★ CHAPTER 6
Chướng ngại đầu tiên là cánh cửa.
Hắn chộp lấy tay nắm.
Tay hắn xuyên thẳng qua.
Hét lên một tiếng uất nghẹn, hắn bổ nhào lên cửa. Qua cửa. Hắn mở mắt và thầy mình đang ở ngoài hiên tiệm trà. Hắn nhìn xuống. Mọi bộ phận có vẻ như vẫn gắn liền trên người hắn, dù lưỡi câu và sợi cáp vẫn ở đó, sợi cáp chạy ngược vào trong quán trà. Có thứ gì đó nặng nề ầm ầm di chuyển về phía cửa, nên hắn nhảy khỏi hiên, đáp xuống lớp sỏi. Sao đêm hấp háy trên bầu trời trên cao, những bóng cây ma mị hơn khi nãy lúc hắn mới tới đây. Trông chúng như đang oằn mình và đong đưa, như thể đang vẫy gọi hắn. Hắn lảo đảo khi tưởng mình thấy có gì đó chuyển động trong rặng cây bên trái, một con thú vĩ đại đang theo dõi hắn, cặp sừng tua tủa trên đầu, nhưng đó hẳn là ảo giác do bóng đêm vì sau khi chớp mắt, tất cả những gì hắn thấy là cành cây.
Hắn vùng chạy theo đường đất, ngược về hướng hắn cùng Mei đi tới vừa nãy. Nếu hắn tới được làng, hắn có thể tìm ra ai đó giúp mình. Hắn sẽ kể với họ về đám người điên khùng trong tiệm trà giữa rừng.
Lưỡi câu trên ngực hắn giật mạnh, sợi cáp căng ra. Suýt nữa thì hắn ngã khuỵu. Hắn vẫn đứng vững được, dép xỏ ngón bật chan chát lên lòng bàn chân mình. Thế quái nào mà hắn lại nghĩ đi dép xỏ ngón là ý hay nhỉ?
Hắn ngoái lại nhìn tiệm trà, vừa kịp lúc để thấy Mei và Hugo xông ra ngoài hiên, hò hét gọi hắn. Mei nói, “Bao chuyện ngu ngốc không làm,” cùng lúc Hugo kêu lên, “Wallace, Wallace, anh không đi được đâu, anh không biết có gì ngoài đó” nhưng Wallace đã khom lưng, vùng chạy nhanh hết mức có thể.
Hắn chưa từng là một người hay chạy, chứ chưa nói đến một người chuyên chạy bộ theo bất kỳ kiểu nào. Hắn có máy chạy bộ trong văn phòng, và thường đi bộ đường dài trên đó trong khi tham dự cuộc họp trực tuyến. Hắn chẳng có thời gian làm gì khác, nhưng ít ra đi bộ cũng là có vận động rồi.
Khi ấy, hắn kinh ngạc khi nhận ra rằng hơi thở không hụt đi trong ngực hắn, mạn sườn hắn không hề xóc nảy. Ngay cả việc đi dép xỏ ngón có vẻ như cũng không khiến hắn chạy chậm lại bao nhiêu. Không khí ngưng trệ đến lạ, đặc quánh và đè nén, nhưng hắn đang chạy, chạy nhanh hơn bất kỳ lúc nào hắn từng chạy trong đời. Hắn sững sờ nhìn xuống chân mình. Chúng gần như hai vệt mơ hồ khi chân hắn chạm lên vỉa hè của con đường dẫn tới làng. Ngoài sức tưởng tượng của mình hắn bật cười, tiếng cười khùng khục điên rồ mà hắn chưa bao giờ nghe thấy từ miệng mình trước kia, vang lên như thể hắn đã loạn trí quá nửa.
Hắn ngoái đầu lại nhìn lần nữa.
Chẳng có gì đằng sau, chẳng có ai đuổi theo hắn, chẳng ai hò hét tên hắn, chỉ có con đường vắng lặng, tối om dẫn tới những đích đến xa lạ.
Cảnh ấy lẽ ra phải khiến hắn an tâm hơn.
Nhưng không.
Hắn chạy nhanh hết cỡ về trạm xăng trước mặt, những ngọn đèn hơi natri sáng rực như ánh hải đăng, xung quanh là những cánh bướm đêm dập dờn. Một chiếc xe thùng cũ kỹ đỗ cạnh một trong mấy cây xăng, và hắn thấy được bóng người di chuyển trong trạm. Hắn chạy về phía đó, chỉ khựng lại khi tới cửa tự động.
Chúng không mở ra.
Hắn nhảy lên nhảy xuống trước cửa, khua tay loạn xạ.
Chẳng có gì xảy ra.
Hắn hét lên, “Mở cửa!”
Người đàn ông ngồi sau quầy trông vẫn chán chường, bấm bấm điện thoại.
Một người phụ nữ đứng trước tủ lạnh trữ đồ uống ở phía cuối cửa hàng, vừa gãi cằm vừa ngáp.
Hắn khẽ gầm gừ rồi vươn tay ra cạy mở cửa. Tay hắn xuyên thẳng qua.
“À, phải rồi,” hắn nói. “Chết rồi mà. Chết tiệt.”
Hắn đi xuyên qua cửa.
Giây phút hắn bước vào, những bóng đèn tuýp trên đầu hắn trong cửa hàng bừng chói và kêu rè rè. Người ngồi sau quầy - một thằng bé với bộ lông mày khổng lồ và khuôn mặt lấm tấm chục đốm tàn nhang - cau mày ngẩng lên nhìn. Nó nhún vai rồi lại chơi điện thoại.
Wallace hất văng điện thoại khỏi tay thằng bé.
Chí ít là hắn đã cố làm như vậy.
Hắn không làm được.
Hắn cũng cố túm lấy mặt thằng bé và thất bại tương tự. Wallace rúm người lại khi ngón tay cái của hắn xuyên vào mắt nó. “Việc này thật ngớ ngẩn,” hắn lầm bầm. Hắn quay về phía người phụ nữ ở cuối cửa hàng, cô ta vẫn đang nhìn tủ lạnh. Hắn tới chỗ cô ta, lòng không mấy hy vọng. Cô ta không nghe thấy hắn. Cô ta không nhìn thấy hắn. Thay vào đó, cô ta lấy ra một chai Mountain Dew hai lít.
“Thế này thì thật kinh tởm,” hắn nói với người phụ nữ. “Cô nên thấy hổ thẹn đi. Cô có biết có gì trong chai đó không đấy?”
Nhưng cô ta chẳng để ý tới ý kiến của hắn.
Cửa tự động mở ra, và Wallace cúi thấp xuống khi người bán hàng nói, “Chào Hugo. Chú ra ngoài muộn thế.”
“Không ngủ được,” Hugo nói. “Tính mua vài thứ ấy mà.”
Wallace cố gắng áp người vào một kệ bày khoai tây chiên. Hắn chửi thề khi hắn ngã ngửa xuyện qua kệ, chớp mắt lia lịa như thể mình đang ở trong kệ. Hắn giật cả người về phía trước, sẵn sàng bỏ chạy thì cửa lại mở ra lần nữa. Hắn đông cứng lại khi thằng bé đứng quầy nói, “Chào Mei. Cũng không ngủ được à?”
“Cậu biết mà,” Mei nói. “Sếp còn thức, tức là tôi còn thức.”
Người nọ thấy được cô ta.
Nó thấy được cô ta.
Có nghĩa là—
Wallace không biết chuyện ấy có nghĩa là gì nữa.
Trước khi hắn có thể bắt đầu xử lý thông tin mới này, một điều kỳ lạ xảy ra: những mảnh bụi lơ lửng bay lên xung quanh hắn.
Hắn cau mày, nhìn chúng dâng lên trước mặt mình, bay lên trần nhà. Những hạt bụi mang màu sắc kỳ lạ, trông gần như màu da người. Hắn vươn tay ra chạm vào một mảnh khá to nhưng cánh tay cứng đờ khựng lại khi hắn thấy đám bụi bay ra từ đâu.
Từ hai tay của chính hắn.
Da hắn đang tróc ra, từng chút một, lớp biểu bì trên cùng bay lên, lên mãi.
Hắn vừa ré lên vừa điên cuồng phủi hai tay.
“Thấy anh rồi,” Mei nói, xuất hiện bên cạnh hắn. Và rồi, “Ôi chết rồi. Wallace, chúng tôi phải đưa anh—”
Hắn nhảy bổ về phía tủ lạnh.
Xuyên qua tủ lạnh.
Hắn la hét lộn xộn khi đi xuyên qua một hàng nước có ga, rồi qua một bức tường bê tông. Hắn lại ra ngoài, từ bên hông cửa hàng. Hắn lấy bàn tay vuốt lấy hai cánh tay trong khi da mình vẫn cứ tróc ra. Lưỡi câu trên ngực hắn giận dữ xoắn vặn, sợi cáp chạy ngược vào trong tường ở nơi hắn vừa mới lao qua. Hắn vòng ra đằng sau. Một mảng cỏ trống trơn trải dài sau lưng cửa hàng dưới trời đêm tưởng chừng như vô tận. Ở phía bên kia mảng cỏ là một khu dân cư khác, những ngôi nhà san sát nhau, vài nhà lên đèn, vài nhà tối om và u ám. Hắn vùng chạy về phía đó, trong khi vẫn điên cuồng cọ sát hai cánh tay.
Hắn băng qua thảm cỏ và chui vào giữa hai ngôi nhà. Nhạc ồn ào vọng ra từ ngôi nhà bên phải, còn ngôi nhà bên trái im lặng và tối đèn. Hắn xông qua tường nhà bên phải và vào thẳng phòng ngủ nơi có một người phụ nữ mặc bộ đồ liền thân bằng da đỏ đang vỗ vỗ roi da vào lòng bàn tay, nhìn một người đàn ông mặc bộ đồ ngủ áo liền quần tất trong khi gã nói, “Đêm nay sẽ tới bến cho xem.”
“Ôi trời ơi,” Wallace rên rỉ rồi chậm rãi lùi ra khỏi ngôi nhà. Hắn quay về phía con phố trước nhà.
Hắn dừng lại khi chân chạm lên vỉa hè. Hắn không chắc mình phải đi đâu, và giờ da trên hai chân hắn đang bong ra qua lớp quần tập và trên mu bàn chân. Tai hắn ong ong, và cảnh vật xung quanh đã phủ một tầng hào quang hư ảo, những mảng màu trộn lẫn vào nhau. Sợi cáp bừng sáng mãnh liệt, lưỡi câu rung bần bật.
Hắn hối hả đi dọc vỉa hè, thầm muốn rời xa hết mức có thể. Nhưng cứ như thể đế dép xỏ ngón của hắn đã chảy ra, dính lên lớp bê tông. Bước sau càng nặng nề hơn bước trước, như thể hắn đang đi trong nước. Hắn càu nhàu vì phải gắng sức. Tiếng ong ong trong tai hắn mỗi lúc một lớn hơn, và hắn không tập trung được. Hắn vừa nghiến răng vừa cố vượt qua cảm giác ấy. Móng tay trên ngón út bên phải của hắn rơi xuống và tan biến.
Hắn vừa siết tay lại thành nắm đấm vừa ngẩng mặt lên nhìn. Đằng kia, đứng giữa phố, là một người đàn ông.
Nhưng trông gã sai sai thế nào đó, có vấn đề theo nhiều kiểu khiến da Wallace lạnh toát. Gã đứng lom khom, đưa lưng về phía Wallace, vùng bụng để trần bọc trong lớp da xám xịt bệnh hoạn, xương sống gồ lên sắc lẻm. Vai gã run rẩy như đang thở hổn hển. Cạp quần trễ xuống dưới hông. Đôi giày te tua và bẩn thỉu. Hai tay buông thõng bên người.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Wallace ngay cả khi hắn bước tới một bước, từng tấc trong hắn gào thét đòi lùi lại, đòi bỏ chạy trước khi tên kia quay người. Hắn không muốn xem mặt gã trông như thế nào, vì tin chắc rằng khuôn mặt cũng khủng khiếp như toàn bộ con người gã. Mọi âm thanh như bị dìm xuống, như thể trong tai hắn nhét bông gòn. Khi hẳn mở miệng, giọng hắn khản đặc, âm thanh nghe như phát ra từ một người khác. “Xin chào? Anh là... anh có nghe thấy tôi nói không?”
Cái đầu người kia ngẩng phắt dậy trong khi hai tay khép lại bên người. Từ mỗi cổ tay, những vết lằn tấy đỏ leo dọc cẳng tay, tạo thành hình chữ T.
Gã chậm rãi xoay người.
Wallace Price là người chính xác tới mức gần như phi nhân loại. Công việc của hắn nằm ở chi tiết, ở những chuyện nhỏ nhặt mà người khác có thể đã bỏ qua, ở điều gì đó người ta thoáng nhắc tới trong một buổi khảo cung hoặc trong lần gặp mặt đầu tiên. Và chính phẩm chất này khiến hắn liệt kê từng li từng tí về người trước mặt hắn: mớ tóc chết, xơ xác, miệng há hốc cùng hàm răng xỉn đen, cái nhìn vô cảm, khủng khiếp trong mắt nó. Sinh vật này có hình dạng giống con người, nhưng trông nó hoang dại, nguy hiểm, và nếu Wallace có từng thấy sợ hãi trước đây, thì nỗi sợ ấy không là gì so với cảm giác đang gào thét khắp người hắn lúc này. Sai lầm. Hắn đã phạm sai lầm. Lẽ ra hắn không bao giờ nên cố giao tiếp với... với thứ này, dù nó là gì đi nữa. Ngay cả khi gai ốc tiếp tục nổi khắp người hắn, Wallace vẫn cố lùi về một bước.
Chân hắn không hoạt động.
Những ngôi sao bị xóa khỏi bầu trời tới khi tất cả những gì Wallace thấy được là màn đêm đen kịt, bóng tối lây lan quanh hắn, vươn tới, vươn tới.
Thứ kia di chuyển về phía hắn, nhưng cử động gượng gạo như thể khớp đầu gối của nó đã bị đông cứng. Người nó đong đưa qua lại theo từng bước chân. Nó giơ một tay lên, mọi ngón tay chĩa xuống mặt đất trừ một ngón đang chỉ vào Wallace. Nó lại mở miệng, hàm răng đen kịt lấp loáng ướt nhẹp trong ánh sao, nhưng chẳng nói lời nào, chỉ có tiếng gầm gừ trầm đục của thú vật. Đầu Wallace trống rỗng vì hoảng sợ, và hắn biết, hắn biết rằng khi thứ kia chạm vào mình, da nó sẽ mỏng như giấy, khô khốc đầy tai ương. Và dù người khác đã bảo hắn rằng Chúa không tồn tại, khi ấy Wallace vẫn cầu nguyện, lần đầu tiên sau nhiều năm, ý niệm hổn hển hấp hối bay vọt lên trong đầu hắn như sao băng: !!CỨU TÔI VỚI LÀM ƠN KHIẾN THỨ KIA DỪNG LẠI ĐI!!
Ngay lúc ấy, chuyển động đột ngột và chớp nhoáng bùng lên khi Hugo xuất hiện giữa hắn và thứ kia, quay lưng về phía Wallace. Cảm giác nhẹ nhõm hơn bất kỳ lúc nào Wallace từng trải qua trước kia lan tràn khắp người hắn, mạnh mẽ phá tan lồng ngực hắn mà ra. Sợi cáp đã thu lại còn vài mét, nối vòng qua người Wallace tới ngực Hugo.
Anh nói, “Cameron, không được. Cháu không được làm vậy. Anh ấy không phải của cháu.”
Theo sau là một âm thanh lách cách, trầm đục, và dù Wallace không thấy được sinh vật kia, hắn vẫn biết âm thanh đó phát ra từ hai hàm răng va đập vào nhau của nó.
“Chú biết rồi,” Hugo khẽ nói. “Nhưng anh ấy không dành cho ngươi. Chưa bao giờ là vậy.”
Wallace ngẩng phắt đầu dậy khi Mei xuất hiện sau lưng hắn. Cô vừa cau mày vừa kiễng chân lên, ngó qua vai Hugo. “Khỉ thật.” Cô thả chân xuống rồi giơ hai bàn tay lên sát ngực, lòng bàn tay trái hướng lên trời. Cô gõ vài ngón tay phải lên lòng bàn tay trái theo nhịp staccato[1]. Một quầng sáng nho nhỏ bùng lên từ bàn tay cô, và cô vươn tới, túm lấy cánh tay Wallace.
[1]Staccato: nhịp điệu nhanh và gấp gáp.
“Đưa anh ấy về nhà đi,” Hugo nói.
“Còn anh thì sao?” cô hỏi, trong khi đã lôi Wallace đi. Cô cau mày khi da trên cổ tay hắn lả tả bay ra từ kẽ ngón tay mình.
“Anh sẽ theo sau,” Hugo nói, nhìn thẳng vào sinh vật trước mặt anh. “Anh phải đảm bảo là Cameron ở yên vị trí này.”
Mei thở dài. “Đừng làm gì dại dột nhé. Chúng ta đã thấy đủ chuyện dại dột trong ngày hôm nay rồi.”
Ngay trước khi Mei kéo hắn vòng qua khúc quanh, Wallace ngoài đầu nhìn lại lần nữa. Cameron đã ngẩng mặt lên trời, miệng há hốc, lưỡi trắng ởn thè ra như thể nó đang cố hớp tuyết trời. Lát sau, Wallace mới nhận ra rằng những mảnh vụn rơi lên lưỡi Cameron không phải là băng tuyết.
✽
Cả quãng đường trở lại hắn không nói gì.
Mei thì có, lầm bầm càu nhàu rằng dĩ nhiên nhiệm vụ đầu tiên của cô sẽ là một ca khó đỡ như vậy rồi, cô đang bị thử thách, nhưng vì Chúa, cô sẽ hoàn thành công việc này cả khi đây là điều cuối cùng cô làm trên đời.
Đầu Wallace xoay mòng mòng. Hắn nhận ra, trong vô vàn choáng ngợp pha lẫn chút khiếp đảm, rằng họ càng về gần tiệm trà, da hắn càng bớt tan biến. Những mảnh da mỗi lúc một ít hơn tới khi ngừng hẳn, lúc họ bước xuống con đường đất dẫn tới Bến Đò Charon. Hắn nhìn xuống hai cánh tay và thấy rằng chúng trông vẫn như mọi khi, dù lông tơ trên đó đang dựng đứng lên. Lưỡi câu và sợi cáp vẫn gắn trên người hắn, dù bản thân sợi cáp giờ kéo về nơi họ vừa rời khỏi.
Mei kéo hắn lên bậc thềm và xô hắn quá cửa. “Ở yên đây,” cô nói rồi sập cửa lại trước mặt hắn. Hắn tới bên cửa sổ và nhìn ra ngoài. Cô đứng trên hiên, vừa xoắn xuýt hai bàn tay vừa trông ra màn đêm.
“Chuyện quái gì vậy?” Wallace thì thầm.
“Thấy một con rồi, phải không?”
Hắn quay phắt lại. Nelson, ngồi trên ghế trước lò sưởi. Lò sưởi giờ hầu như còn mỗi tro tàn, khúc gỗ cháy thành than còn lại đang tỏa ánh cam hồng. Apollo nằm ngửa ra trước ghế, hai chân quẫy quẫy trong không trung. Chú chó vừa khịt mũi vừa nằm nghiêng lại, ngoác miệng ngáp dài rồi nhắm mắt lại.
Wallace lắc đầu. “Tôi... không biết tôi vừa thấy thứ gì nữa.”
Nelson vừa càu nhàu vừa đứng dậy khỏi ghế, dùng cái gậy chống đỡ cả người. Wallace không biết tại sao trước đây hắn chưa từng để ý tới, nhưng đầu dép bông của Nelson là hai con thỏ len nho nhỏ, cặp tai cụp xuống và xơ xác. Hắn lại nhìn ra cửa sổ. Mei đi qua đi lại, con đường trước tiệm trà vẫn tối om và vắng vẻ.
Nelson vừa lệt xệt tới cạnh hắn vừa chép môi. Ông cụ nhìn Wallace từ đầu tới chân rồi ngó ra cửa sổ. “Vẫn còn nguyên vẹn, nhỉ. Cậu nên tạ ơn các cụ phù hộ đi.”
Wallace không rõ hắn còn nguyên vẹn tới mức nào. Cứ như thể tâm trí hắn đã cuốn theo chiều gió cùng những mảnh khác trên người hắn vậy. Hắn không tập trung được, và hắn thấy lạnh người. “Chuyện gì đã xảy ra với tôi? Cái... thứ kia. Cameron ấy.”
Nelson thở dài. “Đứa trẻ tội nghiệp. Ta đã đoán là cậu ta vẫn chui nhủi ngoài kia mà.”
“Chuyện gì đã xảy ra với cậu ta?”
“Cậu ta chết rồi,” Nelson nói. “Được một năm, hay khoảng đó. Thời gian... có hơi lộn xộn ở đây. Đôi khi nó lề mề khựng lại, và rồi nhảy cóc và bỏ qua giai đoạn. Đó là một phần của cuộc sống bên Người lái đò. Nghe này, cậu Price, cậu phải—”
“Wallace thôi ạ.”
Nelson tròn mắt chớp chớp. Rồi, “Wallace ạ, cậu phải tiếp tục tập trung nghĩ về bản thân mình. Cameron không phải việc của cậu. Cậu không làm được gì cho cậu ta đâu. Cậu đi được bao xa thì chuyện kia xảy ra với cậu?”
Wallace tính đến chuyện giả vờ rằng mình không hiểu cụ Nelson đang nói về chuyện gì. Thay vào đó, hắn nói, “Tới cây xăng ạ.”
Nelson khẽ huýt sáo. “Xa hơn ta tưởng đấy, phải công nhận với cậu là vậy.” Ông cụ ngập ngừng. “Thế giới ấy là dành cho người sống. Nó không còn thuộc về những người đã khuất như chúng ta nữa. Và những người cố đấm ăn xôi sẽ đánh mất bản thân. Nói là phát điên cũng được, mà nói là chết theo một kiểu khác cũng được. Dù sao đi nữa, ngay lúc cậu bước ra khỏi cánh cửa kia, nó bắt đầu tác động lên cậu. Và cậu càng ở lâu ngoài kia, thì nó càng trầm trọng hơn.”
Lòng đầy khiếp hãi, Wallace nói, “Tôi đã ở ngoài kia. Nhiều ngày rồi. Mãi tới đám tang của tôi thì Mei mới xuất hiện.”
“Quá trình ấy tăng tốc vào giây phút cậu bước chân vào Bến Đò Charon. Và nếu cậu cố rời đi, điều đã xảy ra với Cameron cũng sẽ xảy đến tương tự với cậu.”
Wallace lùi lại. “Tôi bị giam cầm ở đây rồi.”
Nelson thở dài. “Đó không phải—”
“Phải chứ. Cụ đang nói rằng tôi không thể đi. Mei đã bắt cóc và mang tôi tới đây, nên giờ tôi là một tên tù chết tiệt!”
“Vớ vẩn,” Nelson nói. “Sau nhà có một cái cầu thang. Nó sẽ đưa cậu lên tầng bốn. Trên tầng bốn có một cánh cửa. Cậu có thể đi qua cánh cửa đó, và toàn bộ chuyện này, mọi thứ đều sẽ bay biến. Cậu sẽ rời bỏ nơi này, và sẽ chỉ thấy thanh thản mà thôi.”
Khi ấy Wallace nhận ra một điều, một điều hắn chưa từng cân nhắc tới. Hắn không biết tại sao mình chưa từng nhìn ra trước đó. Điều ấy rõ như ban ngày kia mà. “Cụ vẫn ở đây thôi.”
Nelson cảnh giác nhìn hắn. “Đúng thế.”
“Và cụ chết rồi.”
“Không gì qua mắt được cậu, phải không nào?”
“Cụ chưa siêu thoát.” Giọng Wallace lớn dần. “Tức là mọi điều cụ nói đều là vớ vẩn.”
Nelson đặt tay lên cánh tay Wallace, siết chặt hơn Wallace tưởng. “Không đâu. Ta sẽ không nói dối cậu, về việc này thì không. Nếu cậu rời khỏi nơi này, cuối cùng cậu sẽ giống như Cameron.”
“Nhưng cụ thì không.”
“Không,” Nelson chậm rãi nói. “Vì ta chưa bao giờ đi.”
“Cụ đã—”
Nelson khịt mũi. “Hỏi về cái chết của người khác là thô lỗ lắm nhé.”
Wallace tái mặt, lúng túng theo cách không giống mình chút nào. “Tôi không có ý—”
Nelson bật cười. “Ta đang đùa cậu thôi, chàng trai ạ. Phải vui vẻ khi có thể chứ. Ta chết được vài năm rồi.”
Wallace lảo đảo. Vài năm rồi. “Nhưng cụ vẫn ở đây mà,” hắn yếu ớt nói.
“Đúng vậy. Và ta có lý do của ta, nhưng đừng bận tâm về những điều ấy. Ta ở lại vì ta chọn như vậy. Ta biết những nguy cơ kia. Ta biết như vậy có nghĩa là gì. Bọn họ đã cố khiến ta đi đầu thai, nhưng ta đã cho chúng một trận.” Ông lắc đầu. “Nhưng cậu không được để chuyện ấy ảnh hưởng tới những gì Hugo phải làm cho cậu. Cứ thong thả, Wallace ạ. Không vội gì cả, miễn là cậu nhận ra rằng đây là nơi cuối cùng cậu đặt chân tới trước khi siêu thoát, nếu cậu khôn ra. Nếu cậu chấp nhận được điều ấy, thì chúng ta sẽ ổn cả thôi. Nhìn kìa. Cháu tôi về rồi đây.”
Wallace lại quay ra cửa sổ. Hugo đang đi tới trên đường, tay đút trong túi tạp dề, đầu cúi thấp.
“Thật là một cậu bé ngoan,” Nelson trìu mến nói. “Thương người gần như quá mức, ngay từ hồi còn loắt choắt. Điều đó khiến nó phải gánh cả thế giới trên vai mình. Cậu nên nghe lời và học theo nó. Ta nghĩ không ai chăm sóc cậu tốt hơn nó được đâu. Hãy nhớ lấy điều ấy trước khi bắt đầu buông lời trách móc nó.”
Mei đứng trên hiên đợi Hugo. Hugo ngẩng lên nhìn cô, mỉm cười mệt mỏi. Khi họ trò chuyện, giọng họ thì thầm nhưng rõ mồn một. “Ồn cả rồi,” anh nói. “Cameron...chà. Thằng bé vẫn là Cameron. Wallace đâu?”
“Trong nhà,” Mei nói. Rồi, “Anh có nghĩ chuyện này sẽ gọi Quản Lý tới không?”
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Wallace.
Hugo lắc đầu. “Chắc là không đâu. Nhưng những việc kỳ quái hơn đã xảy ra. Nếu ông ta tới thì chúng ta sẽ giải thích.”
“Quản Lý ư?” Wallace thì thầm.
“Ôôh, cậu sẽ không muốn biết đâu,” Nelson lẩm bẩm, cầm gậy lên rồi lệt xệt trở về ghế ngồi. “Tin ta đi. Sếp của Mei và Hugo đấy. Một thằng cha xấu tính. Hãy cầu mong rằng cậu không bao giờ phải gặp gã. Nếu có, thì ta khuyên cậu hãy làm bất kỳ việc gì gã bảo.” Ông cụ vuốt tay dọc lưng Apollo khi chú chó đứng dậy. Apollo sung sướng sủa và rảo bước qua lại trước cửa. Nó lùi lại khi cửa mở ra, Mei chậm rì rì đi vào trong khi Hugo lê bước theo sau, cúi xuống để không va đầu vào khung cửa. Chú chó chạy vòng quanh hai người họ. Hugo đưa tay ra. Apollo ngửi ngón tay anh, và cố liếm chúng, nhưng lưỡi nó xuyên qua tay Hugo.
“Ổn chứ?” Hugo hỏi ngay cả khi Mei lườm Wallace.
Không, Wallace không ổn. Chẳng có điểm nào ổn trong chuyện này cả. “Tại sao anh không nói với tôi rằng tôi là tù nhân?”
Hugo thở dài. “Ông ơi.”
“Sao nào?” Nelson nói. “Phải dọa cho cậu ta ngay thẳng lại chứ:” Ông cụ ngừng lời, ngẫm nghĩ. “Mà chắc cháu không biết tí gì về việc ấy đâu, phải không? Vì cái sự cong từ đầu đến chân—”
“Ông ơi.”
“Ta già rồi. Ta được phép nói bất kỳ điều gì ta muốn. Cháu biết mà.”
“Thốn ghê,” Hugo lầm bầm, nhưng Wallace có thể thấy nụ cười lặng lẽ nở trên mặt anh. Lưỡi câu nhẹ nhàng giật tới trên ngực hắn. Nó không gây đau đớn như khi hắn chạy khỏi tiệm trà. Một lần nữa trên ngực hắn lại ấm áp và mềm mại. Nụ cười của Hugo phai nhạt khi anh nhìn Wallace. “Đi với tôi nào.”
“Tôi không muốn bước qua cánh cửa đó,” Wallace buột miệng, “Tôi chưa sẵn sàng.”
“Cánh cửa à,” Hugo lặp lại.
“Ở tầng trên cùng ấy.”
“Ông ơi.”
“Hở?” Nelson nói, khum tay quanh vành tai. “Chẳng nghe được cháu nói gì hết. Chắc điếc đến nơi rồi. Khổ cái thân ta. Cứ như thể đời ta chưa đủ nhọc ấy. Từ giờ tới sáng mai đừng ai nói chuyện với ta nữa để cho ta bình tĩnh lại.”
Hugo lắc đầu. “Rồi ông sẽ biết tay cháu, ông già ạ.”
Nelson cười khẩy. “Cháu thì biết cái gì.”
Hugo nhìn Wallace. “Tôi sẽ không đưa anh tới cửa đâu. Trước khi anh sẵn sàng thì không. Tôi hứa đấy?”
Wallace không biết tại sao, nhưng hắn tin anh. “Chúng ta sẽ đi đâu?”
“Tôi muốn cho anh thấy thứ này. Không lâu đâu.”
Mei đang lườm hắn. “Anh mà còn cố chạy nữa, tôi sẽ túm tóc anh lôi về.”
Wallace đã từng bị đe dọa trước đây - thật ra là rất nhiều lần; đời luật sư là thế đó nhưng đây là một trong những lần đâu tiên hắn thực sự tin vào lời đe dọa ấy. Tuy là một người nhỏ con, nhưng Mei rõ là đáng sợ.
Trước khi hắn kịp mở miệng, Hugo nói, “Mei, em hoàn thành công việc chuẩn bị cho ngày mai được không? Chắc không còn nhiều đâu. Anh đã làm gần hết trước khi em về rồi.”
Cô làu bàu thêm vài câu dọa nạt rồi huých Hugo sang một bên và đi về phía cửa đôi sau quầy. Khi hai cánh cửa đu đưa qua lại, Wallace thấy được nơi trông như một căn bếp lớn, với trang thiết bị bằng thép, và sàn lát gạch vuông.
Hugo gật đầu về phía hành lang ở cuối phòng. “Đi thôi. Anh sẽ thích thứ này cho xem, tôi nghĩ vậy.”
Wallace sâu sắc nghi ngờ điều ấy.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip