Mặt Trăng Yêu Thương Mặt Trời [12]

rouler sur des vagues ondulantes | cưỡi trên những con sóng cuồn cuộn


Cuối tháng 8, năm 1954.

Trong cuộc đời của mỗi một con người luôn sẽ có những lúc phải tiếp nhận rất nhiều thứ mà bản thân chưa từng nghĩ sẽ xảy đến với mình.

Thay đổi, là một khái niệm mơ hồ. Đối với những người khác, khi họ nói muốn thay đổi đều có khả năng rơi vào nhiều trường hợp. Có người muốn thay đổi chỉ cần vụt một cái liền có thể trở thành khác biệt, nhưng cũng có những người nói thì rất giỏi, rốt cuộc chỉ là đi một vòng tròn rồi về lại nơi bắt đầu.

Riêng bản thân tôi, thay đổi, là một chuyện gì đó vừa mới mẻ hào hứng, nhưng cũng lớn lao vô ngần. Rất nhiều rất nhiều thứ xung quanh tôi đã, đang và vẫn sẽ thay đổi, ở mức độ mà tôi còn chưa thể bắt kịp được.

Lần đầu tiên đặt chân đến đất Pháp, tôi còn nhớ khi ấy bản thân đã đứng ngẩn người nơi bến cảng, tròn mắt dõi theo những con tàu biển tải hàng ngàn tấn neo đậu dày đặc. Tôi thấy mình nhỏ bé như một con kiến dưới chân hàng trăm gã khổng lồ đồ sộ sẵn sàng nghiền nát bất cứ thứ gì trên đường đi của chúng. Đi dọc theo các vách tàu sừng sững hệt như tường thành bằng đá kiên cố, phía cuối con đường là một quang cảnh xa lạ mở ra trước mắt, lúc ấy tôi mới ý thức được bắt đầu từ đây tôi sẽ phải từ bỏ những thứ mà tôi đã hằng quen thuộc để hòa nhập vào một thế giới mới, nơi tôi xây dựng nên một con người khác của bản thân.

Khi tàu cập bến, bầu trời nước Pháp bị phủ lên một tầng mây xám xịt, tôi nhớ khi ấy bao quanh lấy tôi là những đợt gió man mát và tiếng của đàn hải âu và quạ đen kêu inh ỏi. Tôi mơ hồ với địa điểm hiện tại, sau đó lại tò mò hỏi Điền. Anh chậm rãi giới thiệu với tôi về nơi này, vì vậy chỗ chúng tôi đang đứng là thành phố Marseille, và đây là cảng Le Vieux-Port, một cảng biển lâu đời ở phía nam nước Pháp.

Dù chỉ là một điểm dừng của cuộc hành trình và thời gian ở đây không tới hai giờ nhưng đã đủ để tôi có thể quan sát được khung cảnh của nơi này. Một cảng cổ đông đúc tàu thuyền và người qua lại, một khu tập kết cá vừa đánh bắt được ở gần đây không xa hướng ba giờ, cách bờ vài chục mét có những con thuyền nhỏ đang neo đậu san sát nhau, đàn hải âu háu đói ồn ào đang lượn lờ phía trên và đậu chật kín trên cánh buồm chờ đợi để đớp lấy những con cá thi thoảng trồi lên mặt nước. Nước Pháp chào đón tôi bằng một khung cảnh bình dị nhưng đầy sức sống. Thú thật, tôi cảm thấy khá thích nơi này, có lẽ nếu như tôi đã ổn định cuộc sống ở những năm sắp tới, có thể tôi sẽ quay trở lại đây để du lịch vào một lúc nào đó.

Nhưng trước mắt đó là chuyện của tương lai và tôi cần phải tạm gạt đi dòng suy nghĩ mơ mộng của mình.

Hiện tại cuộc hành trình của chúng tôi vẫn chưa kết thúc, không phải bây giờ. Chúng tôi đang cách Paris gần tám trăm ki-lô-mét nên cần phải nhanh chóng di chuyển đến nhà ga trước khi trời sập tối, bởi vì lộ trình có thể mất vài ngày và đa số chuyến tàu tới Paris chỉ chạy vào giờ hành chính. Nếu như chúng tôi tới trễ thì chắc chắn chỉ có thể kiếm khách sạn ngủ lại và chờ chuyến tàu sớm nhất vào ngày hôm sau.

Tôi và những người khác đều vội vã di chuyển tới nhà ga, mất khoảng mười lăm phút và lúc này đã là bốn giờ ba mươi lăm phút. May mắn rằng chúng tôi cũng đã kịp lên chuyến xe cuối cùng của ngày, khi đã ổn định trong khoang, lúc này tôi mới dám thở phào nhẹ nhõm, gánh nặng trong lòng cũng tạm thời lắng xuống.

Ngồi trong khoang nhìn ra bên ngoài cửa sổ, tiếng xìn xịt từ bánh xe sắt được vận hành bằng động cơ hơi nước cứ ong ong bên tai và khung cảnh bên ngoài lao vụt qua trước mắt, lúc này trong lòng tôi có rất nhiều suy nghĩ, xen lẫn những lo lắng đè nén. Hàng tá câu hỏi lờn vờn trong đầu nhưng tôi lại chẳng mảy may để ý đến chúng, để mặc cho tâm trạng dần dần bị chìm trong sự yên lặng ngột ngạt của khoang hành khách. Ngay lúc này tâm trí của tôi chỉ hiện diện một điều mà tôi luôn biết rõ.

Ngày nối tiếp đêm, bị hạn chế về không gian nên chỉ có thể quanh quẩn đi lại trên các toa tàu, dần dà tôi đã quen thuộc đến mức đếm được thời gian đã qua bao nhiêu ngày từ khi chuyến tàu bắt đầu lăn bánh.

Xe lửa chạy càng lâu, khoảng cách sẽ càng gần. Bây giờ tôi chỉ còn cách Paris một trăm ki-lô-mét, không còn xa nữa, khoảnh cách giữa tôi đến với hy vọng của mình không còn xa nữa. Khoảng cách cho lời hứa của tôi đã không còn xa nữa.


Paris-Est, nhà ga phía Đông,
10 giờ 23 phút, buổi tối.

Lần đầu tiên bước vào kinh đô ánh sáng, trong lòng tôi khi ấy bị lấp đầy bởi sự choáng ngợp và ngỡ ngàng. Sau đó là một chuỗi mơ hồ và bối rối kéo theo liên tiếp.

Khi đã đến được nơi cần đến, đó cũng là khi những con người đã từng bước chung một hướng bây giờ sẽ phải tách ra và đi trên con đường khác nhau.

Chỉ nửa ngày sau khi đã an toàn có mặt tại nhà ga trung tâm của Paris, chúng tôi cảm kích nói lời chia tay với Mr.Leeroy với tấm lòng biết ơn sâu sắc. Vị nghị sĩ đáng mến cũng ngậm ngùi bắt tay chúng tôi và không quên nói lời chúc may mắn. Tôi nhìn thấy và nghe được trong những câu chữ của ông ấy chứa đựng sự nhiệt thành và gương mặt đầy cảm xúc, ngay bên cạnh là người vợ thân yêu của ông cũng không giấu nổi sự luyến tiếc khi sắp phải nói lời tạm biệt và bà luôn giơ khăn tay lau đi giọt nước chực trào nơi khóe mắt. Trong lòng tôi đột nhiên dâng trào xúc động, tôi nghĩ có lẽ với cuộc hành trình dai dẳng và khó khăn vừa qua mà chúng tôi đã đồng hành cùng nhau, giữa chúng tôi và gia đình ông Leeroy dần dà có được một sự thân thiết, giống như những người bạn lâu năm dù rằng chỉ đi cùng nhau gần một tháng.

Bản thân tôi vô cùng tiếc nuối khi phải nói lời tạm biệt với họ. Thực sự trong cuộc hành trình vượt đại dương kia vợ chồng ông đã vô cùng thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ với lòng nhiệt thành. Họ đã luôn chăm sóc chúng tôi, dù cho tình hình của họ cũng chẳng khá hơn chúng tôi là bao.

Khi cái bắt tay sau cùng giữa Điền và Mr.Leeroy kết thúc, chúng tôi chia tay nhau, ông Leeroy cùng gia đình của ông ấy rời đi. Đứng lặng dõi theo đoàn người dần dần khuất xa khỏi tầm mắt, cả hai người chúng tôi đều có những cảm xúc khó tả trong lòng.

Tôi cùng Điền xách nhiều túi hành lí bọc da thuộc bụi bậm cùng vali dạng cốp lỉnh kỉnh, chúng tôi chầm chậm đi ra khỏi khu vực bên trong nhà ga.

Khi đã dứng dưới cái lạnh cuối năm của thủ đô, bay giờ tôi mới có cơ hội quan sát dãy công trình trước mặt. Tòa nhà sừng sững nằm bề thế giữa khoảng sân thoáng đãng, phần mái dạng chóp ở giữa đặt một bức tượng điêu khắc theo lối phục hưng, họa tiết trang trí bằng bê-tông chạy dọc theo đường viền mái. Ở mặt chính là một khung cửa sổ bằng kính màu lục có hình như cánh quạt và từng ô cửa xếp sát nhau nhìn vào giống đuôi của một con công đực đang xoè lớn.

Bên dưới nguyên một dãy kéo dài là những cánh cửa lớn với cửa kính bị chia thành từng ô đều nhau được viền bằng gỗ sơn màu trắng. Những cột trụ bê-tông điêu khắc tinh tế xếp cạnh và nối vào nhau thành một cổng vòm độc đáo vững chắc để chống đỡ bên trên là phần mái hiên lót ngói màu lục sẫm. Hai bên là dãy nhà hình trụ bề thế như những ngọn tháp canh thời trung cổ, được bố trí cân xứng bằng nhiều khung cửa sổ nhỏ với phần trang trí hình vòm ở bên trên.

Đứng ngắm nhìn tòa nhà với kiến trúc đồ sộ được bao bọc bởi một màu cam vàng ấm cúng từ những ánh đèn trụ bố trí dày đặc, lung linh nổi bật dưới màn trời đen kịt của thủ đô. Lúc này tôi có cảm giác bản thân cùng Điền giống như những đứa bé nhỏ lạc lõng bơ vơ, vô thức bị bỏ rơi giữa thế giới xa lạ rộng lớn.


Paris, năm 1955.

Bước vào một nền văn minh khác, một xã hội khác, có rất nhiều thứ mà tôi bắt buộc phải thích nghi lại hoàn toàn.

Tôi phải học lại tất cả mọi thứ từ đầu, ngôn ngữ, giao tiếp xã hội, kiến thức đời sống thực tế, tư duy và cả nhận thức. Đôi khi tôi vô hình cảm thấy tất thảy những điều này giống như một cơn bão nặng nề đổ ập lên người mình, choáng ngợp và dao động như mặt biển có những cơn sóng trắng xóa dữ dội hung hãn tràn ập vào bờ cát vốn êm ả.

Thời gian đầu tôi và Điền đã trao đổi và thống nhất ý kiến với nhau. Thay vì cố gắng tìm một thành phố khác, chúng tôi quyết định sẽ ở lại Paris, một phần vì còn xa lạ, một phần vì sự thuận tiện. Paris là thành phố lớn, tất cả mọi thứ đều hiện đại và tiện lợi, mỗi ngày đều có rất nhiều người trên thế giới hội tụ tại nơi này, về mặt thăm dò tin tức hoặc trao đổi thông tin thì ở nơi này vốn là một chuyện dễ dàng.

Điền từng có chức vụ cao ở cấp trung ương khi còn ở trong nước, quan hệ giao thiệp của anh phải nói là vô cùng rộng. Ban đầu tôi cũng có nỗi lo lắng rất nhiều, nhưng thực sự rất may mắn vì tôi đã đồng hành cùng Điền, mọi chuyện đều được anh thu xếp chu toàn.

Chúng tôi nhận được một ân huệ nho nhỏ từ Mr.Leeroy, ông đã thuê cho chúng tôi một căn hộ nhỏ trong một tòa nhà ở khu trung tâm, và đã trả tiền thuê trước ba tháng. Sau đó chúng tôi dọn vào, nơi này nói là căn hộ, thực tế nó giống như một căn phòng nhưng có diện tích lớn hơn một chút.

Nằm trên tầng áp mái của toà nhà mặc dù cách âm không tốt nhưng độ cao đủ để ngăn âm thanh ồn ào của phố xá bên dưới. Căn hộ nhỏ với trần phòng thấp và mái nghiêng được ốp gỗ nhìn hơi thô sơ. Mặt sàn lát gỗ ván màu xám tro ngay ngắn và giấy dán tường màu xanh bạc hà dịu mắt kéo dài từ trên trần xuống trong khi một nửa bên dưới được sơn màu trắng có những đường kẻ sọc dọc như giả gỗ. Từ cửa chính nhìn vào là không gian mở của phòng khách nhỏ, có bàn trà và một cái ghế sô-pha bọc da cũ kê sát vách, đi tới trước là cửa sổ kính viền khung gỗ với sơn trắng có thể mở ra hai bên, phía dưới là bệ cửa chỉ cách nền nửa mét, vừa gọn để một người có thể ngồi lên và ngắm cảnh bên ngoài.

Gian bếp thoáng đãng bị ngăn với phòng khách nhỏ bằng một khối trụ tận dụng như đảo bếp và cả bàn ăn, bên cạnh kê thêm ghế cao đủ không gian cho hai người. Giấy dán tường màu cà phê trong khi mặt sàn được lát gỗ màu nâu hạt dẻ làm cho không gian khác biệt so với phòng khách. Cửa sổ nhỏ phía trên bàn bếp với cách mở kéo lên đang mở toang để đón ánh nắng đủ làm sáng một góc nhỏ trong bếp. Bồn rửa rộng rãi bằng đồng rỉ sét với vòi nước có tay nắm hình bông hoa và ống nước thép lắp lộn xộn bên dưới được che chắn bởi cửa tủ màu ngà. Bếp ga kiểu cổ điển phát ra âm thanh tách tách vui nhộn khi vặn tay nắm và tích hợp với lò nướng nhỏ phía bên dưới. Quầy tủ cùng tủ chén treo tường được bố trí ngăn nắp và gần như chiếm một nửa diện tích của gian bếp, bày trí đầy đủ dụng cụ nấu ăn, nồi thép và chảo gan được treo gọn gàng bằng mấy cái móc cố định trên tường.

Đi men theo cửa chính về bên phải là một hành lang hẹp dẫn vào một phòng ngủ và nằm bên trái trong khi ở cuối đường mở ra một khoảng trống chật hẹp đủ để kê một cái giường dành cho một người, kế bên là bàn làm việc chất đống giấy tờ bên dưới khung cửa sổ hình chữ nhật có viền trắng. Nhìn từ cửa chính vào thì thiết kế của khu vực này có phần giống chữ I, và nơi dùng kê giường nằm ở đầu còn lại của chữ. Đây là không gian của Điền, ngay từ đầu anh đã một mực chọn chỗ này trong khi anh nhường cho tôi quyền chiếm dụng căn phòng có vẻ riêng tư hơn ở giữa hành lang.

Phòng ngủ có dạng chữ nhật ngang vỏn vẹn năm mét hơn một chút, vừa vặn đặt một cái giường đơn với khung giường bằng sắt đen nhẻm. Cuối phòng có một tủ áo kiểu ngăn kéo màu gỗ sẫm và một tủ gỗ nhỏ kê đầu giường với bên trên là đèn ngủ có ánh vàng ấm áp. Bàn sách được xếp ngay ngắn nơi góc phòng với tình trạng giấy tờ chất chồng hệt như bên ngoài. Giấy dán tường màu sữa có hoa văn chi chít và mặt sàn lát gỗ màu kem, không có cửa sổ.

Trở ra bên ngoài, đi về phía cuối hành lang khu giường của Điền, bên cạnh bức tường có cửa sổ là cánh cửa màu xanh hơi xỉn màu và tróc sơn, lởm chởm những mẩu gỗ bong khỏi mặt phẳng. Vặn tay nắm cửa bị mài mòn, bước qua khung cửa là một không gian thoáng đãng, khác biệt rõ rệt với sự chật chội nơi lối  đi dẫn ra. Vì căn hộ nằm ở cuối của dãy tầng áp mái, nên có vẻ vị trí cũng đặc biệt hơn để được thiết kế thêm một ban công mở. Khu vực hoàn toàn ngoài trời có diện tích độ khoảng ba-bốn mét vuông, xấp xỉ bằng phòng ngủ của tôi, một dãy thanh sắt mỏng gỉ sét lắp dọc theo mép tường của toà nhà bên trên là một thanh dài hơn bắt ngang được hàn chắc vào những cái dựng đứng bên dưới giống như một cái hàng rào, chỉ là nhìn vào lại không có cảm giác an toàn cho lắm vì nhiều thanh trong số đó đã bị xiêu vẹo cong vênh, bước tới vài bước liền có thể nhìn thấy con đường nhỏ đông người qua lại bên dưới toà nhà năm tầng lầu mà chúng tôi đang thuê.

Bên dưới nơi tôi đang đứng là nóc của toà nhà được phủ bằng bê-tông theo thời gian đã bị ngả màu vàng nghiêm trọng, vài chỗ còn bị bong mất mấy mảng vữa nhưng cũng không đáng kể. Kế bên nhìn thấy được cả phần mái nhà được lót bằng ngói màu rêu sẫm dốc đứng cao vút, chân mái kết thúc bên trên nóc và chỉ cách nền ban công mười xăng-ti-mét, thậm chí còn có thể leo lên trên đỉnh mái từ nơi này. Xung quanh có rất nhiều chậu cây bằng đất nung màu đỏ được đặt lộn xộn hoặc nằm la liệt khắp nơi. Lớp đất bên trong chậu khô cứng nứt nẻ và đám cây nhỏ trong đó cũng đã chết khô héo đến mục rã. Có lẽ trước khi cho chúng tôi thuê thì căn hộ này đã bỏ trống khá lâu và người chủ cũng không màn tới chuyện thu dọn những thứ này nữa.

Bên ngoài là các phòng của những người thuê nhà khác, những người hàng xóm rất hiếm khi chạm mặt và từng nghĩ vui có thể thậm chí chưa từng có người đang sống ở trong đó.

Căn hộ nằm ở cuối của dãy hành lang chật hẹp với diện tích cũng nhỏ không kém nhưng mang lại cảm giác ấm cúng dễ chịu, chúng tôi khá hài lòng về nơi này.

Sau khi về mặt sinh hoạt hằng ngày đã được ổn định, đã đến lúc chúng tôi phải bắt tay vào tìm cho mình một công việc.

Bây giờ đang bước vào những năm sau khi chiến tranh giữa các nước kết thúc, sự thiếu hụt công nhân gia tăng vì không đủ người để bù vào chỗ của cánh đàn ông, thanh niên được gọi nhập ngũ bị kéo vào cuộc chiến dai dẳng và phải bỏ mạng trên chiến trường với số lượng khủng khiếp. Hiện tại chính phủ phía Hoa Kỳ đang mở rộng chính sách và khuyến khích công dân nữ giới ra ngoài và tìm cho mình một công việc, với hi vọng sẽ bù đắp vào chỗ trống của những người đàn ông đã hoặc đang tham gia ở tiền tuyến, nâng cao năng xuất của các nhà máy và xí-nghiệp, vực dậy nền kinh tế của nước Mỹ. Có vẻ như chính phủ Pháp cũng đang muốn hưởng ứng theo lối sách khả quan của Hoa Kỳ, nên là có những vị trí trước kia vốn chỉ dành cho nam giới thì hiện tại đã được khuyến khích để tuyển chọn nhân viên nữ giới. Thời cuộc cải tiến mở rộng như vậy, rất nhiều nơi đang cần hoặc thiếu hụt nhân sự trầm trọng, với lợi thế như hiện nay thì việc tìm một công việc cho mình giống như nằm gọn trong tầm tay.

Nhưng mọi chuyện chưa từng dễ dàng như chúng tôi vẫn tưởng.

Ở trong trung tâm thành phố đông đúc và nhộn nhịp, Điền có quen biết vài ông bạn người Pháp khi họ còn ở Việt Nam. Mỗi ngày trôi qua tôi đi cùng Điền đến những địa chỉ xa lạ được ghi trên tờ giấy mà anh đã giữ lại trước đó vì mục đích dự phòng, không ngờ được lại có cơ hội để dùng tới.

Vì còn lạ lẫm với thành phố này nên việc tìm kiếm của chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn. Có những địa chỉ khi chúng tôi đến thì họ đã chuyển đi nơi khác, có những chỗ thì gặp được người bạn của Điền, họ chào đón chúng tôi rất niềm nở nhưng họ lại không thể giúp được chúng tôi. Mặc dù vậy, chuyện này cũng đã nằm trong dự tính từ đầu, chúng tôi không hề bỏ cuộc mà tiếp tục tìm theo địa chỉ của những nơi còn lại.

Thời gian đầu thực sự rất gian nan, mọi chuyện không có gì là suôn sẻ, tiền bạc của chúng tôi cũng không phải dư dả gì nhiều. May mắn nho nhỏ là Mr.Leeroy đã giúp chúng tôi trả trước tiền thuê nhà của ba tháng đầu nên không cần phải quá lo lắng về khoảng đó. Với số tiền ít ỏi đang ngày càng vơi đi và chúng tôi vẫn còn ở trong tình trạng thất nghiệp, tôi và Điền phải cắt giảm chi phí của việc đi lại, để dành tiền mua các nhu yếu phẩm cần thiết và những bữa ăn trong ngày chúng tôi chỉ có thể ăn khoai tây nghiền, bánh mì cùng đậu đóng hộp. Đôi khi vẫn có sự thay đổi khẩu vị nhưng bữa thịnh soạn nhất cũng chỉ có thịt gà kèm với cà rốt cùng đậu lăng. Thực sự khi đó tôi cảm thấy rất nhớ những món ăn ở quê nhà và chỉ ao ước phải chi ăn được một chén cơm trắng thôi cũng đã đủ để tâm trạng cả ngày hôm đó của tôi ngập trong niềm vui sướng.

Mỗi ngày chúng tôi đều đi lang thang trong trung tâm thành phố nhưng những kẻ lạc lối, ghé thăm từng nơi được ghi trong địa chỉ, có khi chúng tôi đã gõ cửa tận ba địa chỉ trong một ngày nhưng đều nhận lại được cái lắc đầu bất lực. Khi đó nỗi thất vọng trong bụng Điền càng lớn theo từng ngày, nhưng tôi vẫn giữ thái độ và tâm trạng lạc quan động viên anh, giúp anh vực dậy tinh thần thoát khỏi dáng vẻ ủ rũ cau có vì liên tục nhận lại sự từ chối.

Chúng tôi cũng không thể nhờ cậy sự giúp đỡ của Mr.Leeroy, bởi vì ông ấy không sống ở thành phố này, sau ngày chia tay ở nhà ga một thời gian không lâu ông ấy đã cùng vợ con chuyển về Bordeaux, một thành phố cảng phía Tây Nam nước Pháp. Liên lạc thư từ vẫn còn nhiều hạn chế và chúng tôi cũng không đủ dư dả để gửi một bức thư tốn hai-ba trăm xu chỉ với hi vọng ông ấy có thể tìm giúp cho một công việc. Hơn nữa tôi và Điền cũng không muốn tiếp tục làm phiền ông ấy, chúng tôi đã nhận được quá nhiều sự giúp đỡ của ông ấy rồi.

Gần cả tháng lòng vòng trong thành phố, đi hết ba mươi mấy địa chỉ, sau cùng chỉ còn lại vài cái. Có lẽ lần này chúng tôi đã gặp may mắn, ở một địa chỉ trong số bốn cái còn lại, Điền đã gặp được một người bạn cũ. Điều ngạc nhiên là anh ta là người Việt Nam, khi còn ở trong nước cũng làm việc trong cơ quan chính phủ và sau đó thì cùng gia đình di dân qua Pháp, anh ta cũng từng là đồng nghiệp cũ của Điền ở Sở bộ Đà-Lạt, tên anh ta là Nguyễn Duy Văn, nhưng tôi nghe vài người xung quanh gọi anh là Renier.

Hai người họ gặp nhau tay bắt mặt mừng, vui vẻ cười mừng rỡ vì lâu ngày mới gặp lại, khi đó tôi cũng thấy vui lây vì dù chưa từng quen biết nhưng lại có thể gặp được một đồng hương nơi đất khách. Lúc đó Văn đã vô cùng hào hứng nhiệt tình mở lời trước với tôi, anh chìa tay ra phía trước và thân thiện cười.

"Còn đây chắc chắn là bạn của Điền rồi! Bonjour! Em tên là gì vậy cô gái?".

Chất giọng miền Nam pha lẫn hơi lơ lớ và quen miệng dùng tiếng địa phương của anh khiến cho tôi có chút mắc cười, nhưng tôi đã kìm lại và giấu sự hài hước nhỏ đó trong bụng. Tôi thoải mái đưa tay bắt lấy tay của Văn, lắc nhẹ vài lần.

"Em là Lê Hồng Quyên".




_Hết_

*Tất cả địa danh trong truyện chỉ mang tính chất tham khảo tương đối, không chính xác hoàn toàn so với thực tế.

Ngày đăng: 10-4-2024.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip