Đừng đốt
Cuốn nhật kí của nữ Liệt sĩ, Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và số phận kì lạ của nó sau 35 năm lưu lạc được NSND, đạo diễn Đặng Nhật Minh xây dựng thành tác phẩm điện ảnh "Đừng đốt".
Tháng 6 năm 1970, chiến trường Quảng Ngãi ở vào thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh. Một ngôi lán đơn sơ giữa rừng, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm tận tụy, quả cảm cứu chữa, chăm sóc thương binh giữa tiếng bom gầm, đạn rú... Hình ảnh lần lượt được tái hiện theo từng câu, từng chữ trong cuốn nhật kí. Những cảnh phim đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giữa những trang nhật kí và hồi ức của đồng đội trong nhiều trường đoạn được bố trí gần như đối lập nhau, với tiết tấu nhanh nhằm bộc lộ tính cách, tình cảm cao đẹp, thánh thiện của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm.
Một cảnh trong bộ phim "Đừng đốt".
Chiến tranh không có chỗ cho kẻ hèn nhát, nhưng vẫn có kẻ "mượn cớ" tìm đường thoái lui. Gánh nặng đè lên vai người con gái mới ngoài 20 tuổi ở trạm xá trơ trọi giữa đạn bom khốc liệt và những cơn mưa rừng xối xả, những thương binh nặng mê man và số gạo chỉ đủ nấu bữa cháo cuối cùng. Người xem hoàn toàn cảm thông nỗi lo lắng rất thật, rất đời thường mà người nữ bác sĩ chỉ bộc lộ trong cuốn nhật kí viết riêng cho mình khi đêm xuống.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã chọn những chi tiết đắt giá, để tự nó toát lên tính chất khốc liệt của cuộc chiến. lời nói, hành động của nhân vật được tiết chế tối đa đạt đến độ giản dị, tinh tế. Thủ pháp so sánh, ẩn dụ được áp dụng khá thành công. Bữa ăn tươi nhân sinh nhật Đặng Thuỳ Trâm qua hồi ức của mẹ cô được đặt cạnh cảnh gia đình Fred mừng sinh nhật mẹ; rồi hai lần tiếng hát của bác sĩ Thuỳ Trâm và người lính da đen bị tiếng bom cắt nghẹn là thái độ phản kháng chiến tranh.
Đặc biệt là sự xen lồng tâm trạng của hai bà mẹ, dù khác màu da, quốc tịch, sống cách nhau nửa vòng trái đất, cách bộc lộ mỗi người mỗi khác nhưng đều toát lên tình thương yêu vô bờ bến đối với con mình. Mẹ Thuỳ Trâm không đêm nào ngon giấc, cứ chợp mắt là mơ thấy con về, còn mẹ của Fred sau khi đọc xong cuốn nhật kí cứ nhắc đi nhắc lại một cách lo lắng: "Cuốn nhật kí sẽ thiêu đốt cuộc đời con". Và rồi chính bà yêu cầu Fred tìm cách trao trả cuốn nhật kí cho gia đình Đặng Thuỳ Trâm, đồng thời muốn công bố nó vì tâm hồn người nữ bác sĩ Việt cộng thật là cao đẹp.
Tính nhân văn, lòng nhân ái ẩn chứa trong những dòng chữ bình thường có sức lay động lớn lao, cảm hoá những con người bên kia chiến tuyến, giúp cho Fred nhận ra chân giá trị cuộc sống: "Cô ấy dạy cho con bài học về tình yêu thương con người", "Ai trong đời cũng chết một lần. Nhưng mình không muốn chết theo cách này"...
"Đừng đốt, trong đó có lửa", là lời của một trung sĩ phiên dịch người Việt ngăn Fred khi anh ta định vứt cuốn nhật kí của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm vào lửa. "Đừng đốt" mở đầu hành trình kì lạ của cuốn nhật kí, tiền đề để NSND Đặng Nhật Minh làm nên bộ phim được dẫn dắt bằng nội dung của cuốn nhật kí ghi cách đây gần 40 năm, với nhiều chi tiết chân thực. Câu chuyện có thật nhưng không thể "bệ nguyên xi" hiện thực lên phim, âu đó cũng là cái khó muôn đời của người làm nghệ thuật. Đạo diễn Đặng Nhật Minh tâm sự: "Những sự việc xoay quanh số phận cuốn nhật kí đều rất thật. Muốn biến thành phim truyện, đạo diễn phải tìm ra một cấu trúc tổng thể để sắp xếp các sự việc, đưa người xem đến thông điệp muốn nói. Có hư cấu, nhưng vẫn mang tinh thần tôn trọng sự thật, đúng với tính cách nhân vật".
Chính vì vậy, hình ảnh Đặng Thuỳ Trâm hiện lên không chỉ là một bác sĩ dũng cảm, nhân hậu mà còn là một người con gái Hà Nội lãng mạn, khao khát yêu thương, đau đáu nỗi nhớ khôn nguôi cha mẹ, chị em, đớn đau khi mỗi ngày trôi qua, một đồng đội thân thương lại ngã xuống: "Chết còn dễ hơn ăn một bữa cơm". Trong hoàn cảnh như thế ai mà không ước mong hoà bình, hoà bình không phải để đòi hỏi sự đãi ngộ, chỉ đơn giản là: "Để em được về với mẹ em thôi!".
Nhân cách cao đẹp của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm thể hiện dung dị trên màn ảnh. Vai diễn do biên tập viên Minh Hương, công tác tại Đài truyền hình kĩ thuật số VTC lần đầu tiên đóng phim truyện đảm nhận. Cô vô cùng bất ngờ khi được chọn: "Sức ép với tôi rất lớn, bởi đây là câu chuyện thật và quá nổi tiếng. Rất khó để thể hiện tình cảm và tính cách của nhân vật, nhất là làm sao để gia đình chị Thuỳ Trâm khi xem phim phải nhận ra một phần con gái mình trong đó". Bà Doãn Ngọc Trâm, mẹ của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm cho biết: “Bộ phim đã lột tả được tinh thần cuốn nhật kí con gái tôi. Bộ phim sẽ đi vào lòng người".
"Đừng đốt" được thực hiện trong 2 năm, hoàn toàn bằng kinh phí của Nhà nước, không có tài trợ, với thời lượng 102 phút, có sự tham gia của 7 diễn viên cùng những kĩ thuật viên, quay phim, phục trang... người Mỹ. Phim được quay tại Đồng Mô, Hà Nội, Quảng Ngãi, TP Hồ Chí Minh và Mỹ. Phần âm nhạc vô cùng hiệu quả do 2 nhạc sĩ người Hun-ga-ri Ben-nơ-đích Dôn-tan và Ben-nơ - đích Ít-xtơ-van thực hiện.
Cuốn "Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm" đã được bạn đọc nhiều nước biết đến qua cái tên tiếng Anh "Đêm qua tôi mơ thấy hoà bình" không chỉ phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, mà còn được nhà xuất bản 14 nước mua bản quyền. Giờ đây, bộ phim truyện "Đừng đốt" sẽ góp phần đưa hình ảnh người nữ bác sĩ anh hùng, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đến với công chúng yêu điện ảnh trên toàn thế giới.
Thứ bảy, ngày 03 tháng 11 năm 2012 | 14:20 (GMT+7)
Đặt Tuần Việt Nam làm trang chủ
Trang chủ
Tiêu điểm
Ký sự nhân vật
Thông tin đa chiều
Tư liệu & suy ngẫm
Blog phóng viên
Nghe xem đọc
Sách hay nên đọc
Bản nhạc hôm nay
Trực tuyến
Phát ngôn Tuần Việt Nam
Thư TL
6861
229
/phim-dung-dot-viet-tiep-nhat-ky-dang-thuy-tram
Phim "Đừng đốt": Viết tiếp nhật ký Đặng Thùy Trâm
Bài đã được xuất bản.: 29/04/2009 18:57 GMT+7
Recomend
Thanks
+
Red
In
Thảo luận
TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)
Chính quyền ở đâu?
Để mô hình Đà Nẵng thắng thế
GS Đặng Hùng Võ: 'Nhiều khi tôi cũng bất lực'
'Việt Nam đang chơi mọi quân bài mình có'
(TuanVietNam) - Một đề tài cũ kiểu "nêu gương", khai thác câu chuyện có thật trong lịch sử, nhưng những thước phim “Đừng đốt” của đạo diễn Đặng Nhật Minh vẫntạo được sự đồng cảmở nhiều khán giả hôm nay. Nhịp đập yêu thương nơi trái tim của bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thùy Trâm như vẫn còn nghe đâu đây...
Từ "Nhật ký" đến phim truyện
Có quá nhiều người đã đọc cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” cũng như theo dõi những diễn biến xoay quanh nội dung cuốn nhật ký có số phận kỳ lạ này, khi nó được phổ biến ở trong và ngoài nước.
Đặng Thùy Trâm với công việc và với trang nhật ký nơi chiến trường
Những năm tháng sống và cống hiến của “chị Thùy” cũng đã cách xa hơn ba chục năm, tức là có độ lùi nhất định để ghi vào lịch sử hay để dựng lại bằng không gian tưởng nhớ.
Làm phim về câu chuyện này tức là đưa ra góc nhìn của ngày hôm nay về nhân vật chính Đặng Thùy Trâm và cuộc sống lúc đó. Và làm phim này cũng phải làm sao để khán giả giữ được cảm xúc tươi mới, chứ không chỉ là “mô tả” lại nội dung cuốn nhật ký và những câu chuyện xung quanh nó.
Đó là thách thức không nhỏ cho NSND Đặng Nhật Minh trong vai trò đạo diễn để làm bộ phim được đầu tư 11 tỷ đồng.
Với phim nhựa dài 109 phút “Đừng đốt”, đang có mặt trên các rạp chiếu dịp 30/4, đạo diễn của “Bao giờ cho đến tháng mười”, “Thương nhớ đồng quê”, Hà Nội mùa Đông 46…đã không làm “phim lịch sử” hay “phim mô tả nhân vật” - rất có thể sẽ bị khô cứng - mà là phim về số phận con người nói chung.
Đặng Thùy Trâm và cuốn nhật ký trở thành khởi điểm, thành cốt truyện lý tưởng cho một bộ phim truyền tải được những thông điệp từ quá khứ còn nguyên vẹn và hơn thế là bổ sung giá trị cho đến ngày hôm nay.
Nhân vật trung tâm và khung cảnh chính mở ra câu chuyện là bác sĩ Đặng Thùy Trâm với công việc chăm sóc, chữa bệnh cho thương binh nơi một lán trại giữa rừng ở Đức Phổ (Quảng Ngãi), giữa thời điểm chiến tranh ác liệt. Cuốn nhật ký mà người nữ anh hùng, cũng là cô gái vẫn còn đầy mộng mơ, mang tư tưởng “tiểu tư sản” miệt mài viết trong bom đạn cũng có thể coi như một “nhân vật” quan trọng, vì nó cũng có "số phận" riêng.
Frederic Whitehurst (hay Fred), ở bên kia chiến tuyến, là người lưu giữ cuốn nhật ký của “chị Thùy” suốt 35 năm, một nhân chứng sống động trong ngày hôm nay, cũng là một nhân vật xuyên suốt câu chuyện phim.
Diễn viên Minh Hương trong vai Đặng Thùy Trâm và Fred (trái) thời trẻ, do Richard Connors đóng. Anh là một trong 7 diễn viên chuyên nghiệp Mỹ (từ Hiệp hội Diễn viên New York) tham gia trong "Đừng đốt"
Không thể không kể đến hai bà mẹ của Thùy và Fred, một ở Hà Nội, một ở nước Mỹ xa xôi, trong những cảnh quay rất đẹp về Việt Nam những năm tháng cũ và nước Mỹ giữa mùa thu vàng, cũng để lại những ấn tượng sâu đậm và thông điệp đáng nhớ với người xem.
Những nhân vật đó, dù là người đã hy sinh hay người đang mang trong mình những ký ức xưa đều là những người có độ lắng của cảm xúc và tâm tư, đã hiểu thật rõ ràng mình đang sống vì điều gì và đâu là giá trị cần theo đuổi của cuộc đời.
Giá trị sống mà họ không rời bỏ, dù trong hoàn cảnh nào, là tình yêu thương con người, là công lý, là mối thâm tình máu mủ ruột rà, là sự cống hiến trong hòa bình và cho dù thế nào cũng cần sống thanh thản với lương tâm…
Chỉ duy nhất Fred, trước khi mãn hạn quân dịch đã từng chông chênh, không biết mình chiến đấu và tàn sát vì điều gì, nhưng sau đó, một phần nhờ tiếp xúc với cuốn nhật ký, anh đã “tỉnh ngộ” và bị ám ảnh với những điều cao cả cuốn nhật ký gợi ra cả trong ký ức hoặc giấc mơ.
Anh biết rằng, “đạn đã bắn khỏi nòng súng thì không bao giờ thu lại được” và như câu thơ của Đặng Thùy Trâm mà anh còn mãi nhớ: "Và ai có biết chăng ai/Tình thương đã chắp cánh dài cho ta".
Những thông điệp sống đến hiện thực
Nếu không vì những thông điệp về giá trị sống ấy được những người như chị Trâm hay các bà mẹ đan kết và thực sự đã có sự lan tỏa thì không có anh lính Việt Nam Cộng hòa tên Huân ngồi lặng đi, quên cả bụi khói, lửa cháy sau một trận bom càn để chìm đắm vào từng dòng chữ của cuốn nhật ký còn rơi rớt.
Xen lẫn bom đạn, chết chóc, hình ảnh về cuộc sống gia đình hạnh phúc và yên bình của Đặng Thùy Trâm trở đi trở lại trong phim
Khi Huân nộp lại cuốn sổ cho Fred, Fred định đem đốt thì anh ngăn: “Đừng đốt, trong đó đã có lửa!”. “Lửa”, tức là giá trị tinh thần vô giá thì chỉ có thể lan truyền chứ không thể “tắt”. Đó đã là lời nhắn nhủ hay chính là mệnh lệnh "Đừng đốt", nếu đốt rồi mai đây còn gì?…
Nếu không vì sự rung động mạnh đó thì Fred đã không sống trong cảm giác “thiêu đốt" cả cuộc đời vì cuốn nhật ký và nó đã không thôi ám ảnh anh cho đến khi anh quyết định gửi nó cho trung tâm lưu trữ và nghe theo lời mẹ, sau này tìm cách gửi về Hà Nội cho gia đình bà Doãn Ngọc Trâm, mẹ của Đặng Thùy Trâm…
Nếu không vì những thông điệp mà phim muốn truyền tải đó thì người con dâu Việt Nam trong gia đình Mỹ kia không thay đổi thái độ về cuộc chiến, để vơi đi mối thù trong ký ức buồn. Sẽ không có người phóng viên ảnh từ Mỹ sang Việt Nam lặn lội qua khắp các phố phường đua chen của Hà Nội ngày hôm nay để tìm kiếm gia đình liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, trao lại nội dung nhật ký được in sao mà Fred nhờ chuyển…
Nếu không vì những giá trị chung đó thì người mẹ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm sau này không coi Fred như một người con trong gia đình. Một người mà khi xưa là người chỉ huy binh đoàn đã xả xúng nơi lán trại của Đặng Thùy Trâm, nay là luật sư và hành nghề tư vấn khoa học, đứng về phía công lý.
Không vì những giá trị đó thì trong phim, đạo diễn Đặng Nhật Minh chắc sẽ không đưa vào những chi tiết mang màu sắc "điện ảnh" về thế giới tâm linh, sự thần giao cách cảm giữa con người với con người.
Mẹ của "chị Thùy" đã từng mơ về người con gái Hà Nội giỏi giang, nhân hậu, và xinh xắn hôm nào dũng cảm ra nơi chiến tuyến nay chạy ùa về ôm lấy mình, sum họp. Và cho đến hôm nay, bà mẹ ấy vẫn tưởng như có lúc đứa con gái bẻ bóng của mình như con bướm trắng kia về đậu bên khủng cửa.
Hay một chi tiết khác trong phim: Người mẹ lên chùa khấn nguyện và gửi theo cuốn sổ cho người con gái hi sinh nơi chiến trường. Có lẽ bà tin và những người làm phim tin rằng, với cách ấy, Đặng Thùy Trâm vẫn chưa ngừng ghi nhật ký, để những điều tốt đẹp và thánh thiện luôn còn hiện hữu trong cuộc đời này
Thời chống Mỹ từng có một bác sĩ,
một con người, tên là Đặng Thuỳ Trâm…
Tác giả những dòng nhật ký sau đây bạn đọc sẽ đọc thuộc về một lớp người khá đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội ta từ sau 1945 - họ có mặt trong công cuộc chiến đấu chống Mỹ từ mấy năm đầu tiên, khi ở miền Nam, các cơ sở cách mạng triển khai đến tận nhiều huyện đồng bằng, và trên toàn quốc, cuộc chiến tranh dù đã gian khổ nhưng chưa có cái không khí bức bối khắc nghiệt như từ đầu những năm 70 trở đi.
Và một điều đáng nói nữa: trước đó, họ thuộc lứa thanh niên đầu tiên được đào tạo theo tinh thần của những người đi kháng chiến chống Pháp, cái tinh thần “cuộc sống mới”, ấp ủ từ những ngày Việt Bắc gian khổ mà hào hùng
Hà Nội trước chiến tranh thanh bình, yên ả lạ thường. Bao trùm xã hội là một không khí thiêng liêng, thành kính. Ngay đối với người dân thường mọi chuyện làm ăn sinh sống chỉ có ý nghĩa là sự chuẩn bị cho ngày mai có mặt ở chiến trường. Nền kinh tế tem phiếu chưa làm mấy ai khó chịu. Trong tâm trí đám học trò chúng tôi (tôi với Thùy Trâm vốn học cùng lớp trong suốt ba năm cấp ba ở trường Chu Văn An, nên dưới đây, việc dùng chữ chúng tôi là có một lý do chính đáng) lúc nào cũng thấm đẫm tinh thần lãng mạn của Ruồi trâu, của Pavel Korsaghin trong Thép đã tôi thế đấy và cả của Marius và Cosette trong Những người khốn khổ. Sách vở lúc ấy là đồng nghĩa với văn hoá. Thêm một điã nhạc cổ điển, với một vài bông hoa trên bàn nữa thì coi như mãn nguyện hoàn toàn. Có mặt trong đám đông dự mít tinh ở quảng trường Ba Đình trong một ngày lễ lớn (trước 1965, những ngày lễ lớn bao giờ cũng có mít tinh, đâu cả chục ngàn người), anh bạn tôi mặt ngẩng cao dõi theo mấy cánh chim bay mãi vào những đám mây xa. Đêm giao thừa ngay khi có chiến tranh rồi thì mấy ngày Tết vẫn có ngừng bắn, cũng như mọi người, chúng tôi dắt xe đạp đi bộ quanh Hồ Gươm trong tiếng nhạc dập dìu của mấy bài Hà Nội Huế Sài Gòn, Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó…
Và có thể nói mà không sợ ngoa là từ đấy, nhiều người đi thẳng ra chiến trường.
Nhật ký tôi viết mấy năm ấy còn ghi lại được hình ảnh về những người lính ớ đánh Khe Sanh 1967: Quần áo ba lô người nào cũng tinh tươm, niềm tin sáng bừng trong mắt, chỉ sợ không đi thì lỡ mất dịp có mặt trong lễ chiến thắng.
Một niềm tin tưởng như chỉ có ở tôn giáo - thứ niềm tin mang đầy cảm giác thánh thiện - chi phối hành động mọi người. Lao vào chiến tranh lúc ấy không phải chỉ là nghĩa vụ mà còn là niềm ao ước, là vinh dự mà nhiều anh em chúng tôi cảm thấy phải giành lấu bằng được.
Tốt nghiệp đại học 1966, Thuỳ Trâm lại xung phong đi khá xa, vào tận Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ở đó chị làm công việc đặc trưng cho người phụ nữ trong chiến tranh là phụ trách một bệnh viện huyện, và từ đó tạo nên cho mình một số phận.
Không phải ngẫu nhiên, hai người lính thám báo Mỹ hôm qua, trong bức thư gởi tới người mẹ của liệt sĩ vừa viết mới đây, khẳng định một cách chắc chắn như đinh đóng cột: “Trên bất cứ đất nước nào trên thế giới, điều đó đều được gọi là anh hùng”
Họ muốn nói tới cái sự việc từng ám ảnh họ một thời gian dài: người bác sĩ này đã đứng ra cầm súng bảo vệ cho những thương binh, và đã ngã xuống như một người lính vừa rời tay súng.
Tuy nhiên, theo tôi, trước khi để cái hành động dũng cảm cuốn cùng Thùy Trâm “đóng đinh” vào tâm trí mình, những người lính bên kia chiến tuyến thật ra đã bị chinh phục. Phải có một nhân tố nào nữa, thiết yếu hơn, khiến họ tự nhủ phải cứu bằng được cuốn nhật ký rồi bị hút theo chị, mải miết tìm cách giải mã những dòng chữ chị ghi và sau này còn để rất nhiều thời gian lần theo dấu vết của chị.
Chỉ có toàn bộ con người Thùy Trâm mới đóng nổi vai trò đẹp đẽ đó.
Gần đây, khi đi ra với thế giới, nhiều người trong chúng ta chợt hiểu ra một sự thực: Hai chữ Việt Nam bấy lâu mới chỉ gắn với một cuộc chiến tranh. Và chúng ta còn phải phấn đấu nhiều để người ta hiểu rằng việt Nam còn là một xã hội, một đất nước, một nền văn hoá.
Ngay từ lúc ấy, trong vai trò một chiến sĩ, Thuỳ Trâm đã tự chứng tỏ mình mình còn là một con người với nghĩa rộng rãi nhất của từ này.
Một mặt, chị có ý thức về bổn phận. Chị yêu thương mọi người. Chị đau nỗi đau của mỗi bệnh nhân đến với mình. Chị muốn trở thành một người tốt. Những cách nói mà với một số bạn trẻ ngày nay tưởng như là công thức (chẳng hạn trái tim đập cùng một nhịp với nhân dân đất nước, chẳng hạn niềm yêu thương vô hạn độ) chính là những lẽ sống đã được Thuỳ Trâm tự nguyện chấp nhận.
Mặt khác,chị vẫn dành riêng cho mình một cuộc sống riêng tư. Chị tha thiết với thiên nhiên cây cỏ. Một phần tháng ngày của chị được dệt bằng những vui buồn của quá khứ. Trong khi thất bại trong tình cảm riêng. con người này lại biết tìm ra ngay từ bằng người chung quanh những yếu tố tốt đẹp, rồi lý tưởng hoá thêm lên để biến họ thành những biểu tượng sinh động, bù đắp cho một cuộc đống nội tâm vốn quá dồi dào, quá nồng nhiệt.
Có một quy ước những ai ở vào lứa tuổi chúng ta đều biết và tự nguyện ghi nhớ, tự nguyện tuân theo, đó là không nên nói nhiều đến cô đơn cùng nỗi buồn. Sự phức tạp của tình cảm lại càng là điều cấm kỵ.
Cái gì cũng phải rành rẽ. Đơn giản. Rõ ràng - cái kiểu rõ ràng thô thiển một chiều. Về phần mình mặc dù là con người hết lòng tin vào lý tưởng, song Thuỳ Trâm không bị những luật lệ không ghi thành văn bản ấy ràng buộc. Với sự nhạy cảm của một trí thức, chị lắng nghe trong mình mọi băn khoăn xao động. Chị không xa lạ với những phân vân khó xử. Trong nhật ký, người nữ bác sĩ ghi ra gần hết tất cả những cung bậc tình cảm mà ai người ở vào địa vị ấy đều trải qua, và có cảm tưởng chỉ làm như vậy mới tìm được sự cân bằng cần thiết.
Tuy cái chết không được miêu tả nhiều trong nhật ký, nhưng trong tâm trí Thuỳ Trâm, nó luôn luôn có mặt. Nó đứng thấp thoáng đằng sau các sự kiện, và cuộc đối diện với cái chết làm nên một phần nội dung cuộc sống, tức cũng là làm nên vẻ đẹp cao thượng của con người lúc đó mới 27 tuổi này. Đọc nhiều trang, nhất là nửa phần viết về sau, khi đề cập tới nhiều hy sinh mất mát, tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều tác phẩm văn học có liên quan tới cùng một chủ đề.Đây là một bài thơ mà nhà thơ Nga Aleksei Surkov đã viết trong cuộc chiến tranh chống Phát xít:
Trong hầm ta ánh lửa sáng ngời
Từng thanh củi bọt sùi như lệ ứa
Tiếng đàn dạo một điệu trầm và nhẹ
Ca ngợi mắt em ca ngợi nụ cười em
Anh ở đây trên tuyết gần Mạc Tư Khoa
Những hàng dương đang ngọt ngào thầm thĩ
Cái bản tình ca anh vừa hát ấy
Bản tình ca buồn anh mong được em nghe
Giữa đôi ta dù xa cách mênh mong
Dù cái chết đến gần anh mấy bước
Dù có cả một cánh đồng băng tuyết
Trên đương dài ta vẫn đến gặp nhau
Ta hát ta đàn ta dẹp yên bão táp
Hạnh phúc mất ở ta dẫn nó trở về
Tình yêu sưởi chiến hào thêm ấm áp
Tình yêu này sáng mãi giữa tim anh.
Tôi dự đoán là đã có những lúc Thuỳ Trâm sống cái cảm giác mà bài thơ diễn tả, dù là không biết gì về nó. Hồi ở Hà Nội, chị cũng rất thích âm nhạc và thường quan âm nhạc để hình dung ra những gì thiết yếu của đời sống - sự hoà hợp, tình yêu, hạnh phúc.
* * *
Ngoài những Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, thơ Từ ấy của Tố Hữu , thơ Đợi anh về của Simonov, vào những ngày đọc lại nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm để góp phần chỉnh lý và biên tập lại thành một cuốn sách, thường trong đầu óc tôi còn trở đi trở lại một vài tác phẩm nước ngoài khác, đặc biệt là trường hợp Nhật ký Anne Frank.
Chỗ giống nhau đầu tiên: Đây đều là những tác phẩm viết về con người đối diện với chiến tranh. Trong cuộc sống khó khăn của một người bị ép phải chui nhủi trong một nơi ẩn náu, cô thiếu nữ Do Thái mang tên Anne Frank vẫn tìm đủ không gian để thể nghiệm mọi cảm giác làm người bình thường, và điều đó làm cô tự hào.
"Tôi có cái can đảm sống khác thường. Tôi luôn luôn cảm thấy mình sao khoẻ thế, sao tự do và trẻ trung thế."
"Thật lạ cho điều này: tôi chưa bao giờ rời bỏ hy vọng. Chúng có vẻ phi lý và khó thành tựu. Song mặc tất cả, tôi vẫn bám vào chúng. Vì tôi tiếp tục tin vào lòng tốt thiên bẩm của con người."
Những dòng chữ đơn giản đó hoàn toàn có thể đặt lẫn vào nhật ký Thuỳ Trâm mà không gượng gạo.
Còn một đếm nữa làm nên sự gần gũi giữa Thuỳ Trâm với Anne Frank, nó cũng là lý do khiến bọn tôi chọn cho tập ghi chép của chị cái tên đơn giản như hiện nay, đó là cái thể loại mà họ sử dụng - thể nhật ký.
Trong đời sống không thiếu gì những người khi bước vào đời háo hức định ghi nhật ký để rồi nửa đường đứt gánh bỏ dở. Khi bắt tay viết họ thường tự nhỉ mình sẽ thành thực với mình. Có biết đâu cái tôi của họ nghèo nàn nên đó là một sự thành thực vô nghĩa. Và họ không sao tìm đủ nghị lực duy trì nhật ký đến cùng.
Anne Frank thú nhận:
“Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những gì cảm nghĩ bằng không sẽ chết ngạt mất".
“Những người nào không viết không biết được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn vì không biết vẽ; nhưng bây giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra tôi đã có thể viết”.
Thuỳ Trâm không có những tuyên bố hùng hồn như vậy, nhưng quả thật với chị, nhật ký đã trở thành một phần cuộc đời. Trong nhật ký chị tìm ra một con người khác với một Thuỳ Trâm mọi người vẫn biết hằng ngày. Để chia sẻ. Để thú nhận. Để tìm thêm niềm tin. Và đôi khi như là để làm nũng với mình một chút, lối làm nũng chỉ chứng tỏ rằng vẫn có một thế giới riêng của mình mà không ai thông cảm hết.
Tất cả những yếu tố đó làm nên sức hấp dẫn của những trang nhật ký. Với chị, cái hấp dẫn ấy giúp chị có đủ hào hứng ghi chép một cách đều đặn. Với người đọc hôm nay, nó làm nên sức cuốn hút của những tâm sự, mặc dù trong hoàn cảnh đổi khác, mọi người đã nghĩ khác.
Do đặc điểm riêng của chiến tranh, ngay từ những ngày ấy, bao nhiêu công sức chúng ta để cả vào việc động viên nhau ra trận. Còn chính cuộc sống mỗi người trong lúc đó thì mới được ghi chép rất ít. Ba mươi năm sau, sự “tiêu hoá” vẫn dừng lại ở trình độ cũ. Mỗi khi nói về chiến thắng, ta vẫn chỉ biết nói với nhau những lời lẽ mọi người đã từng nghe mấy chục năm trước. Tại sao? Phần thì những sôi động để kiếm sống để tồn tại lúc nào cũng cuốn hút mọi người. Phần nữa cũng là bởi ta chưa có ý thức đầy đủ về lịch sử, về sự có mặt của quá khứ trong hiện tại. Công tác tổng kết về chiến tranh quá chậm, các bộ phận lịch sử chiến tranh không hoạt động như đáng lẽ phải hoạt động. Mỗi người bình thường chưa được gợi ý thu thập lại các tài liệu đã ghi hoặc tìm tòi lại lục khi lại trong ký ức những kỷ niệm xưa để viết ra thành những hồi ký có giá trị chân thực.
* * *
Ngay sau khi biết rằng đây là một cuốn nhật ký viết trong chiến tranh, có thể có bạn đọc - nhất là bạn đọc trẻ - sẽ hỏi: Lại cho chúng tôi một tấm gương để bảo chúng tôi học theo chứ gì?
Không đâu bạn ạ! Ở đây bạn sẽ không tìm thấy những lời khuyên nhủ mà chỉ bắt gặp một con người với một cuộc sống cụ thể của thời chiến. So với lớp thanh niên ngày nay, người thanh niên của gần bốn chục năm trước có một cách sống khác, một cách sống không lắm chiều cạnh phong phú, không tự do nhiều vẻ, nhưng lại trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Sự tận tụy làm người của Thùy Trâm là nhân tố khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lý tưởng cũng phải kính trọng. Còn với chúng ta, tin rằng nó cũng có những hiệu ứng tương tự.
Trong cuốn lịch sử văn học thế kỷ XX đang có trong tay, tôi bắt gặp một nhận xét của A. Malraux: "Điều huyền bí hơn cả không phải là chúng ta bị ném vào mớ hỗn độn vật chất cùng với hành tinh, mà là trong “lao tù” đó, chúng ta rút tỉa từ bản thân cá nhân mình những nhân tố con người - nó cần vừa đủ để cái hư không sẵn có trong chúng ta bị phủ nhận”
Câu nói mang trong mình nó nhiều triết lý, mà một trong những triết lý đó là: trong sự muôn mày muôn vẻ của thực tại, con người vẫn là mẫu số chung làm nên những giá trị vĩnh cửu.
Nhật ký Đặng Thùy Trâm có cái nhân tố nhân văn đầy bí mật đó. Nếu cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong quay trở tại tìm ra những thiết tha cao đẹp và cả những cay đắng bi thảm có thể có trong kiếp người của chính mình, tức là sự hy sinh của một con người ở 27 có thêm một ý nghĩa chân chính.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip