Chú bỗng nhớ bà của cháu. Nhớ lắm. Đau đớn như có thanh thép cứa qua cứa lại vào mí mắt.

Chú nhớ lời ru của bà ngày xưa khi ngồi đưa võng; nhớ tiếng rè rè của cái đài sóng cũ bà hay bật mỗi chiều; nhớ cả mấy câu chuyện bà kể về loài đom đóm mang linh hồn con người bay mãi vào màn đêm.

Cháu biết mà, bà từng kể với cháu rồi chứ gì. Con nít thì tin sái cổ, mê tơi. Nhưng đến giờ chú vẫn chẳng thành người lớn. Chú vẫn tìm trong lũ đom đóm một linh hồn nào đó của người mẹ thân thương, vẫn sáng nhấp nháy chờ chú nhận ra.

... Nhưng khốn nạn thay, người ta sắp dẹp cái vườn.

Ông bác ruột trong chính quyền chạy ào vào, hét ầm lên rằng khu nhà tổ rơi đúng vào vùng quy hoạch đường lộ mới.

Nhà nước sẽ trả hàng nghìn tỷ yên.
Hàng xóm xúm lại bảo nhà ta sắp giàu to.

Nhưng chú chẳng còn nghe, chẳng còn thấy gì nữa. Chú cứ đứng chết lặng. Chú ước đó chỉ là mộng du.

Người ta sẽ làm gì với Vườn nguyệt kiến và lũ đom đóm?

Họ sẽ bứt cây, róc rễ, xua đuổi bằng hết loài côn trùng bé bỏng chỉ biết bay nhảy và tỏa sáng rập rờn kia. Trời ơi, chúng có tội tình gì đâu! Ruột gan chú quặn thắt. Chú không sao giữ được vườn nữa rồi.

Chú thấy mình khác gì loài côn trùng ấy? Khác gì sâu kiến mặc cho người ta giày xéo? Phía trên đã có công văn xuống, dân mình chẳng làm gì ngoài gục gặc đầu. Họa chăng chú bất chấp, mang danh phản động mà vùng lên kháng cự, thì cũng chẳng cứu vãn được gì.

Chú thấy mình hèn hạ quá. Nhưng chú buộc phải nói: chú xin lỗi cháu. Chú không giữ nổi Vườn nguyệt kiến. Người ta dọa tống chú vào tù nếu còn chần chừ, rồi đuổi chú ra khỏi ủy ban.

Mai kia sẽ có người xuống kê khai, đo đạc, quẳng tiền vào mặt dân cho yên phận.

Chưa bao giờ chú hối hận vì đã bước qua ngưỡng trưởng thành đến vậy. Thế giới người lớn chưa từng chứa chấp ước mơ trẻ nhỏ. Chú ước được quay lại làm đứa trẻ dại dột năm ấy, ngã nhào vào lòng mẹ... nhưng còn đâu?

Chú biết, nỗi buồn của chú chẳng bằng một nửa trong cháu. Đôi mắt cháu từ ngày bà mất chỉ sáng lên dưới trăng, chỉ dành nụ cười cho những con đom đóm lập lòe bên bụi nguyệt kiến trổ hoa lặng lẽ. Chú thấy hết.

Nhưng rồi giữa đường đời chông chênh, ta sẽ đánh rơi những thứ bất ly thân của mình lại cho quá khứ. Khi ấy, ta phải học cách yêu trong kỉ niệm.

Chú tin trong tim cháu luôn có một khu vườn.

Hồi âm cho chú sớm nhất có thể nhé, chú lo cho cháu.

Chú của cháu,
NK.

---

Tôi đọc xong tờ thư cuối cùng khi ngoài trời vẫn mưa rả rích.

Như một cái máy đã lên dây cót, tôi dọn dẹp xấp giấy phong bì, chuẩn bị bài cho hôm sau, rồi tắt đèn đi ngủ.

Nhưng tôi không thực sự ngủ.
Tôi nằm bất động, nghe nhịp thở của mình hòa vào tiếng mưa lăn dài bên bậu cửa. Mí mắt nặng trĩu, nhưng đầu tôi quay cuồng với vạn ngàn phiền lụy đan cài, không sao kéo sập.

Bất chợt một luồng suy nghĩ lóe lên, khiến tôi giật mình.

Ơ kìa, đã một tháng nay tôi không còn thấy cái đèn lồng nhỏ leo lét màu lục quang chao lượn trên trần nhà nữa.

Nó cũng chết theo Vườn nguyệt kiến rồi chăng?

10.

“Biết ngay mà.”

Tôi có thể nghe thấy tiếng hắn cất lên từ phía cây cầu. Duy tôi không quay đầu lại, cứ mãi ngắm dòng kênh xanh thẳm rùng mình theo gió, và những bông lau hiu hắt ngả đầu xuống mặt phẳng phản chiếu dưới chân chúng.

Khi tôi quyết định ngoảnh nhìn ra sau thì hắn đã đi xuống con dốc với những bước chân thong dong, hai tay đút vào túi quần. Đôi mắt ngày thường vốn bàng quang nay nheo lại, vương một khí sắc bực tức không kể xiết.

“Cả một ngày không thấy cậu đi học, hóa ra lại rúc vào đây.”
Hắn chua chát nói.
“Hôm nay có tiết kiểm tra Anh văn đấy, cậu nghĩ gì lại cúp vậy hả?”

Tôi cảm nhận được hắn ngồi xuống vệ cỏ bên cạnh, tay ôm một quả bóng mới cáu, túi đồ cồng kềnh hơn mọi khi. Có vẻ hắn phải tập luyện với câu lạc bộ bóng chuyền tới tận khi sập tối mới được về.

Tôi chẳng rõ lắm chuyện giữa hắn và Yamaguchi hôm nọ, nhưng dường như cậu trai tóc xanh sẫm với khuôn mặt lấm tấm tàn nhang ấy đã khuyên nhủ được tên cứng đầu này gia nhập câu lạc bộ.

“Yamaguchi không về cùng cậu à?” – tôi hỏi sau một lúc cả hai cùng ngồi trầm mặc.

“Không. Cậu ta vẫn còn đập bóng như điên trong khu nhà thể chất.”
Hắn nhíu mày, như thể nhìn thấy một cái gì không vừa mắt.
“Tôi không hiểu được tại sao người ta có thể say mê một cái gì đó tới độ ấy. Tôi thề là tôi không hiểu được.”

Tôi bật cười:
“Rồi sẽ có lúc cậu hiểu thôi.”

Trăng lên dần cao, ẩn hiện nơi đáy mắt cậu một mảnh tinh khôi màu ngọc bảo. Cặp mày mỏng hơi nhướng lên dò xét:
“Cái kiểu cậu nói cứ như cậu đã hiểu nhiều lắm vậy.”

“Ừm, tôi hiểu nhiều.”

“Cậu từng say mê một cái gì đến thế sao?”

Những con đom đóm bắt đầu bay chập chờn từ các bụi cúc dại, lác đác vài ba chú đèn chớp bé con. Tôi mỉm cười trông theo, trong lòng dấy lên một nỗi tiếc thương day dứt.

“Tôi sẽ không bao giờ tìm thấy con đom đóm của mình nữa. Cái con đã từng bay vào phòng tôi mà tôi đã bảo với cậu đấy. Ngay cả trong một lũ đèn chớp bé nhỏ trước mặt, chỉ cần nó có ở đó, tôi sẽ phát hiện ra ngay. Chẳng vì gì cả… chỉ là tôi biết tôi sẽ nhận ra nó, thế thôi.”

“Này, đừng có đánh trống lảng. Tôi đang nói về—”

“Có lẽ nó đã chết, cả lũ chúng nó, những con đom đóm ở Vườn nguyệt kiến.”
Tôi ngồi co ro trên đám cỏ mây, bấu chặt tay vào lớp vai áo đồng phục của mình.

Khi sáng, tôi đã định đi học, nhưng chẳng hiểu sao lại chạy ra bờ kênh và ở đây tới tận tối muộn. Tôi chỉ biết tôi không thể gặp bất kì ai, kể cả cha mẹ tôi.

Tôi cứ nói như tự độc thoại, chẳng quan tâm biểu cảm của hắn là thương hại hay khinh thường:

Vườn nguyệt kiến của tôi… những cây hoa bà tự tay trồng, những con đom đóm bà mua lại từ lũ trẻ nghịch ngợm thích bắt côn trùng trên núi rồi bỏ vào hộp nhựa trong suốt. Bà bảo đom đóm đẹp nhất khi chúng tự do, rồi bà thả hết chúng ra vườn.

Nhưng cậu biết không, loài ấy thế mà có linh tính. Chúng chịu ơn bà, chúng ở lại hết cả. Và khi những đêm trăng tuôn xuống vào mùa hạ, khu vườn ấy tỏa ra vạn ngàn đốm sáng xanh giữa những đóa nguyệt kiến nở tím lòng… ấy là thứ tôi say mê, cậu biết không, tôi—”

Hắn đặt tay lên vai tôi.

Tôi quay người, nhìn sang khuôn mặt lúc nào cũng dính sát với gọng kính vuông đen tuyền màu mực.

Tôi không thấy dáng vẻ khinh thường, cũng không thấy bộ điệu thương hại. Chỉ thấy một ánh nhìn thăm thẳm, như muốn thâu hết thiên hà dưới hàng liễu dát vàng trên mi mắt.

Trong đôi ngươi đúc nắng ấy, hắn giấu một mặt biển êm đềm sóng lặng, chỉ chờ thuyền tôi cập bến để vỗ về.

“Tôi không biết gì cả.”
Hắn mím môi.
“Tôi chỉ thấy cậu đang đau khổ.”

Rồi như một người điên, tôi khóc nấc lên. Khóc như cái hồi ngồi trong tấm chăn trên giường bà sau khi mẹ tát cho một cú trời giáng.

Tôi chẳng màng gì cả một khi đã khóc. Tôi mặc kệ mình đang ở đâu, người đối diện là ai. Tôi cứ khóc cho kì hết nỗi thống khổ đọa đày tâm can.

Tôi cắn từng mảnh khổ lụy, nhai rào ráo, rồi nhè ra nơi đầu lưỡi thành những câu từ đứt quãng gãy đôi:

“Người ta sẽ phá cái vườn đi, Kei ơi… cái Vườn nguyệt kiến tôi yêu đến chết. Họ đan tâm, họ nỡ nào…”
Tôi vươn tay ra ôm lấy hắn, nhưng rốt cuộc chỉ ôm được chính mình.

“Bọn khốn nạn không nghĩ một chút gì đến đom đóm và nguyệt kiến thảo. Bọn ấy chỉ biết khu đất đã vào quy hoạch tức là của nhà nước, mà của nhà nước thì bọn ấy mặc tình làm gì thì làm… Chao ôi…”

Tôi gọi bà trong vô thức. Nước mắt nhòe hết cả trần gian điên dại, mặn đắng khóe môi chẳng rõ là máu hay lệ trào.

Những đốm sáng lòe lợt tan vào nhau, không biết là trăng hay đom đóm. Tất cả những gam màu xanh xám xối trộn lại thành một hư ảnh: cậu thiếu niên tóc vàng ngồi khuỵu gối trước mặt tôi. Gương mặt hắn không buồn bã, cũng không bối rối, mặc nhiên tĩnh tại trước gió lốc mây vần như người đã kinh qua trăm niên vạn kỷ.

Tôi không kìm được mà tự hỏi: hắn đã từng đau đớn đến đâu?

Thế rồi, không nói không rằng, hắn đưa cho tôi tấm áo khoác đồng phục và bảo rằng hắn quên mang khăn giấy.

Sau một giây khựng lại, tôi chộp lấy chiếc áo khoác màu đen thêu nổi tên trường Karasuno trên tay hắn, ướm nó lên che kín mặt. Tôi lau nước mắt, cố gắng định thần trong một nỗ lực bất thành. Có lẽ những dòng lệ của tôi sẽ cứ vậy rơi mãi suốt đêm như một trận lở tuyết kinh hoàng nhất…

Cho đến khi một mùi hương thoảng vào sống mũi làm tôi bình tâm lại.

Không phải mùi nước hoa đắt tiền, cũng không phải mùi nước xả vải. Chiếc áo khoác của hắn tỏa lừng một mùi biêng biếc rừng hoang, tựa đồng nội thổi vào bờ kênh một mùa phong miên đồi núi.

Tôi rúc chân, đặt cằm lên hai đầu gối, thu mình lại trong cái mát lành túa ra từ khứu giác, lan tràn tới từng mao mạch. Thật dễ chịu, nhẹ nhàng mà gây mê hồn phách, làm một kẻ loạn thần như tôi phải bỗng chốc trở về thực tại, tỉnh giấc hoang đường.

“Cảm ơn.” Tôi nói, cảm thấy khá xấu hổ vì đã khóc nấc trước mặt hắn.

Bàn tay vẫn níu lấy áo hắn, nhưng những giọt lệ đã ngừng tuôn tự bao giờ. Tôi đề nghị sẽ giặt áo rồi trả lại vào hôm sau.

“Ồ, không sao. Cứ giữ lấy, tôi không phải thương hại cậu.”

Đến phút này hắn mới lộ vẻ lưỡng lự trầm ngâm. “Chỉ là… nhìn cậu khóc như thế làm tôi nhớ đến mình ngày trước.”

Tôi ngước đôi mắt hãy còn cay xè sau trận khóc vừa rồi.

Hắn đứng đó, sừng sững như thành trì. Tấm lưng áo trắng phếch quen thuộc mà ngày nào tôi cũng nhìn trong lớp, giờ phủ lên một tầng đom đóm lập lòe bay loạn—vừa xa lạ, vừa mong manh.

“Tôi cũng từng ôm tấm áo đồng phục Karasuno mà khóc như thế, cái ngày tôi đậu vào trường này. Anh trai tôi đã lừa dối tôi suốt những tháng năm anh mang bộ đồng phục ấy…

Không biết tại sao tôi lại nói với cậu chuyện này, nhưng…” Hắn không quay lại, chỉ nói bằng một giọng đều đều.

“Ngày cũ, anh trai tôi say mê bóng chuyền đến phát cuồng. Còn tôi, tôi phát cuồng vì anh ấy.”

Hắn dừng một chút, nuốt khan.
Tôi ngưỡng mộ anh—vị đội trưởng câu lạc bộ bóng chuyền sơ trung Amemaru, và cả Ace của Karasuno, anh ấy bảo tôi như vậy…

Nhưng rồi tôi phát giác mọi sự vào cái hôm lén đi xem trận có Karasuno tham gia. Tôi tưởng anh không cho tôi đi xem là sợ ảnh hưởng tâm lý, nhưng không phải. Không phải chút nào.”

Tôi hiểu tại sao hắn đứng cách xa. Hắn không muốn mảnh vỡ của mình đổ sập lên mảnh vỡ của tôi.

Ngay lúc ấy, chỉ có ánh trăng là vẹn nguyên. Còn chúng tôi, đều tan nát.

“Tôi phát hiện chẳng có Ace nào tên Akiteru, cũng chẳng có ai trong đội mang họ Tsukishima cả. Tôi dáo dác tìm, và khi ngẩng lên… cậu biết tôi thấy gì không?” Hắn bật cười khẩy.

“Anh tôi ngồi trong hàng ghế cổ vũ.”

Tiếng cười vẫn mỉa mai, nhưng lần này lại thê lương.

“Thậm chí còn chẳng là cầu thủ chính thức! Cái gì mà ‘cố gắng rồi sẽ thành công’, cái gì mà ‘đam mê phải theo đuổi đến cùng trời cuối đất’?

Không. Ảo tưởng, tất cả chỉ là ảo tưởng! Tôi không hiểu được.” Hắn cứ lặp lại mấy chữ cuối, như con chim vặn dây cót trong trang văn Murakami.

Hắn lắc đầu, cúi mặt. Đáy mắt sa sầm lại, như bị ánh trăng rằm hút cạn.

“Xin lỗi đã dông dài ngu xuẩn, nhưng ý tôi là… dù có say mê đến mức bán cả kiêu hãnh, thì cũng nên nghĩ lại. Không có gì mãi mãi, kể cả đức tin ta tôn thờ nhất rồi cũng sụp đổ. Đừng đặt quá nhiều tâm huyết.”

“Giờ thì cậu mới là ngu xuẩn.” Tôi đứng bật dậy.

Tôi thấy tiếc cho hắn vì chuyện anh trai. Nhưng nếu một người đến an ủi bạn bằng cái kiểu ‘cái gì ta yêu rồi cũng làm khổ ta, vậy thì bỏ đi cho xong’… bạn có muốn đấm vỡ mồm hắn không?

Tôi thì không. Tôi không đủ gan, mà gương mặt hắn thì lại xinh trai biết mấy, nhất là dưới ánh trăng đượm buồn.

Thế nhưng tôi không thể ngăn mình xổ ra vài câu hách dịch:

“Tôi không say mê đến mức bán rẻ lòng kiêu hãnh. Thứ tôi say mê đã làm nên kiêu hãnh của tôi.

Hắn, tất nhiên, còn hách dịch hơn. Hất hàm, kênh kiệu:
“Vậy sao cậu lại khóc như kẻ thảm hại?”

“Vì kiêu hãnh bị xúc phạm.” Cơn tức ngực trào lên khiến tôi thở dốc. “Có lẽ ngày đó cậu quá váng vất để nhận ra, nhưng tôi không nghĩ chỉ có kiêu hãnh của cậu bị xúc phạm. Chính cậu cũng đang xúc phạm kiêu hãnh của anh trai cậu.”

Tôi do dự, lòng thối ruột:
“Càng muốn yêu thương nhau, ta càng làm đau nhau… Gia đình là vậy.”

Hắn đứng lặng. Ánh mắt đóng băng như hai cái mỏ neo vô minh. Nhưng đâu đó trong đôi ngươi ráo hoảnh, có thứ gì đó đang vùng vẫy. Trăng xối sáng lên đỉnh đầu hắn những vệt lấp lánh.

Rồi bất ngờ, hắn bật cười giòn, trong trẻo như đứa nhóc chưa từng vỡ mộng. Tôi thấy hắn đắc chí như tìm lại vật đã mất. Có lẽ hắn có vấn đề hơn tôi thật.

“Hẳn người thân cậu cũng đau đầu vì cậu lắm.”

“Không, mẹ tôi thì không.” Tôi khẽ lắc đầu. “Có lẽ nếu tôi không trở về, bà ấy còn bớt đi một gánh nặng.”

Tôi nói lố, như mọi khi. Dù nói xong lại thấy ghét mình. Mẹ đã gọi cả chục cuộc, tôi thì lờ đi hết, tống cái điện thoại chết tiệt xuống đáy cặp, dưới cả chồng đề cương.

“Gia đình là yêu nhau nên mới tổn thương nhau à?” Hắn mỉa.

“Ý tôi là—”

“Ý tôi là: người thân là thứ không thể hiểu được nếu ta không cố gắng.” Hắn chỉ tay vào mình rồi vào tôi. “Tôi cố gắng. Cậu cũng phải cố gắng.”

Tôi gật đầu. Thật tức vì bị ngắt lời, nhưng phải thừa nhận: hắn luôn nói điều đáng để ngắt lời. Và thường, điều đó làm tôi câm họng, quên phứt những gì vừa định nói.

Tôi ưa cái kiểu cố gắng của hắn.
Còn tôi? Tôi đã không đủ gan để thừa nhận rằng mẹ đã ở bên kia bờ vực quá lâu. Nếu tôi còn chẳng chịu ngoảnh lại, làm sao biết mẹ có muốn chạy về phía mình hay không?

Trong khi tôi lục tìm cái điện thoại dưới đáy cặp, một bầy đom đóm lượn quanh hắn thành những đường cong tuyệt bích.

“Về vụ ban nãy,” hắn tiếp. “Tôi công nhận khóc vì những gì mình say mê không hề thảm hại. Nhưng… nếu niềm say mê ấy thuộc về quá khứ thì khác.”

Giọng hắn trầm, mắt nhắm lại như tưởng niệm. “Vườn Nguyệt Kiến thuộc về quá khứ, hãy để nó tuẫn táng cùng bà cậu. Sống hiện tại đi. Tôi tin cậu có thể tìm thấy một khu vườn khác cho riêng mình.”

Tay tôi vừa chạm đến cái điện thoại lạnh buốt thì tiếng gọi oang oang cắt ngang:

“Tsukki!! Cậu chưa về à?”

Cậu nam sinh tóc xanh thẫm chạy băng đến, ôm trái bóng chuyền, người vẫn mặc nguyên đồ thể dục. Đến gần, cậu khựng lại, suýt vấp ngã, và bị gã đom đóm cao kều kia giữ lại.

“Tsukki, cậu tập ít quá, lại chẳng đợi tớ gì cả.”

“Tớ tập thế là nhiều rồi. Còn cậu thì đập bóng đến sáng mất.” Hắn giở giọng phàn nàn quen thuộc, nhưng cậu bạn kia chẳng lấy làm khó chịu.

Đoạn, cậu ta đánh mắt sang tôi.

“Còn đây là… à, cô bạn bàn dưới chứ gì? Chẳng lẽ hai người…”
Cậu để lửng câu nói, cười đầy ẩn ý.

Tên tóc vàng nhíu mày, có vẻ không hứng thú gì với trò đùa. Hắn hé miệng, định xổ ra câu châm chọc cay độc. Nhưng tôi—đoán trước điềm chẳng lành—đã chạy vọt về nhà.

11.

Chú tôi lặn lội từ dưới miệt duyên hải Fukushima lên tận nhà tôi vào một chiều nắng gắt.

Có lẽ chú sốt sắng do tôi không viết thư hồi âm suốt cả tháng ròng, phần vì tôi bận lấy gốc những môn mình đã bỏ tiết, phần vì tôi không biết viết gì.

Bạn không thể viết gì khi trong lòng mình đang có một đám tang. Khi ấy, ngôn từ đã bay biến đi đâu mất, và đến lúc bạn cầm được ngọn bút lên thì đọng lại nơi đầu mực chỉ là những giọt đắng không bao giờ rơi.

Ấy thế, tôi cứ dùng dằng mãi cũng chẳng thể ép mình viết thư cho chú. Cho tới một ngày, cái mái đầu trung niên thấm nhiều sương muối ấy xốc nảy trên những chuyến xe tốc hành, rồi lầm lũi xuất hiện trước cổng nhà tôi sau hàng dài những tiếng thở hổn hển.

---

“Trông chú hốc hác quá.” Tôi xuýt xoa trước đôi gò má gầy guộc xương mai.

“Vậy à?” Chú đưa bàn tay gân guốc khẽ sờ lên mặt. “Cháu cũng đâu có khá khẩm, xem cháu sụt cân chưa kìa.”

Tôi có thể cảm thấy ánh mắt chua xót của chú châm chích khắp người mình, từ cổ tay khẳng khiu tới sườn vai xám ngoét. Duy tôi không nhìn vào mắt chú, tôi sợ trông thấy hình bóng chính mình. Tiêu cự của tôi phóng ra xa tít, trên những bóng mây dập dìu tịch liêu.

Đêm nay nguyệt hằng khuyết nửa, trông như khuôn miệng giễu cợt ngạo kiều của ai đó.

“Đom đóm.” Tôi nhận ra mình buột miệng. Có lẽ chú tưởng nhầm tôi đang nói về lũ đom đóm thật, chú thở dài một hơi trĩu nặng cả nền đất dưới chân.

Chúng tôi ngồi cạnh nhau dưới hiên. Bên trong chú giấu một đứa trẻ, còn hồn tôi nuôi một cụ già.

Chú bảo không thể ở lại dưới nhà tổ, hôm nay người ta tới quy hoạch.

Chú không muốn nhìn cảnh đó, và trong vô thức, cứ thế bắt xe đò chạy lên Miyagi, bấm chuông cửa nhà tôi. Người chú lấm lem hết cả trong những lần ngã lăn và những trận gió đường táp bụi. Khi tôi đi học về thì chú cũng vừa được cha mẹ tôi mời vào nhà, trên người chỉ độc một cái ví tiền, thậm chí chẳng có một balo hành lý.

Chú tôi chưa bao giờ làm việc không suy tính kĩ, nhưng có lẽ càng lớn tuổi, người ta càng cảm thấy nếu không bốc đồng, cái chết sẽ tước đoạt cuộc đời của họ ngay trước khi nó kịp có bất cứ nghĩa lý gì.

Cha mẹ tôi đã tắt đèn, nhà tôi vốn quen lệ ngủ sớm.

Chỉ còn hai chú cháu ngồi cạnh bên nhau trong ánh sáng nhờ nhòa của vầng trăng khuyết mảnh, hướng mặt ra khu vườn trống hoác, um tùm cỏ dại. Giá mà lúc rời khỏi Fukushima tôi đã mang theo một gốc nguyệt kiến thảo.

“Chúng ta cứ im lặng mãi thế này à?” Chú cười, một nét bông phèn còn vương lại từ thuở hoa niên tinh nghịch. Tôi không biết ấy là câu than thân hay trách phận.

Dù sao thì trông chú còn mệt nhoài hơn cả tôi.

Hẳn làm người lớn phải vất vả bội phần, cái lối lúc nào cũng phải tỏ ra mình miễn nhiễm với giông tố ấy. Người lớn luôn phô diễn mình khỏe mạnh, dù sau cái cười của họ là những trận ốm thập tử nhất sinh mỗi khi đời trở gió. Chú tôi hẳn cũng đang lâm một cơn bạo bệnh như vậy trong tâm hồn. Tôi thấy đuôi mắt đã hằn vết chân chim của chú cứ giần giật lên một cái gì nhói buốt.

“Chú đã rất lo cho cháu.”

Rốt cuộc chú cũng thành thật được một ít, tôi nghĩ.

Người đàn ông cao lớn bỗng co chân lại trong một tư thế trẻ con tới không ngờ.

“Cháu không trách chú, và bà hẳn cũng không trách chú.” Tôi nói, chầm chậm đưa cho chú một tách lục trà. Tôi vẫn nhớ chú thích trà pha đậm vị.

“Trông cháu bình thản hơn chú tưởng.” Chú nhận tách trà của tôi với những ngón tay run run.

Tôi không nghĩ mình bình thản. Một cái gì đó trong tôi đã lãnh án chung thân trong ngục tù kí ức. Tôi sẽ sống một nỗi ám ảnh giày vò mãn kiếp, không bao giờ biết đến tiếng yên.

Chỉ là trong giây phút này, tôi thấy mình tê liệt – một cảm giác lưng chừng sầu muộn, đợi khắc thời nào giọt mặn tràn ly.

“Cháu vẫn thế thôi, chỉ là cháu nghĩ mình cần phải lớn. Một cậu bạn từng bảo cháu, hãy tìm một Vườn nguyệt kiến cho riêng mình.”

Một cơn gió thoảng qua làm tôi nhớ hơi ấm trong chiếc áo khoác đồng phục nam sinh đã ôm trùm mình trong dịu dàng vô hạn. Tôi đã đem phơi nó thật ấm, là ủi thật êm và đem trả cậu ngay hôm sau, trong một tâm trạng hồ như là tiếc rẻ.

“Dù qua bao năm vẫn vậy, nụ cười của cháu cũng thật xinh.”
Chú tôi nhấp một ngụm trà nóng, đôi mắt khép hờ như đắm chìm hồi ức. Mớ bụi trần trên làn mi khô khốc cũng hóa bụi tiên, lấp lánh một màu bạc của trăng tàn thu điếu.

Tôi giật mình vì không hề nhận ra rằng mình đang bất giác mỉm cười.

Một thoáng xấu hổ bập bùng như nhúm than hồng rồi chợt lan ra khắp người tôi như lửa cháy. Tôi tự đốt mình trong cảm giác an toàn dưới lớp áo một cậu thiếu niên.

“Hệt như chị của cháu hồi xưa vậy, thật xinh.”
Giọng chú vang lên, đánh tan mọi xúc cảm cồn cào của tôi và làm lắng yên tiềm thức.

Tôi ngộ ra một điều mình từng biết nhưng đã chực quên. Cổ họng tôi rát bỏng, làm tôi cảm tưởng mình vừa nuốt xuống một búng cát.

Tôi dừng cười, khóe môi trễ xuống như thủy triều chợt rút. Nhưng chú tôi dường như không trông thấy, chất giọng hào sảng cứ êm đềm tự sự:

“Nụ cười của chị cháu cũng đẹp giống cháu, cái kiểu hở lợi đáo để ấy.”

Đôi mắt chú bỗng mơ màng như người say, và tôi không biết trà cũng có men hay trong tâm trí chú vốn luôn sẵn những hoang đường cố hữu.

“Nhưng dù có bật cười lớn tiếng tới đâu, khóe môi của con bé vẫn mãi lạnh tanh và tối đục... Nó tươi đấy nhưng không sáng, nó chứa đựng một cái gì nhòe nhoẹt mà chú không bao giờ thấy được.”

Tôi nghĩ chú sẽ khóc, nhưng chú nhìn vào mắt tôi với một cặp mắt trong suốt màu lưu ly:

“Còn nụ cười của cháu thì khác. Nó long lanh và trong trẻo, nó là một cái gì rất thực mà chú có thể rõ ràng chiêm ngưỡng.”

Chú xoa tay lên tóc tôi và tôi cảm nhận được từng hơi thở ấm áp nhẹ nhàng phả xuống trên đỉnh đầu.

“Đừng để màn đêm cắp lấy nó nhé, chú thích nụ cười của cháu.”

Tôi muốn ôm chầm lấy chú và xin chú cứ lặp lại câu ấy cho tới khi nào tôi khóc nấc thì thôi. Nhưng tôi không còn chút sức lực nào cả.

Một cách đường đột, cơ thể tôi nhẹ bỗng, không còn sinh khí. Tôi tưởng như những luồng gió cứ thổi xuyên qua mình, và chú là người duy nhất có thể chạm vào tôi trong lúc vong linh tôi vô hình.

Dường như cậu đã đúng, tên đom đóm to xác của tôi.

Làm sao cậu biết một người yêu thương mình vì điều gì mà không hề hỏi qua ý họ nhỉ?

“Chú này,” tôi hồi hộp đến quên cả thở, cất lên tiếng nói bằng một chất giọng khản đặc u minh, “chú yêu thương cháu vì điều gì vậy?”

Bàn tay thô ráp đang xoa đều trên mái tóc tôi dừng lại trong một chốc. Rồi tôi thấy những vết chai sạn giữa lòng bàn tay lướt ngang mặt mình, khi chú vuốt ve má tôi bằng tất cả sự nâng niu mà một người đàn ông đã quen lam lũ có thể sở hữu.

“Hỏi gì thế cô nương?” – chú phì cười. – “Chú yêu thương cháu, vì cháu là cháu thôi.”

Chính lúc ấy tôi thấy mình chẳng minh mẫn như mình tưởng. Tôi là đứa ngu ngốc nhất đời, tôi nghĩ vậy, nhưng tôi không nói cho chú biết – chú sẽ cười tôi thối mũi mất thôi. Tôi chỉ nắm tay thành quyền và để những cái móng găm sâu vào da thịt.

Tôi không muốn khóc, nhưng tôi nghe mắt mình ươn ướt. Tôi quay đi mà không kịp nhìn vào mắt chú để xem trong đó có bao nhiêu sự cưng chiều dành cho tôi.

Tôi muốn nói “cảm ơn chú”, nhưng tôi nghĩ nó cũng thật là một câu ngu ngốc, cho nên tôi quyết định chẳng nói gì cả. Tôi để mặc cho ánh trăng nói hộ lòng mình những cung đàn tư trầm loạn vũ.

Chỉ là lúc chú mỉm cười, lúc khóe môi bợt bạt của chú cong lên như lưng thuyền, và đôi má hom hem chợt phủ đầy nhựa sống, tôi nhận ra mình cũng yêu thương chú – vì nụ cười của chú chẳng giống bất kì ai.

“Mẹ của cháu cũng yêu thương cháu như chú, nhiều hơn là đằng khác.”
Tách trà trong tay đã cạn, chú đặt nó sang một bên và tựa đầu vào tấm ván gỗ sau lưng mình.

“Chú biết cháu không thể thôi đau đớn cho cái tát ấy, không thể... Nhưng chị ấy cũng vậy. Biết đâu mẹ cháu lại chẳng có lần rưng rức lên vì đau đớn?”

Tôi thử tưởng tượng cảnh mẹ mình khóc, nhưng thật tình là tôi không thể. Từ khi tôi sinh ra tới nay, tôi chưa từng thấy mẹ khóc bao giờ cả. Người ấy luôn rất mạnh mẽ – ít nhất là tôi nghĩ thế.

“Mẹ cháu không mạnh mẽ lắm đâu,” chú tôi nói, làm tôi giật thót vì tưởng chừng chú đọc vị cả suy nghĩ nhất thời của mình.

“Có lẽ mẹ đã giấu cháu điều này, nhưng bà của cháu không phải bị đồng tiền hại chết đâu. Chính bà là người không muốn đi viện dù bệnh tình trở nặng. Bà muốn ở cạnh gia đình và con cháu, cả vườn nguyệt kiến nữa. Bà ghét mùi thuốc sát trùng và chỉ ưa mùi biển.”

Đến đây, giọng chú nghẹn lại. Còn tôi, tôi cảm thấy lòng mình đầy cỏ mọc hoang.

“Không ai khuyên được bà cả. Mẹ cháu đã khóc ngay cái lúc bà bảo muốn rải tro cốt của mình ngoài biển... Chính mắt chú đã thấy hai dòng nước trào ra, như hai quả chanh bị người ta vắt mạnh vậy.” Chú nghiêng người, thở hắt. “Đâu phải lúc nào giấu cảm xúc trong lòng cũng là đàn ông. Ngư dân bọn chú không sợ sóng trên bề mặt, chỉ sợ sóng ngầm dưới đáy.”

Tôi đến gần, bạc nhược ngả đầu lên vai chú. Hai cõi lòng chúng tôi đổ nát, xối trộn vào nhau dưới ánh trăng tật nguyền rỏ lệ.

Tiếng quẹt diêm sột soạt. Khói thuốc bốc lên, nồng như hương hỏa. Chú hút thuốc, lần thứ hai trong đời.

Tôi từng muốn biết chú hút thuốc vì điều gì, nhưng giờ đây tôi hiểu: người ta cần thuốc lá cho những nỗi niềm không thể giải trình lý do.

“Cháu không ghét mùi thuốc chứ?”

“Không. Hôm nay thì không.”

Chú bảo đây là điếu cuối cùng trong đời mình, và tôi chợt tự hỏi liệu chú có thể gọi tôi là búp bê dễ ưa của chú thêm một lần nữa. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng nói được gì cả.

Chúng tôi chỉ ngồi lặng bên nhau, để tang những đám ma rất khác.

12.

Tôi không biết tại sao chú tôi đột nhiên bán đứt cả con thuyền và bỏ nghề chày lưới.

Chỉ là một sớm, chú để lại thư cho tôi.
Chú bảo chú muốn đi Malaysia, rằng chú đã làm lụm cả cuộc đời cho một chuyến đi dài. Bây giờ chính là thời khắc ấy, những con sóng xanh rờn của Kuantan đang vẫy gọi chú trong thứ nắng nhu hòa tháng ba.

“Chú sẽ quay lại khi biển lặng.”

Chú viết cho tôi một dòng sau rốt, rồi chú đi. Chú đi thật. Tôi, cho đến cha mẹ tôi, đều ngỡ ngàng.

Chẳng ai biết khi nào biển lặng.
Là bão ngoài kia, hay bão lòng người?

Tôi chỉ biết chú cần một nơi nghỉ ngơi, và tôi dám chắc Malaysia sẽ bảo vệ chú chu toàn trong những triền cát dịu dàng của nó.

Con đom đóm đêm nọ vẫn chẳng bay vào phòng tôi nữa. Tôi đồ rằng nó đã chết. Nhưng làm sao bạn biết được một con đom đóm đã chết hay chưa, cái giống côn trùng bé bỏng ấy. Ta chỉ có thể phủ nhận trực giác và tự nhủ rằng nó vẫn đang lượn lờ ở đâu đó.

Nó không xuất hiện nữa, thay vào đó, phòng tôi cứ được lui tới bởi một con đom đóm to lớn hơn — và chắc chắn là không thể nào đập cánh.

“Chỗ này đánh trọng âm sai rồi.”

“Ngữ pháp quá yếu, cậu không thể học nổi một công thức nào à?”

“Đừng có dùng mánh lới ở đây. Bây giờ làm trắc nghiệm thì còn thế được, chứ sau này cậu có việc cần tiếng Anh thật thì làm sao?”

“Tch tch tch...”

Hắn tặc lưỡi hệt một cái đồng hồ quả lắc, mái tóc vàng cứ quay quắc như con thoi.

Chúng tôi chỉ mới ngồi học một tiếng, nhưng tôi cảm thấy cả thế kỷ vừa trôi qua — nhất là khi bạn có một tên gia sư nhất quyết đòi kỷ luật bạn mỗi lần bạn làm hắn không vừa lòng.

“Hay chúng ta nghỉ một chút đi.” Tôi ngã lăn ra bàn, kiệt quệ trước mớ kiến thức mình bỏ lỡ cả tháng ròng.

“Ai bảo cậu cứ bỏ tiết liên miên, kiểm tra còn chẳng thèm vào cơ?” Hắn khoanh tay trước ngực. “Nếu không phải cô chủ nhiệm bảo tôi kèm cậu học thì tôi cũng chẳng thiết tha gì với loại lười chảy thây như cậu đâu.”

Tôi không lười, nhưng tôi cũng chẳng có động lực. Không thể phủ nhận, tôi đã cúp tất cả tiết tiếng Anh trong ba tuần vì nó cứ trùng hợp vào ngày tôi mất hết ý chí tiếp xúc với con người. Có lẽ tôi không muốn gặp cô chủ nhiệm.

Cô dạy rất hay, chỉ duy tôi không thích cô nói tiếng Anh.

Tôi thích cô nói tiếng mẹ đẻ, vì chất giọng vùng Tohoko đặc sệt ấy chỉ ngọt ngào trong những ngôn từ Nhật Bản. Mỗi lần nghe cô đọc một bài tiếng Anh tôi lại muốn chết được. Không phải vì cô phát âm tệ. Cô phát âm chuẩn, xuất sắc là đằng khác. Nhưng chính thế mà tôi thấy bộ tịch. Tôi thấy thương hại cô mỗi lần cô húng hắng làm cho cổ họng mình thanh thoát trong thứ tiếng xa lạ của một đất nước xa lạ chẳng có lần nào cô đặt chân lên.

Không có gì bất ngờ khi điểm số của tôi cứ thế mà sụt giảm đáng báo động. Cha mẹ tôi thì chẳng biết gì, cho đến khi vị chủ nhiệm đáng mến đến bấm chuông cửa.

Tôi bị bắt ra phòng khách, ngồi giữa ba con người với đủ thứ tư tưởng hủ cựu lẫn lộn vào nhau mà thuyết giáo.

Đương nhiên tôi chẳng hiểu họ nói gì, và họ cũng chẳng hiểu tôi nghĩ gì. Chỉ biết đến cuối cùng, họ đưa ra cho tôi một nghị quyết: tôi phải đi học phụ đạo trong trường mỗi tối, và cô chủ nhiệm sẽ sắp xếp một bạn gần nhà dạy kèm vào cuối tuần.

Thế là mặc nhiên, Tsukishima Kei cứ quẩn quanh trong phòng tôi mỗi buổi chiều Chủ nhật, như một thông lệ kéo dài suốt tháng. Ai mà biết tên đom đóm to xác ấy lại ở cách nhà tôi chỉ một dãy phố.

“Này, cậu có thể không đến kèm tôi cũng được, tôi không phiền đâu.” Tôi bật đầu dậy khỏi mớ đề cương Anh văn, nhìn hắn bằng cặp mắt còn đẫm nước vì những trận ngáp ngắn ngáp dài.

Tôi thì phiền.” Hắn đẩy gọng kính. “Thành tích thi đua của tổ chúng ta cứ xếp chót lớp chỉ vì cậu bị điểm kém đấy.”

“Còn tưởng quý hóa như nào...” Tôi chống cằm, tỏ vẻ thất thểu như người vỡ mộng.

Hắn bảo tôi đừng bĩu môi nữa vì trông trẻ con lắm. Tôi cáu chết được. Ngay lúc tôi chồm lên định vồ lấy cặp mắt kính của hắn cho bõ tức thì mẹ tôi bước vào, tay cầm hai ly nước cam.

“M-Mẹ! Mẹ phải gõ cửa trước khi vào chứ?” Tôi thu tay về, ngồi lại vị trí cũ, trong khi hắn liếc mắt sang nhìn tôi châm chọc.

“Rồi rồi, trả lại không gian riêng cho hai đứa ngay đây.” Mẹ tôi cười khẽ, đặt hai ly nước cam xuống góc bàn, rồi lặng lẽ đi ra, khép cửa lại cùng một cái nháy mắt đầy ẩn ý.

“Mẹ này, thật là...” Tôi cúi gằm mặt, bấu lấy tấm đệm lót mình đang ngồi, lẩm bẩm một mình. Bỗng một cảm giác mát lạnh ùa tới khiến tôi giật mình ngẩng lên.

Gần. Gần quá.

Khuôn mặt hắn chỉ cách tôi một gang tay. Cái rèm mi ánh kim tôi chỉ quen nhìn từ xa bỗng hiện ra rõ rệt đến từng sợi mảnh. Tay hắn đặt lên trán tôi, vẻ mặt không chút bối rối.

“Cậu sốt thật này. Thảo nào mặt đỏ lên hết cả.”

Đôi mắt màu hạt dẻ hồn nhiên, không có gì ngoài một sự lo lắng chân phương — tới mức tôi không thể nào nghi ngờ đây là một trò chơi khăm được nữa. Hắn tưởng tôi bị sốt thật, và có lẽ nhiệt độ tôi cũng đã tăng lên như trong lò nung.

Duy chỉ là tôi không bệnh tật gì cả, tôi chỉ không thể nói cho hắn biết lý do.

“Khoan, khoan đã!”

Tôi đẩy hắn ra, ngả lưng về phía sau để tránh cái chạm từ bàn tay. Nhận ra giọng mình the thé, tôi ho khan vài tiếng, rồi sửa lại cho lịch sự:

“Ừm… tôi ổn, cảm ơn cậu.”

Hắn khựng lại vài giây rồi “à” một tiếng, vô cảm ngồi thẳng dậy, trở về vị trí cũ đối diện tôi và sửa tiếp xấp bài ôn tiếng Anh dày cộm.

Tôi giải bài, rồi chuyền sang cho hắn chấm. Tuần tự, chậm rãi. Tiếng giấy bút sột soạt như lá thông va vào nhau khô khốc, vang trong tiếng quạt điều hòa rù rì ảo não. Bốn bức tường trắng toát dường như thu hẹp lại. Hai ly nước cam đã tan đá từ lâu, nhưng chưa ai muốn uống dù cổ họng nóng thiêu.

Tôi ước hắn cứ tặc lưỡi và mắng tôi giống khi nãy. Ít nhất thì mọi thứ đã không bí bách và ngột ngạt như lúc này.

Bất chợt, tiếng bút chì di động trên khổ giấy A4 dừng sững lại. Tôi nín thở, quan sát hắn qua khóe mắt.

“Này.”

“Vâng?”

Hắn lên tiếng trước.
Tôi giật mình, vô thức sử dụng kính ngữ như một thói quen khi căng thẳng.

“Về mẹ của cậu… tôi định đưa ra một ý kiến chủ quan, vì vốn dĩ tôi chỉ mới tiếp xúc với người này thời gian gần đây.” Hắn cầm lấy ly nước cam đã đọng một lớp ngưng tụ ngoài thành, đưa lên miệng nhấp môi. “Nhưng tôi khá chắc mình đúng khi cảm thấy mẹ cậu yêu thương cậu nhiều hơn cậu tưởng. Chỉ là cái tình yêu ấy… không được cậu bao dung cho lắm thì phải.”

Hắn chọn một chủ đề khó nhằn, chẳng hề phù hợp để làm dịu căng thẳng. Tôi phải nói thật là vậy. Nhưng không có nghĩa đó là một chủ đề vô vị.

Ít ra nó khiến tôi lạnh gáy, tim giật thót lên trong lồng ngực hơn cả lúc vị giáo viên đáng mến phát đề tiếng Anh cuối kì.

“Chú tôi đã kể cho tôi nghe nhiều thứ về mẹ. Nhiều thứ tôi chẳng bao giờ nghĩ đến.” Mắt tôi khép hờ, chợt thấy đôi chân mình lún sâu vào tấm đệm như đang ngồi trong một vũng cát lún. “Và bây giờ… tôi bắt đầu nghĩ về việc sẽ hiểu sâu hơn về mẹ tôi cho phải lẽ.”

Xoay chiếc bút chì trên tay, hắn cười trong veo:

“Tôi cũng bắt đầu nghĩ về việc sẽ hiểu sâu hơn về anh trai tôi cho phải lẽ… Bằng việc đánh bóng chuyền. Tôi muốn hiểu về cái đam mê của anh trước đã.”

“Hẳn đó là đầu mối cho mọi sự tháo nút về sau này, trực giác mách bảo tôi vậy và cậu cứ tin là thế đi.” Tôi vỗ ngực tự hào. “Tôi từng khoanh cả đề thi giữa kì bằng trực giác, và tôi đúng hơn phân nửa đấy.”

“Đó là lý do tại sao cậu lại được tôi kèm học đây này, đồ ngốc.”

Hắn búng trán tôi một phát. Lúc tôi định trả đũa, hắn đứng bật dậy, cười nhếch mép như hồ ly:

“Xem ai búng không tới kìa?”

Tôi bất bình thụi một cú vào bụng hắn. Tôi dùng lực khá nhẹ, nhưng hắn vẫn cúi gập người xuống và la oai oái.

Đấy là lúc tôi nhận ra mình đánh trúng vết thương chưa lành của hắn hồi lần gây sự với tên đàn anh thô lậu vừa bị đuổi học. Tôi hốt hoảng hỏi hắn có cần trợ giúp y tế không, nhưng hắn chỉ phất tay bảo chẳng sao cả, rằng sức tôi thì chỉ như mèo cào thôi.

Duy hắn cứ ôm bụng và gập người suốt buổi, làm tôi dù nén nhịn cách nào cũng phải bật ra những tiếng khúc khích.

“Dẹp ba mớ trực giác của cậu đi và tập trung học cho tôi. Cuối kì mà điểm thấp thì tôi mới là người cười đấy nhé!”

Hắn đe dọa bằng một chất giọng không mấy đáng sợ. Ngoài cái miệng giảo hoạt ấy, hắn lành như đất. Tôi phải công nhận.

Bầu không khí giữa chúng tôi lại nhẹ nhàng, êm dịu tự khi nào. Buổi chiều lửng thững trôi qua trong những tập đề cương mở rồi đóng, trong những tờ nhật trình của hai cuộc đời ghi đè lên nhau những dấu mực rất xanh.

Hắn ra về khi vầng dương tàn dần sau những dãy nhà trọ và tiệm tạp hóa lô nhô trên con đường vắng. Nắng vướng cả vào tóc hắn, tưởng chừng như lông chim hoàng yến rơi trên một tán hoa muồng chớm hạ.

“Tuần sau đổi lại cậu sang nhà tôi đi. Ai đời trò không tìm thầy mà thầy lại đi tìm trò.”

Hắn thở dài như mấy lão sư tứ tuần trông trước thấy thiên cơ.

Tôi mệt mỏi nghĩ tới quãng đường mình phải đi trong tương lai gần. Chỉ có mẹ tôi là sung sức, vẫy tay chào rối rít, hẹn một hôm nào hắn lại ghé nhà chơi.

Tên tóc vàng cao kều cúi chào mẹ tôi bằng một nụ cười thương mại chưa từng thấy, rồi quay bước ra về. Đi được một quãng, hắn đeo lên chiếc tai nghe hiệu Somy, đắm chìm vào một thế giới siêu hình phi thực.

Tôi chưa từng hỏi hắn nghe nhạc gì.
Nhạc Tây, nhạc Tàu hay nhạc Nhật? Nhưng cũng có thể hắn chỉ đeo tai nghe để không phải tiếp những vị khách không mời, và tránh cả những đoạn hội thoại dư thừa đủ làm người ta nôn mửa.

Hắn luôn bài trừ xã hội, tự tạo cho mình một đại dương vô tận giữa bản thân và phần còn lại của thế giới, như một tiên đề bất dịch bất di.

Bóng hắn lêu nghêu tan vào khung tím trời chiều. Đôi chân mảnh khảnh khoan thai bước, để mặc vầng trăng mới mọc ngả nghiêng bên vai phải như một hòn đảo nằm biệt lập giữa biển mây trôi.

“Cậu ấy là một người tử tế.”

Mẹ tôi đứng bên cạnh, dõi mắt theo bóng dáng cậu thiếu niên dần khuất. Thân tôi bỗng nóng rang như bị nắng chiều làm cho chóng mặt.

“Trước mặt người lớn thì hắn bộ tịch thế đấy, chứ đối với con thì hắn khác.”

“Ừm, đúng là khác thật.” Mẹ tôi cười híp mắt. Nụ cười vốn hồn hậu ấy nay càng ấm nồng dưới vạt nắng hoàng hôn.

“Cô chủ nhiệm con bảo, cô không định phân công bạn nào trong lớp kèm con học cả, vì cô ấy nghĩ học phụ đạo trên trường với cô đã đủ rồi…

Nhưng chính cậu chàng đã đến phòng giáo viên, nói chuyện riêng với cô, tự nguyện đến tận nhà kèm con học.”

Mặt tôi đông cứng một thoáng, rồi tan ra thành vô hạn xúc cảm hỗn mang, không rõ là ái hay ố. Tim tôi hẫng một nhịp, bản trường ca cuộc đời bỗng ngân vang thúc gọi tôi lao vào cấm địa.

Dường như một vệ tinh màu bạc vẫn xoay vần quanh trái đất, bất chấp việc nó có bị mắt trần lãng quên trong cơn mộng mị luân thường hay không.

Bất chợt, tôi nắm lấy tay mẹ — không biết vì sao. Chỉ là tôi đã hứa với một ai đó phải không ngừng cố gắng; chỉ là tôi muốn nhìn — không phải bằng mắt thường — để thấu suốt thần hồn người gần gũi nhất mà cũng lại xa xôi bậc nhất.

Đôi khi chúng ta phải hạ mình chịu đau, lật giở từng miểng kính, mảnh sành để tìm thấy nhau giữa những đổ nát đời thừa.

“Tôi cố gắng, và cậu cũng phải cố gắng.”

Lồng ngực tôi như con thú hoang được cưu mang; tôi chạy về phía bên kia miệng vực, mặc cho chiếc cầu treo rung lên dữ dội, lắc tới mức tưởng chừng rách toạc cả đoạn dây mỏng tang. Tôi nhắm mắt bước, bạt mạng, rồi gom hết dũng khí ngẩng lên nhìn mẹ — chỉ để bắt gặp đôi mắt bà vẫn hướng về tôi.

Ngã một lần đến thất hồn lạc phách thì đã sao? Vẫn còn hơn đứng nhìn nhau cách trở đôi đàng, không thể nào tương ngộ. Tôi không sợ; hy vọng mẹ cũng không sợ.

“Con ơi, mẹ…” — lời người ứ nghẹn trong ngôn từ ngắt quãng, bàn tay run rẩy đặt trong tay tôi.

“Biết đâu mẹ cháu lại chẳng có lần rưng rức lên vì đau đớn?”

Đấng sinh thành của tôi hẳn đang khổ sở trong cái mâu thuẫn mà bà cố giấu hay bóc tách chính mình.

Lần đầu tiên sau bao năm, tôi nhìn vào đôi mắt thâm trầm của mẹ và tự hỏi vùng biển nào đã xát muối khiến chúng đỏ hoe.

“Được rồi, con hiểu mà.” Tôi mỉm cười, miết nhẹ mu bàn tay rắn rỏi của bà rồi lại ngoảnh về phía ánh tịch dương.

Mẹ không cần nói thêm; tôi tự khắc hiểu — và đương nhiên lần này không phải lời gom nhặt từ ai cả. Đó là chân tâm của chính tôi.

Cậu thiếu niên đã đi khuất từ lâu; tầm mắt chúng tôi chỉ còn độc dáng dấp đìu hiu của mặt trời đang kì hấp hối. Nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy tang tóc.

Chúng tôi biết trăng rồi sẽ lên cao, triều sẽ dâng trên miền biển không còn giông tố. Sau hôm nay, bình minh vẫn sẽ hôn phối với đêm tàn; mặt trời hồi sinh trên những xanh rì đồi núi, như chưa từng có cuộc tiêu vong.

Chẳng phải người nhà là thế sao?

13.

“Thưa mẹ, con đi.”

“Ừm, đi cẩn thận nhé.”

Mẹ tôi quệt mồ hôi trên trán, mỉm cười với tôi rồi quay lại với những nồi chảo đang bốc khói nghi ngút. Chưa bao giờ khung cảnh mẹ đứng nấu ăn trong bếp lại khiến tôi bình tâm đến vậy.

Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ yêu thương ai được, cho đến khi biết trân trọng đối phương từ cả những sự hiện diện dịu dàng nhất. Tôi nghĩ thế trong lúc xỏ chân vào đôi giày lười màu biển, xốc lại chiếc cặp trên vai và bước ra ngõ phố.

Tên gia sư bất đắc dĩ của tôi bảo: “Trò phải tự đi tìm thầy.”

Trời đã quá trưa, nắng sắp ngả về chiều nhưng không khí vẫn oi nồng mùi nhựa đường nóng rẫy. Gió còn mang khí tức mùa xuân, song mây lại trôi vội vã như thể muốn nhảy sang mùa hạ.

Tôi đi ngược hướng mặt trời, chỉ đội trên đầu chiếc nón vải con con chú gửi về qua đường bưu điện. Trên vành nón thêu nổi một cây dừa bé xíu cùng dòng chữ Kuantan màu xanh dương.

Có lẽ giờ này chú cũng đang nằm dưới bóng dừa nào đó ở Kuantan và ngủ một giấc thật sâu.

Tôi bắt đầu thấy muốn viết cho chú.
Tôi muốn nghe chú kể về những con rùa biển và thuyền kayak, về bãi đá đen và món bánh quy cá keropok lekor. Nếu có thể, tôi sẽ tái bút bằng một dòng: “Cháu đợi ngày biển lặng.” Ừ thì tôi cũng có thể trở thành một đứa rất sến sẩm theo đúng cái lối mình muốn.

Cứ vậy, tôi vừa đi vừa sắp xếp trong đầu những gì sẽ viết trong bức thư sắp tới gửi về Malaysia.

Tôi chẳng rõ mình đã đi tới đâu, cho tới khi thoảng thốt nhận ra một bầy quạ đang án ngữ giữa đường. Suýt nữa tôi đạp trúng một con vì tâm trí treo ngược cành cây.

“Ê, cậu tới muộn quá đấy.”

Một chất giọng chao chát, nhưng rất quen thuộc, vang lên từ phía bên phải.

Lũ quạ bay tán loạn, phát ra những tiếng kêu hãi hùng khiến tôi mường tượng đến cảnh phim màn bạc mỗi khi phe phản diện xuất hiện.

Tôi nuốt nước bọt, quay sang.

Tên cao kều đang khoanh tay trước ngực, tựa một bên vai vào cổng nhà.

Liếc sang tấm bảng tên dán trước cổng, một dòng chữ đập vào mắt tôi: Nhà Tsukishima.

Nếu không có lũ quạ chặn lại, có khi tôi đã lạc thẳng tới Malaysia cũng nên. Tôi thật sự chẳng có chút thiên phú nào về địa lý hay bản đồ — nói thật, tôi ngồi nhầm chỗ trong phòng thi hàng chục lần suốt những năm qua.

“Xin lỗi, tôi bận làm cho xong bài tập.” Tôi không muốn hắn biết tôi vừa đi lạc một vòng.

“Ồ, vậy sao? Cô chủ nhiệm mà nghe được câu này chắc khóc mất.” Hắn cạnh khóe.

Tôi chẳng buồn truy cứu, cứ thế lướt qua cánh cổng đang mở, tự nhiên như về nhà mình.

Hắn khẽ đóng cổng lại, theo sau tôi với cái điệu bộ hai tay đút túi kiêu bạc nhất đời.

Nhà hắn khá khang trang. Tôi đoán không phải trọc phú thì cũng thuộc hạng làm ăn dư dả. Tường sơn trắng, có hàng rào trước sân. Bên trong trải một thảm cỏ mềm được chăm sóc kĩ lưỡng, vài dây thường xuân leo phủ mát một góc vườn.

Tôi lúng túng bắt gặp mẹ hắn đang cắm hoa giữa phòng khách. Bà niềm nở nắm tay tôi:

“Cứ tự nhiên như ở nhà, con nhé.”

Mẹ hắn không hề khó gần (khác hẳn hắn). Bà có mái tóc nâu cắt ngắn, trẻ trung.

Tôi khen mái tóc ấy, bà cười, bảo: “Nếu Kei ngoan được một phần như con thì tốt biết mấy.”

“Xưa nay, ngoại trừ Tadashi thì Kei chẳng chịu dẫn bạn về nhà bao giờ. Vậy mà nay lại mang về hẳn một cô nhóc đáng yêu.” Bà vừa nói vừa vuốt đầu tôi như vuốt mèo.

Tôi cố nhớ lại: Tadashi có phải cậu tóc xanh cứ luôn miệng “Tsukki! Tsukki!!” không nhỉ?

“Chúng con về phòng ôn bài đây.”

Hắn cắt ngang mạch trò chuyện — vốn chỉ là độc thoại của mẹ hắn.

Hắn quay đi dứt khoát. Tôi xử lý thông tin một lúc, rồi cúi chào người phụ nữ dễ ưa ấy và nối gót theo cậu quý tử khó ưa, không khỏi lầm bầm: “Lạnh lùng với phụ huynh thế là cùng.”

Bước vào phòng, tôi có dịp nhìn quanh “lãnh địa” của con người kì quặc này.

Hóa ra hắn cũng có những sở thích rất thường tình. Tôi đoán vậy khi trông thấy loạt mô hình khủng long trên kệ, cạnh đó là vài quyển tạp chí thể thao.

Hắn lập tức giải thích: đó là quà anh trai tặng, nên không thể vứt đi, chứ hắn chẳng quan tâm.

Ấy vậy mà khi tôi buột miệng hỏi về từng loài khủng long trên kệ, hắn trả lời rành rọt, đọc vanh vách lịch sử phát triển của giống bò sát khổng lồ qua từng niên đại, chẳng khác nào một nhà khảo cổ thâm niên hàng chục năm.

“Đó là Mamenchisaurus, hay còn gọi là khủng long cổ dài. Cổ của chúng có thể dài tới mười lăm mét, và chiều dài cơ thể lên tới ba mươi bảy mét. Chúng sống chủ yếu vào cuối kỷ Jura, từ giữa thời Oxford đến Tithonus.

Còn kia là Tyrannosaurus rex — một trong những loài ăn thịt lớn nhất trên cạn, hóa thạch của chúng được tìm thấy trong các tầng địa chất có niên đại từ…”

Hắn thao thao bất tuyệt, say sưa giảng giải từng mô hình một.

“Tới mức này thì chẳng phải cuồng khủng long thì là gì?” — tôi nghĩ thầm, dĩ nhiên không dám thốt ra.

Thật lạ, tôi lại không phiền khi nghe hắn tiếp tục. Những khoảnh khắc hắn mải mê đến quên cả thời gian vốn hiếm hoi. Khi ấy, hắn như một đứa trẻ, nhưng không hề ấu trĩ; chỉ là sự tò mò trong sáng và ánh mắt rực lên những hạt cườm lấp lánh mỗi khi ngược về quá khứ, dò theo dấu chân khổng lồ của loài bò sát thuở khai thiên.

Tôi cùng hắn chìm trong viễn tượng Trái đất vừa thành hình, khi Homo sapiens chưa phải lo về thì tiếng Anh hay công thức câu điều kiện.

Thanh âm hắn ngân nga, mượt như gấm lụa mà cũng da diết như lời khấn trong mái vòm tu viện Sion, quấn lấy tôi, lưu lạc chẳng rời.

Tôi co chân, tựa cằm lên gối, cuộn mình trong tấm đệm họa tiết trái dâu. Ước gì hắn có thể ôm tôi một lần.

“Còn đây là loài thằn lằn bay, tên khoa học là… e hèm.”

Hắn bất chợt tằng hắng, giật mình dừng lại như nhận ra mình đã đi quá xa. “Ừm, chúng ta quay lại bài học thôi.”

Hắn ngồi xuống bàn đối diện với vẻ nghiêm trang quen thuộc. Nhưng tôi đã kịp thấy trên má hắn vương một vệt hồng như ánh nắng vừa chạm qua.

Tôi hơi tiếc khi hắn thôi không kể nữa. Nhưng nghĩ đến việc hắn đã tự nguyện kèm học cho tôi, tôi liền gắng sức lấy lại tinh thần. Tôi lười thật, nhưng không muốn phụ lòng ai — không chỉ cô chủ nhiệm, mẹ tôi, mà còn cả hắn.

Rồi hắn bắt đầu hoạt bát trở lại, nhưng lần này là một tràng phê bình nghiêm khắc. Rằng tôi còn ngốc nghếch, kém cỏi ra sao, cần phải nỗ lực thêm thế nào.

Tôi không phản bác, vì biết hắn giỏi thật.

Hắn không giống tôi. Hắn học có hệ thống, làm bài bằng thực lực. Khi hắn đạt điểm cao, bạn có thể tin rằng hắn nắm chắc kiến thức.

Còn tôi, khi đạt điểm nào đó, chỉ có thể nói tôi biết cách có được điểm ấy mà thôi. Nếu bạn chưa từng làm bài kiểm tra bằng mẹo vặt, bằng khôn lỏi, hẳn bạn sẽ chẳng hiểu.

Tôi ngưỡng mộ hắn thật, không đùa đâu.

Xử lý xong mục cuối cùng trong đề cương, hắn bảo: từ nay chỉ còn tùy thuộc vào tôi, hắn đã truyền hết những gì có thể.

Tôi gật đầu, hứa rằng nếu điểm thi trên mức khá, tôi sẽ mời hắn đi xem Công viên kỷ Jura. Khỏi phải nói, tên đom đóm cuồng khủng long ấy hẳn mở cờ trong bụng, nhưng ngoài mặt vẫn giữ nguyên vẻ điềm nhiên. Dù vậy, tôi vẫn kịp thấy trong đôi mắt mở to kia ánh lên những tia lửa tí tách.

Tôi định trêu hắn thì mẹ hắn gõ cửa, gọi ra ăn tối. Lúc ấy tôi mới choàng tỉnh vì thời gian trôi nhanh đến mức sửng sốt. May là trước đó tôi đã dặn mẹ, nếu sau sáu giờ không thấy tôi về thì cứ ăn trước.

Người phụ nữ với mái tóc nâu ngắn ấy thực dễ mến. Bà luôn đặt tay lên vai tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi khi trò chuyện. Thức ăn bà nấu nêm vừa miệng đến lạ. Tôi cứ cật lực ngấu nghiến hết thảy trong khi nghe bà kể về lớp dạy cắm hoa bà mới tham gia.

“Dì biết mẹ cháu cũng tham gia lớp cắm hoa ấy. Mỗi lần nhắc đến cháu, mẹ cháu lại cười híp mắt không thôi.” Bà từ tốn gắp thức ăn cho tôi. “Biết sao được, có cô con gái vừa xinh vừa ngoan thế kia mà!

Chỉ khổ thân dì, có hai thằng con trai: một đứa đi học đại học, biệt tăm biệt tích; một đứa thì học xong là chui vào phòng, đóng cửa im ỉm, chẳng chuyện trò gì với mẹ nó mấy.” Bà liếc sang hắn.

Tôi cũng trộm nhìn. Tên đom đóm to xác ấy vẫn thản nhiên ăn uống như chẳng liên quan.

“Ấy, dì đừng nói thế. Bề ngoài vậy thôi chứ Kei sống tình cảm lắm. Đặc biệt với bạn bè thì nói chuyện rất dễ nghe.” Tôi cố kéo căng môi, nặn ra một nụ cười tự nhiên nhất có thể… mà chắc vẫn trông hạ lưu.

Hắn sặc cơm.

“Ồ, thế à?” Lông mày người phụ nữ giãn ra, hai tay chắp lại bên môi, ánh mắt sáng lên. “Cảm ơn cháu đã giúp Kei trong thời gian qua nhé.”

“Ôi, cháu sẵn lòng lắm dù Tsukishima-kun có hơi tsun— AH!”

Hắn đá chân tôi dưới gầm bàn.

“Trời ơi, sao thế cháu?” Mẹ hắn hốt hoảng, lấy tay che miệng, lo lắng nhìn tôi.

“Không… không sao ạ. Cháu bị chuột rút thôi.” Tôi cười hềnh hệch, cúi xuống xoa xoa bắp chân, tiện quăng cho hắn một cái lườm sắc lẹm.

Bữa ăn tiếp tục. Tôi đáp trả bằng vài cú đạp dưới gầm bàn. Chúng tôi cứ lườm nguýt cho đến khi dọn dẹp tàn cuộc, hắn mới buông một câu chát chúa:

“Ngày mai tôi xếp một mình cậu trực cầu thang nhé.”

Hắn là tổ trưởng. Tôi quên mất vụ đó.

Rõ ràng tôi vừa chọc nhầm ổ kiến lửa. Chỉ còn biết cười trừ ngờ nghệch, chờ cơn giận của hắn lắng xuống.

Con người này — ngoài miệng hiểm độc, trong bụng cũng hiểm độc nốt.

Mẹ hắn bảo cứ để bà rửa bát, nhưng chúng tôi kiên quyết giành phần. Cuối cùng bà đành bất lực rời bếp, để lại hai đứa với tiếng bát đĩa lạch cạch.

“Cậu có phải về sớm không?” Hắn hỏi khi chuyền cho tôi cái khăn lau tay. Nhờ nỗ lực của cả hai, căn bếp sáng choang trở lại, bát đũa nằm bóng loáng trong tủ kính.

“Không, tôi ở được tới bảy giờ.” Tôi nhận khăn, chợt nghĩ tới chuyện mẹ tôi có số mẹ hắn, và việc hai người quen biết khiến tôi yên tâm hơn. “Sao thế?”

Hắn cau mày, như thể tôi vừa xúc phạm điều gì, nhưng giọng lại rất nhỏ:
“Không có gì. Chỉ là… tôi có thứ này muốn cho cậu xem.”

Ánh mắt hắn rời khỏi bức tường sau lưng tôi, dồn thẳng vào tôi, quả quyết lạ lùng. Tôi chưa từng thấy ở hắn ánh nhìn ấy.

“Tôi chưa từng thử điều này trước đây. Nhưng… cậu có thể tin tôi không?” Giọng hắn mỏng dính, như lá thư tay bị mưa làm nhòe, ướt sũng, người ta vứt đi rồi lại nhặt về.

“Là gì— ê, này!”

Hắn nắm lấy tay tôi trước khi tôi kịp phản kháng. Lực đạo vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, kéo tôi về phía gian nhà bên trái bếp.

Cánh cửa gỗ trượt mở ra, để lộ một khu vườn lặng như say ngủ của công chúa. Ánh đèn nhà bếp chỉ rọi chút mong manh, nhưng ánh bạc nguyệt hằng đã cuốn trôi tất cả. Vài cánh hoa e thẹn khẽ run mình. Giữa mảng tím dại mù khơi, tôi bập bẹ:

“Nguyệt kiến thảo?”

Hắn vẫn giữ tay tôi, siết chặt. Đôi môi tôi hé mở, lạnh tê hồn phách.

Trong hơi sương, đâu đó vang vọng tiếng radio cũ ngân điệu jazz say khướt. Cái gì đó trong tôi vỡ tung. Hoài niệm bật rễ, xoắn tít giữa cuồng phong.

Tôi cả gan tiến vào mắt bão, nơi quầng sáng nhạt thâu lấy tôi bằng phép màu huyễn hoặc. Trong ảo ảnh, tôi thấy bà quá cố đứng giữa Vườn nguyệt kiến trong ngần. Nháy mắt một cái, bóng dáng ấy hóa thành khuôn mặt cậu thiếu niên mỉm cười, diễm kiều đến muốn rơi nước mắt.

“Cậu đã tìm thấy Vườn nguyệt kiến cho riêng mình chưa?” Hắn nâng tay tôi, kề lên má. “Nếu cậu vẫn mãi chưa tìm thấy… tôi có thể trồng cho cậu một cái.”

Đôi mắt hắn nhìn xuyên qua tôi, lột trần tôi tới tận cùng nguồn cội.

Tôi thấy mặt sàn tan chảy thành vũng nước, còn xác tâm thì bấu víu lấy đôi vai hắn như cọng rơm giữa thác lũ. Hơi thở hắn phả trên tóc mai, ướp đầy gáy cổ. Mùi áo đồng phục dâng ngập chóp mũi.

Tôi ngửa mặt ngắm trăng thanh ru hời khúc du ca vạn kỷ – thứ nhạc khúc vĩnh viễn chẳng lỗi thời.

Bàn tay hắn vuốt đều lưng tôi như lông vũ mơn man theo chiều gió, rồi lại vững như thạch bàn khi dìu tôi ngồi xuống, bảo bọc trong yên bình vô lượng.

Hai chúng tôi hướng mặt về Vườn nguyệt kiến, bàn tay vẫn âu yếm bàn tay.

"Từ dạo mẹ tôi theo lớp cắm hoa, bà luôn mang về đủ loại: hướng dương, hồng, lily, cẩm tú cầu..." – hắn nói – "Cho đến một hôm, tôi trông thấy nguyệt kiến. Tôi xin ngay. May sao loài này mọc dại, sức sống mãnh liệt, chỉ mấy tháng đã nở rộ khắp vườn."

Tôi im thin thít như trẻ con ngồi nghe chuyện cổ. Giọng hắn đều đều, thanh tao trong màn đêm tĩnh mịch như nhã nhạc huyền cầm.

"Tôi không thể mang quá khứ về bên cậu, nhưng ít nhất có thể cho cậu thấy hiện tại và tương lai." Lòng bàn tay hắn nóng dần.

"Chỉ có điều… tôi chẳng muốn bắt đom đóm nào cả. Hãy thử nghĩ: một ngày cậu đang bay giữa bụi cỏ lau thì bỗng một kẻ khổng lồ ngạo mạn xuất hiện, vung chiếc vợt to bằng cả bầu trời bắt lấy cậu, nhốt vào hộp rồi thả vào vườn hắn…" – hắn làm tôi bật cười, và chính hắn cũng thích chí. – "Tôi thà để chúng tự bay vào, không thì cũng chẳng sao."

Bỗng hắn quay sang tôi. Tròng kính sáng quắc trong ánh trăng, rồi thoáng chốc trở trong suốt, để lộ đôi ngươi hoang sâu như đại ngàn mộc thảo.

Tôi sững sờ như linh dương chạy lạc trong rừng thông. Tôi lạc rồi – lạc vào chút tàn dư nắng dịu, tắm táp trong suối ngọt tình sương chớm đọng.

Mái tóc hắn vàng rợi như trăng, cũng sóng sánh như trăng. Hắn tỏa sáng – không phải thứ ánh sáng vay mượn từ mặt trời, mà là ánh sáng tự hắn thắp lên, duy nhất mình hắn sở hữu: nhỏ bé mà bất diệt, tán sắc khắp châu thân.

"Hãy để tôi là đom đóm của cậu. Còn cậu sẽ là nguyệt kiến thảo của tôi."

Vành tai cậu phiếm hồng, còn cổ họng tôi nghẹn ứ như chứa ngàn cánh hoa nguyệt kiến chen nhau bung nở. Mắt rớm trăng, lòng thắm nhụy hương.

Tôi hôn phớt làn môi được mùa thu ân điển ban cho hết thảy sự êm mềm của nước mây.

Chỉ một cái gật đầu, tôi đã thấy vạn đêm trăng cũng đủ để cùng người nắm tay thưởng hoa, gom góp kiên nhẫn cả đời kề cận, lắng nghe trăm câu ngàn ý, để rồi cô đọng lại trong một nụ cười, một ánh mắt – thứ có thể làm sao trời rơi xuống vỡ tan dưới chân mình trong cơn mưa xóa sạch cả ngân hà.

"Vườn nguyệt kiến của tôi ở đây rồi. Đom đóm của tôi cũng ở đây rồi." Tôi reo lên nức nở.

Hai chúng tôi ngồi lặng nhìn trăng lên. Cõi lòng xốn xang nhưng cõi hồn bình yên lạ thường. Những cánh hoa nguyệt kiến yểu điệu rung rinh trong gió như vũ nữ vừa mị hoặc lại thơ ngây.

Tôi đắm chìm trong khúc dạ vũ của đêm, tựa đầu lên vai hắn, khẽ thở phào.

"Bố của cậu… không phải là người đã mất vì thuốc lá chứ?"

"Không. Bố tôi chỉ đi công tác xa. Trong nhà cũng chẳng ai mất vì thuốc lá cả."

"Vậy à…"

"Ngày ấy, tôi dập điếu thuốc không phải vì ghét nó, mà chỉ vì không muốn cậu hôn môi gián tiếp với tên tiền bối kia thôi."

Tôi bật cười.

Giá mà lúc này, hắn lại buột miệng bảo nụ cười của tôi thật giống một đóa nguyệt kiến vừa nở trong trăng.


end,
tưởng niệm tuổi mười bảy.


🌙 note:

* kei nghĩa là đom đóm.
** tsukimiso nghĩa là nguyệt kiến thảo.
*** tsukishima kei nghĩa là người em thương.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip