Ngoại truyện 2 | Tựa núi nhìn sông
Thản nhiên không buồn vui | Ngoại truyện 2 – Tựa núi nhìn sông
Author: Émilie
Genre: Romance, Mystery, Fairy Tales, Family, Fantasy, Crossover, Never-ending.
A/N: Toàn bộ bối cảnh và nhân vật trong câu chuyện đều là hư cấu, mọi sự trùng hợp về tên địa danh đều chỉ mang tính tham khảo hoặc trùng hợp, không có tính xác đáng và không có giá trị nghiên cứu chính sử. Nhân vật lấy cảm hứng từ OTP của mình, tuy nhiên tên đã được thay đổi để phù hợp với bối cảnh
Truyện không phải trinh thám.
Summary: Phủ doãn Phụng Thiên liên tiếp xảy ra những án mạng kỳ lạ, đối tượng gây án dường như có chung một đặc điểm là "bội bạc". Hiện trường gây án luôn vương vãi rất nhiều cánh hoa đào hồng nhạt, thế nhưng bây giờ mới lập đông, đối tượng gây án kiếm đâu ra hoa đào? Huống hồ cánh hoa đào rất tươi, cánh hoa tưởng chừng còn đượm sương, kẻ chết đi giống như vừa trải qua giấc mộng tầm hoan hạnh phúc nhất cuộc đời, rơi vào giấc ngủ vĩnh hằng đầy thơ mộng. Đương lúc còn quanh quẩn giữa muôn vàn nghi vấn, phủ doãn phủ Phụng Thiên, đại nhân họ Ân nhặt được một chiếc lông khổng tước trắng muốt ở dưới ánh trăng.
.
.
.
Sáng mùng sáu tháng Giêng, Khổng Tước tỉnh lại thấy bản thân mình đang nằm trong phòng của phủ doãn đại nhân phủ Phụng Thiên, còn Ân đại nhân thì cứ điềm nhiên làm mấy việc như đọc sách, chăm hoa. Làm bộ như là mình rất tất bật nhưng chỉ loanh quanh ở biệt viện của mình.
Khổng Tước không nhớ lắm hôm qua đã trải qua những chuyện gì ở phủ doãn, có lẽ do y đi chợ Âm Dương về, tâm trạng không tốt lắm nên tới tìm ngài phủ doãn đây giãi bày chăng? Chà, đúng là sống lâu đến mức cái gì cũng dám làm cơ đấy. Khổng Tước thở dài, khi Ân đại nhân cảm thấy y đã tỉnh rồi mà quay người vào trong phòng nhìn y, y nhanh nhẹn biến thành nguyên hình của mình, làm một động tác cúi đầu đầy kiêu hãnh rồi bay vút đi như cách mà y đã tới.
Ân đại nhân chậc lưỡi, đúng là vô tâm mà, tự nhiên quấn lấy người ta rồi tỉnh dậy lại tự nhiên bỏ đi mất.
Và rồi cũng từ đó, phủ doãn Phụng Thiên lại có thêm một lời đồn, gọi là kiểu lời đồn vô thưởng vô phạt. Ấy là không biết từ khi nào, có thể là sau khi vụ án giấc mộng hoa đào kết thúc, hoặc trong dịp Tết năm nay, phủ doãn đại nhân thần thông quảng đại đã gặp gỡ và giao du với một con khổng tước màu trắng. Khổng tước là điềm lành, không ai cảm thấy phiền phức hay lấy làm băn khoăn khi biết phủ doãn đại nhân có sở thích nuôi khổng tước cả, chỉ có điều đồn đại thì vẫn cứ đồn đại thôi. Năm mới ấm no, con người cũng ít việc để làm, ngẫu nhiên sẽ bàn luận dăm ba chuyện của người khác, bao gôm cả những chuyện của ngài phủ doãn đại nhân. Suy cho cùng thì năm năm ở phủ Phụng Thiên, họ cũng không thấy ngài phủ doãn sum vầy bên gia đình, cả cuộc đời dường như chỉ loanh quanh ở đất kinh kì này, nay thấy phủ doãn đại nhân có thú vui mói, lại vẫn là một thú vui đem lại điềm lành thì cũng lấy làm mừng.
Còn việc khổng tước trắng từ đâu mà có thì cũng chẳng ai quan tâm thật, tại bởi điềm lành thì chỉ dành cho quý nhân, phận dân thường như họ rõ ràng chỉ cần ấm no là được rồi.
Rồi dần dần người ta cũng sẽ quen với việc Ân đại nhân của bọn họ thi thoảng sẽ ôm một con khổng tước trắng muốt với cái đuôi dài chấm đất đi ra rồi lại đi vào.
.
.
.
Ngày hôm sau là mùng bảy, chớ đi ngày bảy, đương nhiên Khổng Tước không tới tìm Ân đại nhân. Tới chạng vạng tối, người ta lại thấy có một cái bóng trắng bay vèo một cái vào phủ doãn Phụng Thiên, Ân đại nhân dừng bút, nhìn khổng tước trắng muốt đang đậu trên bàn của mình. Khổng Tước gật đầu khẽ một cái như chào hỏi rồi bay xuống khỏi bàn, lắc mình hai cái, trước mặt Ân đại nhân là một người. Y mặc áo xanh dương nhạt, bông tai không khoa trương như ngày đi chợ âm dương mà đổi lại về đôi bông tai bạch ngọc hình chim công nho nhỏ với cái đuôi khiêm nhường, tóc tùy tiện xõa tung, chỉ buộc bằng một sợi dây màu trắng, chắc bay vội tới đây nên đụng phải hoa đào đang nở, Ân đại nhân thấy có cánh hoa rơi từ trên người y, một cánh, hai cánh, cũng phải tới vài cánh ở dưới sàn.
Ây, mặc dù biết đang là tiết xuân, ấy nhưng mà sau cái vụ ác mộng cánh hoa đào kia, ông đâm ra nhìn thấy hoa đào cũng hơi lạnh sống lưng đấy. Nhưng Khổng Tước cũng nói đi nói lại rồi, rằng thì là dương khí của Ân đại nhân vô cùng thịnh vượng, rồi lại có thêm y tọa trấn để giải quyết mấy vấn đề phiền nhiễu kia nữa, thế nên sẽ chẳng có chuyện Mắt Hoa Đào thứ hai đâu. Nhưng mà người ta đâu thể nào quên một chuyện nhanh như thế được cơ chứ.
Ân đại nhân nhanh chóng rời sự chú ý từ mấy cánh hoa đào rơi dưới đất về phía Khổng Tước. Ông cứ có một cái "ảo giác" rằng kể từ ngày đi chợ âm dương với mình xong, Khổng Tước đâm ra quấn người, hoặc là y có một tâm sự gì đó cần giải tỏa vậy. Trên người Khổng Tước lúc nào cũng đượm mùi tháng năm, nhưng việc y không màng tới việc hai người chưa quen thân quá lâu cộng thêm việc đang là tiết xuân, người ta có xu hướng đoàn tụ sum vầy, lại càng làm cho cái mùi tháng năm của Khổng Tước nồng đậm. Cái vẻ cô độc giống như trôi theo dòng sông, tựa vào bóng núi ấy khiến Ân đại nhân cứ băn khoăn mãi. Chính là như bây giờ, dường như y tạt qua phủ doãn như thói quen, chẳng để làm gì cả, chỉ là bởi ở đó nhiều "người" hơn so với cái bìa rừng cháy khét mà thôi.
Ân đại nhân tự giác rót cho Khổng Tước một chén trà, mùa xuân trà chỉ là trà xanh mà thôi, nhưng nước nóng thì cũng làm ấm người, cái vị đắng của trà cũng khiến người ta tỉnh táo. Khổng Tước nhận lấy, chẳng uống mà chỉ ngửi rồi cầm ở trong tay như đang ủ ấm. Đêm xuân lạnh, vừa có sương rơi vừa ẩm ướt, không thích hợp để chong đèn nói chuyện nhưng cứ im lặng mãi thì chẳng phải là cách.
"Khương... à, ngài Khổng Tước này, hay là mai đi vãn cảnh nhé?"
Khổng Tước nhìn ánh mắt trìu mến của Ân đại nhân, đột nhiên không biết từ chối thế nào.
"Thực ra mấy dịp Tết ta hay có thói quen đi tới thăm một người quen cũ, ầy, không hẳn là người quen cũ, phải nói là người đó có những đồng điệu về lý tưởng với ta chăng? Chỗ ở của người đó hơi xa một chút, nhưng có núi, có sông, có tĩnh lặng, có bình yên, ngài ở đó có thể thư thả hơn."
Khổng Tước do dự, thực ra đúng là y muốn đi đâu cho khuây khỏa, những ngày đầu năm, mà thực ra là đa phần khoảng thời gian y không có cảm giác an tâm, hiếm hoi mới cảm thấy ở phủ doãn này an tâm hơn so với nhiều chỗ khác.
"Tới những nơi không phải địa bàn của ta, ta không chắc chắn có thể bảo vệ chu toàn được cho Ân đại nhân đâu."
"Ầy, không phải ngài bảo rằng mệnh của ta rất khó bị các yếu tố kì ảo tác động hay sao. Với cả gần như năm nào ta cũng sẽ đi vào một ngày nào đó trước nguyên tiêu, chỉ cải trang là một người dân bình thường thôi, không phải đi thi sát gì cả. Vả lại chỗ đó cũng không có nhiều người."
"Những chỗ không có nhiều người thì sẽ nhiều cái khác chứ còn sao nữa..."
Khổng Tước thở dài, nói chuyện với mấy tên thịnh dương khí thật là khó nói hết một lời, vì cơ bản cái y thấy người ta không có thấy, mà nói chính xác hơn là y mà không cẩn thận khi lại gần ông ta thì cũng về nguyên hình khổng tước luôn kìa.
"Nhưng những cái đó đâu có ảnh hưởng đến ta đâu, với thân phận của ngài thì chúng lại càng không phiền ngài. Nhỉ?"
Thế là bằng một cách đưa đẩy nào đó, bên cạnh chén trà nghi ngút khói của ngày mùng bảy Tết, Khổng Tước đồng ý đi vãn cảnh với Ân đại nhân. Dầu biết là ông ta đề nghị như thế do cảm thấy sự bất an và cô độc của y quá rõ ràng, Khổng Tước thì lại càng chẳng tham luyến sự đồng cảm của con người, thế nhưng y hoàn toàn không có cách khước từ sự dịu dàng và ân cần ấy.
Theo lời Ân đại nhân, Khổng Tước lại nghỉ lại một đêm. Ân đại nhân sợ y lạnh thế nên chuẩn bị chăn mền ở phòng của mình, rồi kê thêm một cái giường để Khổng Tước nằm, cứ như thể là từ rày về sau y sẽ ở luôn trong phủ doãn vậy. Khổng Tước cũng không khách khí, nơi này ấm hơn so với phòng của y ở bìa rừng cháy khét, lại còn có thêm cảm giác an tâm, trong phút chốc y còn nghĩ hay là qua Tết mình cứ chuyển luôn vào cái ổ này, dù sao thì nơi ở bìa rừng kia chỉ để làm cảnh thôi mà, y ở đâu mà chẳng cảm ứng được mọi chuyện trong phủ doãn. Thế nhưng chưa kịp cân nhắc thiệt hơn thì mùi hương dịu dàng đã khiến y ngủ thiếp đi trong bình an.
.
.
.
Sáng sớm, Ân đại nhân lại chuẩn bị giống như lần đi chợ Âm Dương với Khổng Tước, con ngựa đen khỏe nhất và bộ thường phục màu xanh đen, bên trên ẩn hiện họa tiết cây tre bằng chỉ bạc, trên cánh tay có hình con báo với hai mắt màu vàng. Ân đại nhân nhìn Khổng Tước vẫn còn nguyên hình là người mà hỏi y: "Hôm nay ngài Khổng Tước muốn ta ôm đi tới đó hay là ngài cũng cưỡi một con ngựa?"
Khổng Tước cân nhắc giữa việc tự đi và nằm trong lòng Ân đại nhân, y hơi e ngại việc khi tới đó nếu y biến hình thì sẽ thu hút sự chú ý của mọi người, dù sao thì đi vãn cảnh không giống với đi chợ âm dương, ở chợ âm dương, y có biến thành nhền nhện tám chân thì người ta vẫn cứ là nhìn y với ánh mắt vô cảm thôi, ai mà biết đó có phải nhền nhện thật hay không, chưa kể tới việc quậy phá nơi làm ăn buôn bán kinh doanh giao thoa của nhiều thế giới, bị phạt không phải nhẹ nhàng đâu. Nhưng đi vãn cảnh thì khác, dù khổng tước trắng có là điềm lành đến mấy mà người ta thấy nó biến thành người thì đều hoảng hốt mà thôi.
"Chỗ đấy không có nhiều người qua lại, bên cạnh ta đột nhiên có thêm một người cũng chẳng có ai để ý cả."
Thế là Khổng Tước yên tâm chọn cách biến thành một con công trắng có cái đuôi dài chấm đất, cuộn tròn trong lòng Ân đại nhân, cùng nhau lên ngựa đi về hướng Tây Nam. Thế nên nói sao thì cũng là vậy, người dân ở phủ doãn Phụng Thiên dần dần sẽ quen với việc phủ doãn đại nhân của bọn họ dăm bữa nửa tháng lại ôm một con công trắng có cái đuôi dài chấm đất vừa kiêu kì, vừa lỗng lẫy rồi thản nhiên thong dong đi giữa thanh thiên bạch nhật mà thôi.
Ngựa phi một đường rất xa, giống hệt như đi chợ âm dương ấy, nhưng do Ân đại nhân biết đường nên cảm giác đi nhanh hơn. Đường đi không tính là khó đi nhưng cũng không hẳn là dễ, từ phồn hoa đô hội chốn kinh kì cho tới khi hai bên đường chỉ còn là mấy hàng cây xanh mướt, phóng tầm mắt ra xa thật xa mới thấy đồng ruộng nhà cửa, từ đường chính cho tới khi một người một khổng tước băng băng trên đường mòn. Gọi là đường mòn vì trông nó cũng ra dáng cái đường, chứ thực ra mà nói, đường này là do người ta đi hoài đi mãi thì thành một thứ bằng phẳng giống đường mà thôi. Khổng Tước ban đầu cũng ngủ, coi tiếng ngựa lọc cọc lọc cọc như không có gì, sau đó hiếu kì mà thức dậy, vươn cái cổ dài ra nhìn ngó xung quanh.
Ân đại nhân thấy Khổng Tước ngó nghiêng như thể lần đầu được đi xa thì ghìm cương ngựa lại, để ngựa bước đi thong thả. Khổng Tước thấy ngựa đang chạy như bay đột nhiên ngưng lại thì đâm ra hơi bất mãn mà nghển cái cổ dài trắng muốt lên nhìn Ân đại nhân. Ông cúi xuống nhìn chim công trong lòng mình, tự nhiên ân cần mà rằng: "Quanh đây thưa người, nếu Khổng Tước ngài muốn nhìn ngắm cảnh vật xung quanh tự nhiên hơn thì biến thành người cũng không sao đâu."
Khổng Tước do dự.
"Không thì cứ bay thẳng theo đường này cũng được."
Khổng Tước cân nhắc, sau đó lắc người một cái.
Ầy...
Ân đại nhân giật mình, suýt chút nữa thì ngã khỏi ngựa. Ông quên mất rằng nếu y biến thành người thì hai người sẽ ngồi chung trên một con ngựa. Đúng là phù hợp cho việc ngắm cảnh hơn nhưng tư thế thì hơi... kì quái. Ây, kiểu mà thế là Khổng Tước nằm gọn ơ trong lòng ông vậy đó, bình thường chỉ là một con chim thì nó cũng không có vấn đề gì cả, nhưng đây là nguyên cả một người ấy. Nhưng mà, trông có vẻ Khổng Tước cũng không quan tâm nhiều tới thế, Ân đại nhân thấy y biến thành người cũng ngồi yên, lặng lẽ ngắm cảnh vật hai bên đường, ngắm mấy cái lá đu đưa trong gió, thi thoảng xen một hai cây hoa mận trắng muốt hoặc một vài cây hoa sắc hồng vô danh. Có lẽ ông nghĩ nhiều quá rồi, nên lặng lẽ giục ngựa đi tiếp.
Hai người giục ngựa đi tới một ngã ba thì ngựa lại ghìm cương lại, phía trước họ là thảm cỏ mênh mông đuổi tới những dãy núi trùng điệp phía xa tít tắp, bên tay phải là một con đường mòn khác, một bên là cánh đồng, một bên là sông xanh biêng biếc, mơ hồ thấy sắc núi xa xôi phản chiếu dưới lòng sông, đường mòn ngoằn ngoèo dẫn về phía núi xanh xa xôi là hai hàng hoa mận trắng muốt. Hai người đi từ khi sáng bảnh mắt, một đường phi ngựa như bay chứ không hề thong dong, vậy nên khi tới nơi, trời vừa hửng nắng xuân, ánh sáng rọi xuống lòng sông lấp lánh, len lỏi qua từng kẽ lá hoa mận, mỗi lần gió nhè nhẹ thôi, cây lá đung đưa, cánh hoa trắng muốt đuổi theo nắng, theo gió. Khung cảnh nên thơ ấy khiến cho hai người e ngại, có phải mình vừa làm phiền đến cây lá hay không. Ân đại nhân và Khổng Tước bất động trên ngựa một lúc thật lâu cho tới khi quen với vẻ đẹp ấy rồi thì mới bắt đầu rục rịch đi tiếp.
"Lát nữa sẽ đưa ngài đi tới suối du thuyền, bây giờ ta đi về phía núi một chút, gặp một người quen."
Ý của Ân đại nhân là tới nơi rồi, ông xoay người xuống ngựa, tiện thể đỡ Khổng Tước vẫn còn ngơ ngẩn nhìn hoa mận bay trong nắng xuống, hai người không cưỡi ngựa nữa mà chầm chậm tản bộ theo con đường mòn ngoằn ngoèo đi về phía những rặng núi phía xa. Không ai nói bất kỳ một câu nào, chỉ yên lặng hít hà hương hoa, hít mùi nắng mới vàng ươm và mùi sương sớm. Thi thoảng Khổng Tước thả nhanh bước chân đi phía trước Ân đại nhân đón mấy cánh hoa mận trắng bay trong gió. Vốn ban đầu Ân đại nhân cũng kệ y thong dong, thảnh thơi, cho tới khi ánh mắt nhìn nắng phản chiếu dưới sông sâu rời về phía Khổng Tước mới ngây ngẩn cả người.
Khổng Tước mặc bộ quần áo xanh nhạt, họa tiết đuôi công chìm trên vải, ánh sáng chiếu lên họa tiết lấp lánh lấp lánh. Y đứng giữa hai hàng hoa mận trắng muốt khi thì như hòa vào làm một với thiên nhiên, khi thì lại như ánh sáng thanh khiết bừng lên giữa sắc xuân. Ân đại nhân quên mất trái tim mình hẫng đi một nhịp, rồi cũng chẳng quan tâm đến sau cái hẫng đó, tim mình đập nhanh hơn. Đúng là người ta vẫn luôn nói, khổng tước trắng là điềm lành, chỉ cần nhìn thấy khổng tước trắng, dù nó có đang mang tâm trạng nào, hoặc chẳng có tâm trạng gì đáng nói thì cảnh đều đẹp ý đều vui.
Khổng Tước "vãn cảnh" phía trước không phát hiện ra ai kia ngẩn ngơ nhìn mình đến ngốc nghếch cả con người, bản tính của y vẫn là một loài chim, mê thiên nhiên, ham đuổi bắt bóng nắng. Có thể vì địa vị mà phải che giấu điều đó đi hoặc không thể hiện quá nhiều biểu cảm trên mặt, thậm chí còn là vì những trải nghiệm cuộc đời khiến cho những cảm xúc yêu thích thuần túy ấy không còn như xưa nữa, thế nhưng trong cái không gian thư thả này, người đi phía sau y nhất định muốn y thả lỏng bản thân mình thôi, Khổng Tước cũng tự cho minh một vài giây phút xao nhãng, trở về với bản tính nguyên thủy của chính bản thân mình. Mãi khi bỏ xa một đoạn rồi y mới phát hiện ra Ân đại nhân vẫn cứ đứng như trời trồng nhìn con đường phía trước. Không phải ông ta nhìn thấy thứ gì không nên nhìn đấy chứ? Ầy, nhưng mà theo lý thì làm sao mà Ân đại nhân thấy nổi mấy cái thứ đó. Y lập tức rơi vào trạng thái cảnh giác cao độ, thả một chút linh lực để thăm dò xung quanh, nhưng đùng là ngoài mấy tiểu yêu hoa mận trắng hoặc vài cổ thụ đang say ngủ thì xung quanh chẳng có gì đáng nói cả.
Khổng Tước quay người lại, lắc lư đi về phía Ân đại nhân. Ông vẫn cứ ngẩn ra nhìn y.
"Ân đại nhân."
"Ân đại nhân này."
"Ân – đại – nhân!"
"À.."
Gọi tới ba lần, Ân đại nhân mới gọi ba hồn bảy vía của mình trở lại trong cái nhíu mày của Khổng Tước.
"Không khí xung quanh rất trong lành, quanh đây cũng rất sạch sẽ, chỉ có vài yêu tinh hoa và mấy gã cổ thụ đang ngủ, Ân đại nhân nhìn thấy cái gì mà như bị bắt mất hồn thế?"
À thì nhìn thấy Khổng Tước đó, nhưng làm sao mà nói thật với y được chứ.
"Ta... ta đang suy nghĩ mấy chuyện đó mà, tỉ như lát nữa sẽ nói gì với "người quen" của ta đó. Làm ngài Khổng Tước đây lo lắng rồi sao."
"Đúng." Khổng Tước chầm chậm dùng cái giọng nói không cảm xúc mà thừa nhận, nghe cũng chẳng giống thừa nhận là mấy. "sợ Ân đại nhân đưa ta đi vãn cảnh một chuyến mà xảy ra chuyện gì thì quốc không thái dân không an, ta tìm đâu một vị quan tốt để bù lại cho người dân phủ doãn."
"Hôm nay Khổng Tước đại nhân còn biết nói đùa với bản quan, có lẽ tâm trạng của ngài tốt lên nhiều rồi có đúng không?"
Ân đại nhân tung hứng với câu nói đùa của Khổng Tước, tiện thể cũng nói rằng tâm trạng của ông tương đối tốt, Khổng Tước không nói gì, chỉ quay lại tặng cho ông một cái nhếch môi sáng bừng trong nắng. Chắc đấy là cách một con chim công kiêu hãnh mỉm cười. Ân đại nhân tự nhủ là như thế.
Hai người đi một đoạn thì tới rìa núi, men theo đường núi, bám theo dòng sông trôi lững lờ, hóa ra nơi mà Ân đại nhân nói là gặp "người quen" là một ngôi đền. Đền nằm men theo bờ sông, dựa núi, từ bất kỳ góc độ nào, đảo mắt bốn phương có thể thấy núi sông trùng điệp, trên bến dưới thuyền, là một không gian cảm giác tấp nập và sung túc, nhưng lại rất mực thanh tịnh bình an.
"Đền này thờ một vị tướng quân từ rất xa xưa, có công thống lĩnh quân sĩ, đánh yên giặc dữ, dẹp loạn bốn phương, giúp dân cứu nước, người được sắc phong là "nhất phẩm đại vương". Bản quan làm quan thời quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, hẳn là không thể hào khí ngút trời như người ấy, thế nhưng luôn tới đây để hy vọng được một phần."
"Là phần mang lại thanh bình có phải không?"
"Ngài Khổng Tước nhìn xa trông rộng, thấu tình đạt lí."
Hai người giống như những người hành hương lác đác ghé tới, cùng đi dọc theo đường mòn, men theo hành lang đi tới nhà đại bái. Khổng Tước để Ân đại nhân tới dâng lễ, thắp hương, bản thân y đi ra phía rìa sông, để gió mạnh tạt qua, không khí trong lành, thoang thoảng hương hoa, quyện với hương khói nhang trong đền, thổi tung tâm tình rối bời, khiến Khổng Tước tĩnh tâm trở lại.
Nhà đại bái sát rìa sông, tiếng chuông đại hồng chậm rãi vang lên, tiếng thanh thúy trong suốt tưởng như lan tràn trên mặt sống lấp lánh, hóa thành muôn ngàn vụn bạc, trôi cùng ưu tư phiền muộn. Tiếng chuông vốn đã vang, gặp nơi bốn bề tựa núi nhìn sông lại càng ngâm nga, thanh tịnh. Khổng Tước phút chốc cảm thấy mình giống như được sinh ra, được gột rửa và thanh tẩy.
Y nhắm mắt, khe khẽ cảm nhận tiếng chuông ngân, tiếng gió vơn đùa qua tóc, ánh nắng nhẹ nhàng ấm áp làm cơ thể trở nên ấm áp, an bình. Lá trong rừng xào xạc, lao xao, y có niềm tin rằng mong ước của Ân đại nhân, là thiên hạ thái bình, quốc thái dân an, là chính bản thân ông là người tạo nên sự thanh bình ấy sẽ thành hiện thực.
Khi Ân đại nhân dâng hương xong trở ra ngoài đã thấy Khổng Tước giống như hoàn toàn thả lỏng, đây mới là Khổng Tước xinh đẹp mà kiêu hãnh ông gặp lần đầu tiên trên cây hoa hòe ở phủ doãn Phụng Thiên chứ không phải Khổng Tước cô độc mang theo vẻ ưu sầu và nặng nề của tháng năm khi ở chơ âm dương.
Có lẽ y không buông bỏ được quá khứ, cũng không thể ngưng lại những trăn trở về trách nhiệm của bản thân mình, thế nhưng cảm giác tự do và kiêu hãnh này vẫn khiến Ân đại nhân rung động. Trong lòng ông cũng nghĩ, có lẽ rồi y cũng sẽ tìm lại được người mà y da diết kiếm tìm ở chợ âm dương ngày đó.
"Ân đại nhân xin điều gì đó."
"Tất nhiên là mong quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, mong ta luôn cẩn thận, chỉn chu, sáng suốt để giúp cho mọi người ấm no."
Khổng Tước gật gù.
"Với cả... ta nghe nói đền này rất thiêng, cầu gì được nấy, vậy nên ta đã mạn phép xin đại vương thêm một điều nữa."
"Ồ?"
"Mong cho người ta quan tâm có thể bình an trong tâm hồn."
Khổng Tước nghĩ mình gặp ảo giác, nhưng rõ ràng khi nhắc đến chữ "người ta quan tâm", Ân đại nhân vừa nhấn mạnh, lại vừa như thể đang nhìn mình. Có lẽ là y gặp ảo giác rồi, chắc là do ở chợ âm dương, bộ dang của y thảm thiết quá khiến cho Ân đại nhân không an lòng, vậy nên cứ hay lấy cơ an ủi y thôi. Thực ra ấy à, cái việc tìm người này cũng đâu phải ngày một ngày hai, dù có tìm được thì... cũng chỉ có thể nhìn từ thật là xa mà thôi. Nhưng trong lòng y vẫn dâng lên một cảm giác ấm áp bí ẩn, có lẽ tiếng chuông chùa trong suốt kia cùng với khung cảnh yên bình khiến cho tâm trạng y tự nhiên tốt lên vậy thôi đó.
.
.
.
Ân đại nhân và Khổng Tước rời khỏi đền, lúc đó mới tính là tâm trạng của cả hai hoàn toàn thả lỏng để đi "vãn cảnh". Họ cùng dắt ngựa quay trở về con đường ngoằn ngoèo đầy hoa mận, đi trở về ngã ba, giục ngựa chạy thêm một đoạn ngắn nữa, hóa ra đi gần tới những dãy núi xanh xa xôi tưởng không thể chạm tới kia là khung cảnh nhìn sông tựa núi hùng vĩ và nên thơ. Người thì không tính là đông đúc, thế nhưng so ra thì cũng tấp nập, rộn ràng.
Hai người thả thuyền dọc theo dòng suối, hai bên suối là hoa gạo đỏ rợn ngợp một góc trời, xen với những loài cây vô danh mà Ân đại nhân cũng không chỉ mặt điểm tên được mà Khổng Tước cũng bảo rằng không phải địa bàn của y nên y cũng không rõ.
"Hẳn là ngài đói rồi, đi thêm một chút nữa tới nơi gọi là "bếp của trời", ở đó có một vài món chay rất ngon và thanh đạm. Lần nào ta cũng tới đó ăn canh."
Thả thuyền nửa canh giờ mới tới được nơi Ân đại nhân gọi là "bếp của trời". Đúng là của ngon vật lạ muốn cái gì là có cái đó, từ canh rau thanh đạm đến chè hoài sơn, mơ ngào đường, Khổng Tước và Ân đại nhân cứ người này một miếng, người kia một miếng, rồi quá đà tới mức mà Ân đại nhân không để ý để Khổng Tước uống một ngụm rượu mơ. Rượu mơ ngòn ngọt chua chua kích thích vị giác nhưng lại ngấm rất chậm. Cho tới khi ông phát hiện ra Khổng Tước cứ ôm chặt lấy mấy bịch mơ ngào đường và một ít hoài sơn về làm thuốc mà ngây ngẩn cả người thì y đã suýt nữa hóa về nguyên hình trước bàn dân thiên hạ.
Thế là đi thì hai người, về chỉ còn lại một người tay xách nách mang một con khổng tước trắng muốt mới uống mốt chén rượu mơ rừng đã say túy lúy chuếnh choáng rúc mặt vào đuôi ngủ khì cùng với đống dược liệu thổ sản y mua. Ân đại nhân giục ngựa về tới phủ doãn Phụng Thiên đã là rạng sáng, thế nhưng cảm giác thành tựu vẫn luôn thể hiện trên đôi môi cứ cười trộm trên suốt dọc đường của ông. Tâm trạng của Khổng Tước tốt lên rất nhiều, tốt hơn hẳn so với ngày đầu họ gặp nhau ở bìa rừng cháy khét hay ngày đi chợ âm dương.
Ân đại nhân ôm Khổng Tước trắng muốt ngủ khì đặt vào cái "ổ" mới xếp cho y trong phòng mình. Đúng là ông có cảm giác sắp tới y sẽ chuyển luôn sang nơi phủ doãn này thật. Ây nhưng mà, lúc này Ân đại nhân mới nhớ ra hai người đi chơi cả ngày với nhau nhưng ông lại quên không hỏi, rốt cuộc chuyện hóa hình của y là thế nào.
Mà thôi thì, lúc nào hỏi mà chẳng được.
– Hết ngoại truyện 02 –
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip