3. Thời kỳ học tập ở Õsaka


Bắt tay vào học Hà Lan học

Tôi không thể làm trái lời anh, nên đành dừng chân ở Ōsaka và xin vào trường tư thục của thầy Ogata. Đó là vào tháng 3 năm Ansei thứ hai (1855-ND). Trước đó, khi còn ở Nagasaki tôi đã học Hà Lan học ở nhà ông thông giám Narabayashi (Do-Lâm) và một ông bác sĩ cũng tên là Narabayashi. Còn bác sĩ Ishikawa Ōsho (Thạch-Xuyên Đào-Sở) khởi nghiệp ở Nagasaki, nổi tiếng và quá sang trọng, nên tôi không dám xin vào, mà chỉ đứng ngoài chỗ điều chế thuốc để học lỏm, có ai tốt bụng dạy cho thì lại gần học. Nghĩa là, lúc đó, tôi chưa học chính thức thầy nào, nên khi đến Ōsaka, vào trường của thầy Ogata thì việc học Hà Lan học của tôi mới thực sự bắt đầu và đã được dạy đọc sách một cách chính quy. Hồi đó, tôi tiếp thu khá nhanh. Trường có rất đông học sinh, nhưng tôi được xếp vào loại học được trong số đó.

Anh em cùng ngã bệnh

Năm Ansei thứ hai (1855-ND) qua đi, đến mùa xuân năm Ansei thứ ba, một chuyện không lành đã xảy ra. Anh tôi đang trong thời hạn làm cho Kurayashiki của lãnh địa, thì bị viêm khớp, bệnh tình rất nặng. Tay chân anh dần dần trở nên khó cử động. Lúc tưởng như gần khỏi, thì tự nhiên tay phải không cầm bút được mà phải viết bằng tay trái.

Cùng thời gian đó, một người đàn anh khóa trên ở trường của thầy Ogata bị cảm thương hàn. Đấy là anh Kishi Naosuke (Ngạn Trực-Phụ), người vùng Kashū (Gia-Châu) đã từng giúp đỡ tôi nhiều, nên khi anh ngã bệnh tôi phải đến chăm sóc. Cùng với tôi còn có anh Suzuki Giroku (Linh-Mộc Nghĩa-Lục), đồng hương của anh Kishi. Hai chúng tôi ngày đêm thay nhau chăm sóc đến ba tuần mà bệnh tình không hề thuyên giảm, đành bó tay. Anh Kishi, người vùng Kashū, theo giáo phái Tịnh độ chân tông, nên chúng tôi bàn nhau hỏa táng và gửi di cốt về cho cha mẹ anh.

Chúng tôi đem thi hài anh Kishi đi hỏa táng ở Sennichi (Thiên-Nhật), Ōsaka và gửi về quê xong thì ba, bốn ngày sau khi từ Sennichi trở về, tôi cũng bắt đầu thấy khó chịu, có vẻ như không phải bị cảm, nhưng lại sốt nặng. Bạn bè tôi đều học ngành y, nhờ họ khám giúp thì ai cũng bảo tôi bị cảm thương hàn, do bị lây từ anh Kishi. Thầy Ogata biết chuyện đến tận chỗ ở của tôi thăm bệnh. Khi đó, tôi ở khu nhà dài dành cho viên chức ở Kurayashiki của lãnh địa trong khu Dōjima. Thầy cũng chẩn đoán là tôi bị cảm thương hàn, phải chữa chạy cẩn thận, không thể coi thường được.

Sự tận tình của thầy Ogata

Có một điều tôi không thể quên được: đó là sự tận tình của thầy Ogata. Khi đến thăm tôi lần đầu tiên, thầy bảo: "Nhất định ta sẽ khám bệnh cho con. Nhưng chỉ khám thôi chứ không thể chữa được. Ta sẽ rối trí lên mất. Lưỡng lự giữa thuốc này với thuốc kia, sau đó mới nhận ra là đã dùng thuốc nhầm và kê lại thuốc khác, cuối cùng sẽ rối tung, không biết phải chữa trị thế nào nữa. Vì tình cảm với người thân, nên không tránh khỏi chuyện đó. Ta sẽ chỉ khám và nhờ bác sĩ khác kê đơn thuốc. Tạm thời cứ theo như thế". Thầy nói và đi nhờ thầy Naitō Kazuma (Nội-Đằng Số-Mã) ở phố Kajiki-machi (Vĩ-Mộc-đinh) chế thuốc cho tôi. Tôi nhận thuốc từ nhà thầy Naitō, nhưng ngày nào thầy Ogata cũng đến khám và hướng dẫn tôi cách bồi bổ sức khỏe.

Trường học ngày nay có quá nhiều học sinh, nên các thầy không thể giang tay chăm lo hết được. Quan hệ thầy trò ngày nay chỉ là dựa trên công việc. Nhưng giữa thầy và trò trong các trường tư thục xưa thân thiết như cha con. Thầy Ogata khám bệnh, nhưng lại bối rối khi cho thuốc, cũng giống như khi thầy chữa trị cho chính con đẻ của mình vậy. Cách đối xử của thầy với tôi không khác gì với con đẻ.

Càng ngày xã hội càng phát triển, quy mô trường mở rộng, điều đó dần mất đi. Tình cảm của tôi khi học trong trường Ogata khác xa với các học sinh trên toàn nước Nhật hiện nay. Tôi thực sự nghĩ mình là một thành viên trong gia đình thầy Ogata. Không thể không nghĩ như vậy được. Thầy Ogata túc trực bên tôi như người cha, nhưng bệnh tình của tôi không phải là nhẹ. Sang đến ngày thứ tư, thứ năm thì tôi bất tỉnh nhân sự và trong suốt một tuần liền không hề biết gì. Cũng may sau đó, tôi đỡ hơn, người có hơi yếu, nhưng vì vẫn còn trẻ tuổi và vốn là người cường tráng, nên sức khỏe hồi phục khá nhanh. Sang tháng 4 tôi đã đi ra ngoài được. Trong khi đó, anh tôi vẫn khổ sở vật lộn với bệnh thấp khớp, tôi thì mới ốm dậy sau cơn sốt nặng, nên không làm gì được.

Anh em cùng về Nakatsu

Lúc đó, anh tôi hết nhiệm kỳ làm ở Kurayashiki, vì có quy định là cứ làm 2 năm ở đó sẽ về lãnh địa. Hè năm đó là anh tôi làm được 2 năm. Tôi mới ốm dậy, có ở Ōsaka cũng không đọc sách được. Chúng tôi bàn tính về lãnh địa có lẽ tốt hơn và hai anh em cùng lên thuyền về Nakatsu. Tôi nhớ, đó là vào khoảng tháng 5 hay tháng 6 gì đó. Mỗi ngày tôi lại bình phục hơn. Bệnh khớp của anh tôi chưa khỏi, nhưng không đến mức nguy kịch. Thế nên tôi lại quay lên Ōsaka. Lúc đó, khoảng tháng 8 năm Ansei thứ ba (1855-ND), tôi đã hồi phục hẳn. Khi quay trở lại Ōsaka, tôi mượn phòng trống trong khu nhà dài ở Kurayashiki của lãnh địa để ở, tự nấu ăn và ngày ngày đến trường của thầy Ogata học.

Anh trai mất và sự khó khăn trong việc trở lại Ōsaka

Nhưng bất hạnh lại ập đến. Tôi nhớ là khoảng ngày mùng 10 tháng 9 năm đó, thư gấp từ quê gửi lên báo rằng, anh tôi đã mất vào ngày mùng 3 tháng 9 và tôi phải về ngay. Tôi vô cùng bàng hoàng, nhưng không còn cách nào khác, vội vàng thu xếp đồ đạc, lên thuyền về ngay. Được ngày gió yên bể lặng, nên về Nakatsu khá nhanh. Khi tôi về đến nhà thì tang lễ đã xong xuôi.

Tôi làm con nuôi nhà chú, nhưng khi người thừa kế của nhà mình mất đi, mặc dù anh tôi có một con gái, nhưng con gái không có quyền thừa kế, nên tôi là em trai của anh phải lên thay. Đó là tuần tự mà người ta cho là đương nhiên. Không cần đợi tôi về, họ hàng thân thích đã họp và quyết định, trong khi tôi không hề biết mình sẽ phải trở thành chủ nhân của gia đình Fukuzawa. Khi về đến nơi, tôi chỉ được thông báo một câu là từ nay sẽ trở thành trụ cột chính của gia đình Fukuzawa. Mà theo lệ xưa, anh mất cũng như cha mất đều phải chịu tang trong 50 ngày. Hơn nữa, vì là người nối dõi tông đường, nên tôi phải thực hiện một số nghĩa vụ và đã bị ra lệnh phải làm những việc tương ứng với bổn phận của một võ sĩ hạng trung.

Thế nhưng tâm hồn tôi thì ở tận đâu đâu, chân đã bồn chồn muốn đi, không thể bình tĩnh ngồi lại Nakatsu để làm những việc đó. Tôi không hề có ý định ở lại Nakatsu chút nào, nhưng theo quy định chính thức của lãnh địa thì phải thực hiện đủ các nghĩa vụ đó, không thể chống lại lệnh được. Tôi đã cố kìm nén lời nói cũng như hành động, ai bảo gì cũng một điều dạ hai điều vâng và đã thực hiện đủ những nghĩa vụ của mình. Trong thâm tâm, tôi luôn muốn được trở lại Ōsaka học tiếp, nhưng nghe chừng xung quanh mọi người khó mà chấp nhận cho đi.

Chuyện những người ở lãnh địa nói chung thế nào thì tạm gác lại, nhưng họ hàng thân thích của tôi đều không thích nhắc đến phương Tây, nên không nói chuyện gì được. Tôi có cha nuôi, sang đó nói chuyện, tiện thể thử ngỏ ý về chuyện trở lại Ōsaka học tiếp, thì ông tỏ vẻ giận dữ và mắng té tát: "Chả phải là con đang nói điều trái với luân thường đạo lý hay sao? Anh gặp điều bất hạnh thì con phải thay anh nối dõi tông đường và phải thực hiện những việc đại sự. Đằng này, con lại định đi học Hà Lan học là với ý nghĩ gì? Con làm ta ngạc nhiên quá đấy!". Trong những lời quở mắng thế này, thế nọ, cha nuôi tôi còn mỉa mai thêm: "Những đứa như con có khác nào người đi vật Sumō, đã gầy yếu lại còn ra oai giậm chân thình thịch?".

Tôi hiểu là không thể thuyết phục được cha nuôi, nhưng những điều tôi đã nghĩ trong lòng thì phải nói ra. Mà nói ra thì vì Nakatsu nhỏ, nên lời đồn lan đi rất nhanh. Mới thoáng mà hàng xóm đã đều biết chuyện.

Gần nhà tôi có bác hàng xóm hơn tuổi mẹ tôi một chút, tên là Yae (Bát-Trọng). Bây giờ, tôi vẫn nhớ mặt bác. Biết chuyện, bác sang rủ rỉ với mẹ tôi: "Tôi nghe nói về việc cậu Yukichi lại lên Ōsaka học tiếp. Cô lại cho nó đi à? Cô có lẩm cẩm không đấy?". Tình hình xung quanh, nói chung, là như vậy. Thân tôi chẳng khác nào chiếc thuyền nan bé nhỏ bị sóng dập dình bên bờ nước, như câu ca trong một bài hát, không có chỗ bấu víu.

Bàn chuyện trực tiếp với mẹ

Trong tình cảnh ấy, tôi thầm nghĩ: "Thế này không còn cách nào khác, chỉ còn nước cuối cùng là nói khó với mẹ thôi. Mẹ đồng ý thì không còn phải sợ ai nữa". Nghĩ thế, nên tôi thủ thỉ với mẹ: "Mẹ ạ, con đã phải vất vả lặn lội đi Nagasaki rồi Ōsaka học, nhưng vẫn còn dở dang. Theo con nghĩ, nếu học hành thấu đáo sẽ có thể làm nên một điều gì đó. Cứ ở trong lãnh địa này thì không bao giờ có thể ngẩng cao đầu lên được, chắc chắn sẽ bị vùi dập thôi! Dù có thế nào con cũng không bao giờ nghĩ là ở lại Nakatsu để bị người ta vùi dập như thế. Mẹ ở nhà chắc sẽ buồn đấy, nhưng thôi, cứ cho con đi đi. Lúc con sinh ra, cha đã bảo sẽ cho con vào chùa làm sư. Bây giờ, mẹ cứ coi như là con đi tu rồi, đừng mong gì nữa".

Khi đó, nếu tôi ra đi thì ở nhà chỉ còn lại mẹ và cháu gái con người anh đã mất. Cháu tôi mới lên ba, còn mẹ tôi đã ngoài năm mươi. Chỉ có hai người, một già một trẻ, nên sẽ rất buồn và cô quạnh. Nhưng tôi đã nói rõ với mẹ rằng: "Con sẽ đi Ōsaka. Mẹ với cháu ở lại trông nom nhà cửa giúp con!". Tôi thưa chuyện như vậy và mẹ tôi cũng là người biết suy đoán tình hình nên bảo:

- Ừ thôi, con cứ đi đi.

- Mẹ cho phép thì dù ai nói gì con cũng không ngại nữa.

- Cứ thế mà theo con ạ. Anh con đã mất, người đã mất đi thì không còn cách gì níu lại nữa. Con đi ra ngoài thiên hạ, có thể chết lúc nào mẹ cũng không hay. Chuyện sinh tử không thể nói trước được điều gì. Thôi, con cứ đi đi.

Như vậy, giữa hai mẹ con tôi đã đưa ra được một quyết định. Và sau đó cũng đến lúc tôi chuẩn bị lên đường.

Bán gia sản để trả món nợ 40 Ryō

Tôi muốn ra đi thì phải giải quyết xong chuyện tiền bạc. "Chuyện tiền bạc" mà tôi nói ở đây là khoản nợ khoảng 40 Ryō , do chi tiêu này nọ trong thời gian anh tôi đi làm theo phiên trên Kurayashiki và chi phí chữa chạy cho anh khi lâm bệnh. 40 Ryō vào thời điểm đó đối với gia đình tôi là một khoản tiền rất lớn, nên nếu cứ để nguyên như vậy, thì không được, cần phải giải quyết cho xong. Nhưng làm thế nào bây giờ? Không còn cách nào khác là phải đem bán mọi thứ.

Có một điều may mắn, cha tôi trước đây là một nhà Nho và ông có một kho sách khá lớn ở lãnh địa. Tính ra đầu sách có đến 1500 cuốn, trong đó có cả những cuốn sách hiếm mà trong thiên hạ chỉ có vài cuốn. Chẳng hạn, về chuyện chữ "Yu" (chữ Hán đọc là "dụ"-ND) trong tên Yukichi của tôi thì có nguyên do thế này. Ngày 12 tháng 12 năm Tempō thứ năm (1834-ND), cha tôi mua được cuốn sách của Trung Quốc với tựa đề Minritsu no Jōyujōrei gồm 66 hay 67 tập gì đó theo đúng sở nguyện của ông. Trong lúc ông đang vui mừng khôn xiết thì đêm đó một cậu con trai được sinh ra. Niềm vui cộng với niềm vui. Và ông lấy ngay chữ "Yu" (Dụ) trong "Jōyu" (Thượng-dụ) để đặt tên cho tôi. Chuyện này tôi được nghe mẹ kể lại. Trong kho sách của cha tôi có cả tập sách chữ Hán hiếm như vậy, nên tôi bàn với mẹ đem bán trước hết là sách, sau đó là những thứ khác.

Tôi tính bán từ những thứ dễ bán, trước hết là những đồ vật có giá trị. Đồ vật có giá trị ở đây phải kể đến tấm câu đối do thầy Rai San'yō viết, bán được 2 Bu tiền vàng, bức vẽ cảnh người và vật ở dưới tán liễu của ông Taigadō (Đại-Nhã-Đường) bán được 2 Ryō 2 Bu, có cả sách của thầy Ogyū Sorai (Địch-Sinh Tồ-Lai) và thầy Tōgai (Đông-Nhai) . Quả thực đó là những thứ quý vô giá, tiếc mà không làm sao được. Còn thanh kiếm Tenshō Sukesada (Thiên-Chính Hữu-Định) dài 2 Shaku (Xích) 1 Shun (Thốn) , được làm khá cẩn thận thì bán được 4 Ryō.

Sau đó, vấn đề là chuyện bán sách. Người Nakatsu không ai mua cả. Ở đó không có võ sĩ nào có thể bỏ mấy chục Ryō ra để mua sách. May có thầy Shira'ishi (Bạch-Thạch) , người đã dạy chữ Hán cho tôi trước đây, nhưng do tranh luận điều gì đó mà bị đuổi ra khỏi lãnh địa. Sau đó, thầy trở thành nhà Nho của lãnh địa Usuki (Cữu-Chử) ở Bungo. Tôi nghĩ, nếu sang nói khó với thầy Shira'ishi sẽ có thể bán được, nên đã sang tận Usuki và thưa chuyện với thầy. Nhờ sự giúp đỡ của thầy, mà lãnh địa Usuki đã mua hết chỗ sách với giá 15 Ryō. Trước hết, tôi đã có trong tay một khoản tiền lớn là 15 Ryō. Ngoài ra, tôi bán thêm tất cả những thứ có thể bán được trong nhà, kể cả bát, đĩa, ấm chén. Cuối cùng, cũng nhặt nhạnh được 40 Ryō, đủ để trang trải nợ nần.

Trong kho sách của cha tôi còn có bộ sách Ekikyōshitsuchū (Dị-kinh-tập-chú) gồm 13 tập, do chính tay thầy Itō Tōgai viết chú thích vào đó. Quả là một tài sản đáng quý. Cuốn sách này sinh thời cha tôi mua khi còn ở Ōsaka và đặc biệt quý hiếm, nên ở phần danh mục sách còn có nét bút của cha tôi ghi rằng đó là cuốn sách hiếm trong thiên hạ và con cháu phải giữ gìn cẩn thận trong nhà Fukuzawa. Dòng chữ đó cũng giống như lời di chúc của cha tôi, nhìn thấy vậy tôi không đành lòng đem bán được. Tôi để lại và hiện nay 13 tập trong bộ sách này vẫn còn ở nhà tôi.

Thêm nữa, tôi còn giữ lại được hai bát ăn bằng sứ đời nhà Đường. Hai chiếc bát này được giữ lại, chỉ vì khi bán đồ lặt vặt, người của cửa hàng gia dụng chỉ trả cho hai chiếc bát đó có 3 Bu. 3 Bu đó là tiền giấy ở Nakatsu, nếu đổi ra tiền Zeni thì chỉ được 19 Mon! Rẻ quá mức! 19 Mon thì có cũng như không. Tôi nghĩ thế nên không bán nữa. Nhưng cũng lạ lùng, vì sau hơn 40 năm, hai chiếc bát đó vẫn còn nguyên vẹn và bây giờ tôi vẫn dùng để rửa bút.

Sao trộm sách dạy về kỹ thuật xây thành

Như trên đã nói, tôi phải về Nakatsu vì một chuyện không may, nhưng trong thời gian này tôi cũng đã làm được một việc. Khi đó, cậu Okudaira Iki cũng từ Nagasaki về, nên tất nhiên theo lễ nghĩa tôi phải đến thăm hỏi. Một hôm, tôi đến nhà Okudaira gặp lại sau một thời gian dài và nói rất nhiều chuyện thì chủ nhà đưa ra một cuốn sách bảo:

- Đây là cuốn sách về kỹ thuật xây dựng thành mới xuất bản ở Hà Lan mà ta vừa mang từ Nagasaki về.

Nghe nói thế, tôi mới xem thì thấy, dù tôi có đi Ōsaka học, nhưng trường của thầy Ogata là trường chuyên về y học nên ngoài những sách về ngành y ra tôi chưa từng bao giờ được nhìn thấy những cuốn sách nguyên bản như vậy. Tôi biết đó là loại sách hiếm và rất quan tâm. Bởi vì khi đó là thời điểm đội tàu của Perry cập cảng và trong khắp nước Nhật người ta xôn xao bàn luận về việc phòng bị cho hải quân. Đúng lúc đó lại có người cho xem sách về kỹ thuật xây thành, nên tôi thấy thật đáng quý và rất muốn đọc thử xem sao. Tôi đã hỏi mượn, nhưng chủ nhân không có ý cho mượn. Sau đó, chúng tôi chuyển sang nói nhiều chuyện khác thì chủ nhân bảo:

- Cuốn sách này ta mua rẻ thôi, có 23 Ryō!

Cậu ta nói như thế làm một cậu học trò nghèo như tôi giật mình đến vã mồ hôi. Tự tôi thì không thể mua được mà chủ nhân lại không có ý cho mượn, nên tôi chỉ còn biết ngồi ngắm và tận trong tâm thầm ca thán về thân phận nghèo khổ của mình. Khi đó, trong đầu tôi nảy ra một kế và bảo:

- Đây quả là một cuốn sách quý, không thể đọc vội vàng được. Tôi lại muốn xem cả sơ đồ và mục lục nữa, không biết cậu có thể cho tôi mượn khoảng bốn, năm ngày được không?

Tôi thử dò hỏi qua như vậy thì cậu ta trả lời rằng:

- Được, cho bay mượn đấy!

Cậu ta nói và cho tôi mượn. Tôi mừng như được của trời ban, liền mang về và chuẩn bị giấy mực ngay để sao từ đầu. Tôi nhớ là cuốn sách dày chừng 200 trang. Về việc sao chép đó tất nhiên tôi không được nói cho ai biết và cũng không được để cho ai nhìn thấy, nên rất khổ sở. Tôi ngồi lỳ trong góc nhà, không ra gặp bất kỳ người khách nào, chỉ ngày đêm miệt mài chép.

Hồi đó, có việc của lãnh địa giao cho là phải ra canh ở cổng thành theo phiên. Cứ hai, ba ngày là lại đến phiên trực một ngày. Những lúc như vậy, ban ngày tôi nghỉ, đêm đến mới lén lút đem ra chép cho đến sáng. Tôi làm như vậy, vì sợ như người ta nói: "Bức vách có tai", nhỡ ai đó phát hiện sẽ bị đòi sách lại ngay. Mà việc bại lộ như thế thì không phải cứ trả sách là xong chuyện, sự giận dữ của nhà Karō sẽ rất đáng sợ. Cứ tưởng tượng ra điều đó là tôi lo lắng đến thắt ruột. Từ khi lọt lòng, tôi chưa bao giờ đi ăn cắp, nhưng khi chép trộm sách tôi đã tưởng tượng ra được tâm trạng lo lắng của kẻ đi ăn cắp.

Qua bao nhiêu âu lo, cuối cùng cũng chép xong. Có hai sơ đồ tôi cũng đã sao lại cả hai. Sao xong lại bí về việc soát lại cho khớp. Nếu không làm được như thế thì không yên tâm, vì có những chỗ có thể mắc sai sót. Lúc đó, ở Nakatsu chỉ có duy nhất một người đọc được tiếng Hà Lan là bác sĩ Fujino Keizan (Đằng-Dã Khải-Sơn). Chú Fujino dường như rất có duyên với gia đình tôi. Hồi cha tôi ở Ōsaka, chú Fujino vẫn đang là theo học ngành y và đã ở trọ nhà tôi. Mẹ tôi cũng đã từng giúp chú nhiều. Tôi thấy chú Fujino là người có thể tin cậy được, nên đến nói khó: "Cháu có chuyện bí mật muốn nhờ chú thế này. Cháu đã trót sao trộm hết cuốn sách mượn của cậu Okudaira, nhưng đang bí về khâu đọc đối chiếu lại. Cháu sẽ đọc bản sao và nhờ chú soát lại giúp, có được không ạ? Đáng lẽ làm ban ngày tiện hơn, nhưng ban ngày thì không thể được. Nhỡ ai biết sẽ nguy to, nên buổi tối cháu sẽ sang nhà chú. Vất vả đấy, nhưng chú gắng giúp cháu nhé!".

Nghe tôi nhờ như vậy, chú Fujino vui vẻ nhận lời. Sau đó, tôi đã đến nhà chú để đọc đối chiếu trong ba, bốn đêm gì đó và đã so được giống y hệt bản gốc. Tôi như người cầm được chắc chắn thứ đồ quý trong tay.

Sau đó, tôi vuốt lại bản gốc thật cẩn thận để chủ nhân không thể phát hiện ra. Tôi làm như không có chuyện gì, đi đến nhà cậu Okudaira Iki và bảo: "Vô cùng đa tạ cậu. Ơn giời, lần đầu tiên tôi mới được đọc một cuốn binh thư lý thú như vậy. Những cuốn sách mới được mang theo tàu nhập khẩu vào như cuốn này mà đem dịch sẽ rất có ích cho những nhà hải quân học. Nhưng với người học trò nghèo như tôi thì không bao giờ có thể có trong tay được. Một lần nữa, xin đa tạ cậu và xin được gửi lại cậu!". Tôi nói như vậy và trong lòng vui mừng khôn xiết, vì mọi việc đã xong xuôi.

Tôi không nhớ rõ đã mất bao lâu để sao lại cuốn sách mà chỉ nhớ mang máng là trong khoảng hơn 20 ngày và dưới 30 ngày gì đó. Chủ nhân của cuốn sách nguyên bản không hề lộ vẻ nghi ngờ. Về phần mình, tôi đã lấy được một thứ quý làm của riêng. Việc đó cũng giống như một kẻ xấu khi đột nhập được vào kho báu vậy.

Nhờ bác sĩ dạy súng thuật!

Lúc tôi sao trộm sách, mẹ tôi thắc mắc: "Con làm gì vậy? Sao mà đêm nào cũng thức khuya, quên cả ngủ thế? Có chuyện gì không? Bị cảm là không tốt đâu! Học thì cũng phải có chừng có mực chứ!". Mẹ tôi cứ nói đi nói lại như vậy, nên đã có lần tôi bảo: "Không sao đâu, mẹ ạ. Con đang sao lại một cuốn sách thôi. Mà việc ấy với sức con thì có thấm vào đâu! Mẹ cứ yên tâm. Nhất định sẽ không sao đâu!".

Sau đó, tôi chuẩn bị đi Ōsaka và đã xảy ra một chuyện khá nực cười. Lần này, để đi ra khỏi lãnh địa, tôi phải nộp đơn xin phép. Chuyện buồn cười đến mức không biết nói thế nào. Từ trước đến nay tôi sống ở trong nhà và khi ra khỏi lãnh địa cũng không cần đăng ký hay làm đơn từ gì cả. Cứ thế đi rồi lại về, nhưng từ lần này, vì tôi đã thành chủ nhân của một gia đình, nên phải nộp đơn xin đi. Tôi bàn với mẹ và đã được đồng ý, nên không cần phải hỏi ý kiến của cha mẹ nuôi nữa. Nhưng nếu đột nhiên mà nộp đơn bảo muốn đi học Hà Lan học thì không được.

Một người quen thân ngầm mách cho rằng: "Viết đúng như thế không được đâu! Đi học Hà Lan học là việc chưa có tiền lệ!" Tôi mới hỏi lại: "Thế thì nên làm thế nào ạ?" "Ừ, thì viết là đi học súng thuật chắc sẽ xong thôi!". "Nhưng nói đến thầy Ogata có nghĩa là nhắc đến một bác sĩ khởi nghiệp ở Ōsaka. Mà cháu nghĩ, việc đi học súng thuật ở trường của một bác sĩ mới là chuyện hiếm có trên đời. Ngược lại, chẳng phải sẽ thành điều bất lợi hay sao?" "Không, chuyện đó, dù chưa có tiền lệ, cũng không sao. Sự thực có thể sai khác cũng được, nhưng phải viết là xin đi học súng thuật mới xong!". Người quen của tôi nói như vậy, nên tôi bảo: "Vâng, thế nào thì cháu cũng phải làm thôi!".

Và tôi viết đơn rằng, muốn đi học súng thuật của thầy Ogata Kōan ở Ōsaka và nộp thì quả nhiên, nhờ đó mà tôi được cho phép đi Ōsaka. Qua đó, bạn đọc có thể hiểu được về thời thế bấy giờ. Không chỉ ở lãnh địa Nakatsu, mà trong cả giới Hán học trên toàn nước Nhật những gì là của phương Tây đều rất không được trọng dụng. Nói một cách thông tục là người ta bịt mũi, khi ngửi thấy hơi hướng phương Tây. Trong thời thế như vậy, chỉ có duy nhất sự kiện Perry cập cảng là làm rung động nhân tâm của họ và chỉ có súng thuật mới được coi là phải theo phương Tây. Có thể nói, điều đó đã mở một đường máu giúp cho đơn xin đi học súng thuật của tôi được thông qua một cách suôn sẻ.

Mẹ ngã bệnh

Đơn từ được thông qua và tôi chuẩn bị lên đường thì mẹ tôi ngã bệnh. Thật không biết phải làm sao! Tôi đã đi nhờ nhiều thầy thuốc, sau nhiều phân tích đã đi đến kết luận là mẹ tôi bị bệnh giun. Tôi đã hỏi bác sĩ rằng nếu bị bệnh giun thì thuốc gì là tốt nhất. Hồi đó vẫn chưa có thuốc Santonin, mà chỉ có Semencina mới được coi là thần dược. Thuốc này rất đắt và hiệu thuốc ở thôn quê không dễ gì có được. Nakatsu có duy nhất một hiệu bán, nhưng để chữa bệnh cho mẹ thì không thể nói đến chuyện đắt rẻ. Lúc đó tôi vừa mới trang trải xong nợ nần và đã dốc hết số tiền còn lại khoảng 2 Shu 1 Bu ra mua thuốc Semencina cho mẹ. Tuy nhiên, thuốc đó thực sự có hiệu nghiệm hay không thì tôi không biết. Bác sĩ ở thôn quê, chưa đủ độ để tin tưởng, nên tôi chỉ còn biết phó mặc số mệnh cho ông trời và ngày đêm tận tụy chăm sóc mẹ mà thôi. Nhưng cũng may có vẻ như không phải là chứng nan nguy, nên khoảng hai tuần sau thì mẹ tôi khỏi. Tôi liền định ngày đi Ōsaka.

Ngày lên đường, chỉ có mẹ và chị lưu luyến tiễn đưa, cầu mong cho tôi bình an vô sự mà không có bạn hữu, họ hàng gì. Tôi lên thuyền đi như thể một kẻ trốn chạy. Đó là vì, sau khi anh tôi mất, chúng tôi đã bán hết gia sản. Trong nhà đồ đạc không có, tiền bạc cũng không. Chúng tôi như những kẻ bần hàn nên cũng không có ai đến thăm hỏi. Tôi ra đi để lại trong căn nhà buồn, lạnh như ngôi chùa cổ mẹ già và cháu nhỏ cô quạnh, làm một cậu học trò vô tư như tôi cũng phải mủi lòng.

Nhận ơn của thầy Ogata

Tôi lên thuyền đến Ōsaka bình yên vô sự. Điều đó không cần phải nói, nhưng đấy mới chỉ gọi là sống sót và đi đến nơi thôi chứ không có gì đảm bảo để học tập cả. Ngồi nghĩ xem nên phải làm thế nào, nhưng không tìm ra phương cách gì, nên tôi quyết định phải đến chỗ thầy và kể thực sự tình. Tôi nhớ là đã lên Ōsaka vào khoảng tháng 11 năm đó và cứ thế đến ngay chỗ thầy Ogata. Tôi kể với thầy rằng: "Anh trai con gặp cơn hoạn nạn không qua khỏi và con đã đến Ōsaka trong tình cảnh gia đình thế này". Sau đó, vì tôi coi thầy như cha mình nên không hề giấu điều gì, kể từ chuyện nợ nần của gia đình, đến chuyện bán hết gia sản...Đại khái là tôi kể rõ mọi chuyện. Kể cả việc sao trộm sách tôi cũng kể:

- Thực ra, con có sao trộm một cuốn sách về kỹ thuật xây dựng thành và mang nguyên lên đây ạ.

Nghe thấy thế, thầy cười bảo:

- Thế à? Con làm chuyện đó vừa xấu lại vừa tốt, nhưng cứ tạm gác lại. Mà trông con khỏe ra đến mức ta tưởng nhìn nhầm đấy!

- Dạ vâng, đúng là mới ốm dậy, nhưng dường như con đã quên cả chuyện bệnh tật hiểm nghèo vào hồi mùa xuân vừa rồi đấy ạ. Con đã hoàn toàn khỏe lại như trước.

- Rất may là như thế. Nhưng nghe chuyện con ta hiểu con không có tiền đóng học phí phải không? Ta muốn giúp con, nhưng với các trò khác thì việc ta chỉ ưu tiên mình con là không ổn. Con đợi đây đã. Mà cuốn sách nguyên bản đó hay đấy. Coi như ta bảo con dịch cho ta cuốn này. Con cứ như thế mà theo!

Thầy nói như vậy và sau đó, tôi trở thành học sinh được ăn ở trong nhà thầy. Thường trong nhà bác sĩ chỉ có người chuyên điều chế thuốc mới được ăn ở như vậy. Thế mà tôi đã không phải là học trò theo ngành y, lại chỉ với danh nghĩa là một người biên dịch đã được ở nhà thầy. Điều đó, tất cả là do hảo ý của thầy Ogata và bà giáo. Thực ra, tôi không cần dịch cuốn sách đó cũng được, nhưng như người ta vẫn nói: "Sự thành thực sinh ra từ lời nói dối". Và tôi bắt tay vào dịch cuốn sách đó thật.

Tật uống rượu và cuộc sống thuở học trò

Từ trước đến nay, tôi không ở trong trường của thầy Ogata mà thường học xong thì về Kurayashiki của lãnh địa, nhưng khoảng từ tháng 11 năm Ansei thứ ba (1856-ND) tôi vào ở trọ luôn trong trường. Cũng nhờ thế mà những hoạt động cũng như cuộc sống học tập của tôi mới thực sự bắt đầu. Trường của thầy Ogata vốn là một trường học đào tạo theo tư tưởng tiến bộ. Những người vào đó học thường là những cậu học trò linh hoạt và hiếu động. Nhưng một mặt khác, họ lại là những thanh niên đầy hoạt khí và ham quậy phá. Có thể nói, trường học là "sào huyệt" của những kẻ cứng đầu, cứng cổ. Trong số đó, tôi là kẻ nổi bật trong những trò quấy phá, nhưng cũng phải nói rằng, về bản chất tôi khác với những người khác.

Điều phải kể trước hết về thói xấu của tôi là tật nghiện rượu. Đấy là khuyết điểm lớn nhất của tôi. Sau này, khi đã trưởng thành hơn, tôi có nhận thấy đó là thói xấu, nhưng như đã thấm vào máu thịt, tự mình không thể bỏ được. Cả điều đó tôi cũng xin "tự thú" rõ ràng, không hề giấu giếm. Nói công khai ra tật xấu của mình là điều không hay ho gì, nhưng nếu không nói điểm cốt yếu đó, thì khó bàn đến một sự thực khác nữa, nên trước hết tôi xin mạn phép được kể lại về "lịch sử" uống rượu của tôi từ hồi còn nhỏ.

Không phải là lớn lên mới uống, nhớ vị, thành quen uống rượu, mà tật này đến với tôi tự nhiên như một thói bẩm sinh. Hồi bé, mỗi lần bị đem ra cạo tóc tôi đều thấy đau, rất khó chịu. Những lúc ấy, mẹ tôi hay nịnh: "Để mẹ cắt đi, rồi mẹ sẽ cho uống rượu!". Và cứ sau khi được uống thì tôi chịu được đau và để mẹ cắt tóc, mà không hề khóc. Điều đó tôi nhớ rất rõ. Đó là tật xấu thiên tính và là điều thực sự đáng xấu hổ. Sau đó, tuổi đời càng nhiều lên, cho đến năm 20 tuổi tôi chưa làm điều gì phạm pháp, tính cách nghiêm chỉnh, nhưng nói một cách thông tục thì tôi là một thiếu niên chỉ cần nhìn rượu là không còn thấy gì được nữa. Có thể nói tôi thích uống đến mức nhìn thấy rượu là hầu như quên hết tất cả mọi thứ.

Một năm khổ sở nhịn rượu

Khi tôi đi Nagasaki là lúc 21 tuổi, nhưng tính đúng ngày tháng thì mới chỉ 19 tuổi, chưa đến tuổi vào đinh, nhưng đã là một tửu khách tài tình. Tôi thèm uống rượu nhiều khi không chịu đựng được. Nhưng vì tôi đi học là để đạt cho kỳ được sở nguyện của mình, nên trong tâm tự mình phán xét mình và không thể đành lòng uống rượu. Trong suốt một năm, tôi nhịn rượu mà khổ sở, tưởng có thể chết. Thời tôi ăn ở nhà thầy Yamamoto, khi nào có tiệc tùng, tôi có thể ăn trộm rượu để uống. Hoặc là, nếu có, dù chỉ là chút tiền Zeni thôi thì ra phố có thể dễ dàng mua rượu được, nhưng tôi chỉ lo nhỡ lộ tẩy, nên cố kiềm chế. Trong suốt một năm, tôi không hề để lộ bản chất của mình.

Vào mùa xuân năm sau, khi rời khỏi Nagasaki và đến Isahaya lần đầu tiên tôi mới được uống rượu một cách thoải mái. Sau đó một thời gian, vào mùa đông năm Bunkyū (Văn-Cửu) thứ nhất (1861-ND), trên đường đi châu Âu, trong thời gian tạm trú khoảng hai ngày khi tàu ghé vào Nagasaki, tôi có vào thăm thầy Yamamoto, nói cảm ơn thầy đã giúp đỡ trong những năm trước và kể về chuyến đi châu Âu lần này. Khi đó, lần đầu tiên tôi đã uống rượu công khai và nói thật với thầy rằng, trước đây tôi chỉ giả vờ không biết uống, chứ thực ra là một kẻ bợm rượu. Tôi uống nhiều đến mức mà nhớ là đã làm cho vợ chồng thầy giáo phải kinh ngạc.

"Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"

Từ nhỏ tôi đã thích rượu, vì rượu tôi đã từng làm những chuyện không hay và không hề giữ gìn sức khỏe cho bản thân. Nhưng xét ở một mặt khác, tính cách tôi khá nghiêm túc. Hồi nhỏ, dù tôi có học chung với những cậu học trò ngỗ nghịch, hay cả sau khi lập gia đình và giao tiếp với mọi người trong xã hội, tôi cũng không bao giờ tỏ ra hơn người.

Trong xã hội đen, có thể tôi lạ lẫm, không thích, nhưng dù có như thế thì trên thực tế, tôi vẫn biết tường tận về chuyện làng chơi, chuyện trăng hoa. Đó là bởi vì tôi hay chú ý lắng nghe khi người khác say sưa nói những chuyện bậy bạ và để trong lòng. Vì vậy, không chuyện gì là tôi không biết.

Chẳng hạn, tôi không biết chơi Igo (vi-kỳ) , không hề hiểu luật chơi, nhưng khi chúng bạn trong trường bắt đầu chơi thì tôi cũng hùng hổ lao ra và nói như là thành thạo lắm. Tôi nói linh tinh: "Quân đen thế là toi rồi", "Thế thì lại bị "chơi" lại thôi", "Cứ chủ quan là chính mình sẽ nguy đấy", "Dốt thế!", "Có thế mà không biết à?"... Tôi vốn không hiểu gì về cờ quạt, nhưng cứ khuyên bảo lung tung, vì nhìn mặt hai bên sẽ hiểu được ai có vẻ sẽ thua và đứng ngoài khen người có vẻ sẽ giành phần thắng, chê kẻ có vẻ sẽ thua, thì chắc là sẽ trúng. Vì thế, chúng bạn tưởng tôi chơi cờ giỏi, liền rủ: "Fukuzawa vào chơi một ván không?". Tôi ra vẻ cao giọng: "Cậu nói linh tinh gì thế? Tớ chẳng phí thời gian, công sức mà đấu với các cậu!". Cứ như thế, tôi nói dối được chừng một năm. Và cái kim bọc chỉ lâu ngày cũng lòi ra, dần dần mọi người phát hiện ra tôi không hề biết chơi và đã chê trách nhiều.

Chuyện về xã hội làng chơi, tôi cũng hay nghe người khác kể lại và quan sát nên biết rất rõ. Biết, nhưng bản thân thì vững như đá, không hề sa ngã. Tính cách đó có thể gói bằng một câu: "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Đùa nghịch cùng chúng bạn, nhưng vẫn giữ sự trong sạch

Điều này chính tôi cũng cảm thấy khó hiểu, nhưng có lẽ là do nền nếp của gia đình. Từ nhỏ, năm anh em chúng tôi tách biệt hẳn với những người khác và được mẹ dạy dỗ. Dần khi lớn lên, không được nghe thì thầm cũng như công khai, cũng không bao giờ nói về những chuyện xấu ở bên ngoài. Chúng tôi giữ vẻ trong sạch, liêm khiết, không như những gia đình khác ở trong lãnh địa. Khi tôi đi ra khỏi nhà và dù có kết giao với những người khác, thì vẫn giữ nguyên nền nếp, gia phong đó. Tôi cho đây là điều đương nhiên, chứ không hề có sự cố gắng hay kiềm chế nào.

Bởi vậy, trong thời gian học ở trường của thầy Ogata, tôi tuyệt nhiên không một lần đến những nơi mà những khách làng chơi thường lai vãng. Nhưng như đã nói ở phần trước, không phải vì thiên kiến mà tôi ghét những trò đó, nên sợ hãi, né tránh hay mang bộ mặt bất bình ra vẻ chân chính. Về chuyện ở làng chơi hay những quán trà tửu, tôi vẫn huyên thuyên với chúng bạn, hỏi đi đáp lại nhau và còn trêu đùa bạn bè: "Các cậu ngớ ngẩn lắm! Làm gì có những kẻ ngốc chỉ đi thoáng qua quán trà tửu rồi về như các cậu. Tớ chưa vào mấy chốn lầu xanh bao giờ. Không bao giờ đi, nhưng một khi mà nổi hứng vào chơi thì sẽ hào hoa gấp trăm lần các cậu cho mà xem! Làm những việc ngớ ngẩn như các cậu thì thôi đi còn hơn! Dù sao các cậu cũng vẫn không đủ "phẩm chất" để đi trăng hoa, chơi bời. Nhà quê một cục lên đến thành phố mà chập chững học thói chơi bời ở quán trà tửu à? Ngu ngốc đến thế thì giúp ích gì cho đời được?".

Tôi nói với người khác gay gắt như thế và trên thực tế, tuyệt nhiên tôi không bao giờ đi ngược lại lời nói của mình. Vì vậy, những người xung quanh không thể coi thường tôi được. Có nhiều bậc quân tử, học giả thường trầm ngâm suy nghĩ sự đời, trong thâm tâm luôn cho rằng việc người khác làm là xấu và nuốt sự bất bình vào trong. Còn tôi, khi quan sát một hành động hay nghe chuyện của người khác không bao giờ cảm thấy lo lắng, bất bình với họ, mà luôn cùng làm với họ, nên ngược lại rất thú vị.

Răn đe bạn học

Về chuyện uống rượu thì kể không xuể, nhưng có một chuyện đáng nhớ thế này. Mùa xuân năm Ansei thứ hai (1855-ND), khi từ Nagasaki lên Ōsaka và vào trường thầy Ogata thì ngay hôm đó, trong lần gặp đầu tiên, một cậu học trò tá túc trong trường hỏi:

- Cậu từ đâu đến?

- Từ Nagasaki!

Đó là phần đầu của câu chuyện. Tiếp đó, cậu ta bảo:

- Thế à? Tôi muốn sau này sẽ có thể kết thân với cậu. Thế nên mình đi làm một chén đi!

Cậu ta đề nghị như thế, nên tôi đã trả lời:

- Mới gặp nhau lần đầu, nhưng tôi cũng xin mạn phép nói về mình một chút. Tôi vốn là một tửu khách, một đại tửu là đằng khác. Được uống thì tôi rất vui. Cho tôi đi theo với. Tôi muốn được đi theo ngay bây giờ! Nhưng để tránh có chuyện đáng tiếc xảy ra, xin nói trước là tôi không có tiền! Thực ra tôi vừa chân ướt chân ráo từ Nagasaki lên, ngay cả tiền học còn đang chưa biết có đóng được hay không. Đến bây giờ vẫn chưa biết có tiền hay không nữa. Thế nên, tiền để uống rượu thì tôi không có nổi một xu. Nhưng nếu được ai rủ, tôi rất sẵn sàng. Nhất định anh cho tôi đi với nhé!

Tôi nói như vậy, nhưng cậu học trò đó lại bảo:

- Làm gì có chuyện ngu ngốc như thế? Đi uống thì đương nhiên là phải cần tiền. Chỉ có chút tiền đó mà chẳng lẽ cậu lại không có?

- Dù anh có nói thế nào thì chuyện tôi không có là không có! Chỉ vì anh có ý rủ thì tôi muốn đi mà thôi!

Câu chuyện chỉ dang dở như thế và ngày hôm đó qua đi. Ngày hôm sau, tôi cũng đi từ Kurayashiki của lãnh địa đến trường và gặp cậu học trò hôm trước:

- Chuyện hôm qua đang nói dở, nhưng anh định thế nào? Hôm nay, tôi cũng muốn uống rượu. Anh dẫn tôi đi được không? Tôi đang muốn đi quá đây!

Tôi nói ra chiều giục giã thì cậu ta bảo:

- Tao có ngu đâu mà làm như thế?

Và thế là chúng tôi chia tay nhau luôn.

Sau đó một, hai hay ba tháng gì đó, tôi đã hiểu mọi việc ở trường, biết được mặt, nhớ được cả tên mọi người và học bình thường thì một hôm tóm được cậu bạn mà tôi vừa kể. Tóm được và trực diện với cậu ta, tôi bảo:

- Mày nhớ tao chứ? Hôm tao từ Nagasaki lên lần đầu tiên vào xin học, mày đã nói gì? Mày chẳng đã rủ tao đi uống rượu đấy à? Nghĩa là mày nghĩ học sinh mới nhập học thì có tiền, nên mới rủ rê thế chứ gì? Không cần nói, tao cũng biết tỏng rồi! Lúc ấy, tao đã bảo thế nào? Tao đã bảo là rất muốn uống, nhưng không có tiền nên không uống được. Hôm sau, lúc tao giục thì mày lẳng lặng không nói đến nửa câu. Thử nghĩ mà xem! Chỉ có Yukichi mới dám nói mạnh như thế! Lúc đó, tao đã quyết một điều: Mày còn vòi vĩnh nữa là tao sẽ vật ngã ngay tại đó và kéo lên chỗ thầy! Không biết có phải vì mày thấy nét mặt tao hiện rõ ý chí như thế không, nhưng mày đã không làm gì thêm nữa mà đành thu lại. Mày là loại người mà có giáo dục thế nào cũng không nên người được! Để những kẻ như vậy ở trong trường thì không khác nào loại côn trùng sống ký sinh trên thân thể sư tử. Những kẻ như mày chỉ làm xấu trường đi thôi! Từ nay, nếu tao gặp học sinh mới nào kêu ca về chuyện như thế này, tao sẽ nghĩ đó không phải là việc của người khác mà chính là tao bị như thế. Tao sẽ túm ngay lấy mày và đưa thẳng lên chỗ thầy, mà không cần phải nói với ai lời nào. Mày có muốn bị thầy xử phạt không? Cứ chuẩn bị tinh thần đi!

Đã có lần tôi đã đe cậu bạn bằng những lời gay gắt như thế.

Trở thành thục trưởng - người đứng đầu đám học trò trong trường

Sau đó, do tôi học hành tiến bộ và người đàn anh khóa trên lại về quê, trong trường không có ai trông coi, nên tôi thành thục trưởng. Nói như thế không phải là có quyền lực gì trong tay, mà đơn giản là khi đọc một cuốn sách khó nhất thì thục trưởng phải đứng ra phụ trách. Còn trong giao thiệp với bạn bè ở trường không có sự phân biệt trọng khinh nào. "Ngài thục trưởng" vẫn không khác gì trước đây, tức là vẫn học cách đọc sách, trong giờ học cố gắng không quậy, nhưng vốn thích những trò nghịch ngợm, nên không bao giờ nghĩ đến chuyện dùng đạo đức, lễ nghĩa mà khuyên răn hay cảm hóa những cậu học trò nghịch ngợm khác. Hơn nữa, cũng không có ý nghĩ như một người già rằng, nếu nền nếp của trường tốt lên, thì đó sẽ trở thành việc đền đáp công ơn với thầy.

Từ nhỏ, tôi đã không có tính bắt nạt kẻ yếu, không ham muốn đồ của người khác, không nợ tiền. Tôi không nợ ai dù chỉ 100 Mon, nên lương tâm khá thanh thản và không phải xấu hổ với trời đất. Tôi có điểm khác so với những học trò khác, dù có cùng nhau nói đùa thì cũng có thể có lúc tôi bắt các học trò khác phải làm theo ý mình.

Bấy giờ, tôi nghĩ như thế chứ không phải là vì một điều gì cao siêu, kiểu như đạo đức, nhân nghĩa hay lòng trung thành với người thầy mà mình nặng ơn. Tôi không nhớ là đã lúc nào mình có những ý nghĩ sâu sắc đến vậy. Cách sống đó cũng có lúc không tốt cho trường nhưng cũng có lúc có ích. Mà nếu có giúp ích được thì đấy chỉ là sự ngẫu nhiên thôi, chứ tuyệt nhiên không phải do công trạng của tôi hay một điều gì đại loại như thế.

Tượng thầy Ogata Kōan, hiện được đặt tại phòng đọc sách, khu di tích trường Tekujuku, thuộc quận Chūō-ku, thành phố Ōsaka.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip