Chapter 6


Được nạp năng lượng chu đáo nhờ bữa sáng béo ngậy gồm món thịt lợn nướng nhồi mơ và một lít sữa, anh rời quán rượu. Phải, là một quán rượu, kiêm cả việc bán thức ăn, anh đã trông đủ già dặn để ung dung đi vào mà không bị bọn bợm rượu say bí tỉ bên trong nhòm ngó. 

Vừa bước chân khỏi quán y như bước ngay vào một trong những bức ảnh bị chỉnh sửa quá lố bởi một tay thiết kế ảnh hạng quèn.

Vài tia nắng ấm áp vàng ruộm hiếm hoi chợt tắt ngóm trên mặt kính cửa sổ rạn nứt của toà pháo đài cổ kính được xây dựng theo phong cách kiến trúc thời kì Phục Hưng, tọa lạc giữa thành phố. Mặt trời nhạt dần thành một khối màu trắng xóa mờ ảo. Dải trời xanh đang trôi phía trên cao bỗng dưng nhường chỗ cho đám mây trắng xốp, giăng kín khoảng trời rộng lớn. Sương ẩm bám vào mọi thứ, dính trên da anh, làm ướt cả quần áo.

Anh đá một ống bia rỉ sét ra khỏi con đường. Rồi một cái nữa. Một con chim đơn độc bay ngang tầm mắt, và rồi vút lên ngọn cây. Một con cào cào bất ngờ đậu trên cổ tay anh.

Màn ảo thuật rùng rợn ban sáng!

Anh khịt mũi bật cười. Những liên tưởng vẩn vơ ấy khiến anh cảm thấy một thoáng nhẹ nhõm, mặc dù chỉ trong chốc lát. Rồi anh bắt đầu để tâm đến việc mình sẽ dành cả một buổi sáng vào việc gì. Quay về cái xó xỉnh kia rồi đánh một giấc ngon lành cho đến khi mặt trời khuất bóng ư?

Thú thực, anh rất muốn nghỉ ngơi, nhưng không phải bây giờ.

Anh cần gặp một người - ân nhân của anh, có thể gọi là vậy - để trao đổi chút thông tin về con thú máy và kết quả sau một đêm làm việc tại cửa hàng pizza, với vai trò của một tên bảo vệ đêm. Nếu tản bộ thì phải mất chừng một phần ba buổi sáng để đến ngọn đồi phía Đông Bắc ngoại ô thành phố, dù sao thì anh cũng chẳng có việc gì quá bận để việc chọn cách thức di chuyển trở nên quá khó khăn.

Anh bước thẳng vào cơn mưa phùn rả rích. Dường như, anh đã quên khuấy mất đôi ủng cao su ở nhà, còn con đường thì nhanh chóng trở thành một dải uốn lượn chìm sâu trong bùn lầy. Khi anh tới được chân đồi, cơn mưa lất phất lúc nãy đã tạnh hẳn, xung quanh cũng chỉ còn lác đác vài ngôi nhà con đơn điệu.

Đi ngang qua ngôi nhà thứ ba hoặc thứ tư, anh bắt gặp một người thanh niên trẻ tuổi đang tưới cỏ. Tóc cậu ta nhuộm màu tím bầm, có lẽ là kết quả của một cuộc lai tạp kỳ cục giữa các nhóm văn hóa ở miền Nam Mexico. Cậu ta đứng đó, mặc áo choàng bông và đi dép lê trong nhà, tưới nước lên bãi cỏ xén quá cao.

Ngôi nhà đằng sau tối om, cửa chóp đóng chặt, biển tên nhà được ốp ngay chính diện cửa ra vào - Dranne - trông không khác những ngôi nhà xung quanh là mấy.

Anh lén lút đảo mắt nhìn, và có lẽ cậu ta phát hiện ra anh, rồi trừng mắt nhìn lại - mặc dù anh hơi sốc khi nhận ra rằng chuyện đó không thể nào xảy ra được - và mắt của cậu ta không có giác mạc lẫn con ngươi, chỉ độc một màu trắng vôi vữa. Cảm giác thật thân quen, nhưng anh chẳng thể nhớ ra đã từng gặp cậu ta khi nào.

Có lẽ anh ta bị mù.

Anh nghĩ vậy, rồi cặm cụi đi tiếp và thôi không để mắt tới cậu ta nữa.

Anh đi trên lối mòn chạy san sát rìa sườn núi, len lách qua đám cỏ dại mọc cao đến thắt lưng rồi sau đó làm một chuyến vượt qua cả hai ngọn đồi trong vòng một buổi sáng khiến anh mệt bở hơi tai.

Vạt sương mù liếm dọc sườn núi, đặc quánh, đến mức anh gần như có cảm tưởng như chính mình vừa đặt chân vào một lãnh địa lạ lùng nào đó bị người ta quên lãng, không được xướng tên trên bản đồ địa lý - nơi thế giới này kết thúc và là cũng nơi thế giới tiếp theo bắt đầu, chỉ cách địa ngục có vài bước chân, lạnh lẽo, ẩm thấp, vắng bóng mặt trời. Nơi mà ánh sáng ban ngày chỉ còn là ký ức.

Đoạn, con đường mòn mất hút hẳn sau thân cây thủy tùng khô quắp đổ rạp dưới đất và thảm dây thường xuân xanh mướt chắn ngang lối đi. Các biển chỉ đường, bong tróc bạc phếch với những mảng gỉ sắt đỏ quạnh, chẳng còn mấy hữu ích. Dấu mốc thực sự là một khu nhà bỏ hoang thấp bè, cây cối mọc trổ ra từ các ô khung cửa vỡ nát bằng nhôm hoặc gỗ sẫm màu kiểu thập kỉ bảy mươi. Có vẻ sắp tới rồi, anh tự nhủ, căn nhà của ngài ân nhân anh, nằm trên ngọn đồi phía Đông Bắc D. F.

Thật khó có thể mường tượng ra được việc một quý ông xứ Houston chính hiệu đã quyết định dành gần một phần hai cuộc đời mình chỉ để bám víu lại nơi này và chấp nhận trải qua hơn hai chục mùa đông rét buốt mà không có ai bên cạnh, ngoài hàng tá cỗ máy trống rỗng vô hồn - thứ mà ông luôn xem và yêu thương như con đẻ.

"À, ta cũng không biết nữa, con trai ạ."

Anh đã hỏi, và đó là câu trả lời của một người đàn ông Mỹ gần đạt tuổi ngũ tuần, khi đang ngồi trên trường kỉ đối diện, ngón tay cái đỡ lấy cằm, ngón trỏ đặt cạnh mũi, trầm ngâm, ngắm nghía bể cá đặt trong góc phòng, nhìn tù nhân vàng óng của nó đang lười nhác bơi lượn lờ thành từng vòng.

"Hoặc, có lẽ là nó giúp ta cảm thấy thoải mái thêm phần nào, hẳn vậy. Một học thuyết lớn lao nào đó chăng? Tin ta đi, Goldie, chắc chắn con không biết và cũng chẳng muốn biết nó đâu. " Ông đã thoáng cười, và điều đó làm anh khó hiểu.

Khéo léo trườn qua một thân cây khổng lồ rêu bám trơn tuột, lối mòn đột ngột rẽ ngoặt. Hàng linh sam bỗng dạt ra như một tấm rèm, rồi nó hiện ra ngay kia, giữa màn sương mù bao quanh - trên đỉnh ngọn đồi rậm rì cỏ dại - căn biệt thự bám rêu phong xanh mướt, trông nó hệt một cái kén thời gian được tẩn mẩn bảo quản bởi màn sương đầy bụi giăng kín cả ngọn đồi ảm đạm. Anh ép sát vào tay vịn mỏng màu xì gà ở bên trái rồi bắt đầu những bước đi khệ nệ trên bậc cấp lát đá gồ ghề.

Thật tệ khi biết phải leo tiếp sáu mươi ba bậc thang để có thể tới đỉnh, nhất là khi vừa trải qua một chuyến vượt đồi, không có thời gian nghỉ lấy sức và mệt đến mức phổi muốn nổ tung thành từng mảnh.

Căn nhà nằm trên đỉnh ngọn đồi - một khu vực hoang vu đầy những cây cọ lùn lá răng cưa và dãy dương xỉ sẫm màu chạy dài cả dặm rừng. Hiên nhà bao quanh. Cổng vòm mùa hè đờ đẫn nhô ra từ phía sau với vài tấm ván lợp mái lệch chỗ, đỉnh vòm hình mũi tên vẫn vươn lên đầy oai vệ, nom cũng không quá tệ, anh nghĩ thế, dù cho vẻ ngoài của nó cũ nát lụp xụp chực đổ dồn xuống triền dốc bất cứ lúc nào đi chăng nữa. Chúng cũng chẳng đủ thu hút để khiến anh nấn ná ở khoảng sân mọc đầy cây dại này lâu hơn nữa.

Nhanh chóng bước qua những tấm ván gỗ ướt rượt, cong vênh, được người đàn ông gọi là "đường đi", ngay lập tức, anh có thể cảm giác lối đi đang dần lún xuống dưới đôi giày cáu bùn và biết được chúng đang ra sức phản đối sức nặng của anh bằng một bản giao hưởng run rẩy cọt kẹt và đinh tai.

Anh đứng trước cửa, lắc lắc mái tóc và luồn tay ra sau gáy, đập chiếc áo sơ mi ướt sũng bởi mồ hôi và sương giá, rồi khi đã làm khô người hết mức có thể - nghĩa là chẳng khô gì lắm, anh biết mình trông vẫn ổn mà không cần chải chuốt - anh bấm chuông và bắt đầu chờ đợi. Âm thanh tiếng chuông cửa rung lên nhẹ nhàng, gọn lỏn - "Bing!" - hệt như tiếng vang trong những cuộn băng ghi âm của trẻ con khi trở mặt băng mà anh từng nghe ở đâu đó trước đây.

Tiếng tru tréo của một con sói phát ra ở đâu đó - âm thanh cô độc giữa rừng rú hoang vắng, nơi mà mặt trời thu mình lại thành một khối tròn màu trắng nhạt thếch và ánh sáng của nó sẽ chẳng thể chạm nổi tới chiếc lá héo quắc, vàng vọt của cây thủy tùng vĩ đại nhất khu rừng.

Anh cố căng tai ra để tìm kiếm một lời chào nồng nhiệt nào đó từ phía sau cánh cửa làm bằng gỗ sồi, và ngay sau đó sẽ là một lời mời gọi hoặc một cái ôm chẳng hạn. Song đáp lại anh chỉ là chuỗi tiếng vo ve không ngừng của lũ muỗi mắt bắt đầu bu xung quanh. Anh tự nhủ chính bản thân nên giữ bình tình, dù tim anh lại đang nện thình thình như muốn nhảy hẳn khỏi lồng ngực. Sự im lặng khiến anh lo ngại.

Thêm một lần nữa. Anh hi vọng chuông cửa không hỏng, tiếng vang của nó nghe có vẻ quá to để bị gán mác 'hỏng hóc'.

Ơn chúa, "Quý ông xứ Houston" đã mở cửa sau hồi chuông thứ hai, chấm dứt nỗi lo lắng vớ vẩn của anh một cách nhanh gọn. Ông mặc chiếc cardigan thùng thình và đang nói chuyện qua chiếc điện thoại vô tuyến kéo dài. Ra hiệu cho anh đi theo bằng cách hất mặt lên hơi nhỉnh hơn so với cổ, ông dẫn anh vào nhà, vừa đi vừa gầm gừ vào điện thoại.

Dù cho quý ông đã cố tình cắt giảm phần lớn âm lượng cho cuộc trò chuyện - để chắc chắn rằng một người bình thường không thể nghe ngóng - thì anh vẫn nghe được, có lẽ ông đã vô tình quên mất vài điều nào đó về anh.

Anh không quá tò mò lắm về chuyện của người khác, nhưng thật khó mà chối bỏ việc chúng cứ không ngừng rót vào tai anh một cách vô tội vạ. Anh khẽ nhướng mày, lấy tay rảnh vuốt ngược mớ tóc còn ướt trên trán, rồi bắt đầu phỏng đoán chủ đề của cuộc trò chuyện đó bằng những âm tiết rời rạc như 'sản phẩm', 'hư' và 'hoàn lại'.

Một đơn hàng đã hỏng và cần được trả về!, anh đoán thế.

Mỗi con thú máy trước khi được xuất xưởng luôn được ông kiểm tra kĩ càng, từ vi mạch đến từng bộ chi tiết máy và hầu như ông chẳng khi nào cho phép bản thân để sót thứ gì nên chuyện sản phẩm bị lỗi rất hiếm xảy ra, tuy nhiên cũng không có nghĩa là không có khả năng. Suy nghĩ đó khiến anh chực nhớ lại một chuyện xấu xí trong quá khứ.

Phải mất một lúc anh mới nhớ ra. Chàng cáo ở tiệm pizza cũ, từng là bạn của anh - Foxy the Pirate - đã trải qua một lần duy nhất và chẳng phải là điều hay ho gì.

Bo mạch của Foxy đột ngột xảy ra sự cố khiến cậu ta bất ngờ rơi vào trạng thái ngủ đông dài dẵng như thể vừa bị đánh thuốc. Tiếng radio vang lên từ đâu đó, nghe chỉ văng vẳng, dần nhỏ đi thành tiếng thì thầm rồi trở nên yên lặng. Cậu ta không hề nghe thấy tiếng bước chân tới gần hay âm thanh rèn rẹt khi chiếc rèm cửa bị vén lên thô lỗ.

Và cậu ta cũng chẳng tỉnh giấc khi con dao sắc lẹm rê dọc theo gò má cậu, xuống xương quai xanh và dừng lại ở ngực trái.

Đẩy mạnh.

...

Lúc Foxy làu bàu tỉnh giấc thì đã phát hiện rằng mình bị quẳng vào một góc tối nhà kho, với tư cách là một đống phế liệu rỉ sét đang chờ đem đi xử lí. Foxy chẳng thể nhận thức bản thân đã thiếp đi được bao lâu, và trong thời gian đấy đã xảy ra những gì.

Hoàn toàn không.

Cậu ta chỉ im lặng nhìn anh bằng khuôn mặt trơ như đá, lúc đó, anh đã hi vọng rằng Foxy có thể tự điều chỉnh được cảm xúc của mình, hoặc, tình trạng hiện tại chẳng đáng để khóe miệng cậu ta nhếch lên nổi thành một nụ cười tử tế.

"Theo nhiều khía cạnh, những kẻ giết người không hề khác tôi hay cậu đâu."

Ý nghĩ đó đập vào đầu Foxy như một cái búa tạ. Bằng một sự nhầm lẫn quái gở, Foxy đã cho rằng anh đang định mớm cho cậu ta cái tội danh giết người.

Hẳn phải có ai đó giật dây quả bóng bay, vì Foxy đột ngột lao ra khỏi góc khuất đen đặc để thít chặt cổ anh bằng cái móc sắt bên tay trái.

...

To be continue.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip