Chương 33

Đã nhiều năm trôi qua. Giờ là ngày 26 tháng 7 năm 2025.

Con người thay đổi, tình yêu và cuộc sống của họ cũng vậy. Các cặp đôi sống hạnh phúc bên nhau.

Nhưng chỉ có một thứ không hề thay đổi: một câu chuyện điên loạn dài hàng thập kỷ về một thứ gọi là "Chó hoang thành Corinth."  Chuyện kể rằng:

Tại một bệnh viện dã chiến của quân đội Đức tại ngoại ô Corinth (Hy Lạp), 15 giờ 25 phút chiều (giờ Hy Lạp) ngày 28 tháng 4 năm 1941, tức là hai ngày sau khi quân Đức và các đồng minh phe phát xít là Ý và Bulgaria đã đánh bại Hy Lạp và các đồng minh khối thịnh vượng chung vương quốc Anh (gồm Vương quốc Anh, New Zealand, Úc).

"Thế nào rồi?" Một giọng nói vang lên từ bệnh viện dã chiến.

"Một ngày trước, chúng tôi đã tìm được một tên vô gia cư người Hy Lạp tại một đường phố. Tên này dùng gậy đánh đuổi chúng tôi và cố gắng cắn chúng tôi. Chúng tôi cố gắng khống chế hắn nhưng hắn quá hung hãn. Chúng tôi đã nhốt hắn tại một phòng giam." Có tiếng người khác vang lên.

Giọng của người hỏi là của một gã đàn ông tóc vàng nâu với mắt phải màu đỏ và mắt trái có màu xanh. Gã này che giấu khuôn mặt vuông chữ điền của mình bằng một chiếc mặt nạ phòng độc dù bầu không khí tại Corinth rất trong lành và không có chất độc hoá học. Hắn mặc một bộ quân phục Đức Quốc Xã màu nâu, tay trái quấn một cái băng đô màu trắng với chữ thập đỏ, đầu đội mũ y tá màu trắng che đi mái tóc trừ vài chùm tóc mai để thõng xuống thái dương, hai tay đeo găng trắng, cạnh sườn đeo bao súng. Chính bộ đồ này đã theo chân chủ nhân của nó đến đất nước Hy Lạp cùng đoàn quân Đức, và cũng với chính bộ đồ này mà kẻ mặc nó đã gây nên nỗi khiếp sợ cho quân đội Hy Lạp vì hắn không chỉ tàn bạo trong tác chiến và xảo quyệt trong chiến lược mà còn là một kẻ đã được cường hoá bằng những thí nghiệm ghê rợn trên cơ thể người, vốn dĩ được cho là một đặc sản của các nhà khoa học và tướng lĩnh quân sự tại các nước phe trục phát xít. Và cũng chính với bộ quần áo đó, chủ nhân của nó là Rudolf Schreiber đã một mình ra tay hạ gục hai tiểu đội lính liên quân Anh và Hy Lạp bằng bộ dụng cụ phẫu thuật y tế và khẩu súng ngắn, nhưng cái cưa phẫu thuật mới là vật dụng hắn dùng để cắt bỏ những phần cơ thể hoại tử của các binh sĩ bị thương nặng và để tấn công quân địch bằng những nhát chém đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn cả vũ khí giết người bằng bạo lực là vũ khí sinh học, một thứ Rudolf dành gần như trọn cuộc đời quân nhân và y tế để dốc tâm nghiên cứu ra một loại dịch bệnh gây sát thương nặng nề cho kẻ địch và có thể tăng cường sức mạnh của những người đã miễn dịch cũng như mang sự hồi sinh bất tử cho những binh sĩ cận kề cái chết và đã tử trận.

"Được! Các anh mau đưa tôi đến phòng giam!" Gã bác sĩ quân y nói.

"Rõ!"

Hai người lính mặc quân phục xám của quân đội Đức cùng hộ tống bác sĩ quân y đeo mặt nạ đến phòng giam của bệnh viện. Ở đây, bác sĩ quân y nhìn qua hàng song sắt và thấy một người ăn mặc tồi tàn với mái tóc đen nâu rối bù bê bết bùn đất. Người đó ngồi co ro ở một góc tường trong phòng giam, nhưng ánh nắng buổi chiều từ cửa sổ chiếu lên thân thể gã. Gã quay đầu nhìn về phía kẻ đang đứng ở ngoài cửa. Rồi đột nhiên gã cười lớn và đứng dậy nhảy nhót như con khỉ, vừa nhảy nhót vừa chế giễu: "Ôi gã khổng lồ Rudolf Schreiber đáng xấu hổ kia, tôi lấy làm mừng cho khuôn mặt của quý ông đây, quý ông cố gắng che đi cái mặt thằng hề của quý ông bằng một cái rọ mõm trông như rọ mõm chó càng trông hề hước hơn! Thật đẹp lắm phải không nào? Há há!"

Rudolf, gã bác sĩ quân y vừa đến căn phòng hồi nãy, lập tức nổi trận lôi đình. Hắn không thèm lấy chìa khóa mở cửa phòng giam mà giật tung cái cửa bằng tay không. Cánh cửa mở ra cùng với một tiếng rầm chát chúa, nhưng tên tù nhân hành khất vẫn không chịu lùi lại mà cứ cười ngoác mồm như con ễnh ương. Cái cười nhạo như thế này, bất cứ người Hy Lạp nào gặp gã đều biết quá rõ và rất nóng nực bực bội khắp lục phủ ngũ tạng khi nghe tiếng gã cười đểu nhưng không ai làm gì được gã vì sợ gã ăn vạ la hét giữa phố. Ngay cả khi trước mặt gã là thần Zeus quyền năng nhất đỉnh núi Olympus đang nổi giận phừng phừng với tia chớp sáng loà trong tay, gã vẫn giễu cợt trào phúng ông ta cho đã nư cóc tía mới ngừng.

"Tôi nổi giận quá nên lỡ làm hư cửa của bệnh viện rồi, xin các anh thứ lỗi cho. Để sau vụ này, tôi sẽ trả tiền sửa chữa và chịu trách nhiệm bồi thường cho đơn vị quân khu." Rudolf nói với các lính hộ tống bằng giọng nói nhã nhặn.

Dĩ nhiên không phải chỉ có hai người lính đến hộ tống Rudolf, nhưng là năm người lăm lăm súng trường đã lên đạn và gắn lưỡi lê đã tuốt trần. Nếu tên tù nhân trong phòng giam của bệnh viện làm loạn thì những người lính đó được lệnh giết chết gã ngay tại chỗ, cho dù đó là vật thí nghiệm được Rudolf tìm kiếm sau những trận chiến gian khổ và những đợt sàng lọc gay gắt. Lúc đó Rudolf còn đang là một thiếu tá, còn các lính hộ tống đều là trung sĩ.

"Dừng cái điệu cười đó đi! Người của tôi đã có vũ khí sẵn sàng rồi, nếu còn ngoan cố kháng cự thì sẽ bị hạ gục tại chỗ!" Rudolf lên tiếng với gã tù nhân đang nhạo báng mình.

"Ơ thế hóa ra là lỗi của tôi, khi ông nói ra những điều nực cười à?" Gã tù nhân vẫn vênh váo đáp.

Rồi gã tù nhân vén tấm áo cũ nát của mình ra và rặn hết sức để tè xuống nền nhà ngay tại chỗ của tốp lính phát xít. Khi cả bọn phát xít giật mình lùi lại vì kinh hãi trước vũng nước tiểu vừa ngai ngái vừa vàng khè, gã tù nhân còn chổng mông trước mặt chúng và rặn mấy cái để xì rắm vào mũi chúng. Ngay cả hai anh em chiến thần xạ thủ Hy Lạp cổ đại là Apollo và Artemis có đứng sát nách gã với những mũi tên sáng loà và những cây cung giương sẵn, gã cũng cho bọn họ ngửi mùi thối luôn. Đúng là cái nết hay cà khịa thiên hạ của Antisthenes và Diogenes đã có một truyền nhân đắt giá sau khi họ đã khuất núi hơn 2300 năm.

"Cái miếng giẻ lau tanh mùi cá không thể gột sạch nổi kia! Rõ là ngươi đang biến mình thành trò cười cho thiên hạ. Nhìn cái áo khoác của ngươi đi, đúng là một..." Một tên lính vừa quát lớn vừa đập báng súng vào mặt tên tù nhân.

Nhưng tên tù nhân người Hy Lạp vẫn chưa bỏ cuộc, gã ngồi dậy sau khi bị đánh ngã và buông lời suồng sỗ: "Quý ngài nghĩ mình là ai? Ôi con người! Ôi con người! Tôi đang gọi con người, chứ không phải một bọn đáng khinh!"

"Chính chủng tộc German mới là con người thượng đẳng nhất hành tinh này, kế đó là Anglo-Saxon và Gaul. Bất cứ ai vào nhà tù này đều chẳng đáng mặt con người!" Gã lính lúc nãy đập một nhát vào tù nhân bằng báng súng trường.

Tưởng đâu gã tù nhân định chuồn, tên lính thốc ngay vào cho một cú sút mạnh như cầu thủ đá bóng. Nào ngờ quả sút chưa bén tầm thì gã tù nhân người Hy Lạp đã tóm lấy ống quần y giật một cái làm y loạng choạng ngã sấp xuống. Tức thì gã tù nhân níu lấy cái cổ áo của tên lính và cắn vào cánh tay y. Gã nghếch đầu lên nói: "Những con chó khác cắn chết kẻ thù, tôi cắn bạn bè để cứu họ. Nếu quý ông muốn có trong nhà một con người, vậy thì chính tôi đây!"

"Người quân tử chỉ đấu khẩu, ai đi đấu sức?" Rudolf từ từ bước đến chỗ hai người đang giằng co.

Tưởng đâu là sẽ giảng hoà bằng mấy câu đạo lý, ai mà ngờ rằng khi Rudolf cởi mặt nạ ra thì lập tức gân máu trên cổ hắn nổi lên những vệt đen. Không chần chừ nữa, làn da trắng của hắn lập tức trở thành một xám tro của xác chết, con mắt đỏ của hắn loé lên. Hắn vồ lấy kẻ đang giằng co với lính của mình và gầm lên như con sư tử: "Cho mày được phép nói lại trong 3 giây."

Đó không phải là một vụ đấm nhau, mà là hai kẻ điên lao vào nhau cắn xé lẫn nhau. Kẻ biến dị với con mắt đỏ chiếm ưu thế hoàn toàn so với gã vô gia cư ngang tàng coi trời bằng vung, hắn áp đảo hoàn toàn kẻ địch và đánh gã tơi tả một trận. Gã đáng thương nằm lăn lóc trên sàn nhà với thân thể bầm dập và mềm oặt, nhưng gã không dám réo lên. Kẻ vừa bị gã tù nhân cắn lập tức vùng dậy chạy thoát, dù sợ hãi nhưng không dám săm soi bộ dạng đáng sợ của cấp trên.

"Gã tù nhân này gan lì thật. Khá là khâm phục đấy. Có người quyết định nhận một con chó làm thầy mình, nhưng trên thực tế loài chó luôn nhận con đầu đàn làm thầy của mình." Rudolf biến hình trở thành người, miệng của hắn toàn là máu.

Ai được tận mắt chứng kiến khung cảnh đấy, đều phải đầu hàng trong thinh lặng. Không phải là vì con chó tù nhân dám cắn kẻ giam giữ mình để giành sự tự do, cái đó chỉ chiếm một phần mười thôi. Một cái khác chiếm thêm một phần mười của câu chuyện là cảnh một người dám hạ mình xuống và vứt bỏ sĩ diện hão để cứu người mình yêu thương khỏi kẻ hãm hại họ. Oái oăm thay, người hùng đó lại là một kẻ phản diện với bề dày tội ác ghê rợn liên quan đến giết người hàng loạt, và kẻ bị người này trừng phạt cũng là một kẻ vô lại đáng ghét đã xúc phạm chửi rủa rất nhiều người và làm họ căm thù nhục nhã dù kẻ vô lại này chưa hề giết một ai. Lằn ranh phân biệt giữa trắng và đen đã bị nhoè đi, ai nấy đều bối rối vì không biết trong hai người ai là kẻ ác và ai là kẻ thiện. Có điều những người ngoài cuộc phải công nhận rằng cả hai đều xấu tính xấu nết và cũng gây thù chuốc oán với rất nhiều người, nhưng sự xuất hiện của kẻ này đồng nghĩa với việc kẻ kia phải lép vế. Tuy nhiên, cái tác nhân gây sốc chiếm tám phần mười của câu chuyện là làm sao một con người có thể tự thí nghiệm lên chính mình bằng những cách thức kinh hoàng đã thử nghiệm lên các tù nhân và không chỉ vẫn sống khỏe và giữ nguyên ý thức của mình mà còn mạnh hơn người thường.

"Tại sao chúng ta lại phải sợ hãi trước những thứ tốt đẹp chứ? Nếu tôi không phải là sĩ quan quân đội, thì tôi rất muốn được sống như chú cún này!" Rudolf chùi sạch vết máu trên miệng.

Dĩ nhiên Rudolf nào có tỏ vẻ kính nể gã tù nhân xấc láo trong lòng bàn tay hắn, vì hắn biết rất rõ rằng gã là một kẻ hèn nhát thích làm bộ làm tịch để ra oai với thiên hạ và sẵn sàng ăn vạ bất cứ ai để gây sự chú ý của thiên hạ.

"Gã tù nhân này tôi đã nghe kể rồi. Tên của gã là Kallinikos, nhưng gã không có gốc tích rõ ràng. Nghe nói gã là một đứa con hoang của một nữ tu với một ông địa chủ giàu có, mà có người bảo gã là một kẻ lang thang có cha mẹ bạo hành từ bé hay là một quý tử ăn chơi đàn đúm quá mức đến nỗi cháy túi, và lại có người bảo gã là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ phải ra ngoài đường ăn xin rồi nhiễm thói hư tật xấu của bọn du côn đầu đường xó chợ tới khi trưởng thành. Tôi còn có nghe thêm một nguồn tin cho biết rằng gã là một linh mục bị tố cáo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và ấu dâm hàng loạt mấy chục cậu bé cô bé đến nỗi bị giám mục quản xứ rút phép thông công và tước đoạt chức vụ để trở thành một dân thường. Gã cũng không có nghề nghiệp nhất định, chỉ đi lang bạt khắp mọi nơi và chui vào một túp lều cũ nát dựng ở bãi rác thành phố mỗi khi trời tối, nói là cái lều là còn nhẹ chứ thực ra nó chỉ là mấy tấm ván gỗ mục xếp trải lên mặt đất ở một cái ống cống nước thải mà thôi. Với cái lối sống du thủ du thực ấy, gã to mồm nói chuyện đao to búa lớn nhưng mà khi cái bụng đói thì chịu không nổi. Gặp nhà có việc thì gã đi làm thuê làm mướn cho người ta, ai thuê gặt lúa thì gặt lúa, thuê xay bột thì xay bột, thuê chăn cừu thì chăn cừu, thuê hái nho ép rượu thì hái nho ép rượu, thuê chống thuyền thì chống thuyền. Ngộ những lúc công việc kéo dài thì gã ở lại trong nhà chủ tạm thời hôm đó, xong công việc lại đi. Ai mà không làm vừa lòng gã thì gã vừa chửi vừa ăn vạ, lúc nào cũng thế. Cho nên, người ta có công việc bận bịu lắm thì còn nhớ đến Kallinikos, nhưng nhớ là nhớ công ăn việc làm, chứ nào phải nhớ gì đến 'hành trạng'! Rồi đến lúc công việc rỗi thì luôn cả Kallinikos người ta cũng chả nhớ nữa, còn nói gì đến 'hành trạng'!" Rudolf nói với những quân nhân sau khi đeo lại chiếc mặt nạ.

Mọi người vẫn không khỏi bàng hoàng khi Rudolf đã lộ diện bản năng của một con quỷ do chính mình tạo ra, họ có nghe đến việc hắn đã thí nghiệm tạo ra những binh sĩ bất tử bằng vi rút xác sống và sử dụng cả tử thi của các tù nhân đến những tù nhân còn sống để thử nghiệm cả vi rút lẫn các dược phẩm như thuốc giải, vắc xin và thuốc kìm hãm độc tính.

"Vậy chúng ta nên làm gì với gã ngông cuồng này?" Tốp lính hỏi.

"Gọi một tổ y tế và những kỹ sư cơ khí cho tôi, tôi cần họ giúp." Rudolf đáp.

Không ai biết câu trả lời đầy ẩn ý của gã bác sĩ quân y là gì. Có mấy hiền triết não bự cỡ Hippocrates, Aristotle với Pythagoras may ra mới đoán nổi cái ý đồ gì của hắn khi vừa gọi cả bác sĩ lẫn thợ máy ra chỉ để chữa trị cho bệnh nhân.

Nhìn thấy tên thuộc hạ vẫn đứng cạnh gã tù nhân, Rudolf thì thầm vào tai anh ta: "Chàng trai trẻ, kịch hay sắp đến rồi. Lùi lại cho ngôi sao của chúng ta diễn xuất đi nào."

Tên lính lùi bước, gã tù nhân vừa giãy giụa vừa hét lên thảm thiết: "Ôi dồi ôi! Bớ làng nước ơi! Có người ức hiếp tôi! Chết tôi mất thôi! Bớ tổng thống ơi, oan ức cho tôi quá!"

"Chó sủa, đoàn người cứ đi." Rudolf nói với tốp lính.

Kallinikos là thế đấy, vẫn cái nết cứng đầu đến cố chấp làm theo ý mình bất chấp mọi quy tắc xã hội và mô hình chính trị quốc gia đến nỗi cả các nhân vật chính trị hàng đầu quốc tế như Winston Churchill bên Anh và Josef Stalin ở Liên Xô nhìn vào cũng thấy ngán tận cổ, mà cả trùm phát xít Đức Adolf Hitler nếu như có gặp mặt gã thì chắc kèo ông ta cho gã ăn vé vào phòng hơi ngạt ngay lập tức.

"Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó. Thật thời buổi này hết chỗ nói!" Kallinikos nghĩ, cái nết ngông nghênh đánh chết vẫn chẳng chừa.

Bây giờ trong nhà tù dã chiến của cái bệnh viện cũng dã chiến luôn, chỉ có hai kẻ lập dị đang đối mặt với nhau. Một tên sát nhân điên loạn say máu người, một kẻ ngạo mạn bất cần đời gặp ai cũng chửi. Những người đứng ngoài cuộc tranh biện đều là những khán giả bất đắc dĩ xem buổi đấu võ mồm này, nhưng người nào có tâm thì lấy bút lấy sổ ghi chép lại nguyên văn từng lời của các nhân vật trong cuộc hội thoại, để khi mai này chiến tranh kết thúc sẽ về nhà kể lại cho bạn bè, gia đình và người thân. Dù sao đi nữa, họ vẫn là những con người bình thường khao khát ước mơ hoà bình và thịnh vượng cho quê hương tổ quốc, chỉ xui xẻo cho họ rằng tất cả họ đều là công dân Đức bị chính phủ phát xít của Hitler lừa dối, nhồi sọ và cưỡng bách kéo vào trận đại chiến thế giới hoàn toàn phi nghĩa để thỏa mãn giấc mộng bá vương thế giới từ bộ óc độc tài điên loạn của lão ta, cũng như bị giam cầm trong chiếc lồng sắt được dựng nên bởi nhiều giai cấp trong bọn thuộc hạ của lão cũng tàn bạo độc ác không kém.

"Tôi là gã ăn mày. Tôi ghê tởm tất cả những gì mà người ta coi là quan trọng: tiếng tăm, giàu có, tình yêu. Không ai có thể bố thí gì cho tôi, không ai có thể tặng gì cho tôi, vì tôi đã có mọi thứ. Nữ hoàng duy nhất của tôi chính là tự nhiên; bà lệnh cho tôi ăn, uống và ngủ; ngoài ra tôi không nghe lời thêm bất kỳ người nào khác và tự mình quyết định cho mình. Người dân Athens có một từ rất hay để chỉ cảm giác đầy đủ kiểu này: Autarkie. Tôi hoàn toàn tự do. Và ngoài vua ra còn ai có thể tự do như thế?" Kallinikos nói câu này mấy giây sau khi nói hết suy nghĩ của mình lúc đã ăn vạ xong và bị phớt lờ.

"Và tao cũng thế." Rudolf nói.

Bả vai của Kallinikos vẫn còn in đậm dấu răng người cắn, nó không phải là một vết cắn nhẹ mà là một cái cạp rất mạnh mẽ của một con ma cà rồng. Ánh nắng mặt trời buổi sáng không làm Rudolf đau đớn và chói mắt, ngay cả khi hoá thành xác sống. Nghiêm trọng hơn, vết cắn của Rudolf đã có nhiễm vi rút xác sống và nó bắt đầu thâm nhập vào cơ thể Kallinikos.

"Để có thể sống như một con chó, nhất định phải có đủ can đảm! Bởi vì, để có thể ăn mừng lễ hội và được ban cho những bữa ăn ngon, con người phải làm việc, phải đứng dậy ngay lập tức khi ông chủ yêu cầu, phải nghe theo những mệnh lệnh trong cả ngày dài, chỉ có thể đi ngủ, khi chủ mình cho phép. Và kẻ thống trị kia lại tiếp tục phải nghe lời một ông hoàng khác, để mong có được cái gì đó! Mày đã làm rất tốt ở các khoản này." Rudolf nói.

Lần này Kallinikos không còn nhận ra được đâu là thật và đâu là giả nữa, vì những điều gã tin tưởng như triết lý sống cả đời đều được truyền bá và đã có người hiểu được nhưng chính người đó lại là một kẻ bạo hành thích thao túng tâm lý. Người ta nói khôn như chó cũng đúng, mà cũng chính con chó lại bị gán cho cái mác ngu xuẩn khi người ta mạt sát nguyền rủa lẫn nhau. Đau đớn thay! Buồn thảm thay! Mỉa mai thay! Bi kịch thay!

"Nhưng con chó xem cả thế giới là bạn mình! Đối với nó không có vua chúa, thế nên không có đất nước. Tất cả người dân đều được nó đối xử như nhau! Chẳng bao giờ nó có kẻ thù. Nó yêu mến đàn ông cũng như đàn bà, người trẻ cũng như người già, người khỏe mạnh cũng như người ốm đau, da trắng cũng như da màu, dị tính cũng như đồng tính, người Hy Lạp cũng hệt như người Đức hay người Anh và các quốc gia khác trên thế giới. Nó có thể đi đến bất cứ đâu mà không cần bận tâm tới ranh giới. Nó giang tay đón nhận tất cả. Ngôi nhà của nó thì rộng đến mức bất cứ ai cũng có cho mình một chỗ trong đó. Con chó nào cũng như vậy. Chúng được gọi là Công dân toàn cầu, chứ không phải là công dân của Đức, của Hy Lạp hay của cái ổ chó nào trên quả địa cầu này." Kallinikos huyên thuyên nói tiếp, nhưng lần này giống như một nhà hùng biện tầm vĩ mô thế giới.

"Đáng buồn thay, hỡi bạn tôi..." Giọng của Rudolf trầm xuống.

Có kẻ nói rằng: nhiều người thường ước ao gặp được đối thủ của mình khỏe như cọp, dữ như cắt, có thế thắng trận mới thỏa thích. Nhược bằng yếu như cừu, như gà con, thì dù có thắng cũng vô ích. Lại còn có những người, lúc thắng rồi, mắt nhìn thấy kẻ thù của mình hồi trước, bây giờ đứa chết cũng đã chết rồi, đứa hàng cũng đã cúi đầu van xin cắn cơm cắn cỏ rồi, thì trên đời không ai là địch thủ với họ nữa, không ai chống chọi với họ nữa, không ai là bạn bè, là lứa tác với họ nữa, chỉ một mình vò võ, chẳng ai hơn, tự khắc họ cảm thấy lạnh lùng, cô đơn, hiu quạnh, và cũng cảm thấy nỗi đau đớn của sự thắng trận. Nhưng Kallinikos của chúng ta thật chưa hề cảm thấy có cái trạng thái hiu quạnh nói trên. Sau khi đắc ý vì đã gây bao nhiêu phiền toái cho những người xung quanh bằng các hành vi lập dị đến biến thái, Kallinikos là một người bao giờ cũng hớn hở tự đắc. Phải chăng đó chính là cái biểu hiện đủ chứng tỏ rằng: văn minh tinh thần của Hy Lạp nhà gã ta quả là bậc nhất trên hoàn cầu?

"Tôi có nhiều bạn hay không ư? Tôi chẳng ham muốn gì cả, tôi không thèm xúm xít bên người giàu, chủ nhà đất hay kẻ có danh xưng. Tôi sống, gặp gỡ mọi người, bàn luận và không cần biết người ta đang nghĩ gì về mình. Nếu tôi nói chuyện với một ai đó, thì nghĩa là tôi muốn làm thế, chứ chẳng hề xuất phát từ mục đích mua vui, xin xỏ hay tiếng tăm. Tôi nói vì tôi thích nói, thế thôi. Nếu một cuộc hội thoại dần trở nên nhàm chán, thì tôi sẽ ngậm miệng lại và bỏ đi. Và tôi cho là mọi người cũng chuộng cái tính cởi mở và đơn giản của tôi." Kallinikos lại oang oang cái mồm ễnh ương.

Nhưng ngoài những gã lính Đức đang đứng nghe giảng thuyết tới mỏi gối chùn chân mà tay vẫn không buông súng và cấp trên của bọn họ, các thính giả của Kallinikos chẳng có ai cả. Có người muốn hắn im lặng chỉ với một phát đạn nhưng chẳng dám làm gì, nếu không phải là vì sợ giết người vô tội hay vì lòng nhân hậu thương người đối với các tù nhân và muốn cùng họ phá đổ ách thống trị của những kẻ ác bá gây họa cho nhân loại thì cũng là vì sợ hãi ông sếp của họ khiển trách. Trớ trêu thay, ông sếp này cũng vừa mới lộ diện là một tên sát nhân cuồng loạn đã được biến đổi thành quỷ ăn thịt người, nên ai cũng sợ bị hắn trút giận và ăn sạch không còn một mẩu xương, tệ hơn nữa là bị hắn biến thành một cái xác chết vô hồn nhưng vẫn còn khả năng di chuyển và phải sống hết cuộc đời đau khổ với thân xác thối rữa dần theo thời gian. Đúng như chính Rudolf đã viết trong một quyển hồi ký trong trận chiến với quân Hy Lạp tại đầu tháng tư năm 1941, các tù nhân bị kết án tử hình đã gặp hắn đều từng muốn làm đơn cầu xin được chết dưới lò hơi ngạt và bị ném xuống hố chôn tập thể hơn là phải nằm trong nhà xác của hắn và bị hắn hồi sinh thành những thây ma biết đi, nhưng ngay cả khi chết rồi thì vẫn bị hắn đào mồ lên để làm thí nghiệm.

"Cha thằng Kallinikos, đồ tuyệt tự!"

Kallinikos còn như văng vẳng bên tai bấy nhiêu tiếng chửi. Đó là tiếng chửi của một chị ma sơ 30 tuổi đang đi chợ mua rau củ và trái cây về tu viện và gặp ngay Kallinikos đang ngồi hành khất trên đường, chừng hai năm trước lúc quân Đức xâm lược Hy Lạp. Chị ta đi ngang qua gã mà chẳng để mắt tới gã, gã lấy làm tự ái lắm nên gọi chị ta là một con gà mái lông đen tắm nhựa đường. Tiếng chửi vừa quen lại vừa lạ là thứ đầu tiên Kallinikos nghe trong đầu trước khi cái chết đến với gã. Nhưng gã thấy thanh thản đến lạ, vì những bài diễn văn của gã dù có được sản sinh từ cái đầu đầy ảo tưởng cuồng vĩ và cuộc sống nghèo khổ du mục như dân Bohemian vẫn còn hy vọng đánh thức lương tâm của những người ít ỏi đang chịu khó nghe gã dù trong hoàn cảnh trớ trêu.

"Kynikos, à quên, Kallinikos! Con mẹ mày! Cả đến người ở nhà cụ giáo Anastos mà mày cũng trêu ghẹo được, thật là mày làm giặc! Mày báo hại tao cả đêm hôm qua không nhắm mắt được tí nào! Con mẹ mày!" Đó là tiếng mắng của mụ người hầu trong tiệm bánh mì của cụ giáo Anastos tại một con hẻm trong Corinth, cũng diễn ra tầm hai năm trước.

"Con chó không bằng lòng chỉ có một, hai hay ba đứa con: Nó muốn có hàng trăm, hàng nghìn đứa! Chẳng phải mày từng rao giảng chuyện này suốt mấy ngày tháng hồi còn ở Corinth hay sao? Há chẳng phải mày từng nói rằng nếu mọi thứ diễn ra theo cách của mày, thì mày sẽ đứng ra tổ chức hôn lễ cho tất cả đàn ông với tất cả phụ nữ và những đứa trẻ sinh ra sẽ là con của tất cả bọn họ sao? Mày đang nghĩ rằng mày đang sống ổn định với việc thuận theo tự nhiên, nhưng tao thấy ở mày một loạt những thứ này: bảo thủ, kiêu căng, tri thức rởm đời, dốt chữ mà ra vẻ triết gia, lười biếng, tinh thần yếm thế tiêu cực, ảo tưởng sức mạnh, biến thái, dâm ô, thác loạn, cư xử như súc vật."

Cứ mỗi câu kết tội, Rudolf nắm lấy mái tóc bù xù nhiều bọ chét của Kallinikos và đập mạnh vào nền nhà như đập một cái gối lông ngỗng. Hắn không để gã trả lời câu nào mà cứ đánh đập gã. Quả nhiên đúng là người ta ghét gã cũng không sai, dù có khi gã nói đúng.

"Dạ bẩm quan lớn, ngài nói đúng vậy ạ, nhưng tôi xin yêu cầu ngài có thể đứng sang một bên và vui lòng đừng chặn ánh nắng của tôi." Kallinikos vẫn cố cười cợt dù mặt mũi gã đã nát bét.

Nhưng những kỹ năng trào phúng của gã hoàn toàn vô dụng trước mặt kẻ sát nhân máu lạnh. Đốp! Đốp! Đốp! Vẫn chẳng tránh khỏi đòn!

"Mày đã đụng nhầm người rồi! Thằng khốn Kallinikos!" Tên phát xít Đức Rudolf tát mặt gã bằng khẩu súng lục của mình.

Bực mình với sự nhục mạ từ tên tù nhân, Rudolf quyết định trừng phạt gã. Hắn lột sạch quần áo của gã và trói gã vào một cái càng bằng thép.

"Cứ đánh đi, bởi chẳng có cây gậy nào đủ cứng để xua đuổi một con chó như ta khỏi người." Gã người Hy Lạp nói.

"Mày quên là tao có dụng cụ để mổ xẻ thân thể mày sao? Mày muốn sống như con chó theo chủ nghĩa bất cần đời của lão khùng Diogenes, tao chắc chắn sẽ giúp mày toại nguyện. Tao sẽ biến mày thành một con chó mang dung mạo của con người. Tốt nhất là hãy câm cái mồm hôi tanh mùi bùn của mày lại và đừng có mà tào lao."

"Tôi thích những người cho tôi bất cứ thứ gì, tôi sủa oẳng oẳng với những người từ chối, và tôi cắn những kẻ bất lương."

"Mày muốn thì tao chiều! Tao sẽ nghỉ ngơi sau khi chinh phục cả thế giới, nhưng trước khi đó tao sẽ cho mày thành chó để thỏa mãn cái mộng tưởng viển vông của mày!"

Kallinikos cười, đáp lại: "Ngài điên rồi, vì giờ tôi đang nghỉ ngơi, và tôi chưa từng chinh phục cả thế giới. Tôi thấy điều đó là không cần thiết. Nếu đến cuối cùng ngài chỉ muốn nghỉ ngơi, thư giãn thì sao không làm nó ngay bây giờ? Ai bảo ngài rằng trước khi nghỉ ngơi thì ngài phải đi chinh phục thế giới? Tôi nói ngài nghe, nếu bây giờ ngài không nghỉ ngơi thì sẽ không bao giờ nghỉ ngơi được nữa, vì khi chinh phục xong chỗ này, ngài sẽ lại tiến đến mảnh đất khác. Ngài sẽ chết giữa cuộc hành trình của mình."

Rudolf đáp lại: "Tao sẽ không dễ chết thế đâu, cảm ơn lời khuyên này nhiều. Có điều tao phải khuyên nhủ nhẹ nhàng với mày: làm ơn bớt xía vào chuyện nhà người ta và bình phẩm chuyện chẳng liên quan đến mày! Người ta đâu có ăn giật tiền bạc từ thằng khố rách áo ôm như mày đâu mà mày sân si với người ta hả? Một con chó thực thụ không bao giờ biết nói tiếng người, vì nếu như có thể thì chỉ toàn là chuyện tục tĩu."

Rồi hắn hét lên: "Bác sĩ đâu? Kỹ sư đâu? Giúp tôi với!"

Khi một tốp bác sĩ mặc áo trắng và một nhóm thợ sửa máy xuất hiện, Rudolf nhìn Kallinikos và nói với gã: "Đây là cơ hội sống cuối cùng cho mày, sau khi hoàn thành ca phẫu thuật này thì đừng khóc lóc vì sự hối hận sau lựa chọn ngu đần của mày đấy!"

Không để cho vật thí nghiệm của mình chạy trốn, Rudolf dùng chính những lời trích dẫn từ chủ nghĩa khắc kỷ để thao túng tâm lý của vật thí nghiệm.

"Sự giàu có và nghèo đói không nằm ở bất động sản của một người, mà là trong tâm hồn của họ." Đó là câu nói khi Rudolf tiêm vào cổ Kallinikos một mũi thuốc giãn cơ.

Sau khi thuốc phát huy tác dụng, Rudolf dùng dao mổ xẻo bỏ mũi và miệng của Kallinikos, sau đó ráp mõm của một con chó sói để thế chỗ cho phần da thịt bị cắt bỏ. Những móng tay và móng chân của Kallinikos không bị rút bỏ nhưng lại được cường hoá bằng cách cấy ghép những lưỡi dao thép mạ chì gắn chặt vào xương. Tai của gã được thay thế bằng tai chó chăn cừu Đức, mắt của gã được ghép giác mạc của chó Rottweiler. Tất cả những đặc điểm tính cách mạng tư chất mãnh liệt chống cự mọi nguyên tắc xã hội của Diogenes trong huyết quản của Kallinikos hoàn toàn trở thành một mớ trò hề rẻ tiền trước mặt một bác sĩ quân y lạnh lùng người Đức kiêm nhà khoa học điên loạn cực kỳ ám ảnh với việc trao tặng khả năng bất tử và bất diệt cho cơ thể người để đẩy nhanh sức mạnh chiến đấu của quân đội. Gã có gồng mình kháng cự cũng chẳng ngăn cản được tên khoa học gia điên loạn cử động từng đường dao mổ lên thân thể gã, thuốc giãn cơ của hắn có tác dụng nhưng "bệnh nhân" của hắn vẫn được giữ nguyên ý thức để chứng kiến cơ thể mình được biến đổi. Đối với một kẻ vứt sạch mọi nền tảng triết học rườm rà để sống theo bản năng tự nhiên như Kallinikos, số phận trớ trêu đã ném gã vào tay của một tên quái vật đội lốt người cũng vứt bỏ những nền tảng luân thường đạo lý để thực hiện những tội ác ghê tởm mà không những không chút hối hận mà còn vênh mặt tự hào về điều đó với những ngôn từ đạo mạo.

Một con chó thực thụ phải cắn xé đồ ăn sống. Vậy nên, Kallinikos quyết định từ bỏ công đoạn nấu nướng ngay trước khi bị Đức quốc xã bắt giữ. Đầu tiên, gã thử gặm rau, sau đó chuyển sang nhai hạt ngũ cốc. Để tăng độ khó lên, gã bắt đầu ăn thịt sống, và khuyến khích những con chó khác cũng làm theo gã. Mà những con chó khác là ai? Toàn là những người gã cố gắng kết thân để theo trào lưu do gã khởi xướng vì bản thân họ bất mãn với các bất công xã hội Hy Lạp cũng như bị xã hội Hy Lạp ruồng bỏ, những người này rất tuyệt vọng với cuộc đời mình nên cố gắng tìm đường giải thoát và đã được gã chiêu mộ làm đồ đệ. Có người còn nói rằng Kallinikos là một thủ lĩnh của một giáo phái thác loạn rượu chè và tình dục, mà họ cũng đúng một phần vì những "hội viên" của gã đều cư xử không khác gì những kẻ trụy lạc bê tha mà ngày nay xã hội lên án như tội đồ, chứ tín ngưỡng họ tôn thờ là một sự bóp méo trắng trợn của chủ nghĩa Diogenes và hoàn toàn không thờ một nhân vật nào làm thần linh, bất kể đó là Zeus hay Jesus.

"Diogenes đã có lần nói: Thịt người so với mọi loại thịt khác cũng không tệ hơn là mấy, và thật buồn khi phải lãng phí nó. Nhưng với tao, tao mới là người có tiếng nói cuối cùng ở đây. Trước khi mày chết, tao sẽ chích một mũi thần dược vào mày để mày không phải chết nữa. Mày cứ tha hồ mà sống ngông cuồng theo ý mày muốn, nhưng rất tiếc là khi đó mày sẽ không còn nói chuyện ngông cuồng như xưa được nữa. Tuy nhiên, mày sẽ được tự do hành động theo bản năng của một con chó, sẽ sủa như chó, sẽ cắn xé như chó. Vì mày đã trở thành một con chó đúng nghĩa đen rồi còn đâu." Rudolf cười mỉa.

Người Hy Lạp rất ghét Kallinikos vì sự lập dị của gã và đã biết gã sinh ra ở Corinth là nơi xưa kia Diogenes đã trút hơi thở cuối cùng, nhưng cũng có người cảm động vì tinh thần đấu tranh chống lại sự bất công trong xã hội của gã. Những lý do người ta ghét gã cũng có phần đúng. Gã đã từng xông vào một nhà thờ Chính thống giáo và nhảy nhót khỏa thân trên bục giảng của một vị linh mục ngay trước đám tín đồ của ông ta cũng như đi đại tiện tại bàn của linh mục và mang một con gà bị vặt trụi lông đặt lên bàn để nó chạy lung tung trên cung thánh mặc cho các cậu bé giúp lễ của linh mục cố gắng chạy theo nó để đuổi nó đi. Lúc đó, nói là Kallinikos chạy vào nhà thờ trong trạng thái khỏa thân chứ thực ra gã quấn một tấm vải quanh người để che đi cái bụng gầy còm và hạ bộ nhiều lông như lông khỉ. Một lần khác, Kallinikos vào một vườn hoa của một cậu thanh niên tầng lớp trung lưu và rình mò cậu, không chỉ công khai nắm tay chị gái cậu và đòi gạ tình mà còn suýt cưỡng hiếp cô ngay trước mặt mẹ mình khi bà đi chợ về vào buổi chiều cùng người chồng sắp cưới của cô. Cả cậu thanh niên kia không chỉ cũng bị Kallinikos đeo bám và dụ dỗ, mà còn bị gã lạm dụng tình dục dù cậu đã có một tình nhân đồng giới bí mật. Gã Kallinikos còn công khai chế giễu tổng thống Ioannis Metaxas của Hy Lạp vì rất nhiều thứ gã không hài lòng về chính trị và xã hội, giọt nước tràn ly của sự chế giễu là chuyện ông tổng thống này để nước mình thua trận trước quân Đức. Những giai thoại của gã giống như một bản sớ táo quân về cuộc đời của Diogenes được in ấn và biên soạn lại trong thời thập niên 1940, mà bệnh ảo tưởng tâm thần của gã có phần giống như AQ trong truyện ngắn của nhà văn Lỗ Tấn người Trung Quốc. Ngay cả những người tố giác gã với quân đội phát xít xâm lược từ các nước Ý, Đức và Bulgaria cũng không lấy làm hối hận vì bán đứng đồng bào mình, vì bản thân họ cũng bị gã quấy rối và phá phách đến mức công ăn việc làm của họ bị ảnh hưởng tiêu cực, và họ chỉ muốn tống khứ gã đi cho khuất mắt càng sớm càng tốt, bất kể người chọn mặt gửi vàng của họ để làm hắn biến mất khỏi cuộc sống của họ là Hồng quân Liên Xô của khối cộng sản, liên quân Anh-Pháp-Mỹ đại diện cho chủ nghĩa tư bản, hoặc thậm chí là cả bọn phát xít Đức khét tiếng tàn ác và phe phát xít Ustasha là phiên bản đạo phiệt hơn và cuồng tín hơn của chúng ở bên Croatia. Khi gã điên Kallinikos bị lính Đức bắt giam, không một người Hy Lạp nào tiếp xúc với gã khóc thương hay cố gắng giải cứu gã vì gã đã tạo ra một ấn tượng rất xấu xí trong mắt họ, cả những người phe kháng chiến Hy Lạp cũng đã chán ghét gã và chẳng thèm cứu gã vì gã từng chửi bới lãnh tụ phong trào này và cố gắng xông vào một cứ điểm quân sự của quân kháng chiến để ăn trộm lương thực. Và hầu như tất cả mọi người, cộng sản cũng như phát xít và tư bản, độc thần cũng như đa thần và vô thần, đàn ông cũng như đàn bà, người già cũng như thanh niên và trẻ con, đồng tính cũng như song tính và dị tính, người Hy Lạp cũng như người Anh và người Đức, người da trắng châu Âu cũng như bao sắc dân khác ngoài lục địa ấy đang sống cùng thời đại với Kallinikos, tất cả đều phải công nhận rằng tên ngông cuồng Kallinikos là một bệnh nhân tâm thần hết thuốc chữa và là một phiên bản lỗi của vị triết gia theo chủ nghĩa yếm thế hoài nghi Diogenes.

"Các công ước xã hội cản trở tự do cá nhân và cản trở con đường dẫn đến cuộc sống tốt đẹp, trong khi sống thuận theo tự nhiên là cách nhanh nhất để đạt được hạnh phúc. Sống để tận hưởng những gì mình có và không quan tâm đến những gì mình không có. Mày biết chứ? Thật ra, tao cũng giống như mày thôi. Đệ tam đế chế Đức quốc xã đã giúp tao thực hiện những ước mơ điên rồ nhất của tao, vị lãnh tụ Adolf Hitler cũng giúp tao trở thành một người đúng hình mẫu lý tưởng của ngài, và cũng là đúng tiêu chuẩn của tao."

Lúc kết thúc câu nói này, Rudolf đã tiêm thuốc an thần làm toàn thân Kallinikos dịu đi. Hắn lập tức ghép lên da gã tù nhân một loạt những miếng da chó còn nguyên lông được cắt ra từ những con chó đã chết, vừa cắt xẻo vừa may vá liên tục đến nỗi thân thể trở thành một tấm giẻ nham nhở những vết khâu đính những miếng vá lộn xộn.

"Làm người không chịu mà đòi làm chó, đáng đời!" Rudolf lẩm bẩm, con mắt đỏ của hắn loé lên.

Những hơi thở của hắn qua chiếc mặt nạ phòng độc tạo ra những âm thanh rợn tóc gáy, đến nỗi những người đứng bên cạnh phải run rẩy khiếp sợ. Lý do hắn luôn đeo mặt nạ phòng độc có vẻ như xuất phát từ nhiều điều trong quá khứ, hoặc là hắn từng tác chiến trong những trận đấu dùng khí độc thời Đệ nhất thế chiến và đã quen dùng ngay cả khi chấm dứt thời kỳ chiến tranh hoá học, hoặc là hắn đang cố gắng che đi khuôn mặt của mình sau sự cố nổi loạn ở nhà tù khi còn làm cai ngục ở Đức và đã phải dùng đến vi rút xác sống để hồi phục thương tích dù đồng thời có siêu năng lực và biến đổi cơ thể ngoài ý muốn, hoặc là hắn hắn vốn dĩ rất đẹp trai nhưng có một gu thời trang rất lập dị và muốn dùng mặt nạ phòng độc để tạo ra vẻ ngoài đáng sợ để uy hiếp kẻ địch, hoặc có thể là tất cả các lý do nêu trên cộng lại.

Sau khi Kallinikos được thả khỏi nhà tù kiêm lò mổ thịt và phòng thí nghiệm vũ khí của phát xít Đức, không còn ai nhận ra gã nữa. Khi gã ra tù, đó là ngày 10 tháng 5 năm 1941. Gã đã trở thành một người chó vô cùng xấu xí và đáng sợ, một vật thí nghiệm cho vũ khí sinh học biến dị của Đức quốc xã. Người ta (trừ kẻ đã trực tiếp tạo ra hình hài quái vật của gã) không còn nhớ đến tên của gã, vì gã đã trở thành một con chó vô danh tiểu tốt đúng nghĩa đen. Não của gã bị các bác sĩ và nhà khoa học phát xít thoái hoá chức năng bằng sốc điện (electroshock) và cắt não (lobotomy), đến mức những lời nói của gã chỉ còn những tiếng gầm gừ, tiếng sủa và tiếng hú của loài chó. Gã bị nhiễm vi rút hoá zombie của Rudolf và trở thành một con chó săn của hắn, chính gã trở thành một quái vật sát thủ của hắn và được hắn dùng để ám sát và săn đuổi những kẻ địch. Những vết cắn của gã có thể biến một người khỏe mạnh thành zombie chỉ trong vài giây, vì nọc của gã được tiêm ở liều mạnh nhất là 6 mũi thuốc vi rút tiêm cùng một lúc và trước đó gã cũng bị nhiễm vi rút qua vết cắn của Rudolf trong trạng thái kích hoạt siêu năng lực zombie. Sáng kiến của Rudolf khi làm ra dự án người đột biến lai chó săn là để vừa giúp quân nhân Đức giảm thiểu chi phí dùng chó nghiệp vụ trong chiến tranh vừa tống khứ các tù nhân ở các trại tập trung và lợi dụng mạng sống của họ làm bia đỡ đạn trong các chiến dịch quân sự. Điều này đã thành công ở Dachau và Sachsenhausen, hai trại tù tử thần lâu đời và tàn ác của phát xít Đức ngay từ trước khi Auschwitz ra đời. Chắc hẳn tên trùm đưa ra sáng kiến này cũng đã đọc qua rất nhiều tài liệu nghiên cứu về tập tính của các loài động vật họ chó và sách triết học Hy Lạp cổ đại, rồi gộp các nội dung đã học được với những dự án đang làm việc về binh sĩ xác sống và siêu chiến binh bất bại. Rất hiển nhiên nhất là sự tàn ác của thủ phạm đã biến mong ước của gã Kallinikos thành sự thật quả thực rất kinh khủng dù chỉ được thể hiện bằng các bản vẽ và ghi chú dùng để lưu trữ và ghi chép thông tin về cấu tạo cơ thể cũng như khả năng tác chiến của quái vật biến dị người lai chó.

"Loài chó, chúng chỉ cần những thứ thiết yếu cho cuộc sống. Nước. Không khí. Hơi ấm của mặt trời, Vị ngọt của hoa trái. Chúng muốn những thứ có thể dễ dàng đạt được, thế nên chẳng bao giờ đau khổ vì thiếu thốn. Mặt đất đối với nó là một bàn ăn thịnh soạn đã được dọn sẵn và thế giới chính là nhà."

Thật trớ trêu cho gã Kallinikos, chính câu trích dẫn này của Diogenes mà gã đã nghe qua khi còn là người chính là thứ khiến gã càng thèm khát thịt sống, nhất là thịt người. Đúng vậy! Gã đã bị tên khoa học gia phát xít Rudolf tẩy não bằng chính đoạn trích này! Gã càng đói thì càng hung hãn, mà đã hung hãn thì càng giết người một cách man rợ hơn và giết nhiều người hơn. Những người đã sống sót sau khi gặp phải gã và bị gã tấn công đều đồng thuận với nhau ở ngoại hình của gã: toàn thân nham nhở những mảng lông chó ghép lên da thịt, đầu người mõm chó sói, móng vuốt bằng kim loại, hay bò bằng tứ chi và ít khi chạy bằng hai chân, về đêm thường cất lên những tiếng sủa và tiếng hú vừa rợn gai ốc lại vừa thê thảm như đang khóc thương cho con người đã bị lạc mất của chính mình. Như Diogenes xưa kia đã tìm con người giữa ban ngày với ngọn đèn thắp sáng và hành xử như kẻ điên để cà khịa cả thiên hạ, thì ngày nay chúng ta có Kallinikos cũng ngông nghênh ngút trời và thách thức cả dư luận thế giới đến mức Hitler phải ói mật xanh vì quá bực bội.

Nhưng thật tội nghiệp cho gã ấy (có lẽ cũng nên xét đến luật nhân quả nếu có thể), gã đã sinh nhầm thời và đã chọc phải những kẻ gã chẳng nên đụng vào. Gã đã chạm vào một kỳ phùng địch thủ trong làng cà khịa, mà tên này là một kẻ sát nhân mắc bệnh thái nhân cách và thích thú với những sự đau khổ của người khác sau khi trêu đùa với cảm xúc và suy nghĩ của họ. Mà cũng may đời cho gã, chính vì cái tật giỏi nhẫn nhục với cuộc sống ăn mày và tư duy tự huyễn hoặc thắng lợi tinh thần mặc cho tình hình tồi tệ hơn mà gã đã bằng lòng để cho tên tâm thần ấy biến đổi cơ thể gã thành một thứ nửa người nửa thú rất thích cắn càn sủa bậy đúng nghĩa, lời quá rồi còn gì! Thiên hạ chẳng phải đã và đang truyền tụng cho nhau dăm ba cái thuyết vừa siêu thực vừa tầm phào đại loại như bạn nghĩ mình là cái gì thì bạn sẽ là cái nấy, luật hấp dẫn vũ trụ và năng lực tư duy tích cực từ mấy quyển self-help đời đầu của triết gia James Allen, phú ông siêu giàu Dale Carnegie và thần điêu đại bịp Napoleon Hill ngay từ thập niên 1930 đến tận thời chiến tranh vào năm 1941 hay sao? Đấy! Kallinikos từng có suy nghĩ cực đoan rằng mình muốn trở thành chó để sống mặc kệ thiên hạ, giờ gã đã "được tặng" một thân thể nửa người nửa chó giống như gã mong ước theo kiểu lời tiên tri tự ứng nghiệm (self-fulfilling prophecy) vừa rất vui sướng mà lại vừa rất đau khổ. Vui sướng khi trở thành con chó mang hình hài con người và sống như con chó tự tung tự tác muốn làm gì thì làm, nhưng lại đau khổ vì cơ thể đau rát sau phẫu thuật và không còn khả năng nói chuyện như con người được nữa dù lưỡi không những không bị xẻo đứt mà còn được tăng cường khả năng vận động. Đúng là mọi món quà đều có cái giá phải trả tương xứng.

Tuy đã thành công trong nhiều cuộc thử nghiệm tại thao trường cũng như những mặt trận ác liệt khắp thế giới của Đức quốc xã, gã Kallinikos vẫn là vật thí nghiệm bị Rudolf ghét cay ghét đắng khi ký ức cũ của gã thỉnh thoảng quay lại và khiến gã tấn công chủ nhân của mình, dù gã đã trở thành một vật thí nghiệm đầu tiên thành công trong dự án biến đổi con người thành siêu quái vật. Tuy nhiên, gã vẫn được hắn đối xử hiền lành khi gã nghe lời hắn. Còn những kẻ trung thành đi theo tư tưởng của Kallinikos cũng bị Rudolf biến thành những con chó lai người y như gã, nhưng Rudolf cũng chán chường với chúng vì không thể điều khiển chúng hoàn toàn theo ý mình. Mặc dù sau này Rudolf đã lặp lại dự án thí nghiệm zombie người chó đột biến với những tù binh Liên Xô vào năm 1942 và hàng loạt những thí nghiệm vũ khí sinh học khác vào những năm cuối thời Chiến tranh thế giới thứ hai để giúp quân đội Đức chiến thắng, kết quả chỉ được 2000 vật thí nghiệm đạt tiêu chuẩn thành công vào năm 1942 so với kết quả là 10000 vật thí nghiệm hồi ở Hy Lạp và Đức cộng lại, đến năm 1945 thì càng ít hơn nữa.

Mãi đến tận năm 1945, gã người chó Kallinikos được Rudolf thả rông khắp các mặt trận có những binh lính zombie của hắn. Những quân nhân phe Đồng minh (đại diện là Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô) không bị những binh lính con người bắn chết thì cũng bị zombie xé xác, còn nếu như thoát được thì bị bọn zombie đột biến và cả đám chó săn đột biến lai người tiêu diệt. Một số sĩ quan cấp cao của Đức quốc xã đã sử dụng thuốc hoá quỷ của Rudolf và trở thành những zombie cực kỳ thông minh và mạnh mẽ với đầy đủ ý thức về cuộc sống con người trước kia, những kẻ này cũng theo phe của hắn và trở thành những trợ lý đắc lực cho kế hoạch của hắn ngay cả sau khi Đức quốc xã bị tiêu diệt. Kallinikos không còn là con người nữa, mà là một con thú hoang đúng nghĩa của Diogenes một cách tự hào và có pha thêm chút đau xót.

Vào một buổi trưa nắng nóng vào năm 1945, Liên Xô và liên quân Anh-Mỹ tiến công vào lãnh thổ Đức để cùng nhau phá hủy chế độ phát xít. Gần như tất cả mọi nguồn lực quân sự của thế lực phát xít kể cả đội quân xác sống bất tử đều được trưng dụng. Những quái vật được tạo ra từ những dự án vũ khí sinh học đều được mang ra chiến trường. Hai chiếc xe tăng Abrams của Mỹ đã bị một con quái vật mặc tạp dề đồ tể và đeo két sắt lên đầu tiêu diệt bằng sức mạnh phi thường và chiếc búa đập thịt khổng lồ. Người bắn người, người và zombie bắn nhau, nhưng dường như chỉ có phe phát xít sử dụng zombie làm lính chiến cùng với con người. Thậm chí có những tướng chỉ huy cũng lại là zombie và cả bọn này cũng hành cho quân Anh-Mỹ và quân Liên Xô một trận tơi tả. Rudolf lại là một trong những zombie mạnh nhất và thông minh nhất của hàng ngũ này, vì hắn là thủ lãnh của bầy zombie. Con người bị tử trận vẫn còn có thể hồi sinh thành zombie, và những zombie bị hạ đều vẫn có thể hồi sinh. Tuy nhiên, đòn chí tử của Liên Xô đánh vào thủ đô Berlin làm mọi công sức của phe phát xít trở nên tan tành. Những tàn dư của binh đoàn phát xít đều rối loạn: tốp thì kéo nhau ra đầu hàng quân Đồng minh, tốp thì dắt nhau bỏ trốn khỏi Đức và đi lưu vong khắp mọi nơi trong đó có châu Mỹ La Tinh và Thụy Sĩ, tốp thì tự sát tập thể để không rơi vào tay địch. Quái vật người chó Kallinikos bị một người lính Hồng quân Liên Xô tiêu diệt bằng một phát súng trường Mosin Nagant, người này là một cậu thanh niên được xạ thủ bắn tỉa thoại Vasily Zaytsev đào tạo để tham chiến.

Dĩ nhiên Rudolf có dùng phép thuật hắc ám để triệu hồi một binh đoàn quỷ địa ngục từ thế giới siêu nhiên để yểm trợ cho quân Đức, và cũng đã ký khế ước để binh đoàn này bảo trợ cho hắn khi Đức bại trận sau Đệ nhị thế chiến. Đặc biệt nhất, hắn vẫn chăm chỉ sản xuất những thuốc vi rút xác sống sau khi chiến tranh thế giới kết thúc và đã được Mỹ bảo vệ suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, cũng như được đảm bảo bí mật danh tính và an toàn tuyệt đối để phân phối vũ khí sinh học cho Mỹ trong các cuộc chiến tranh toàn cầu của Mỹ. Những mẫu vi rút gây dịch bệnh xác sống do hắn nuôi dưỡng và sản xuất đều liên tục được các tập đoàn quân sự của Mỹ săn tìm và phát triển thành những chủng mới nguy hiểm hơn, trong đó có một chủng được một người lính Mỹ tại Việt Nam tự lây nhiễm vào cơ thể mình để biến thành một zombie cường hoá và gây ra một đại dịch quy mô lớn nhưng đại dịch này đã bị dập tắt khi các zombie mang vi rút kể cả vật chủ khởi đầu đều bị tiêu diệt.

Hơn năm thập kỷ sau, tức là vào năm 1997, người lính đã chứng kiến thí nghiệm vô nhân tính của Rudolf và lúc này đã là một ông lão đã nghỉ hưu ở Frankfurt sau khi nước Đức thống nhất dưới chế độ cộng hoà liên bang theo tư bản chủ nghĩa, đã kể lại câu chuyện của Kallinikos cho những đứa con của mình mà lòng vừa vui vô cùng vừa buồn vô hạn. Người lính ấy tên là Karl. Ông đã hối hận vì không thể ngăn cản được Rudolf thực hiện thí nghiệm tàn ác dù rất khó chịu với sự xúc phạm của Kallinikos dành cho gia đình mình hồi còn tại ngũ. Nhưng nghĩ đến việc Kallinikos đã trả giá quá đắt vì tật nói chuyện không biết suy nghĩ, ông thấy rùng mình và cảm động vì bản thân mình đã sống sót đến khi về hưu ở tuổi già mặc dù thời trẻ đã trực tiếp phục vụ cho tên bạo chúa tàn ác với những thí nghiệm bệnh hoạn trên cơ thể người. Ông tự thuật rằng, nếu như lúc xưa kia ông lên tiếng bảo vệ cho gã tù nhân vô gia cư Kallinikos mà chẳng chịu nhìn vào sắc mặt của Rudolf cũng như tự ý công khai chống lại hắn, chắc chắn rằng không chỉ bản thân ông vong mạng mà ngay cả vợ con ông cũng bị hắn giết luôn rồi, mà khi đã im lặng (điều này ông đã làm trong quá khứ) thì có thể kéo dài thời gian phán xử của luật nhân quả để trừng phạt đích đáng kẻ đã buông lời mạ lị gia đình cũng như kẻ bệnh hoạn tra tấn các tù nhân đã tình cờ biến kẻ ấy thành con mồi đáng thương của mình. Tuy nhiên, Karl vẫn thở phào nhẹ nhõm vì nước Đức đã được giải phóng và bảo vệ khỏi sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít sau khi phe phát xít thua trận trong Đệ nhị thế chiến, nếu không thì ông sẽ bị ép buộc phải nhúng tay vào tội ác chiến tranh đến mức không còn đường lùi và sống trong ân hận đến cuối đời. Ông không muốn chủ nghĩa phát xít trỗi dậy lần nào nữa trên nước Đức, và cũng thực thi ý muốn nay bằng cách công khai ủng hộ những người đang đấu tranh chống lại tội ác của những kẻ kế thừa tổ chức này và tư tưởng chấn hưng chế độ phát xít.

Cũng vào năm 1997, Kallinikos đã thành một nắm xương tàn từ lâu. Những câu chuyện về gã trở thành một bài học đắt giá và đau đớn về cách đối nhân xử thế. Thứ nhất, việc chỉ trích người khác không chỉ làm cho kẻ bị chỉ trích phải chống cự và tự bào chữa mà còn nguy hiểm và làm thương tổn lòng tự ái của người và gây ra oán thù. Tuy vậy, những người Hy Lạp bị gã gây thù chuốc oán bằng cái miệng không ngừng chỉ trích từ trước đó đã đã chọn cách quên đi oán thù với gã sau khi biết chuyện gã đã bị phát xít Đức bắt cóc và đem làm chuột bạch cho những thí nghiệm độc ác để rồi chết trong tủi nhục khi Berlin thất thủ. Họ quên đi sự tồn tại của gã vì chẳng muốn sự độc hại của gã ám ảnh lên mình, và họ tha thứ cho gã với tư cách là những nạn nhân cùng hoàn cảnh bị phát xít Đức ức hiếp hãm hại chứ không phải là với tư cách giữa người với người vì không chỉ gã đâu có coi nghệ thuật giao tế trong xã hội văn minh ra gì mà cả họ cũng chẳng đời nào tha thứ cho những tổn hại nghiêm trọng mà gã đã gây ra cho họ. Thứ hai, đừng tỏ ra tự kiêu và khôn lỏi sái mùa trước mặt người khác, vì bạn sẽ chẳng tài nào biết mình đang giỡn nhây với kẻ có tâm địa ra sao. Phải thừa nhận rằng Kallinikos đã nói lên những suy nghĩ của mình và rất dũng cảm khi dám chống lại tên sĩ quan phát xít Rudolf, nhưng nếu nhìn ở khía cạnh khác, chính vì những sai lầm trong cách tỏ vẻ ta đây khôn vặt và đòi bắt nạt kẻ mạnh hơn mình bằng cách nằm lăn ăn vạ nên cái giá phải trả là bị đánh đập thật tàn nhẫn thật xứng đáng với tật thích chọc tức người ta. Những người đã nhìn thấy hình ảnh Kallinikos bị bọn phát xít phanh thây xẻ thịt trên chiếc cáng đẫm máu và biến đổi thành quái nhân nửa người nửa thú khi vẫn còn tỉnh táo đều cảm thấy chạnh lòng thương, nhưng nếu nghĩ về những hành vi lố lăng phản cảm đến mức gây khó chịu và nguy hiểm cho mọi người thì quả thực đó là cái nghiệp gã phải trả dù nó nặng gấp hơn mười lần tội lỗi của gã và chẳng cần phải như thế.

Bây giờ chuyển kênh sang những nhân vật khác có liên quan đến câu chuyện bi thảm về vật thí nghiệm dự án người chó.

Thứ nhất, là xạ thủ người Nga đã trực tiếp bắn chết vật thí nghiệm người chó vào cuộc tấn công vào Đức năm 1945.

"Thầy Vasily từng bảo tôi rằng trách nhiệm của một quân nhân khi cầm súng là để bảo vệ đất nước và những người mình yêu thương. Lúc tiến đánh vào phía đông Berlin, tôi thấy một con chó lao vào tôi, nó có hình dạng của một con người. Hình dạng con người! Làm thế nào mà một người phụ nữ có thể sinh ra trên đời một con quái vật như thế chứ? Đến khi tôi quan sát rất kỹ vào mặt của con chó, tôi đã gặp ác mộng vào buổi tối của ngày Liên Xô cắm lá cờ lên toà nhà Reichstag của Berlin, nơi đầu não của phát xít. Quý vị có thể cho là tôi điên, nhưng trước khi phản bác tôi thì hãy nghe tôi nói trước đã. Con chó có hình dạng con người không phải là kiểu triết học ẩn dụ kiểu Diogenes, mà là một con người được phẫu thuật chỉnh hình một cách có chủ ý để trở thành một thứ quái vật nửa người nửa chó bằng xương bằng thịt. Cái đầu là của một nam giới tóc nâu rối bù như ổ quạ, phần tai, miệng và mũi đều được ghép trực tiếp từ những bộ phận cơ thể chó, tất cả các bộ phận ghép đều hoạt động rất bình thường. Và tất cả những bộ phận được lắp ghép hỗn tạp đều được kết nối với nhau bằng chỉ khâu và kim bấm dùng trong y khoa. Tôi không biết con người này trước kia là ai, nhưng tôi dám chắc rằng định mệnh xui xẻo đã khiến anh ta trở thành một thứ động vật quái dị người không ra người thú không ra thú. Còn kẻ đã tạo ra anh ta thì chắc hẳn là một bác sĩ phẫu thuật tay nghề rất chuyên nghiệp trong quân đội Đức quốc xã, nhưng phía sau vẻ ngoài bóng bẩy của hắn lại là một tên tâm thần bệnh hoạn."

Thứ hai, là vị linh mục người Hy Lạp đã từng quen biết với Kallinikos.

"Mọi người nghĩ tên hành khất điên khùng này là một kẻ loạn trí, tôi phải cho là đúng. Mọi người nghĩ sao khi tự nhiên có một bãi phân người ngay trước cửa nhà thờ và có một gã ngồi ở đó đi đại tiện? Đây không phải là lần đầu tiên tôi than phiền về tên này, vì hắn còn lẻn vào vườn rau của các ma sơ và ăn trộm cà rốt. Đức Chúa biết điều này, tôi biết điều này, vì một ma sơ đã kể khổ với tôi sau khi bị hắn véo má trên đường đi chợ về. Nghe xong, tôi bực mình cực kỳ. Tôi cầu mong quỷ tha ma bắt cái tên đồi bại này. Đến khi nghe tin Kallinikos bị bắt, tôi thấy nhẹ nhõm trong lòng vì không còn bị phiền phức. Có điều, tôi thấy kinh ngạc và hãi hùng khi biết tin kẻ bắt giữ hắn là phe Đức quốc xã, bọn đồ tể xảo quyệt và khát máu nhất châu Âu với những tội ác ghê rợn. Tôi nghĩ, nếu tôi không trừng trị kẻ phá bĩnh ấy thì người khác sẽ trừng trị, đời tu hành không cho phép tôi can thiệp quá nhiều vào việc sân hận của thế gian và phục vụ Chúa hết trí khôn hết linh hồn. Nhưng khi gặp lại Kallinikos sau khi Đức quốc xã bắt hắn, tôi suýt tiêu chảy và nôn mửa tại chính cửa nhà thờ của mình. Hắn trần như nhộng và toàn thân chi chít những vết sẹo được may vá bằng chỉ y khoa, nhưng khuôn mặt của hắn được gắn những bộ phận của những con chó rất thật, và hắn gầm gừ với tôi. Hắn nhìn tôi như thể sắp xé xác tôi để trả thù việc tôi xua đuổi hắn liên tục trong quá khứ. Rồi hắn vồ lấy tôi, tôi ngất lịm. Đến khi tôi tỉnh dậy, cái mõm chó nhiều răng nhọn của hắn đã rời xa tôi, và toàn thân tôi đầm đìa máu! Một anh lính người Úc đã thấy tôi và đem tôi đi chữa trị. Bây giờ tôi đang định cư ở Úc sau đợt di cư năm 1944 nhưng cứ vào những đêm mất ngủ thì mọi ký ức xưa ùa về trong đầu tôi."

Thứ ba, là một người lính Tây Ban Nha tên là Javier Navarro-Sánchez, người này là lính tình nguyện đánh nhau cho Đức quốc xã và phục vụ dưới trướng của Rudolf Schreiber. Lời kể của người này như sau:

"Tôi chẳng biết gì nhiều về dự án thí nghiệm trên con người để chế tạo vũ khí sinh học của ngài Schreiber, và cũng chẳng tham gia vào dự án này. Có điều tôi quen biết với bác sĩ Adler, một người phụ trách công tác phẫu thuật tái thiết cơ thể người và dự phần vào cuộc thí nghiệm ấy. Có trời chứng giám cho tôi, không ai đủ sắt đá và can đảm đến mức mổ cho bệnh nhân mà không cho họ thuốc mê toàn thân để họ không cảm nhận được đau đớn, huống chi vụ này là một màn tra tấn có ác ý. Tuy nhiên, tôi quyết định sẽ làm ngơ vụ này cho đến khi chiến tranh kết thúc và mọi người đủ bình tâm để nghe tôi tố cáo tội ác. Vì tôi hiểu rõ cái con người của kẻ tôi vâng phục, đó là một tên khốn nạn ích kỷ và rất vui thích với những trò tàn ác, bạn còn hữu dụng cho hắn thì hắn giữ hết mình, chứ không thì hắn bỏ rơi bạn ngay tại chỗ phong ba bão táp rồi để mặc bạn tự chèo chống ở đó mà không quay đầu lại nhìn. Bom rơi đạn nổ và chết chóc hàng loạt vì vũ khí không đáng sợ, đáng sợ là những tội ác chiến tranh chống lại nhân loại bị giấu nhẹm và ngụy biện. Kẻ sát nhân sau khi gây hàng núi tội ác còn nhởn nhơ ngoài vòng công lý là một sự ghê tởm, nhưng đau xót nhất là khi chẳng những không có ai đủ dũng khí và tài lực để tố cáo hắn mà những người vốn dĩ có thể làm được điều đó lại chọn cách mũ ni che tai và im lặng để mặc mọi sự diễn ra mà không gây hại đến đời sống cá nhân mình."

Thứ tư, là một người Hy Lạp tên là Orpheus, người này có một mối quan hệ lãng mạn đồng giới và có người chị ruột sắp kết hôn và suýt bị kẻ lạ cưỡng dâm. Đó chính là cậu thanh niên tầng lớp trung lưu ngày xưa suýt bị Kallinikos hại đời và phá hoại gia đình. Bây giờ Orpheus đã sống cùng Frederick, một nhạc sĩ gốc Áo và định cư ở Hy Lạp. Frederick sống cùng Orpheus từ năm 1953, tròn hai năm kể từ khi Hy Lạp hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Frederick chính là người tình của Orpheus.

"Tôi nghĩ gì về gã lang bạt Kallinikos kia ư? Một con chó ghẻ gớm ghiếc! Một thằng du côn phá làng phá xóm mặt dày! Một tên dâm loạn chẳng biết rằng giới đạo đức là gì! Nghĩ lại thì thấy hắn có tư tưởng khai phóng rất mãnh liệt và đáng để học hỏi, nhưng những gì hắn làm với tôi và gia đình tôi thật quá quắt! Vì hắn mà tôi sắp bị bọn phát xít tấn công! Khi tôi gặp lại hắn sau khi bọn phát xít bắt hắn, tôi nhìn ra được hắn qua ánh mắt dù hắn bị biến đổi thành thứ quái vật nửa chó nửa quỷ. Tôi không chỉ bắn què chân Kallinikos mà còn đánh nhau với tên khoa học gia chế tạo ra hắn, cái gã người Đức mang mặt nạ phòng độc với cây cưa cầm tay và súng lục đấy. Gã người Đức đã thành quỷ từ trước nên tôi không đánh nổi hắn mà không bị hắn cho một nhát cưa vào cổ. May mà tôi sống sót sau khi nghe tên thật của gã ta, tức là Schreiber. Còn con quỷ chó kia ư? Tôi biết hắn trước kia là ai, nên chuyện hắn chết hay sống chẳng còn quan trọng nữa. Frederick luôn ở bên tôi mọi lúc nên đó là lý do tôi cưới anh ấy vào năm 1953."

Thứ năm, là Bertha Schreiber, vợ của Rudolf Schreiber, nay đã có con cháu và chẳng nhìn mặt chồng sau Đệ nhị thế chiến. Bà vẫn rất bực tức về hắn ngay cả sau khi hắn mất tích hàng chục năm.

"Con chó chăn cừu nhà tôi đã chết già, tôi nghĩ chồng tôi sẽ chôn cất nó tử tế. Nhưng khi chồng tôi về nhà sau một buổi nhậu, tôi phát hiện ra sự thật kinh hoàng. Hắn đã cắt xẻ con chó, tiêm virus xác sống vào nó rồi ghép các bộ phận của nó lên một con người! Một con người! Hắn gọi cái thứ kinh tởm đó là người chó săn, người hắn biến đổi là một tên du thủ du thực đáng ghét nhất Hy Lạp! Lạy Chúa tôi! Gã chồng đáng ghét của tôi đã ghép con chó của tôi với một kẻ tởm lợm! Thật là phỉ báng! Ngay cả con tôi nói nó cũng mơ thấy ác mộng về một gã đồ tể khổng lồ đầu két sắt, nên khi tôi nói với chồng tôi về giấc mơ này thì hắn cười khẩy rằng đó là chuyện có thật và chính hắn đã tạo ra con quái vật đó bằng xương bằng thịt, không phải là một con mà là rất nhiều con. Hắn nói hắn làm vậy vì nước Đức vĩ đại, nhưng nước Đức không thể nào trở nên vĩ đại và những tên độc tài bệnh hoạn trong chính phủ được."

Và cuối cùng, chính là thủ phạm đã chủ mưu và trực tiếp thực hiện dự án chế tạo zombie người chó đột biến, không ai khác là Rudolf Schreiber.

"Ai đâu mà rảnh để nhìn thấy một tên gây rối cả vùng Corinth ra vẻ triết gia tái sinh theo kiểu nửa mùa mà hành xử như thằng thiểu năng. Nó muốn làm con chó, ta cho nó làm chó đúng ý nó luôn. Khỏi cãi. Ta chỉ giúp nó thực hiện ước mơ của nó thôi, đừng đổ tội cho ta về vụ chó dại cắn người. Mấy vụ biến người thành zombie thì đúng là ta có làm, và giờ này ta vẫn làm vì vui thích. Nước Mỹ rất nghiện quyền lực bá chủ thế giới và có nền công nghiệp sản xuất vũ khí mạnh nhất thế giới nên sẵn lòng thu mua mọi nguồn tài nguyên có thể nuôi sống nền công nghiệp này, và đó là đối tác của ta dù chính bọn họ thuộc phe đã đánh đổ Đức quốc xã của ta. Thôi, quá khứ là quá khứ, hiện tại là hiện tại. Vào tháng 5 năm 1954, Giáo hoàng Pius XII (chính là cái ông đã vận động cho Adolf Hitler và thể chế phát xít của ông ta tại Đức đấy) đã vận động và đề nghị chính phủ Mỹ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt để giải cứu quân đội Pháp đang bị quân đội Việt Minh bao vây tại trận Điện biên phủ, năm 1954. Hành động nầy của Giáo hoàng không thể nói là đúng được. Hồng Y Francis Spellman và Giáo Hoàng Pius XII vận động chính quyền Mỹ bỏ bom nguyên tử lên đầu quân Việt Minh năm 1954. Trái bom nguyên tử dự định dùng có sức công phá bằng 3 lần trái bom ở Hiroshima. Vụ này ta đã có đọc qua rồi, ta thấy đó là một sự ngu xuẩn vì Mỹ làm theo Spellman thì Mỹ ăn nấm nguyên tử của Nga luôn (nói khẽ điều này cho vui nè, nếu Mỹ và Nga đập nhau bằng bom nguyên tử và chết tươi thì ta sẽ công khai mang Đức quốc xã trở lại ngôi bá chủ toàn cầu; làm ơn nghe xong cái này thì đừng ai ra thưa thớt tùm lum, khổ lắm). Ta mà là ông giáo hoàng này, chỉ cần bay ra Điện Biên Phủ xả mấy thùng dung dịch mang vi rút biến đổi con người thành xác sống là xong chuyện (ta chỉ nói giỡn thôi, chứ làm thật thì ta tự làm tiêu vong chính ta gấp 10 lần vụ Đệ nhị thế chiến, vì cả thiên hạ biết ta là kẻ thiết kế đại dịch xác sống ở châu Âu rồi)."

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip