★ CHAPTER 9

Bến Đò Charon vẫn bận rộn kha khá như vậy suốt cả ngày. Có một khoảng lặng vào giữa chiều, rồi thêm nhiều khách bước vào tiệm khi bầu trời xanh thẳm bắt đầu chuyển thành màn đêm lan tràn. Wallace ở yên trong bếp, thấy mình như đang nhìn trộm khi quan sát khách khứa ra ra vào vào tiệm.

Hắn ngạc nhiên (Mei nói gì cũng kệ) khi thấy rằng không một ai thử khởi động máy tính hay dành thời gian dùng điện thoại. Cả những người tới đây một mình dường như cũng chỉ ngồi yên trên ghế, lắng nghe âm thanh rộn ràng trong tiệm trà, là đủ vui rồi. Hắn có chút thích thú (và thấy khiếp đảm không hề nhẹ) khi cố gắng nghĩ xem hôm nay là thứ mấy, chỉ để nhận ra rằng mình không biết. Hắn mất một lúc để lần lại ngày tháng. Hắn qua đời vào Chủ Nhật. Tang lễ của hắn vào thứ Tư.

Tức hôm nay là thứ Năm, dù hắn có cảm giác như đã qua nhiều tuần rồi. Nếu còn sống, hắn hẳn đang ở văn phòng, ngày làm việc còn lâu mới kết thúc. Hắn đã luôn giữ mình bận rộn tới mức kiệt quệ, kiệt quệ tới mức hắn thường bất tỉnh khi về đến nhà, ngã sấp xuống giường tới khi chuông báo thức reo lanh lảnh, rõ sớm vào sáng hôm sau để lặp lại toàn bộ những việc ấy.

Thật là mở mang tầm mắt.

Tất cả những công việc, tất cả những gì hắn đã làm, cuộc đời hắn đã tạo dựng. Có quan trọng không? Ý nghĩa của những việc ấy là gì kia chứ?

Hắn không biết. Nghĩ về vấn đề này khiến hắn đau đầu.

Cùng những suy tư rền vang trong đầu ấy, hắn vào vai kẻ nhìn trộm vì chẳng có gì khác để làm.

Mei đi ra đi vào căn bếp, tâm sự với Wallace rằng nếu có thể thì cô nàng thích ở yên sau nhà hơn. “Hugo mới là người giỏi giao tiếp,” cô kể với hắn. “Anh ấy thích nói chuyện với mọi người. Tôi thì không.”

“Nếu thật là thế thì cô đang làm sai nghề rồi.”

Cô nhún vai. “Tôi thích người chết hơn là người sống. Người chết thường không quan tâm tới mấy chuyện lông gà vỏ tỏi trong đời.”

Hắn chưa từng nghĩ theo cách ấy. Hắn sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để một lần nữa trải qua những chuyện lông gà vỏ tỏi kia. Sự hối hận muộn màng quả là một cảm giác khó chịu.

Hầu hết thời gian, Nelson đều ngồi trên ghế trước lò sưởi. Có đôi lúc ông cụ lang thang giữa các bàn, gật gù theo những cuộc trò chuyện mình không thể tham gia.

Apollo chạy ra chạy vào tiệm trà. Wallace nghe thấy tiếng chú chó dữ dằn sủa một con sóc, điên tiết vì con vật hoàn toàn ngó lơ nó.

Nhưng chính Hugo là người Wallace quan sát nhiều nhất.

Hugo, người dường như có quỹ thời gian vô tận cho bất kỳ ai đòi hỏi sự chú ý của mình. Một nhóm các bà già bước vào lúc chiều sớm, xun xoe và xuýt xoa, véo má anh và khúc khích cười khi anh đỏ mặt. Anh biết tên từng người một, và rõ ràng là họ yêu quý anh. Họ đều ra về cùng nụ cười trên mặt, và những cốc giấy đựng trà nghi ngút hơi trong tay.

Nhưng không chỉ có các bà già. Mà là tất cả mọi người. Lũ trẻ đòi anh bế chúng lên và anh chiều theo, nhưng không bế bằng tay. Chúng treo mình lên bắp tay anh khi anh nâng cánh tay, chân vung vẩy trong không trung, cười rõ tươi và to. Phụ nữ trẻ tuổi tán tỉnh, đá lông nheo với anh. Đàn ông sốt sắng bắt tay anh, vừa siết mạnh vừa lắc lấy lắc để. Họ gọi anh bằng tên cúng cơm. Dường như người nào cũng vui mừng khi được gặp anh.

Tới khi Hugo lật biển trên cửa sổ sang mặt ĐÓNG CỬA và khóa cửa lại, Wallace đã kiệt sức. Hắn không biết làm thế nào mà Hugo và Mei có thể làm việc ngày này qua ngày khác. Hắn tự hỏi liệu họ có bao giờ thấy việc ấy là quá sức chịu đựng, cái việc đối mặt với dấu hiệu rõ ràng của sự sống, trong khi biết rõ điều gì đang chờ đợi tất cả mọi người về sau.

Nhắc tới chuyện ấy.

“Tại sao không có ai khác ở đây?” Hắn hỏi khi Mei lôi một chậu giặt đầy đĩa bẩn vào bếp. Qua cửa bật, hắn có thể thấy Hugo đã cầm chổi lên và đang vừa quét sàn vừa úp ghế lên bàn.

Cô nàng vừa càu nhàu vừa đặt chậu lên mặt bếp, cạnh bồn rửa.

“Sao cơ?”

“Người khác ấy,” Wallace lặp lại. Rồi, “Ma khác. Hay cái gì cũng được.”

“Tại sao lại có ai khác chứ?” Mei hỏi, bắt đầu chất đĩa vào máy rửa bát lần thứ sáu trong ngày.

“Lúc nào mà chẳng có người chết.”

Mei thảng thốt. “Thật á? Ôi trời ơi, thế thì trời đất đảo điên cả rồi. Không thể tin được là tôi chưa bao giờ— ồ, mặt anh chắc chắn đang tỏ vẻ thái độ đây này?”

Wallace cau có. “Nếu có ai nói rằng cô có khiếu hài hước thì rõ ràng là họ đã nói dối và cô nên thấy buồn đi.”

“Không đâu,” Mei cam đoan với hắn. “Kiểu, không buồn chút nào đâu nhé.”

“À, thật luôn.”

“Nghe có vẻ như chúng ta đã nói chuyện với cùng một người đấy.”

“Này!”

“Không có con ma nào khác ở đây vì chúng tôi chưa nhận được nhiệm vụ mới. Có những ngày chúng tôi luôn tay luôn chân và việc cứ chồng chéo lên nhau. Và có những ngày khác thì chúng tôi chẳng tiếp ai hết.” Cô nàng liếc hắn rồi quay lại với máy rửa bát, “Chúng tôi không hay có khách trọ lâu dài. Và không, Nelso và Apollo thì không tính. Tôi nghĩ chúng tôi từng tiếp nhiều nhất là... ba người cùng lúc, không tính ông cụ và chú chó. Tiệm trà thành ra có chút chật chội.”

“Dĩ nhiên là không tính họ rồi,” Wallace lầm bầm. “Khoảng thời gian dài nhất mà người ta từng ở đây là bao lâu?”

“Sao thế? Định an cư lạc nghiệp à?”

Hắn khoanh tay vẻ đề phòng. “Không. Tôi chỉ đang hỏi vậy thôi.”

“À. Phải rồi. Chà, tôi biết Hugo từng tiếp một người ở lại suốt hai tuần. Đó là... một ca khó nhằn. Qua đời vì tự tử thường như vậy.”

Wallace nuốt khan. “Tôi không tưởng tượng nổi cảnh phải giải quyết người chết.”

“Tôi không giải quyết người ta,” Mei xẵng giọng. “Và Hugo cũng không. Chúng tôi làm công việc này vì muốn giúp người khác. Chúng tôi không ở đây vì phải ở đây. Chúng tôi ở đây là vì chúng tôi chọn như vậy. Nhớ lấy điểm khác biệt này, nhé?”

“Được rồi, được rồi. Nói vậy chứ tôi không có ý gì đâu.” Hắn đã chạm trúng vấn đề nhạy cảm mà hắn còn chẳng hề biết đường chạm tới. Hắn tự hỏi trên bãi mìn này còn những kíp nổ nào khác.

Cô dịu xuống. “Tôi sẽ không vờ vịt nói rằng tôi hiểu anh đang trải qua điều gì. Làm sao tôi hiểu được? Và kể cả nếu tôi nghĩ mình biết nó ra sao, có lẽ tôi vẫn sẽ hiểu sai. Mỗi người mỗi khác, anh bạn a. Những gì người đi trước và người sẽ tới sau anh trải qua, sẽ không bao giờ trùng lặp. Nhưng như vậy không có nghĩa là tôi không biết mình đang làm gì.”

“Cô là lính mới mà,” Wallace nhắc nhở cô nàng.

“Đúng vậy. Tôi được huấn luyện có hai năm trước khi được giao cho trường hợp của anh. Như vậy là nhanh hơn bất kỳ Thần Chết nào trong lịch sử.”

Thông tin này chắc chắn không khiến hắn cảm thấy an tâm hơn chút nào. Hắn thay đổi chiến thuật, dùng chút mánh lới cũ rích hắn từng học để thử khiến người ta sơ sảy buột miệng. Đây chủ yếu là do thói quen vì hắn hoàn toàn không biết mình đang tìm kiếm điều gì. “Ở cửa hàng tiện lợi ấy.”

“Cửa hàng tiện lợi làm sao?” Cô đóng máy rồi tựa lên nó, đợi hắn nói tiếp.

“Nhân viên thu ngân,” Wallace nói. “Cậu ta thấy được cô. Và những người ở đây cũng vậy.”

“Đúng thế,” cô chậm rãi nói.

“Nhưng những người ở đám tang của tôi thì không.”

“Anh đang đặt câu hỏi đấy à?”

Hắn cau mày nhìn cô. “Cô lúc nào cũng chọc tức người ta như vậy hả?”

Cô nàng nhún vai. “Tùy xem anh nói tới người nào thôi.”

“Cô là... con người à?” Hắn biết câu hỏi này nghe ngớ ngẩn ra sao, nhưng rồi hắn nhớ ra rằng hắn là một con ma đang nói chuyện với một cô gái có thể búng tay và kéo hắn đi hàng trăm dặm trong nháy mắt.

“Kiểu kiểu vậy,” Mei trả lời. Cô nàng kiễng chân ngồi lên mặt bếp, đung đưa chân trước một dãy tủ gỗ. “Hoặc, đúng hơn là, tôi đã từng là người. Tôi vẫn có đủ những bộ phận của con người, nếu ý anh muốn hỏi vậy.”

“Tôi nghĩ mình hoàn toàn không có ý đấy. Tôi không hề nghĩ về bộ phận trên người cô đâu nhé.”

Cô nàng cười khẩy. “Tôi biết rồi. Tôi chỉ đang đùa anh thôi, anh bạn ạ. Vui lên tí nào. Anh đâu còn nhiều chuyện để lo nghĩ nữa đâu.”

Lời ấy châm chích hơn mức hắn muốn thừa nhận. “Không phải đâu,” hắn cứng nhắc nói.

Cô nàng sực tỉnh. “Này, không không. Ý tôi không phải kiểu— anh được phép đặt câu hỏi mà, Wallace. Thật ra, nếu anh không hỏi, tôi sẽ lo lắng đấy. Như vậy là bình thường mà. Đây là việc anh chưa bao giờ trải nghiệm trước đây. Dĩ nhiên anh sẽ muốn cố gắng tìm hiểu mọi thứ ngay lập tức. Không có được lời giải đáp mà mình quen được nghe có lẽ chẳng dễ dàng gì. Ước gì tôi có thể cho anh mọi câu trả lời, nhưng tôi cũng không biết hết được. Tôi nghĩ chẳng ai biết đâu, không thật sự tường tận được.” Cô nheo mắt nhìn hắn. “Nghe vậy có giúp anh khuây khỏa không?”

“Tôi không biết phải trả lời cô thế nào nữa.”

“Tốt rồi,” cô nói.

Hắn chớp mắt, hoang mang. “Thật à?”

Cô gật đầu. “Có lẽ chỉ mình tôi thấy vậy, nhưng tôi nghĩ mình sẽ thấy nhẹ nhõm khi biết được rằng có nhiều việc mà bản thân không biết. Nếu không thì không sống vui khỏe có ích được đâu, biết không?”

“Là rõ,” hắn yếu ớt nói. “Tôi chết rồi đấy thôi.”

Cô bật cười và trông như sửng sốt trước lời hắn nói. “Là rõ. Đừng cố ép uổng mình, Wallace ạ. Chuyện gì đến thì sẽ đến thôi. Tôi từng chứng kiến rồi. Đến lúc ấy rồi anh sẽ biết.”

Hắn nghĩ cô nàng đang nói về nhiều vấn đề hơn là nội dung của cuộc trò chuyện giữa họ, và tâm trí hắn lạc trôi tới cánh cửa trên tầng. Hắn chưa có đủ dũng khí để đi tìm nó, càng chưa đủ để tìm hiểu nhiều hơn về nó.

“Thời gian ở đây trôi qua theo cách hơi khác,” cô nói. “Tôi không biết anh có để ý không, nhưng có—”

“Cái đồng hồ.”

Cô nhướn mày. “Cái đồng hồ?”

“Tối qua, khi chúng ta tới đây. Kim phút đang vấp. Nó nhích lên nhích xuống hoặc thi thoảng đứng yên luôn.”

Trông cô có vẻ ấn tượng. “Đã nhìn ra rồi hở?”

“Khó mà không thấy được. Có phải lúc nào nó cũng như vậy không?”

Cô lắc đầu. “Chỉ khi chúng tôi có khách giống anh, và chỉ vào ngày đầu tiên thôi. Như vậy là để cho anh thời gian thích nghi. Để anh nắm bắt được tình thế hiện tại của mình. Thường thì như vậy có nghĩa là ngồi kia, đợi người như anh mở miệng.”

“Thay vào đó tôi bỏ chạy,” Wallace nói.

“Đúng vậy. Và đồng hồ bắt đầu chạy như bình thường ngay giây phút anh chạy đi. Chuyện này xảy ra ở mọi nơi giống nơi đây.”

“Nelson gọi căn nhà này là trạm trung chuyển.”

“Đó là một cách gọi hay ho,” Mei nhận xét. “Dẫu vậy, tôi nghĩ về nơi này như một trạm chờ hơn.”

“Thế tôi đang chờ đợi điều gì?” Wallace hỏi, biết rõ rằng câu hỏi này có cảm giác to tát đến thế nào.

“Đó là do anh quyết định, Wallace ạ. Anh không thể cưỡng ép chuyện này, và không ai ở đây sẽ đẩy anh vào tình huống mà anh chưa sẵn sàng để đón nhận. Hãy mong chờ những gì tốt đẹp nhất, anh hiểu chứ?”

“Nghe không an tâm cho lắm nhỉ.”

“Cho tới nay những lời ấy vẫn có tác dụng mà. Thường là vậy.”

Cameron. Đó không phải là một chủ đề hắn sẵn sàng để thảo luận. Hắn vẫn còn nghe thấy thứ âm thanh không lời mà thứ kia phát ra khi thấy hắn. Nếu còn nằm mơ được, hắn nghĩ mình sẽ gặp ác mộng vì nó mất thôi. “Tại sao cô lại làm công việc này?”

“Câu hỏi này hơi riêng tư đấy.”

Hắn chớp mắt. “Ồ. Tôi... cũng nghĩ vậy. Nếu không muốn thì cô không cần phải nói gì đâu.”

“Tại sao anh lại muốn biết?” Giọng cô không để lộ chút cảm xúc nào.

Wallace chật vật tìm lời để nói. Cuối cùng hắn chọn, “Tôi đang cố đây.”

Cô nàng không tha cho hắn. Hắn có hơi sợ cô gái này. “Cố làm gì, hả Wallace?”

Hắn nhìn xuống tay mình. “Cố... để tốt đẹp hơn. Không phải đó là việc cô phải giúp tôi làm à?”

Gót giày cô nàng nện lên tủ, khiến cánh tủ rung lạch xạch. “Tôi không nghĩ việc của chúng tôi là biến anh thành người tốt đẹp hơn đâu. Việc của chúng tôi là đưa anh qua cánh cửa kia. Chúng tôi cho anh thời gian để chấp nhận việc ấy, nhưng bất kỳ việc gì ngoài việc đó ra là tùy vào anh thôi.”

“Được thôi,” hắn yếu ớt nói. “Tôi... tôi sẽ nhớ kỹ điều đó.”

Cô nàng nhìn hắn chằm chằm hồi lâu. Rồi, “Trước khi tới đây, tôi không biết nướng bánh đâu.”

Hắn cau mày. Chuyện ấy thì có liên quan gì ở đây?

“Tôi đã phải học,” cô tiếp tục. “Hồi tôi còn nhỏ, nhà tôi không nướng bánh. Nhà tôi không dùng lò nướng. Chúng tôi có máy rửa bát, nhưng không bao giờ dùng tới vì bát đĩa phải được rửa bằng tay, rồi xếp vào máy để dùng cái máy như giá phơi bát.” Cô nhăn mặt. “Anh đã bao giờ thử đánh trứng chưa? Trời ơi, cái việc quỷ quái đó khó lắm. Và rồi có lần tôi khiến máy rửa bát trào bọt tới khi nó làm ngập cả bếp. Tôi đã từng thấy hơi tội lỗi về vụ ấy.”

“Tôi không hiểu,” Wallace thừa nhận.

“Ừ,” Mei lầm bầm, đưa tay xoa mặt. “Do văn hóa ấy mà. Bố mẹ tôi di cư tới đất nước này khi tôi năm tuổi. Mẹ tôi, bà... chà. Bà mê mệt việc làm người Mỹ. Không phải người Trung Quốc. Không phải Hoa kiều Mỹ. Mà là người Mỹ. Bà không thích câu chuyện đời mình. Trung Quốc vào thế kỷ 20 ngập tràn chiến loạn và đói kém, đàn áp và bạo lực. Vào thời Cải cách Văn hóa, tôn giáo bị coi là phạm pháp, và bất kỳ ai chống đối sẽ bị đánh đập, giết hại hay đơn giản là... tan biến vào hư không.”

“Tôi không tưởng tượng nổi khoảng thời gian ấy như thế nào,” Wallace thú thật.

“Phải, anh không tưởng tượng nổi đâu,” cô thẳng thừng nói. “Mẹ tôi muốn thoát khỏi tình cảnh ấy. Bà muốn có pháo hoa vào Ngày Quốc khánh và hàng rào sơn trắng, muốn trở thành một người khác. Bà mong muốn những điều tương tự cho tôi. Nhưng cả khi đã đến đây, có một số điều nhất định bà vẫn tin tưởng. Không được để đầu ướt đi ngủ vì sẽ bị lạnh đầu. Đừng viết tên bằng mực đỏ, vì đó là điều cấm kỵ.” Cô ngoảnh mặt đi. “Khi tôi bắt đầu... có năng lực, tôi tưởng mình có vấn đề gì đó, rằng mình bị ốm - khi nhìn thấy những thứ không có thật. Bà ấy không công nhận việc ấy.” Cô bật cười trống rỗng. “Tôi biết có lẽ anh không hiểu đâu, nhưng trong gia đình chúng tôi không thảo luận những việc như chúng ta vừa nói. Quan niệm ấy là... thâm căn cố đế rồi. Mẹ tôi không cho tôi chữa trị, không cho đi bác sĩ vì dù bà muốn làm người Mỹ đến thế nào, vẫn có những điều bà thật sự không chấp nhận được.” Giọng cô hạ xuống một tông trầm hơn, mang theo khẩu âm. Mất một lát Wallace mới nhận ra cô đang nhại giọng mẹ mình. “Hàng xóm sẽ nghĩ gì kia chứ?”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Wallace hỏi, không chắc là mình có quyền hỏi hay không.

“Bà cố giấu tôi đi,” Mei nói. “Giữ tôi ở nhả, nói với tôi rằng tôi đang giả vờ, rằng chẳng có vấn đề gì với tôi hết. Tại sao tôi lại làm vậy với bà sau tất cả những gì bà đã làm để cho tôi một cuộc sống tốt đẹp?” Cô yếu ớt mỉm cười. “Khi làm vậy cũng không có tác dụng, bà cho tôi chọn. Hoặc sống theo cách của bà hoặc ra khỏi nhà. Mẹ tôi nói đúng những lời ấy, và bà vô cùng tự hào, vì đó quả là một câu nói đậm chất Mỹ.”

“Trời ơi,” Wallace thều thào. “Khi ấy cô bao nhiêu tuổi?”

“Mười bảy. Gần mười năm trước.” Cô bám chặt mép quầy hai bên chân. “Tôi một mình ra ngoài lăn lộn. Đưa ra những lựa chọn sáng suốt. Đôi khi cả những lựa chọn không sáng suốt lắm, nhưng tôi đã học được bài học từ đó. Và mẹ tôi... chà. Bà không đỡ hơn hồi xưa, không hẳn vậy, nhưng tôi nghĩ bà có cố gắng. Cần thời gian để gây dựng lại những điều giữa chúng tôi ngày xưa, nhưng chúng tôi gọi điện cho nhau một tháng mấy lần. Thật ra, bà là người liên lạc trước. Tôi đã bàn với Hugo, và anh ấy nghĩ đây có thể là cành ô liu của bà, nhưng sau cùng, quyết định thế nào là ở tôi.” Cô nhún vai. “Tôi nhớ mẹ. Ngay cả sau những chuyện đã xảy ra. Tôi thấy... vui, khi được nghe giọng bà. Khoảng gần cuối năm ngoái, bà còn đề nghị tôi quay lại thăm bà. Tôi bảo bà tôi chưa sẵn sàng làm vậy, ít nhất là chưa phải lúc này. Tôi chưa quên những gì mẹ nói với tôi ngày xưa. Bà thất vọng, nhưng nói rằng bà hiểu và không nói gì thêm. Như thế vẫn không thay đổi những thứ tôi thấy được.”

“Là những thứ gì?”

“Người như anh. Hồn ma. Những linh hồn lang thang chưa tìm được đường đi.” Cô thở dài. “Anh biết đèn bắt côn trùng không? Những cái đèn điện ánh sáng xanh người ta treo ngoài hiên và giật cháy những con côn trùng bay vào trong đó ấy?”

Hắn gật đầu.

“Tôi na ná như thứ ấy,” cô nói. “Nhưng là đối với ma, không phải với côn trùng, và tôi không nướng người ta khi họ lại gần. Họ bị thứ gì đó trong tôi hấp dẫn, và tôi không biết làm thế nào để chấm dứt việc ấy. Mãi cho tới khi...”

“Tới khi?”

Ánh mắt cô dần mơ hồ khi cô nhìn vào khoảng không. “Tới khi có người tới tìm tôi và cho tôi một công việc. Ông ta giải thích với tôi rằng tôi là ai— là thứ gì. Và những gì tôi có thể làm được, khi được huấn luyện tử tế. Ông ấy dẫn tôi tới Hugo ở đây, để xem xem liệu chúng tôi có hợp nhau không.”

“Gã Quản Lý à?” Wallace hỏi.

“Ừ. Nhưng đừng lo lắng về người đó. Không có gì ở ông ta mà chúng ta không đối phó được.”

“Vậy thì tại sao hai người có vẻ sợ ông ta đến vậy?”

Cô nàng giật mình. “Tôi có sợ cái gì đâu.”

Hắn không nghĩ lời ấy là đúng. Nếu cô đang nói thật và là con người, cô sẽ luôn phải e sợ điều gì đó. Đó là cách nhân loại vận hành. Bản năng sinh tồn hoạt động dựa trên nỗi sợ ở mức độ vừa phải.

“Tôi kiêng dè ông ta,” cô nói. “Ông ta... gắt gỏng lắm. Và nói vậy còn là giảm tránh. Tôi biết ơn ông ta vì đã đưa tôi tới đây, và dạy tôi những gì ông ta biết, nhưng mọi chuyện yên ổn hơn khi Quản Lý vắng mặt.”

Từ mọi điều hắn đã nghe kể về Quản Lý, Wallace hy vọng rằng ông ta hãy cứ tiếp tục vắng mặt. “Và ông ta... sao nhỉ. Biến cô thành thế này ư?”

Cô lắc đầu. “Ông ấy chỉ tinh chỉnh những gì sẵn có thôi. Tôi là một dạng bà đồng, và phải, tôi biết nói vậy nghe như thế nào, nên anh ngậm miệng lại được rồi đấy.”

Hắn nín khe.

“Tôi có...” Cô ngừng lời. Rồi, “Giống như khi anh đứng ở ngưỡng cửa vậy. Một chân anh đã qua cửa, còn chân kia ở lại. Anh đồng thời tồn tại ở hai nơi. Đấy chính là tôi. Ông ta chỉ dạy tôi cách nghiêng về một bên cửa, và cách để kéo mình lại thôi.”

“Làm sao cô có thể làm vậy?” Wallace hỏi, đột nhiên cảm thấy vô cùng nhỏ bé. “Sao cô có thể bị người chết vây quanh cả ngày và không để việc ấy ảnh hưởng tới mình?”

“Ước gì tôi có thể nói với anh đó là vì tôi luôn luôn muốn giúp đỡ người khác,” Mei nói. “Nhưng đó là nói dối. Tôi từng... từng không biết sống thế nào. Tôi đã phải quên đi rất nhiều điều ngày xưa được dạy. Quỷ ạ, lần đầu tiên Hugo ôm tôi, tôi không ôm lại vì đó không phải là điều tôi từng thực sự làm trước kia. Tiếp xúc gần, chứ chưa nói đến đụng chạm thân mật, không phải là việc tôi quen thuộc. Phải mất một thời gian tôi mới thấy quý trọng những việc ấy.” Cô cười toe toét với hắn. “Giờ thì, tôi gần như là người giỏi ôm nhất đấy.”

Wallace còn nhớ cảm giác tay cô nàng nắm lấy tay hắn lần đầu tiên, và sự nhẹ nhõm lan tràn trong người hắn lúc ấy. Hắn không tưởng tượng nổi việc sống cả một đời mà không biết đến một xúc cảm như vậy.

“Cũng giống anh thôi, theo một cách nào đó,” cô nói. “Anh cần phải quên hết tất cả những gì mình biết. Ước gì tôi có thể đơn giản là gạt công tắc cho anh, nhưng việc này không làm thế được. Đây là một quá trình, Wallace ạ, và nó cần thời gian. Đối với tôi, quá trình ấy bắt đầu khi Quản Lý cho tôi biết sự thực. Việc ấy thay đổi tôi, dù chắc chắn là không phải ngay lập tức.” Cô nhảy xuống khỏi mặt quầy, dù vẫn giữ khoảng cách với hắn. “Tôi làm việc đang làm vì tôi biết trong đời anh chưa từng có lúc nào hoang mang hay yếu đuối hơn. Và nếu tôi có thể làm gì đó để ít ra là xoa dịu đôi chút, vậy thì cứ làm thôi. Cái chết không phải là dấu chấm hết cuối cùng, Wallace ạ. Đó là một dấu chấm, đúng vậy, nhưng chỉ để chuẩn bị cho anh bước sang một khởi đầu mới mà thôi.”

Hắn choáng váng khi cảm thấy có giọt nước mắt lăn xuống má mình. Hắn quệt nó đi, trong lúc đó không thể nhìn vào Mei. “Cô kỳ quặc thật đấy.”

Hắn nghe thấy nụ cười trong giọng cô. “Cảm ơn nhé. Đó có lẽ là lời tốt đẹp nhất anh từng nói với tôi. Anh cũng kỳ quặc lắm đấy, Wallace Price ạ.”

Khi Wallace ra khỏi bếp, Hugo đang ở bên lò sưởi, thêm củi vào dưới sự giám sát trực tiếp của Nelson. Apollo ngồi thẳng dậy, nhìn qua nhìn lại giữa hai người họ, lưỡi thè ra khỏi miệng trong khi thở hềnh hệch. “Cao hơn nữa,” Nelson nói. “Chồng một đống to vào. Ta đang thấy buốt xương. Đêm nay sẽ lạnh lắm đây. Mùa xuân hay đem nắng vàng cỏ xanh đi lừa người mà.”

“Dĩ nhiên rồi,” Hugo nói. “Ai lại muốn ông bị lạnh kia chứ.”

“Rõ ràng,” Nelson tán thành. “Ta có thể ốm chết, và rồi cháu sẽ bơ vơ ở đâu chứ?”

Hugo lắc đầu. “Cháu còn không muốn tưởng tượng ra cảnh đó.”

“Cháu ngoan. À, lên rồi đây.” Ngọn lửa bùng lên, ánh lửa rực sáng. “Ta vẫn hay nói rằng lửa ấm và bạn hiền là tất cả những gì người ta cần mà.”

“Lạ thật đấy,” Hugo nói. “Cháu nghĩ cháu chưa từng nghe ông nói câu đó trước đây.”

Nelson khịt mũi. “Thế thì cháu không để ý rồi. Lúc nào ta chẳng nói vậy. Ta là người lớn trong nhà, Hugo ạ, tức là cháu nên chăm chú lắng nghe và tin vào mọi điều ta nói.”

“Có mà,” Hugo vừa trấn an ông cụ vừa đứng dậy. “Cố lắm cháu cũng không lờ ông đi được ấy.”

“Quá chuẩn,” Nelson nói. Ông gõ cây gậy lên sàn, và một lần nữa khoác lên bộ áo ngủ, dép bông thỏ và vân vân. “Tốt hơn rồi đấy. Wallace, đừng đứng đực mặt ra đó nữa. Trông chẳng đẹp đẽ gì đâu. Lết cái thân lại đây để ta nhìn cậu xem nào.”

Wallace đi tới.

“Ổn chứ?” Hugo hỏi khi Wallace ngượng nghịu đứng lại cạnh ghế của Nelson.

“Tôi không biết nữa,” Wallace nói.

Hugo cười tươi rói với hắn như thể Wallace vừa nói điều gì đó sâu sắc lắm. “Tuyệt quá rồi.”

Wallace chớp mắt. “Thế à?”

“Rất tuyệt luôn. Không biết gì còn tốt hơn là giả vờ đã biết.”

“Anh là bánh quy tiên tri đấy à,” Wallace lầm bầm.

Hugo toe toét. “Và tôi sẽ không xấu hổ về điều đó đâu. Ở đây với ông hộ tôi nhé, được không? Chút nữa tôi quay lại liền.”

Anh đi về phía nhà bếp trước khi Wallace kịp hỏi anh định đi đâu.

Nelson rướn cổ qua ghế, đợi cửa bếp bật đóng lại rồi mới nhìn Wallace. “Chúng nó sắp ăn đấy,” ông cụ thì thầm như thể tiết lộ một bí mật động trời.

Wallace cúi đầu nhìn ông cụ. “Sao cơ?” Nhưng giờ khi Nelson nhắc tới chuyện ấy, hắn có thể ngửi ra, mùi thức ăn ngập tràn mũi hắn. Bánh thịt à? Đúng rồi, là bánh thịt. Ăn kèm rau cải, tưới sốt cay lên trên.

“Bữa tối đấy,” Nelson nói. “Họ không ăn trước mặt chúng ta. Thật thô lỗ.”

“Thế ạ?” Hắn nhăn nhó. “Họ vừa nhai vừa nói chuyện à?”

Nelson đảo mắt. “Họ không ăn trước mặt chúng ta vì chúng ta không ăn được. Hugo nghĩ làm vậy giống như lúc lắc cục xương ra trước mặt con chó nhưng rồi lại cất đi vậy.”

Tai Apollo vểnh lên khi nghe thấy từ xương. Chú chó đứng dậy và bắt đầu cọ mũi lên đầu gối Nelson như thể nó nghĩ ông cụ có đồ ăn cho mình. Thay vào đó Nelson gãi gãi đầu nó.

“Chúng ta... không thể ăn sao?” Wallace nói.

Nelson liếc hắn. “Cậu có đói không?”

Không, hắn không đói. Hắn còn chưa nghĩ đến việc ăn uống, ngay cả vào lúc mớ bánh scone được lấy ra khỏi lò sáng hôm ấy. Chúng tỏa hương ngon tuyệt, và hắn biết bánh hẳn là xốp và mềm lắm, tan chảy trên đầu lưỡi, nhưng suy nghĩ đó gần như là mãi sau hắn mới có. “Chúng ta không ăn được ư,” hắn nói.

“Không.”

“Không ngủ được.”

“Không.”

Wallace rên rỉ. “Vậy thì chúng ta làm được cái quái gì kia chứ?”

“Diện một bộ bikini, ta nghĩ vậy. Cậu quá thuộc việc ấy còn gì.”

“Cụ sẽ không bao giờ để tôi quên vụ ấy đi, phải không?”

“Không bao giờ,” Nelson nói. “Thật là mở mang tầm mắt khi thấy rằng cậu là người theo chủ nghĩa triệt lông toàn thân khi còn sống. Ta không muốn nghĩ tới cảnh cậu lơ là chuyện lông lá để rồi trải qua thời gian ở dây với cả một khu vườn tạo hình trong quần mình đâu.”

Wallace há hốc miệng nhìn ông cụ.

Nelson gõ gậy lên sàn. “Ngồi xuống đi. Ta không thích người khác cứ lởn vởn xung quanh đâu.”

“Tôi không ngồi đất đâu.”

“Được thôi,” Nelson nói. “Thế thì kéo ghế lại đây.”

Wallace quay đi để làm đúng việc ấy, và khựng lại giữa đường đi tới cái bàn gần nhất khi nhận ra rằng mình không làm được. Hắn cau mày quay lại nhìn Nelson. “Đùa không vui đâu nhé.”

Nelson nheo mắt nhìn hắn. “Vốn không nên vui. Ta có nói đùa đâu. Cậu muốn ta nói đùa không?”

Không, hắn thật sự không muốn. “Được rồi, cụ không cần phải—”

“Loại quả nào mà hồn ma thích nhất?”

Nơi đây chắc chắn là Địa Ngục. Hắn không quan tâm Mei hay Hugo nói gì. “Tôi thật sự không—”

“Ma việt quất.”

Wallace thấy mắt mình giật giật. “Thôi tôi ngồi đất cũng được.”

“Hồn ma hay sống ở phố nào?”

“Tôi thật sự không quan tâm đâu.”

“Phố Hàng Hòm.”

Im lặng như tờ.

“Hờ,” Nelson nói. “Không phản ứng gì? Thật đấy à? Đó là một trong những câu đùa vui nhất của ta đó.” Ông cụ cau mày. “Ta nghĩ là mình cũng có thể lôi những câu đỉnh cao hơn ra, nếu cậu nghĩ làm vậy sẽ có tác dụng. Hồn ma làm gì để giữ an toàn khi đi ô tô? Nó thắt dây an toàn.”

Wallace ngồi thụp xuống sàn. Apollo thấy vậy thì mừng rỡ, nằm xuống cạnh Wallace và lăn ngửa ra, nhìn Wallace đầy ẩn ý. “Thôi thôi. Làm ơn đấy. Cụ bảo tôi làm gì cũng được.” Hắn lơ đễnh đưa tay sang gãi bụng Apollo.

“Gì cũng được à?” Nelson nói, giọng nghe khá hoan hỉ. “Ta phải nhớ kỹ lời này mới được.”

“Đó không phải là lời đề nghị đâu.”

“Nghe giống mà. Đừng tuyên bố những việc mình không làm được là câu cửa miệng của ta đấy.”

Wallace không nghĩ vậy. Hắn nhìn ngọn lửa. Hắn cảm nhận được hơi nóng từ đó, dù hắn không hiểu tại sao việc này lại khả thi. “Làm sao mà cụ chịu được?”

“Gì cơ?” Nelson hỏi, lại yên vị trên ghế.

“Ở đây ấy.”

“Chỗ này không tồi đâu,” Giọng Nelson sắc lẻm. “Rất được đấy, nếu cậu muốn biết. Ta có thể ở những nơi tệ hơn nhiều.”

“Không, tôi— ý tôi không phải vậy.”

“Vậy ý cậu như thế nào thì nói thế ấy. Có vẻ dễ thực hiện mà, phải không?”

“Và còn một việc khác nữa,” Wallace không nghĩ ngợi gì mà nói, “Cụ thay được quần áo.”

“Không khó đến vậy đâu. Cậu chỉ phải tập trung vào thôi.”

Wallace lắc đầu. “Tại sao cụ lại thế này nhỉ?”

“Kiểu... về ngoại hình? Hay về bản thể triết học? Nếu là cái sau, ta hy vọng rằng cậu đã sẵn sàng để nghe một câu chuyện dài. Tất cả bắt đầu khi ta—”

“Về ngoại hình,” Wallace nói. “Tại sao cụ vẫn già nhỉ?”

Nelson nghiêng đầu. “Vì ta già thật. Chính xác là tám mươi bảy cái xuân xanh. Hoặc, đúng hơn là khi chầu trời ta đã từng ấy tuổi.”

“Tại sao cụ không làm bản thân trông trẻ hơn?” Wallace hỏi. “Hay cụ—” hay chúng ta, dù phần đó là ngầm hiểu— “bị kẹt trong hình dáng này mãi mãi?”

Hắn giật mình khi Nelson phá lên cười. Hắn ngẩng lên đúng lúc để thấy Nelson lau mắt. “Ôi, cậu quả là khiến người ta vui sướng. Đi thẳng tới trung tâm vấn đề. Ta tưởng cậu sẽ mất ít nhất một hai tuần nữa để hỏi câu đó. Có khi là bảy.”

“Tôi mừng là mình có thể vượt ngoài mong đợi của cụ,” Wallace lầm bầm.

“Đơn giản thôi, thật đấy,” Nelson nói, và Wallace cố che giấu việc hắn sốt sắng muốn nghe câu trả lời đến thế nào. “Ta thích mình già.”

Đó... không phải là câu trả lời hắn mong mỏi. “Thật ư? Tại sao chứ?”

“Ăn nói đúng kiểu người trẻ.”

“Tôi không trẻ đến vậy đâu.”

“Ta có thể thấy điều ấy,” Nelson nói. “Nếp nhăn quanh mắt, nhưng không có quanh miệng. Không cười nhiều lắm, phải không.”

Đó không phải là một câu hỏi. Và kể cả là phải đi nữa, Wallace cũng không biết trả lời thế nào để nghe không có vẻ đề phòng. Thay vào đó, hắn đưa tay lên mặt, chạm vào vùng da quanh mắt. Hắn chưa bao giờ là kiểu người lo lắng về những việc này. Hắn có quần áo đắt tiền, và kiểu đầu trị giá số tiền đủ nuôi ăn một gia đình bốn người trong một tuần. Nhưng ngay cả khi hắn khoác lên mình một vỏ bọc đường bệ, hắn chưa bao giờ nghĩ nhiều tới con người phía dưới những thứ kia. Hắn quá bận rộn để quan tâm tới những thứ ấy. Nếu có lúc nào bắt gặp hình ảnh phản chiêu của mình trong gương phòng ngủ, hắn cũng chỉ thoáng nghĩ về ngoại hình của mình mà thôi. Hắn mỗi lúc một già đi. Có lẽ nếu để tâm hơn, hắn đã không ngồi ở đây. Mạch suy nghĩ này mang theo cảm giác đầy nguy hiểm, nên hắn gạt nó đi.

“Ta thay đổi được vẻ bề ngoài đấy,” Nelson nói. “Ta nghĩ vậy. Ta chưa bao giờ thử, nên không biết liệu có thành công hay không. Nhưng ta không nghĩ là chúng ta phải ở nguyên trong hình dạng khi chết nếu không muốn vậy?”

Wallace cảnh giác nhìn xuống sàn. Hiện tại hắn không chìm xuống, nên có lẽ hắn đã bước đầu thành công.

“Kể với ta một điều mà không ai khác biết đi.”

“Tại sao?”

“Vì ta muốn cậu kể. Cậu không phải kể nếu không muốn, nhưng ta thấy một số việc kể ra thì tốt hơn là cứ kìm nén trong lòng. Mau lên. Đừng nghĩ gì cả. Ngay suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu cậu.”

Và Wallace nói, “Tôi nghĩ tôi cô đơn lắm,” và khiến cả chính mình kinh ngạc. Hắn cau mày, lắc đầu. “Đó... không phải là điều tôi định nói. Tôi không biết tại sao mình lại nói ra điều ấy nữa. Bỏ qua đi.”

“Chúng ta có thể bỏ qua nếu cậu muốn,” Nelson ân cần nói.

Ông cụ không giục hắn. Wallace cảm thấy trong lòng trào dâng niềm kính mến kỳ quái, lạ lùng và ấm áp với ông. Thật... kỳ quặc, cái cảm giác này. Hắn không nhớ nổi lần cuối cùng mình quan tâm tới ai khác ngoài bản thân là bao giờ. Hắn không biết việc này nói lên điều gì về hắn nữa. “Tôi không có... những điều này.”

“Những điều nào?”

Wallace khoát tay. “Không có nơi này. Không quen những người này, như cụ.”

“À,” Nelson cảm thán, như thể lời hắn nói vô cùng dễ hiểu.

Hắn tự hỏi làm sao ông cụ này có thể nói được nhiều điều đến vậy chỉ qua vài lời cỏn con. Tuy rằng ngôn ngữ vẫn luôn là chuyện nhỏ với Wallace, chính khả năng quan sát mới là thứ khiến hắn nổi trội hơn đồng nghiệp. Nhìn ra những manh mối nho nhỏ người ta biểu lộ khi họ buồn hay vui hay lo lắng. Khi họ nói dối, mắt cụp xuống, ngồi không yên, miệng mấp máy, những biểu hiện mà Wallace lấy làm hãnh diện khi mình biết hết. Bởi vậy, thật kỳ lạ khi hắn không dùng được khả năng ấy với chính mình. Là do tự dối lòng chăng? Nghĩ vậy chẳng khiến hắn thấy khá hơn chút nào. Tự vấn lương tâm không hẳn là thế mạnh của hắn, nhưng làm sao hắn lại chưa từng nhìn ra những việc này trước kia?

Nelson dường như chẳng gặp phải vấn đề đó, điều ấy khiến Wallace kính nể ông cụ hơn hắn tưởng. “Hồi xưa tôi đã không nhìn ra,” hắn thú nhận. Hắn đưa tay xoa mặt. “Tôi có điều kiện. Tôi đã sống một cuộc đời không có gì ngoài điều kiện. Tôi đã có mọi thứ tôi tưởng mình muốn và giờ...” hắn không biết phải nói tiếp thế nào.

“Và giờ cậu đã bị tước bỏ toàn bộ những thứ ấy, chỉ còn lại chính mình.” Nelson khẽ nói. “Nỗi hối hận muộn màng là một cảm xúc đầy quyền năng, Wallace ạ. Không phải lúc nào chúng ta cũng thấy được những gì ở ngay trước mắt mình, chứ chưa nói tới trân trọng chúng. Chỉ tới khi nhìn lại ta mới nhận ra điều lẽ ra mình phải biết ngay từ đầu. Ta sẽ không lừa cậu rằng ta là một con người hoàn hảo. Như vậy là dối trá. Nhưng ta đã học được rằng có lẽ ta là một người tốt hơn mình tưởng. Ta nghĩ con người ai cũng chỉ mong có vậy.” Rồi, “Cậu có ai bên mình để giúp xua tan nỗi cô đơn không?”

Hắn không có. Hắn cố nhớ lại đời hắn đã từng thế nào trước khi mọi chuyện tan vỡ, Naomi đã nhìn hắn với đôi mắt sáng ngời, khóe miệng khẽ câu lên thế nào. Không phải lúc nào cô cũng ghét hắn. Có thời giữa họ đã từng có tình yêu. Hắn đã coi đó là điều đương nhiên, tưởng rằng cô sẽ luôn ở bên hắn. Không phải đó là một đoạn trong lời thề hôn nhân của họ ư? Cho tới khi cái chết chia lìa đôi ta ấy. Nhưng họ đã tan đàn xẻ nghé rất lâu trước khi cái chết tìm đến Wallace, và theo sự ra đi của cô, là sự đổ vỡ của cuộc sống họ đã cùng nhau vun đắp. Cô bỏ đi và Wallace đắm mình vào công việc, nhưng có khác gì so với khi cô ở bên hắn đâu? Hắn nhớ lại một trong những ngày cuối cùng của cuộc hôn nhân, khi cô đứng trước hắn, ánh mắt lạnh lẽo, nói với hắn rằng hắn phải lựa chọn, rằng cô muốn nhiều hơn những gì hắn đang cho cô.

Hắn đã không hé răng một lời.

Chẳng quan trọng gì. Cô đã nghe ra tất cả những điều hắn không nói. Không phải là lỗi của cô. Cô chẳng có lỗi gì hết, dù hắn có cố lừa mình thế nào đi nữa. Đó là lý do tại sao hắn không tranh giành tài sản khi ly hôn, và cho cô mọi thứ cô đòi. Hắn tưởng mình làm vậy là để xong chuyện cho lành. Giờ hắn đã thấy được đó là vì tội lỗi đã gặm nhấm hắn, dù vào lúc ấy hắn không chỉ mặt đặt tên cảm giác ấy. Hắn quá kiêu hãnh để làm vậy.

Hay ít ra là đã từng.

“Không,” Wallace thì thầm. “Tôi nghĩ là không.”

Nelson gật đầu như thể đó là câu trả lời ông cụ mong đợi. “Ta hiểu rồi.”

Wallace không muốn nghĩ đến việc đó nữa. “Cụ kể cho tôi một điều không ai biết đi.”

Nelson cười toe toét. “Cũng phải.” Cụ xoa cằm nghĩ ngợi. “Cậu không được nói với ai đâu đấy nhé.”

Wallace vươn lại gần, ngạc nhiên trước nỗi háo hức của chính mình. “Sẽ không đâu.”

Nelson liếc nhìn bếp rồi cúi xuống nhìn Wallace. “Có một thanh tra an toàn vệ sinh hay đến đây. Một tên đáng ghét. Lúc nào cũng hậm hực như có thù với ai. Nghĩ mình có quyền lấy những thứ không được lấy. Ta thường ám gã khi gã tới đây.”

“Cụ làm cái gì cơ?”

“Những việc lặt vặt thôi. Ta đánh văng bút ra khỏi tay hắn hay kéo ghế ra khi hắn đang ngồi xuống.”

“Cụ làm được những việc ấy ư?”

“Ta làm được nhiều việc lắm,” Nelson nói. “Thằng cha đó cứ nhắm vào cháu ngoan Hugo của ta. Nên ta đảm bảo là gã được đáp trả tương đương.”

Trước khi Wallace kịp hỏi thêm điều gì, Apollo đã lật người lại, ngẩng đầu về phía bếp. Một lát sau, Hugo ra khỏi cửa, Mei nối gót theo sau.

Anh hỏi, “Hai người đang bàn chuyện gì vậy, và cháu có phải lo lắng không?”

“Nhiều khả năng là có,” Nelson nói, nháy mắt với Wallace. “Chúng ta chắc chắn là đang âm mưu vài chuyện đấy.”

Hugo mỉm cười. “Wallace, anh đi với tôi được chứ? Tôi muốn chỉ cho anh thứ này.”

Wallace nhìn sang Nelson, ông cụ gật đầu. “Đi đi. Ta có Mei và Apollo bầu bạn rồi.”

Wallace thở dài rồi đứng dậy. “Lại một buổi trị liệu nữa à?”

Hugo nhún vai. “Được thôi, nếu anh muốn nghĩ như vậy. Hoặc có thể chỉ là hai người làm quen tìm hiểu nhau. Thậm chí như hai người bạn vậy.”

Wallace vừa khẽ làu bàu vừa theo Hugo xuống hành lang.

Họ lại bước ra ngoài, ra thềm sau nhìn xuống vườn trà. Hugo bật dây đèn quấn quanh lan can lên, nó sáng trắng và nhấp nháy.

Trước khi Hugo đóng cửa vào nhà sau lưng họ, anh vươn tay vào tắt đèn ngoài thềm. Trong bóng đêm cây cối đu đưa.

“Nói chuyện với ông tôi vui chứ?” anh hỏi, tới đứng cạnh Wallace gần bậc thang.

“Cũng được.”

“Ông cụ có thể hơi... hách dịch,” Hugo nói. “Anh đừng thấy mình phải làm bất cứ việc gì ông tôi bảo nhé.” Anh cau mày. “Đặc biệt là khi việc ấy nghe có vẻ phạm pháp.”

“Bây giờ phạm pháp hay không cũng đâu còn quan trọng nữa, không phải ư?”

“Phải,” Hugo nói. “Tôi nghĩ là không còn quan trọng nữa. Nhưng thôi, chiều tôi chút đi. Cho tôi được thanh thản đầu óc.” Anh đưa tay vuốt phẳng chiếc khăn đội đầu màu hồng của mình.“Ngày đầu tiên anh trải qua trọn vẹn ở đây. Hôm nay thế nào?”

“Tôi ở trong bếp từ đầu đến cuối.”

“Tôi có thấy rồi.” Anh tựa lên lan can. “Anh không phải làm vậy đâu.”

“Anh nói vậy là để an ủi tôi đấy à?”

“Tôi không biết nữa. Anh có thấy an ủi phần nào không?”

“Anh biết không, tuy luôn miệng nói rằng mình không có năng lực làm bác sĩ tâm lý, nhưng anh thật sự biết hành xử thế nào cho giống họ đấy.”

Hugo khúc khích. “Tôi làm việc này cũng được một thời gian rồi.”

“Một phần của công việc à,” Wallace nói.

Hugo có vẻ hài lòng khi hắn nhớ lời anh nói. Wallace không biết tại sao việc ấy lại có cảm giác quan trọng với hắn như vậy. Hắn gãi gãi ngực, lưỡi câu giật nhẹ trên đó. “Chính xác.”

“Anh muốn chỉ cho tôi cái gì?”

“Ngẩng đầu lên đi.”

Wallace làm theo.

“Anh thấy gì?”

“Bầu trời.”

“Còn gì nữa không?”

Trời vẫn như tối hôm qua, khi hắn đi trên đường đất cùng một cô gái lạ mặt bên cạnh. Ánh sao ngời sáng. Có lần, khi còn bé, hắn đã thầm quyết tâm rằng mình phải đếm hết sao trời. Hằng đêm, hắn sẽ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng ngủ, đếm từng ngôi sao một. Hắn chưa đếm được bao nhiêu thì đã thiếp đi, rồi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và càng quyết tâm thử lại.

“Sao trời,” Wallace thì thầm, cả khi hắn chật vật nhớ lại lần cuối cùng mình nhìn lên trời trước khi tới tiệm trà này. “Cả đống sao trời.” Trong thành phố không giống nơi đây. Ô nhiễm ánh sáng kiểu gì cũng ảnh hưởng, chỉ để lọt những vệt lờ mờ của những thứ treo cao trên trời về đêm. “Ở đây nhiều sao quá.” Hắn cảm thấy bé nhỏ vô cùng.

“Ở đây là vậy đó,” Hugo nói. “Tách biệt với mọi thứ khác. Tôi không tưởng tượng được ở chỗ anh khung cảnh như thế nào. Ngoài nơi này ra tôi không biết nhiều địa điểm cho lắm.”

Wallace nhìn anh. “Tại sao? Anh chưa bao giờ đi khỏi đây ư?”

“Không đi được,” Hugo nói. “Chẳng biết khi nào thì người như anh sẽ tới đây. Tôi phải luôn luôn sẵn sàng.”

“Anh bị giam cầm ở đây ư?” Wallace hỏi, giọng kinh hãi. “Thế quái nào mà anh lại đồng ý với việc đó kia chứ?”

“Không phải giam cầm,” Hugo nói. “Nói vậy là có ý ám chỉ tôi không— hoặc đã không— có lựa chọn nào khác. Tôi có chứ. Tôi có bị ép làm Người lái đò đâu. Tôi chọn công việc này. Và không phải là tôi không thể đi. Tôi vào thị trấn suốt mà. Tôi có cái xe máy kia, và đôi khi, tôi lái xe đi vòng vòng cho nhẹ đầu và để hít thở.”

“Xe đó là của anh à?” Wallace sửng sốt. “Làm sao mà anh ngồi được lên nó kia chứ?” Mặt hắn gần như lập tức tái mét. “Ý tôi là, không phải—”

“Phải cẩn thận vô cùng,” Hugo nói, giọng khoái chí. “Người ta có bảo rằng trông tôi đồ sộ lắm rồi. Nhưng tôi thích to cao vậy đấy.”

Wallace thật sự không tưởng tượng ra nổi cảnh đó. Hắn nghĩ nếu Hugo cố ngồi lên chiếc xe kia thì nó sẽ bị đè bẹp mất thôi. “Nơi đây vẫn là một nhà tù.”

“Thật ư? Sao lại thế nhỉ? Tôi không có nhu cầu gì nhiều, Wallace ạ. Chưa bao giờ có. Tôi đã có mọi thứ mình muốn ở ngay đây rồi.”

“Nhưng... như vậy.” Wallace không biết như vậy thì thế nào nữa. Kỳ quặc, chắc chắn rồi. Hắn chưa từng gặp ai thoải mái với chính mình như vậy, và anh khiến hắn lo ngại. “Việc này không ảnh hưởng tới anh à? Nào chết nào chóc, mọi lúc mọi nơi ấy.”

Hugo lắc đầu. “Tôi không nghĩ theo cách đó, dù tôi hiểu anh đang muốn nói gì. Tôi nghĩ...” Anh ngừng lại như để cẩn thận lựa lời. “Cái chết không phải lúc nào cũng là điều đáng sợ. Đó không phải tất cả.”

“Một kết thúc,” Wallace lầm bầm, nhớ lại lời Nelson từng nói với mình. “Dẫn tới một khởi đầu mới.”

“Đúng rồi,” Hugo nói. “Anh học giỏi đấy. Cái chết có thể đẹp đẽ, nếu anh để nó đẹp, dù tôi thấy được tại sao anh không nghĩ vậy.” Anh ngẩng đầu ngắm sao. “Cảm giác nhẹ nhõm gần như ai cũng cảm thấy khi họ sẵn sàng đi qua cánh cửa kia là cách tốt nhất để khắc họa cái chết. Họ có thể mất một lúc mới tới được bước ấy, nhưng kết cục luôn luôn như vậy.” Anh lưỡng lự. “Tôi có thể kể cho anh biết những gì tôi đã thấy, thời khắc ấy như thế nào. Vẻ mặt họ vào giây phút cửa mở ra, giây phút họ nghe thấy âm thanh từ bên kia vọng sang. Nhưng tôi không biết liệu mình có mô tả chính xác được không, vì dù tôi có nói gì, những điều ấy cũng mới chỉ chạm tới vỏ ngoài thôi. Cảnh tượng ấy thay đổi anh, Wallace ạ, thay đổi anh theo những cách mà anh không ngờ tới. Ít ra thì nó đã thay đổi tôi. Anh có thể gọi nó là đức tin, là bằng chứng, là gì tùy ý. Nhưng tôi biết rằng tôi đang làm điều đúng đắn vì tôi đã thấy biểu cảm trên mặt họ, tràn ngập kính sợ và ngỡ ngàng. Tôi có thể không nghe được điều họ nghe thấy, nhưng tôi chọn tin tưởng rằng đó là tất cả những gì họ có thể khát cầu.”

“Anh không thấy khó chịu vì mình không nghe thấy gì ư?”

Hugo lắc đầu, “Một ngày nào đó tôi sẽ biết được thôi. Và cho tới lúc đó, tôi sẽ làm việc mình sống trên đời để làm, là chuẩn bị tinh thần cho anh để anh tự mình khám phá ra.”

Wallace ước gì mình có thể tin anh. Nhưng nội việc nghĩ đến cánh cửa mình chưa một lần nhìn qua đã khiến hắn khiếp đảm. Nó khiến hắn nổi gai ốc, và hắn đổi hướng suy nghĩ theo cách duy nhất mình biết. “Anh trở thành Người lái đò như thế nào?”

“Úi chà,” Hugo xuýt xoa, dù Wallace nghĩ hắn không lừa được anh. “Cứ hỏi thẳng vậy, hả?”

“Có mất gì đâu.”

“Có mất gì đâu,” Hugo lặp lại. “Là do tai nạn thôi, nếu anh tin được.”

Hắn không tin được. Hoàn toàn không. “Do tai nạn mà anh trở thành người giúp các hồn ma siêu thoát đi... cái chỗ nào đấy ấy hả.”

“Chà, khi anh nói theo cách đó, tôi thấy được việc ấy nghe có thể ngớ ngẩn đến mức nào rồi.”

“Đó là cách anh nói mà!”

Hugo nhìn hắn. Wallace ép mình không được quay đi. Việc ấy dễ làm hơn hắn tưởng. “Cha mẹ tôi đã mất.”

“Tôi xin lỗi,” Wallace nói, nhận ra giờ việc nói lời xin lỗi dường như đã dễ dàng hơn với mình.

Hugo xua tay với hắn. “Cảm ơn, nhưng anh không cần phải xin lỗi đâu.”

“Đó là điều ta nên nói mà.”

“Đúng vậy, phải không? Tôi tự hỏi tại sao lại thế nhỉ. Anh có thật lòng thấy vậy không?”

“Tôi... nghĩ là có?”

Hugo gật đầu. “Vậy là tốt rồi. Khi ấy tôi còn ở cùng họ. Tôi lớn lên ở cách đây vài dặm. Có khi anh đã đi qua căn nhà đó trong chuyến phiêu lưu nho nhỏ tối qua.”

Hắn không biết liệu mình có nên xin lỗi tiếp không, nên hắn giữ im lặng.

“Chuyện ấy xảy ra chóng vánh,” Hugo nói, nhìn xa xăm vào bóng đêm. Anh để hai bàn tay buông rũ ngoài rìa lan can. “Đường hôm đó trơn. Trời đã đổ tuyết và mưa buốt giá cả ngày, và bố mẹ ra ngoài đi chơi. Họ đã định ở nhà, nhưng tôi bảo họ cứ đi đi, miễn là họ đi đứng cẩn thận. Họ đã làm việc vất và, và tôi nghĩ họ xứng đáng được ra ngoài một tối, anh biết đấy? Nên tôi đã thúc giục họ. Bảo họ đi chơi đi.” Anh lắc đầu “Tôi không... thật quái la. Tôi đã không biết đó là lần cuối cùng tôi thấy họ trong hình dáng khi xưa. Bố siết vai tôi, và mẹ hôn lên má tôi. Tôi đã càu nhàu và bảo họ rằng tôi không còn bé nữa. Họ cười tôi và bảo rằng tôi sẽ luôn là cậu con trai bé bỏng của họ, ngay cả khi từ lâu rồi tôi đã không nhỏ nhắn gì. Rồi họ mất. Xe chạy vào một mảng băng và trượt khỏi đường. Nó lật úp. Người ta bảo tôi vụ tai nạn đã kết thúc trong nháy mắt. Nhưng nó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, vì với tôi tất cả đã kết thúc trong nháy mắt, nhưng rồi, đôi khi, lại có cảm giác như vẫn đang diễn ra.”

“Khốn thật,” Wallace thì thào.

“Tôi đã ngủ quên trên sô pha. Tôi tỉnh dậy vì có ai đó đang đứng bên mình. Tôi mở mắt ra, và... họ ở đó. Cứ đứng đó, cúi nhìn tôi, mặc quần áo đẹp. Bố ghét cà vạt, ông nói rằng mình có cảm giác như bị siết cổ vậy, nhưng mẹ vẫn bắt ông thắt nó vào, nói rằng trông ông thật bảnh bao. Tôi hỏi họ mấy giờ rồi. Anh biết họ nói gì không?”

Wallace lắc đầu.

Hugo cười khùng khục. “Không gì cả. Họ chẳng nói gì. Họ thoắt ẩn thoắt hiện, và tôi tưởng mình đang nằm mơ. Và rồi một Thần Chết xuất hiện.”

“Uầy.”

“Ừ,” Hugo nói. “Đó... là một trải nghiệm khác hẳn. Ông ta nắm lấy tay bố mẹ tôi, và tôi yêu cầu được biết ông ta là ai và đang làm cái quái gì trong nhà chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được vẻ sững sờ trên mặt ông ta. Tôi lẽ ra không thể thấy ông ấy mới phải.”

“Sao mà anh thấy được?”

“Tôi không biết,” Hugo thú thực. “Tôi không như Mei. Trước đó tôi chưa từng thấy ma quỷ hay thứ gì giống vậy. Tôi chưa từng chạm trán hay nhìn thấy hay vân vân theo bất kỳ kiểu gì đặc trưng ở những người như Mei. Tôi chỉ... là tôi mà thôi. Nhưng tôi đã đứng đó, cố níu lấy bố mẹ mình, để kéo họ ra xa khỏi người lạ kia, nhưng tay tôi cứ xuyên thẳng qua người họ. Tôi vươn tay túm lấy người lạ, và trong khoảnh khắc, tôi đã làm được. Tôi đã cảm nhận được ông ta. Lúc ấy như có pháo hoa bắn lên trong đầu tôi, rực rỡ nổ tung. Đau lắm. Tới khi tôi hết hoa mắt, họ đã biến mất rồi. Tôi cố tự nhủ rằng mình đã tưởng tượng ra toàn bộ chuyện ấy, nhưng rồi mười phút sau có người gõ cửa, và tôi biết chuyện kia không chỉ xảy ra trong đầu mình vì cảnh sát đã đến, nói những điều tôi không muốn nghe. Tôi bảo họ rằng họ lầm rồi, họ hẳn phải lầm rồi. Tôi gào thét bảo họ cút ra xa. Chẳng bao lâu sau thì ông tôi tới nơi, và tôi cầu xin ông nói cho tôi biết sự thực. Ông đã kể cho tôi nghe.”

“Khi đó anh bao nhiêu tuổi?”

“Hai mươi lăm,” Hugo nói.

“Trời ạ.”

“Ừa. Chuyện ấy thật nặng nề. Và rồi Quản Lý tới gặp tôi.” Giọng anh hơi đanh lại. “Ba ngày sau đám tang của họ. Giây trước, tôi đang soạn ra những đồ ở nhà mà tôi nghĩ có thể quyên góp cho hội Từ Thiện, và giây sau, ông ta đã đứng trước mặt tôi. Ông ta... nói cho tôi biết nhiều điều. Về sự sống và cái chết. Rằng đó là một vòng lặp không hồi kết và sẽ mãi mãi không chấm dứt. Ông ta nói đau buồn là một chất xúc tác. Là sự biến đổi. Rồi ông ta cho tôi một công việc.”

“Và anh nhận làm ư? Anh tin ông ta à?”

Hugo gật đầu. “Người Quản Lý làm rất nhiều việc, phần lớn trong số đó tôi còn không miêu tả được. Nhưng ông ta không nói dối. Ông ta chỉ nói sự thật, cả khi chúng ta không muốn nghe những gì ông ta nói. Tôi không tin ngay đâu. Ngay cả bây giờ tôi cũng không nghĩ là mình đã tin. Nhưng ông ta cho tôi thấy nhiều điều, những điều lẽ ra là bất khả thi. Cái chết có nét đẹp của nó. Chúng ta không thấy được vì không muốn thấy. Và như vậy cũng dễ hiểu thôi. Tại sao ta lại muốn tập trung nghĩ tới điều mang mình rời xa khỏi thế giới mình biết kia chứ? Làm sao chúng ta hiểu được rằng những gì ta thấy không phải là tất cả?”

“Tôi không biết câu trả lời cho câu hỏi đó đâu,” Wallace thú nhận. “Hay cho bất kỳ câu hỏi nào của anh.” Việc này khiến hắn lo lắng, vì hắn cảm thấy như lẽ ra mình phải biết, rằng câu trả lời đang chực chờ ngay chót lưỡi hắn.

“Là đức tin,” Hugo nói, và Wallace rên rỉ. “Ôi, thôi đi nào. Tôi không nói về tôn giáo hay Chúa Trời hay bất kỳ điều gì anh đang nghĩ tới đâu. Đức tin không phải lúc nào cũng... không phải chỉ là tin vào những việc kia. Đó không phải là điều tôi có thể ép uổng anh, cả khi anh cho rằng tôi đang làm vậy.”

“Không phải à?” Wallace hỏi, cố giữ cho giọng mình thản nhiên. “Anh đang cố khiến tôi tin vào thứ tôi không muốn tin đấy thôi.”

“Và anh nghĩ tại sao mình lại không tin?”

Wallace không biết.

Hugo dường như đã bỏ qua chủ đề này. “Người Quản Lý nói rằng tôi có lòng vị tha, vì vậy nên người ta mới cân nhắc tôi. Ông ta thấy được đức tính đó ở tôi. Tôi cười vào mặt ông ta. Làm sao tôi có thể vị tha khi tôi sẽ đánh đổi bất cứ điều gì để mang bố mẹ trở lại? Tôi bảo rằng nếu ông ta dẫn bố mẹ cùng một người nào đó đến trước mặt tôi và nói tôi phải chọn ai sống ai chết, tôi sẽ chọn bố mẹ tôi mà không do dự gì. Đó không phải là cách hành xử của một người đầy vị tha.”

“Tại sao lại không?”

Hugo trông thật kinh ngạc. “Vì tôi sẽ chọn điều khiến mình hạnh phúc.”

“Không có nghĩa là anh không có lòng vị tha. Nếu chúng ta không bao giờ mong muốn điều gì cho riêng mình, chúng ta sẽ thành loại người thế nào đây? Anh đang đau buồn mà. Dĩ nhiên là anh sẽ nói vậy rồi.”

“Người Quản Lý cũng nói y như vậy.”

Wallace không rõ hắn cảm thấy thể nào về việc này. Theo một cách nào đó, hắn cũng từng là một dạng quản lý, và phép so sánh này khiến hắn thấy khó chịu. “Nhưng anh vẫn đồng ý.”

Hugo chậm rãi gật đầu, mân mê dây đèn trên lan can. “Không phải ngay lập tức. Ông ta nói sẽ cho tôi thời gian, nhưng lời đề nghị kia không phải lúc nào cũng sẵn có. Và suốt một thời gian sau đó, tôi đã định từ chối, đặc biệt là sau khi ông ta nói với tôi toàn bộ nội dung công việc. Tôi không thể... tôi sẽ không có được một cuộc đời bình thường. Không giống với tất cả mọi người. Công việc sẽ phải được ưu tiên, trên mọi việc khác. Đây là một cam kết, mà nếu tôi đồng ý, nó sẽ ràng buộc tôi miễn là tôi còn thở?”

Khi còn sống Wallace Price đã bị người ta chê trách đủ điều, nhưng trong những điều ấy chẳng có lòng vị tha. Hắn không nghĩ gì mấy đến những người xung quanh, trừ khi họ cản trở hắn. Và nếu họ làm vậy thì có trời mới giúp được họ. Nhưng ngay cả như vậy, hắn vẫn cảm nhận được sức nặng từ lời anh, và chúng ghì lên vai hắn. Không hẳn vì những điều anh kể, mà là vì ý nghĩa đằng sau. Họ giống nhau theo những cách Wallace không ngờ tới, chọn một công việc và đặt nó lên trên mọi việc khác. Nhưng chỉ giống nhau đến đó mà thôi. Có lẽ, khi Wallace còn trẻ và năng động, hắn đã bắt đầu làm việc với mục đích cao cả, nhưng những điều ấy đã nhanh chóng rơi rụng dọc đường, không phải ư? Lúc nào vấn đề cũng là kết quả cuối cùng và nó có ý nghĩa gì với văn phòng luật. Với Wallace.

Có lẽ ở mức bề mặt thì hắn và Hugo có thể được coi là tương tự, nhưng đào sâu hơn thì không. Hugo tốt đẹp hơn hắn nhiều. Wallace không cho rằng Hugo sẽ làm ra những lựa chọn giống hắn. “Điều gì đã làm anh đổi ý?”

Hugo luồn tay qua tóc. Wallace sững sờ trước vẻ vĩ đại thuần túy của anh, nhưng không hẳn là về mặt hình thể. Cảm giác vĩ đại đó còn hơn thế nữa, là thứ sức mạnh âm thầm tỏa ra từ anh khiến Wallace rùng mình. Anh là một con người đầy bất ngờ, và Wallace tưởng mình lại đang chìm xuống đất. “Tò mò, có lẽ vậy? Khát khao thấu hiểu tới mức nóng lòng nóng dạ. Tôi tự nhủ rằng nếu mình làm việc này, mình có thể sẽ tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi mình còn không biết là có trong lòng. Tôi chỉ mới làm việc này được năm năm, và tôi vẫn còn nhiều thắc mắc. Không phải cùng những việc khi xưa, nhưng tôi không biết liệu mình có bao giờ ngưng đặt câu hỏi không.” Anh bật cười, dù tiếng cười ấy dịu dàng và nghẹn ngào. “Tôi còn thuyết phục được bản thân rằng mình sẽ được gặp lại bố mẹ lần nữa kìa.”

“Anh không gặp được họ, phải không?”

Hugo nhìn ra những hàng cây trà. “Không. Họ... họ đã đi rồi. Họ không lưu luyến gì. Có một thời gian tôi từng giận dữ vì điều ấy, nhưng càng làm công việc này, càng giúp người ta trong lúc cần kíp, tôi càng hiểu được tại sao. Họ đã sống một đời yên vui. Họ đã đổi xử tốt với tôi và với bản thân họ. Họ chẳng còn gì để làm ở đây nữa. Dĩ nhiên họ sẽ siêu thoát rồi.”

“Và giờ anh mắc kẹt với những người như tôi,” Wallace lầm bầm.

Nụ cười của anh trở lại. “Không tệ đến vậy đâu. Bộ bikini là điểm cộng đấy chứ.”

Wallace rên rỉ. “Tôi ghét cả thế giới này.”

“Tôi không tin lời ấy chút nào. Có thể anh nghĩ vậy, nhưng không phải vậy đâu. Không hẳn là vậy.”

“Chà, tôi ghét cả mấy lời này nữa.”

Hugo dợm vươn tay về phía hắn nhưng rồi lại thôi. Ngón tay anh mấp máy trên bàn tay Wallace đang đặt lên lan can rồi lại rụt về, siết lại thành nắm đấm. “Chúng ta hít thở khi còn sống. Chúng ta chết, và vẫn có cảm giác như đang thở. Không phải lúc nào cũng là chết theo nghĩa đen. Có những lần ta chết theo nghĩa bóng, đó chính là mỗi lần buồn đau. Tôi đã chết theo nghĩa bóng, và Quản Lý chỉ cho tôi cách để siêu thoát qua bến bờ bên kia. Ông ta không cố cướp cái chết ấy khỏi tôi vì ông ta biết việc đó là của riêng mình tôi mà thôi. Dù ông ta còn thể nào đi nữa, dù tôi có đồng ý với một số lựa chọn ông ta làm ra hay không, tôi vẫn nhớ tới nghĩa cử ấy. Anh nghĩ ở đây tôi là kẻ tù tội. Là tôi bị cầm tù, rằng anh bị cầm tù. Và theo một cách nào đó, có lẽ đúng là vậy. Nhưng tôi thật sự không thể gọi nơi đây là nhà tù trong khi tôi chẳng muốn đến nơi nào khác.”

“Những bức tranh. Những bức ảnh. Những tấm áp phích treo trên tường trong nhà thì sao.”

Hugo nhìn hắn nhưng không nói gì. Anh đang đợi Wallace xâu chuỗi những điều ấy lại, những mảnh xếp hình nho nhỏ vương vãi giữa họ. Hình thù đã gần hiện ra rồi, nhưng hắn không tài nào ghép lại được, không hoàn toàn là vậy.

“Anh không bao giờ tới được những nơi đó,” Wallace chậm rãi nói. “Tận mắt tham quan những chỗ đó. Tranh ảnh kia là... một lời nhắc nhở?” Lời này có cảm giác không đúng lắm. “Một cánh cửa?”

Hugo gật đầu. “Đó là tranh ảnh về những nơi tôi còn không tưởng tượng ra nổi. Ngoài kia là cả một thế giới rộng lớn, nhưng tôi chỉ có thể thấy nó qua những thoáng hình nhỏ nhoi này. Tôi có ước mình được tận mắt ngắm nhìn chúng không à? Dĩ nhiên là có chứ. Vậy nhưng, nếu phải chọn lại thì tôi vẫn sẽ lựa chọn như xưa một lần nữa. Có những việc quan trọng hơn là những lâu đài sụp dần trên vách đá ngoài biển. Mất một thời gian dài tôi mới nhận ra điều ấy. Tôi không nói là mình hài lòng với lựa chọn kia, nhưng tôi đã chấp nhận vì biết công việc của mình thiết yếu thế nào. Tuy vậy tôi vẫn thích ngắm nhìn những vùng đất kia. Chúng nhắc nhở tôi rằng trước vạn vật chúng ta thật ra mới nhỏ bé làm sao.”

Wallace xoa ngực, lưỡi câu khiến hắn nhức nhối. “Tôi không hiểu nổi anh.”

“Tôi biết, nhưng tôi hứa là mình không phức tạp đến vậy đâu.”

“Tôi không tin lời ấy chút nào.”

Hugo nhìn anh hồi lâu, nụ cười chậm rãi nở trên môi. “Cảm ơn anh, Wallace. Tôi rất cảm kích trước tấm lòng của anh.”

Wallace đỏ mặt, tay siết chặt lan can. “Anh không thấy cô đơn ư?”

Hugo chớp mắt. “Tại sao tôi lại thấy vậy? Tôi có cửa tiệm mà. Tôi có gia đình. Tôi có công việc mình thích vì những gì nó mang tới cho người khác. Tôi còn đòi hỏi được gì hơn?”

Wallace lại quay ra nhìn những bậc thang. Chúng quả là xuất sắc. Hắn tự hỏi tại sao mình chưa bao giờ để ý tới chúng trước đây. Không phải theo cách này. “Thế còn...” Hắn ho khan, hắng giọng. “Bạn gái thì sao. Vợ, hay là, kiểu...”

Hugo cười toe toét với hắn. “Tôi là người đồng tính. Tìm bạn gái hay vợ cho tôi chắc là khó lắm đấy.”

Wallace bối rối. “Vậy thì, bạn trai. Bạn đời.” Hắn cúi đầu nhìn hai tay. “Anh biết ý tôi là gì mà.”

“Tôi biết. Tôi chỉ đang trêu anh thôi. Vui lên nào, Wallace. Không phải việc gì cũng cần nghiêm túc vậy đâu.” Anh điềm tĩnh trở lại. “Có lẽ một ngày nào đó chăng. Tôi không biết nữa. Sẽ khá là khó giải thích với người ta rằng tiệm trà của tôi thật ra chỉ là bình phong để người chết nói những chuyện có hơi tri thức.”

Wallace cười khẩy. “Anh phải biết rằng tôi cực kỳ tri thức đấy nhé.”

“Thật ư? Không nói thì tôi không bao giờ đoán ra được mất.”

“Khốn nạn ghê.”

“À,” Hugo nói. “Thi thoảng thôi. Tôi cố gắng không cư xử kiểu đó. Chỉ là anh tạo điều kiện quá mà. Còn anh thì sao?”

“Tôi thì sao?”

Hugo nhún vai, ngón tay ngọ nguậy trên lan can. “Anh từng kết hôn.”

Wallace thở dài. “Đã chấm dứt từ lâu rồi.”

“Mei kể rằng cô ấy đã có mặt ở đám tang?”

“Rõ là vậy rồi,” Wallace lầm bầm. “Cô bé có kể cho anh nghe những điều người ta nói không?”

Môi Hugo run run. “Có chút chút. Nghe có vẻ vô cùng kịch tính.”

Wallace tựa trán lên mu bàn tay. “Anh nói vậy cũng được.”

“Anh có nhớ cô ấy không?”

“Không.” Hắn lưỡng lự. “Và kể cả có nhớ, thì tôi cũng không có quyền làm vậy. Tôi đã làm hỏng chuyện. Tôi không phải người tốt. Không đối tốt với vợ mình. Cô ấy không ở bên tôi thì tốt hơn. Nhưng tôi nghĩ cô ả vẫn đang ngủ với gã làm vườn.”

“Thật đấy à?”

“Thật. Nhưng tôi không trách cô ta. Cậu ta khá quyến rũ đấy. Nếu cho rằng cậu ta có hứng thú thì có lẽ tôi cũng sẽ làm điều tương tự.”

“Uầy,” Hugo nói. “Tôi không ngờ được việc ấy đấy. Anh quả là thâm sâu khó dò, Wallace ạ. Làm tôi ấn tượng đấy.”

Wallace cảnh vẻ khịt mũi. “Phải, chà, tôi có mắt mà, nên là. Cậu ta thích cởi trần lao động trong sân. Có khi cậu ta đang lang chạ với phân nửa đám phụ nữ trong khu phố kìa. Nếu tôi có ngoại hình như thế, tôi cũng sẽ làm vậy.”

Hugo nhìn hắn từ đầu tới chân, khiến Wallace mất tự nhiên mà nhúc nhích. “Trông anh cũng đâu có tồi.”

“Xin anh đấy, ngừng ngay. Anh tốt bụng quá mức rồi. Tôi không chịu được đâu. Thế quái nào anh vẫn độc thân trong khi có thứ vũ khí bí mật thế kia nhỉ?”

Hugo nheo mắt nhìn hắn. “Anh nghĩ tôi sẽ tả mình như vậy hả?”

Ngừng. Ngừng lại. Ngừng ngay. “Ờ. Tôi... không biết nữa?”

“Thâm sâu khó dò đấy,” anh lặp lại như thể lời ấy giải thích được mọi thứ.

Wallace nhìn Hugo, nhẹ nhõm vì anh đã lờ đi vẻ ngượng ngùng của hắn. “Như vậy là tốt à?”

“Tôi nghĩ vậy.”

Wallace nghịch lớp sơn đang tróc ra trên lan can, hầu như không nhận ra rằng mình đang làm vậy. “Tôi chưa bao giờ khiến người ta vô cùng kinh ngạc trước kia.”

“Việc gì cũng có lần đầu mà.”

Và có lẽ bởi vì sao trời rực sáng và trải dài bất tận trên bầu trời. Hoặc có lẽ vì hắn chưa bao giờ trò chuyện với ai như vừa nói với Hugo, một cách chân thành, cởi mở. Chân thực, tất cả những khoe khoang và ồn ào của một cuộc đời công nghiệp đều rơi rụng. Hoặc có thể, chỉ là có thể, bởi vì hắn đang tìm ra sự thực chôn sâu trong lòng mình. Dù lý do là gì đi nữa, hắn cũng không cố ngăn cái miệng mình lại khi thốt lên, “Ước gì trước kia tôi gặp được người như anh.”

Hugo im lặng một lúc lâu. Rồi, “Trước kia ư?”

Hắn nhún vai, không chịu chạm mặt với anh. “Trước khi tôi chết ấy. Mọi chuyện có lẽ sẽ khác đi. Chúng ta có thể đã trở thành bạn bè đấy.” Việc ấy có cảm giác như một bí mật động trời, một điều lặng lẽ nhưng đau lòng cùng cực.

“Giờ chúng ta có thể làm bạn với nhau mà. Có gì ngăn cản hai ta đâu.”

“Ngoài việc âm dương cách biệt, hẳn rồi.”

Hắn giật mình khi Hugo lùi lại khỏi lan can, trên mặt là vẻ kiên quyết. Hắn nhìn Hugo chìa tay ra với mình. Hắn nhìn chằm chằm bàn tay ấy rồi ngẩng lên nhìn Hugo. “Sao vậy?”

Hugo ngúc ngoắc mấy ngón tay. “Tôi là Hugo Freeman. Rất vui được biết anh. Tôi nghĩ chúng ta nên làm bạn với nhau.”

“Tôi không—” Hắn lắc đầu. “Anh biết tôi không bắt tay anh được mà.”

“Tôi biết chứ. Nhưng cứ chìa tay ra đi.”

Wallace làm theo.

Và ở nơi tĩnh lặng này, dưới bầu trời đầy sao, Wallace đứng trước Hugo, tay họ vươn về phía nhau. Lòng bàn tay chỉ cách nhau vài tấc, và dù khoảng cách ấy vẫn như vực sâu không đáy chia cách họ, trong khoảnh khắc, Wallace tin chắc rằng hắn đã cảm nhận được gì đó. Không hẳn là hơi ấm từ da thịt của Hugo, dù hắn có cảm giác chúng kề sát bên mình. Hắn bắt chước động tác của Hugo, đưa tay lên xuống, lên xuống gần như bắt tay anh. Sợi cáp nối giữa họ rực sáng.

Lần đầu tiên kể từ khi đứng bên chính mình trong văn phòng, hơi thở mãi mãi lụi tàn, Wallace thấy nhẹ lòng, đến điên cuồng và bao la.

Đây là bước đầu tiên.

Và nó khiến hắn sợ mất mật.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip