4. Nếp sống của trường Ogata


Thu nhập của người quản lý - Khách quen quán thịt bò

Tôi lên làm thục trưởng và ra oai đôi chút, nên có vẻ như kỷ luật được chấn chỉnh lại. Tuy nhiên, một mặt, tật uống rượu lại làm đảo lộn trường hơn. Tôi làm thục trưởng, nhưng vẫn chỉ là anh học trò nghèo. Về hoàn cảnh gia đình tôi, khi đó, mẹ và cháu gái tôi sống bằng chút gia lộc nhận từ lãnh địa. Còn tôi, làm thục trưởng, nên đương nhiên được nhận khẩu phần ăn ở nhà thầy giáo.

Hơn nữa, có một quy tắc là mỗi khi học sinh mới đến, cùng với lễ vật biếu thầy, đồng thời còn phải mang 2 Shu tiền vàng đến biếu thục trưởng. Một tháng, ba người xin học là tôi đã có 1 Bu 2 Shu, mà năm người nhập học thì tôi được đến 2 Bu 2 Shu. Nói chung là tiền tiêu vặt khá dư dả. Đó trở thành khoản tiền để uống rượu. Chuyện quần áo thì không phải lo vì đã có mẹ tự tay khâu bằng vải bông gửi lên cho. Thế nên, cứ có tiền trong tay là tôi nghĩ đến chuyện đi uống.

Trong số những người học cùng trường đã có nhiều cậu được tôi rủ đi ăn uống no say. Cách uống rượu rất đơn giản, không hề cầu kỳ. Khi ít tiền, tôi mua 3 Gō (Hợp) hay 5 Gō về trường uống một mình. Khi khá hơn thì mang 1 Shu hoặc 2 Shu đến hẳn quán có món nhậu đàng hoàng. Đó là một sự chiêu đãi xa hoa, không dễ gì có thể đi nhiều được, nên thường đến quán chuyên các món ăn làm từ thịt gà hoặc tiện hơn là hàng thịt bò.

Hồi đó, cả Ōsaka chỉ có hai quán có thể ăn thịt bò. Một là ở khu Minamizumi (Nam-Cật) của cầu Naniwa-bashi (Nam-Ba -kiều) và một là ở khu làng chơi Shin-machi (Điền-đinh) . Đây là quán xoàng, nên khách ra vào tuyệt nhiên không phải là những người đàng hoàng, mà toàn những kẻ lang bạt ở thành thị, mình đầy hình xăm hoặc là học trò trường Ogata. Thịt bò đó không hiểu là từ đâu, do họ tự giết hay là bò chết bệnh, chúng tôi cũng không để ý. Mỗi người chỉ cần 150 Mon là đã được ăn uống no nê, gồm có cả thịt bò, rượu và cơm, nhưng thịt thì rất dai và hôi.

Học trò ở trần

Đó là thời của những võ sĩ nên hầu hết ai cũng đều mang hai kiếm lớn và nhỏ bên mình. Nhưng trong số năm mươi, sáu mươi học sinh ở luôn tại trường, chỉ có tôi chưa từng đem ra hiệu cầm đồ bao giờ, nên vẫn còn nguyên hai thanh kiếm. Có những người có đến hai, ba bộ mà cũng đem cầm hết. Những thanh kiếm không bị mang đi cầm đồ thì trở thành của chung mà không biết chủ nhân là ai nhưng hầu như tôi không bao giờ mang kiếm trên người. Chỉ khi đi đến Kurayashiki của lãnh địa mới mang hai thanh kiếm, còn thường thì chỉ mang một thanh ngắn để khỏi trống lưng mà thôi.

Thêm nữa, Ōsaka vốn là nơi khá ấm áp, mùa đông không đến nỗi khổ vì lạnh. Mùa hè học trò ở trần như nhộng, nghĩa là không mặc gì, cả quần và khố, toàn thân không có lấy manh vải che. Tất nhiên, khi ra ăn cơm hoặc lên lớp thì có giữ ý một chút và khoác thêm một tấm áo gì đó lên người. Trong số đó, rất nhiều cậu còn khoác luôn áo cánh ngoài lên thân thể trần như vậy. Chuyện này quả thực là lạ. Nếu thời nay nhìn thấy chắc người ta sẽ cười vỡ bụng.

Mà khi ăn thì không có chuyện ngồi đàng hoàng. Vì không thể đi chân không lên sàn nhà, nên tất cả đều phải đi guốc và đứng ăn. Có một độ cũng chia khẩu phần ăn riêng từng người, nhưng sau không thể tiếp tục theo kiểu đó được. Đồ ăn được trút ra liễn và mỗi người sẽ lấy về bát của mình. Lũ học trò chúng tôi lốn nhốn đứng ăn như đàn quỷ đói. Vì vậy, đồ ăn cũng toàn là những thứ khá rẻ. Về thức ăn thì ngày 1, 11, 21, 31, 6, 16, 26 có món khoai nấu với hành, ngày 5, 15, 25, 10, 20, 30 có món canh tương với đậu, ngày 3, 13, 23, 8, 18, 28 có món canh tương với hến. Nghĩa là thực đơn hôm ấy có gì thì đều đã được quy định từ trước.

Thất thố vì ở trần

Xung quanh việc ở trần đã có chuyện buồn cười. Một buổi tối mùa hè, trong nhóm năm, sáu người chúng tôi một người có rượu, nên nổi hứng muốn lên tầng thượng, nơi vẫn phơi đồ để uống rượu. Tất nhiên, cả bọn đều đồng tình ngay. Nhưng leo lên đến nơi thì thấy ba bốn cô người hầu đang ngồi hóng gió. Thật không biết phải làm sao? Chúng tôi ngồi uống rượu ở đó, thế nào mấy cô cũng lùi sâu vào trong xì xào bàn tán.

Đang lúc bí, vì vướng mấy cô người hầu, thì có một cậu người Chōshū (Trường-Châu) tên là Matsuoka Yūki (Tùng-Cương Dũng-Ký), người nổi tiếng về những trò nghịch ngợm, hiếu động bảo: "Tớ sẽ đuổi bọn con gái ra khỏi đây cho các cậu xem!". Nói xong, một mình cậu ta cởi trần, hùng dũng bước ra sân phơi và kêu: "Hôm nay nóng quá các cậu nhỉ!". Và cứ thế thoải mái nằm lăn ra theo hình chữ 大 (Đại).

Khi nhìn thấy thế, quả nhiên các cô gái không thể ngồi thêm được, nhăn nhó tháo lui hết. Thế là từ trên sân phơi, cậu Matsuoka khoái chí vươn cổ gọi chúng tôi bằng tiếng Hà Lan. Cả bọn mang rượu lên, vừa uống vừa hóng mát thoải mái.

Hóa ra là bà giáo!

Lần khác, tôi đã lỡ làm một việc thất thố. Một buổi tối, khi tôi đang ngủ trên tầng hai thì từ bên dưới có tiếng con gái gọi: "Fukuwaza ơi! Fukuzawa ơi!". Lúc đó, tôi mới đi ngủ sau khi uống rượu say, nên thầm rủa: "Mấy cô người hầu lắm chuyện quá! Giờ này mà còn có việc gì thế không biết!". Nhưng vì bị gọi, nên tôi vẫn phải dậy. Cứ người trần như thế, tôi bật dậy, xuống cầu thang và cục cằn hỏi: "Có chuyện gì thế hả?".

Nhưng khác với điều tôi nghĩ, trước mắt tôi không phải là cô người hầu, mà lại là bà giáo! Tình thế tiến thoái lưỡng nan, muốn trốn cũng không chạy đi đâu được, mà cũng không thể ở trần như thế để ngồi xuống cúi lạy xin lỗi. Không biết phải giấu thân mình đi đâu nữa. Hình như bà giáo cũng thấy thương hại, nên không nói gì và đi vào sâu bên trong nhà ngồi. Sáng hôm sau, tôi cũng không thể ra xin lỗi về chuyện vô lễ tối hôm trước. Cuối cùng, không nói được lời nào và cứ để cho qua. Chỉ có điều đó là suốt đời tôi không thể quên. Năm ngoái, tôi có đi Ōsaka và ghé thăm nhà thầy Ogata. Khi đi đến gầm cầu thang ngày xưa, tôi nhớ ngay ra câu chuyện của bốn mươi năm trước và thầm xấu hổ một mình.

Không để ý đến vấn đề vệ sinh

Nếp sống trong trường, nói chung, có thể gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật, tất cả đều lộn xộn mà không ai để tâm. Cùng cực của sự vô tâm ấy là sự không chú ý cả đến cả những chuyện mà bên ngoài nhìn vào người ta có thể gọi đó là bẩn thỉu. Vì là trường học, nên không thể nói là có những đồ dùng như thùng hay bát, đĩa bằng sứ lớn. Nhưng học trò trường Ogata có cả bếp đun lẫn nồi và thường nấu ăn ở luôn trong trường. Những cái bếp nho nhỏ, theo cảnh cơm niêu nước lọ, được đặt xung quanh bàn để nấu.

Tuy nhiên, đồ dùng thì không thể đủ được. Cả chậu rửa tay, rửa mặt cũng thành dụng cụ chế biến thức ăn. Chẳng hạn, ngày hè nóng xin được chút mỳ ở đâu đó liền đem ra luộc ở bếp. Để làm cho mỳ đó nguội thì sẽ mang chiếc chậu mà hàng ngày chúng tôi vẫn dùng để rửa mặt ra cho mỳ vào đó. Sau đó, chúng tôi còn ăn trộm đường ở nơi chế biến thuốc để làm nước chấm. Hơn nữa, khi rửa rau hay rửa cá, chiếc chậu đó cũng là dụng cụ duy nhất để rửa. Vậy mà, vẫn không hề nghĩ đó là bẩn.

Cách diệt chấy mới

Không chỉ có chuyện đó. Chấy rận là thứ động vật sinh sống vĩnh viễn ở trong trường và không một ai tránh được. Cứ cởi trần ra thì chẳng phải vất vả gì cũng có thể bắt được năm hay mười con. Đặc biệt những khi vào xuân, tiết trời ấm dần lên thì từ các cổ áo khoác chấy rận nở ra nhiều vô kể. Có cậu học trò bảo: "Chấy rận của bọn mình cũng có mùa như mùa khoai nướng ở Ōsaka. Khoai nướng ở Ōsaka rộ nhất vào mùa đông, đến mùa xuân, mùa hạ lại thưa dần. Khoảng hai, ba tháng trời nóng phải ngồi im, đến tầm tháng 9 lại thấy khoai mới bán trên phố, thì chấy rận của bọn mình cũng nở trở lại mới buồn cười chứ!".

Người xưa thường diệt chấy bằng cách dùng nước nóng giặt quần áo. Cách đó không hay. Tôi bảo với chúng bạn: "Tớ sẽ cho các cậu xem, chỉ cần một chiêu là giết hết được chấy!". Tôi nói như vậy và đêm mùa đông lạnh giá liền mang quần áo ra ngoài dây phơi. Thế là cả chấy lẫn trứng đều chết khô. Cách làm này không phải là phát minh mới mẻ do tôi tự nghĩ ra, mà là do ngày xưa tôi đã được nghe ai đó nói và thử làm theo mà thôi.

Giết lợn

Qua những chuyện như trên, có thể thấy trong trường không có cậu học sinh nào sống nền nếp cả. Những ngày lễ hội trên phố phường, thế nào buổi tối cũng rủ nhau đi. Mà đã đi thì thường tụ tập thành đoàn. Đặc biệt, những cô gái hàng phố, khi phát hiện ra lũ học trò đang đến gần là chạy trốn. Chúng tôi đến hình như làm họ ghê tởm như những người Eta đang đến gần họ vậy. Nhưng cũng chẳng biết làm thế nào. Những người qua lại trên phố có lẽ nhìn chúng tôi như những kẻ bần cùng nhất trong xã hội.

Có lần, ông chủ quán lẩu bò ở Naniwa-bashi (Nan-Ba-kiều), nơi chúng tôi vẫn đến ăn, mua một con lợn về. Mặc dù mở quán thịt bò, nhưng bản tính ông rất nhát. Ông bảo không thể tự mình giết lợn hoặc bò, nên mới nhắm mấy cậu học trò trường Ogata để nhờ. Chúng tôi đến gặp ông và bảo:

- Chúng tôi sẽ giết hộ, nhưng đổi lại ông sẽ cho chúng tôi cái gì chứ?

- Được thôi!

- Cho chúng tôi cái thủ nhé?

- Gì, chứ thủ thì không tiếc!

Và thế là chúng tôi kéo đến mổ lợn giúp. Chúng tôi biết rằng, trong ngành sinh học, muốn giết động vật phải làm cho chúng tắt thở. Cũng may là nhà hàng đó ở gần sông, nên chúng tôi đem lợn ra đó, trói bốn chân và dìm xuống nước là giết được ngay. Xong việc, y như đã hẹn, chúng tôi nhận thủ lợn về thay cho sự trả ơn của ông chủ và đi mượn con dao phay của bà giáo. Trước hết là mổ lâm sàng, quan sát mắt là thế này, não là thế kia. Sau khi mổ đi mổ lại thì đem vào nấu ăn. Điều đó chứng tỏ ông chủ hàng thịt bò coi chúng tôi chẳng khác gì những Eta.

Phẫu thuật gấu

Lần khác, lại xảy ra một chuyện thế này. Có tin đồn rằng người ta mang một con gấu đến cửa hàng thuốc ở Doshō-machi (Đạo-Tu-đinh) từ Tamba (Đan-Ba) hay Tamgo (Đan-Hậu) gì đó. Nhờ một thầy thuốc giới thiệu, nên có người đến trường và nhờ chúng tôi phẫu thuật gấu hộ với lý do họ muốn xem để phục vụ cho công việc sau này. Học trò trường Ogata bảo: "Việc này hay đấy". Hồi đó, họ rất nhiệt tâm với việc phẫu thuật nên đồng ý đi ngay.

Tôi không học nghề y, nên không đi, nhưng trong trường có khoảng bảy hay tám người đi. Đám học trò mổ và giảng giải rằng, đây là tim, đây là phổi, đây là gan thì cả ông bác sĩ và người hàng thuốc đều bảo: "Cảm ơn các cậu đã giảng giải cho". Họ nói và quay lưng về ngay. Thực ra, theo chủ định của họ, nếu nhờ các học trò trường Ogata phẫu thuật thì họ sẽ không phải vất vả, hay bị thương tích gì, mà lại lấy được mật gấu. Vì thế, họ phó mặc việc phẫu thuật gấu cho các học trò và chỉ đợi lấy được mật là về ngay.

Biết chắc chắn như vậy, nên các cậu học trò không dễ dàng nén giận cho được. Toàn thể học trò trong trường biểu quyết, đi đến quyết định sẽ cãi đến cùng và lập tức phân chia công việc cho từng người. Trong trường, có một cậu ăn nói hùng hồn và rất hay vặn vẹo. Cậu ta tên là Tanaka Hattarō (Điền-Trung Phát-Thái-Lang), hiện nay đổi tên là Shingo (Tín-Hậu) ở Kaga (Gia-Hạ) thuộc tỉnh Kanagawa (Kim-Trạch) được phân công phụ trách việc đối đãi, giao tiếp. Tôi là người nghĩ và viết những thư từ có liên quan, còn cậu học trò đến từ Iiyama (Phạn-Sơn) ở Shinshū (Tín-Châu) viết chữ theo kiểu Ryōko (Lăng-Hồ) rất đẹp, tên là Numata Unpei (Chiểu-Điền Nghệ-Bình) thì sẽ chép lại. Tiếp đến là việc sẽ cử ai đi làm sứ giả, ai sẽ đi uy hiếp, dọa dẫm.

Đại thể là người đảm nhiệm việc gì cũng quá thừa lòng hăng hái, trong đó có cả những cậu mà chỉ cần có động tĩnh gì là có thể đi đập phá nhà người ta ngay lập tức. Còn nếu họ đến tận trường gây lôi thôi, thì đã có người đợi ở nhà đối phó. Tất cả có khoảng sáu, bảy người đầy đủ cả sức khỏe lẫn tài năng hùng biện, cả bút lực lẫn khẩu lực đều không kém ai. Những người trực tiếp đi đấu khẩu không phải ở trần như mọi hôm, mà mặc áo choàng ngoài, đeo kiếm chỉnh tề, biện luận đủ thứ lúc cương, lúc nhu về những lý luận y học làm ông bác sĩ lâm vào thế bí, đành ra xin lỗi. Không chỉ xin lỗi bằng lời mà xong được. Sau đó còn phải mang 5 Shō (Thăng) rượu, thịt gà và cá đến nữa. Chúng tôi đã nhất trí đem ra cùng nhau ăn uống thỏa thuê ở trường.

Thất bại khi đi xem kịch

Ngược lại, đã có lần chúng tôi phải đem đồ đi đền người khác. Khi những người của Mạc phủ như Yoriki (dự lực) hay Dōshin (đồng tâm) đến rạp diễn kịch ở phố Dotombori (Đạo-Đốn-Quật) và chỉ cần đi lướt qua khán đài là người của rạp đó phải mang nào là trà, nào là bánh kẹo ra thết và họ cứ ra oai ngồi xem, mà không mất tiền. Nhìn cảnh đó, các cậu học trò trường Ogata đã làm một việc rất không nên là nhiều lần cải trang thành quan phủ, lưng đeo song kiếm, đầu đội khăn Sōjūrō-zukin (Tôn-Thập-Lang-đầu-cân) vào xem trót lọt.

Nhưng như người ta vẫn nói: "Đi đêm lắm có ngày gặp ma". Một hôm, gặp đúng ngày quan phủ đến, thế là cậu học trò của chúng tôi không có gì để biện minh vì đã mắc tội lừa dối, cải trang làm quan phủ. Khi đó, cậu ta đã bị vặn hỏi, không có bề tiến thoái, chuyện lập tức bị bại lộ, không chối cãi được. Nhưng sau đó, nhờ có sự quen biết với vị Yoriki ở Tamazukuri (Ngọc-Tạo), nên cậu ta đã khóc van xin để được giữ lại xử lý nội bộ. Cuối cùng, mọi việc cũng xong xuôi. Khi đó, chúng tôi đã phải mang nào là cá, nào là rượu đi biếu, tất cả tính thành tiền cũng phải đến 3 Bu (Bộ) .

Chủ mưu vụ đó là cậu Takahashi Jun'eki (Cao-Kiều Thuận-Ích), người vùng Miyazu (Cung-Tân) ở Tamgo (Đan-Hậu). Còn tôi vì không thích xem kịch, nhưng cũng có lo đến chuyện đó nên khuyên: "Chuyện đó chẳng hay ho gì đâu. Ngộ nhỡ có vấn đề gì thì khốn đấy!". Nhưng mấy cậu không nghe và bảo: "Không sao, chuyện nhỏ ấy mà. Tự bọn tớ sẽ có cách!". Họ cứ làm liều và cuối cùng thì bị bắt. Nhưng khi đó, chúng tôi được một phen lo thắt ruột gan hơn là nghĩ đến việc trách họ.

Giả vờ cãi nhau

Sau đó, lại có một chuyện thế này. Mức độ gay go khi cãi nhau ngày xưa chắc những người hiện đại ngày nay có nghe kể cũng không tưởng tượng ra được. Thời đó, không có cảnh sát, nên hễ có chuyện gì là tùy vào tình hình mà giải quyết.

Trước đây, thị dân Ōsaka vốn rất nhút nhát. Ở Edo, có đám cãi nhau là người ta đổ xô ra làm chuyện rối ren thêm, nhưng ở Ōsaka thì không mấy người ra xem. Mùa hè, cứ tối tối sau khi cơm nước xong, chúng tôi lại lang thang xuống phố và hẹn nhau ở đâu đó để giả vờ đánh, cãi nhau. Chúng tôi cũng làm ra vẻ hùng hổ túm nhau lại và to tiếng cãi vã, nhưng cố không làm tổn thương đến nhau. Thấy thế, các cửa hàng xung quanh vội vã dọn hàng đóng cửa, phố xá trở nên yên ắng. Chúng tôi chỉ đợi có thế là coi như thành công, chứ không còn mục đích nào khác nữa.

Thường thì cách làm của chúng tôi là chia thành những nhóm khoảng hai, ba người, hẹn nhau ở những phố lớn. Những phố lớn, đông đúc mà tôi nói ở đây nghĩa là những khu gần phố làng chơi như Shin-machi, nhưng nếu cứ làm ở một chỗ thì dễ bị nhận ra, nên tối nay thì hẹn ở Dōtombori, mai thì đến phố Junkei-machi (Thuận-Khánh-đinh) . Những người như cậu Numata Unpei thì cãi nhau rất giỏi.

Bentenkozō

Một lần lại có chuyện thế này. Tôi cùng với anh bạn Matsusita Gembō (Tùng-Hạ Nguyên-Phương), người vùng Kurume (Cửu-Lưu-Mễ) học ngành y đến khu có đền thờ gọi là Goryō (Ngự-Linh) . Khi trêu người bán cây cảnh buổi đêm thì bị họ nói lại: "Này, mấy cậu trẻ ranh, đừng có làm chuyện bậy!". Nghĩa là họ nhìn vẻ ngoài của chúng tôi và đoán là những kẻ trộm cắp, nên chúng tôi không thể chịu được. Chúng tôi đã vặn lại chẳng khác nào Bentenkozō (Biện-thiên-tiểu-tăng) : "Thế nào cũng phải giết quách lão này đi! Không phải dài dòng gì nữa, giết lão đi cho rồi!". Tôi quát to lên như vậy và anh Matsushita thì giả vờ xoa dịu: "Thôi mà, chưa đến mức phải giết lão ta đâu!". Tôi được đà: "Không việc gì phải thương những loại này! Anh không phải can, để tôi làm một nhát cho lão toi luôn!". Lời qua tiếng lại làm những người qua đường chú ý, bu lại đông như kiến cỏ, nên chúng tôi càng khoái chí ra oai hơn. Đúng lúc đó, có một đô vật Sumō đang giã bánh nếp hay gì đó trong quán chè ở Goryō nhảy vào can:

- Có chuyện gì không phải thì các chú tha cho lão già!

- Thôi được, có đại ca can thì chúng em tha cho, nhưng từ mai mà lão còn bán ở đây nữa, thì sẽ giết lão luôn đấy! Đại ca đã có ý vào can thì đêm nay chúng em tha cho lão!

Nói thế và đêm hôm sau đến ngó thử, thì thấy chủ cửa hàng quả thực là một người thật thà, hàng bán cây cảnh hôm đó nghỉ thật! Ngày xưa, không có cảnh sát cầm cân nảy mực như bây giờ, nên mới có thể quậy theo ý mình như vậy, nhưng cũng chỉ ở mức như câu chuyện với người bán cây cảnh thôi, chứ trên thực tế, tuyệt nhiên chúng tôi không dám làm những chuyện quá xấu.

Bị gọi là kẻ cắp

Lại có một chuyện mà tôi sợ hãi nữa, cũng xảy ra ở gần khu Goryō. Ở vùng Kamigata có phong tục tổ chức lễ hội Sunamochi (Sa-trì) . Khi đó, khoảng một, hai trăm thanh niên trong phố đội đèn trên đầu, ồn ào đi rước khắp các nơi Học trò chúng tôi cũng làm một toán ba, bốn người đi xem. Nhưng không hiểu hôm đó tính khí tôi làm sao hay tại men rượu mà đã dùng que gậy gì đó hất đổ đèn xuống đất. Thấy thế, một trong số họ mới la toáng lên: "Kẻ cắp! Kẻ cắp!". Ở Ōsaka, đã bị coi là kẻ cắp thì không cần biết phải trái, họ cứ đánh chết rồi đem quăng xuống sông, nên khi nghe thấy thế tôi sợ quá. Tôi biết trong tình thế này thì tốt nhất là phải trốn chạy cho mau và bỏ cả guốc dép chạy về phía phố Dōjima.

Khi ấy, tôi có đeo bên mình một thanh kiếm ngắn và đã tính là nếu bị đuổi theo sẽ dùng thanh kiếm ấy để chống lại, mặc dù biết rằng chém người là việc tồi tệ. Vì không thể tha thứ được cho việc làm người khác bị thương, nên tôi đã một sống một chết trốn chạy. Khi chạy thoát được vào khu Kurayashiki của lãnh chúa Okudaira ở khu Dōjima, Gochōme (Ngũ-đinh-mục), tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

Chủ nghĩa vô thần, vô Phật

Ở phía Đông Bắc của Ōsaka có một cây cầu tên là Ashiya-bashi (Hà-Cốc-kiều). Ngay gần đó là khu phố Chikuchi (Trúc-Địa) mà ngày xưa có nhiều ngôi nhà trông rất đáng ngờ. Đại thể đó là một nơi bẩn thỉu, nơi mà các cô gái làm tiền chờ đợi khách đến đàng điếm. Nhưng ngay lối vào khu phố Chikuchi lại có một đền thờ Jizō-sama (Địa-Tạng-dạng) hay Kompira-sama gì đó và có một điện thờ nhỏ. Trông thì rất có vẻ phồn thịnh, bên trong bày rất nhiều khung ảnh, có cả ảnh vẽ những người đàn ông, đàn bà đang khấn vái. Có một phong thư gì đó dán trên tranh, lại có cả một lọn tóc đã bị cắt và buộc đính lại.

Buổi trưa, tôi xem trước như thế và đến tối thì vơ hết nào là phong thư, nào là lọn tóc đem về trường mở thử ra xem, thấy trong đó có nhiều những lời cầu nguyện khác nhau rất thú vị. Tôi đọc một cách khoái chí: "A ha, đây là kẻ chuyên cờ bạc hứa bỏ, đây là tờ của kẻ nghiện rượu hứa cai, đây là lời cảm tạ đã cứu thuyền qua cơn hoạn nạn, đây là tâm sự của kẻ đơn phương yêu điên cuồng một cô gái, còn đây là cô gái không biết bao nhiêu tuổi mà khấn niệm điều kỳ quặc thế...". Đọc những thứ đó thấy thú vị, nên tôi đã nhiều lần làm như vậy. Nhưng dù sao chăng nữa, việc lấy những lời ước nguyện mang đầy tâm tư của người khác ra mà nghịch ngợm là một tội lớn, nhưng với những học trò theo Hà Lan học vô thần, vô Phật như chúng tôi thì ai mà bảo được.

Giả mạo thư của cô gái làng chơi

Tôi cũng xin kể lại những chuyện buồn cười ở trường Ogata. Thời đó, hầu hết học trò đều là con em các bác sĩ, nên khi mới ở quê ra thường để tóc dài, búi đằng sau, hoặc cạo trọc. Nhưng khi ra đô thị và ở Ōsaka thì lại đua đòi để tóc ngang vai như các võ sĩ bên ngoài. Giống như các nhà sư phái Tịnh độ chân tông, đua đòi để tóc như người thường, các cậu công tử con nhà bác sĩ cũng thích để tóc ngang vai và đeo gươm ra vẻ oai phong.

Hồi đó, có cậu học trò tên là Tezuka (Thủ-Trủng), vốn là con một bác sĩ ở lãnh địa thuộc quyền quản hạt trực tiếp của Tướng quân Tokugawa Ieyasu, nên mặo áo có đính gia huy hình Aoi (tức hình lá quỳ - ND) của Tướng quân mà cha mẹ cậu ta đã được ban tặng. Tóc thì cậu để kiểu ngang vai, theo như "mốt" đang thịnh hành trong trường và đeo thanh kiếm lớn. Vẻ ngoài cậu ra dáng một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, nhưng thực ra tính cách lại không tốt chút nào. Vì thế, có hôm tôi mới thử lòng Tezuka:

- Nếu cậu thực sự muốn học thì mỗi ngày tôi sẽ giảng giải cho cậu nghe. Dù có vương vấn gì cũng mặc đấy, đừng đi đến khu Shinchi (Tân-Địa) nữa.

Nghe thấy thế Tezuka thoáng chút hối hận về những việc đã làm và bảo:

- Vùng Shinchi ấy à? Chỉ nhớ đến là tôi đã thấy chán rồi. Tuyệt nhiên tôi sẽ không đi nữa!

- Thế thì tôi sẽ dạy cho cậu, nhưng vẫn thấy không chắc. Cậu viết cho tôi tờ giấy cam đoan nhé.

- Được anh dạy giúp thì giấy gì tôi cũng cố viết!

Cậu nói như thế, nên tôi bắt phải viết rằng từ bây giờ trở đi sẽ tu tỉnh học. Đã hứa rồi, thì dù có bị cạo trọc lốc như ông sư cũng không được kêu ca. Tôi giữ tờ giấy đó và đúng như đã hứa, hằng ngày dạy riêng cho cậu. Nhưng sau đó, Tezuka thực tâm học mới chán chứ! Dù biết rằng mình nghĩ như thế là không tốt. Thấy người khác học mà khó chịu là điều không thể chấp nhận được, nhưng vì đã mong đợi để được cạo trọc đầu cậu mà kế không thành. Tôi thấy chán liền thì thầm bàn với ba người khác:

- Này, nó hay đi lại với cô gái làng chơi tên là gì ấy nhỉ?

- Chuyện đó thì biết ngay thôi!

- Được, thế thì thử viết một lá thư trêu nó đi!

Và thế là tôi viết thư giả danh cô gái làng chơi. Tôi dùng những lời lẽ mà thường có thể họ sẽ nói với nhau và suy đoán rằng, chắc chắn anh con trai sẽ bị nài nỉ tặng đồ gì đó, có lẽ sẽ là hương sức người, nên tôi viết: "Về chuyện hương sức như anh đã hứa thì thế nào ạ? Sao em không thấy?". Tôi còn ngồi nghĩ cả những câu khó hiểu, mà khi đọc cậu sẽ phải vò đầu bứt tai. Bên ngoài phong thư đó có ghi: "Kính gửi ngài Tetsukawa (Thiết-Xuyên)".

Thư đã viết xong, nhưng chữ tôi xấu quá, nên cậu bạn Matsuoka Yūki, người vùng Chōshū chép lại giúp theo lối Oie-ryū (Ngự-Gia-lưu) , giống hệt chữ con gái, sau đó nói rõ với cậu bạn chuyên việc thư từ: "Cậu mang thư đi và phải nói đây là thư từ Shinchi nhé! Cậu mà nói thật ra là tớ cho cậu một trận đấy! Hiểu chưa?".

Nghe tôi dọa như thế, nên cậu bạn đó mang thư đến cho Tezuka và nói: "Đây là thư gửi cho người tên là Tetsukawa (Thiết-Xuyên), nhưng trong trường không có ai tên như thế cả. Tôi nghĩ là của Tezuka, tức là của cậu nên mang đến đây!". Cậu ta nói và trao thư. Còn những kẻ đồng mưu viết thư giả mạo thì đứng từ xa lén nhìn Tezuka một mình bóc thư.

Tôi không hiểu có chuyện hứa tặng hương sức thật không, nhưng theo cách đọc của người Ōsaka thì tên của Tezuka trở thành Tetsuka và viết chệch Tetsuka thành Tetsukawa, viết bằng hai chữ Hán "Thiết-Xuyên" chứ không phải là "Thủ-Trủng". Đây là cao kiến của cậu Takahashi Jun'eki, nhờ đó mà đã được việc. Vì thế, sau nhiều trăn trở, chính lá thư đó đã bắt Tezuka đến lại khu phố đàng điếm. Đó là một tội lớn của tôi. Cậu đi hai, ba ngày liền và những kẻ đồng mưu mong ngóng đợi. Sáng hôm sau, Tezuka về với vẻ mặt bình tĩnh, nên tôi cũng thản nhiên đem chiếc kéo ra định túm lấy Tezuka, thì cậu ta ngạc nhiên hỏi:

- Cậu định làm gì thế hả?

- Tớ chẳng định làm gì cả, chỉ định cho đầu cậu trọc lốc như ông sư thôi. Cạo trọc lốc xong nếu lại muốn trở nên đẹp trai như bây giờ, thì chắc chỉ cần hai năm là được. Để tớ cắt nào!

Nói thế rồi tôi cầm lấy chỏm tóc và múa kéo canh cách thì cậu ta nghiêm chỉnh lại và chắp tay xin. Thấy thế, một trong những người đồng mưu với tôi chạy ra can:

- Fukuzawa, cậu hơi quá rồi đấy!

- Thế chẳng phải là cậu ta đã hứa sẽ cho cắt trọc rồi, còn gì mà kêu ca nữa?

Trong khi lời qua tiếng lại như thế, những người đứng ra hòa giải mà tôi đã sắp xếp từ trước dần dần cầm trịch giữa hai bên. Kết quả là thay cho việc cạo trọc đầu sẽ bắt Tezuka mua thịt gà và rượu về. Chúng tôi cùng nhau đánh chén và tôi lại chọc: "Tớ xin cậu đấy! Cậu đi lần nữa cho tớ lại được đánh chén tiếp!". Tôi nói đùa như thế và chọc cậu ta, nhưng có lẽ chính nhờ vậy mà cậu ta đã tỉnh ngộ ra.

Trêu người bạn mê tín

Giữa những học trò cùng trường với nhau cũng có nhiều chuyện. Một cậu đến từ Higo (Phì-Hậu) , tên là Yamada Kensuke (Sơn-Điền Khiêm-Phụ), mê tín đến mức tránh không dám nói chữ "Shi" . Hồi đó, ông Ebizō (Hải-Lão-Tạng), cha của Ichikawa Danjūrō công diễn ở phố Dōtombori và khi nói đến Shibai (tức là những loại hình nghệ thuật biểu diễn - ND) thì cậu ta mê muội đến mức nói tránh câu: "Xem ông Ebizō đóng Shibai" thành "Xem ông Ebizō đi Yobai "

Về tính cách, Yamada là người rất tốt, nhưng mê tín quá, nên không được những học trò Hà Lan học khác ưa. Bên lề câu chuyện phiếm, ngộ nhỡ tôi có nói gì động chạm thì thế nào cũng bị Yamada nhắc: "Này, Fukuzawa, cậu cứ ăn nói linh tinh thế! Nghĩ kỹ đi! Sáng mồng một Tết đi đón xuân mới, cậu muốn gặp đám tang hay đám rước hạc trên đài? Cậu muốn gì hả?". Tôi trả lời rằng: "Chuyện đó thì ai mà chẳng biết! Người chết không chén được, nên chắc chắn tớ chọn hạc là hơn. Nếu không cho tớ ăn hạc thì người chết cũng thế mà thôi!" Bao giờ tôi cũng khoái chí trêu cậu ta như vậy.

Có một hôm, tôi bàn với cậu Naga'yo Sensai (Trường-Dự Chuyên-Trai) , hay ai đó rằng, sẽ phải trêu cho Yamada một trận. Sau đó, công phu nghĩ ra một kế đợi khi Yamada vắng nhà mới bọc giấy vào khay mài mực hình chữ nhật, làm thành một bài vị thần. Naga'yo vốn viết chữ đẹp, nắn nót ghi pháp danh của Yamada đặt lên bàn, rồi lấy bát ăn cơm của Yamada cho tro vào cắm hương, đặt trước bài vị thần và thờ nghi ngút. Khi Yamada về nhìn thấy như vậy thì mặt mày xanh tái, giận dữ làm chúng tôi cũng phát hoảng. Nếu là người nóng tính, có lẽ cậu đã đem lũ chúng tôi ra chém hết.

Lừa bạn cho ăn cá nóc

Sau đó, tôi còn làm một việc mà nghĩ lại vẫn thấy sợ. Đó là chuyện lừa người khác ăn cá nóc. Lúc ở Ōsaka, tôi đã từng ăn cả cá nóc lẫn gan cá. Chuyện là một hôm, tôi mới bảo cậu bạn người vùng Nigata (Nhân-Phương) , tiểu quốc Geishū (Nghệ-Châu) tên là Mitō Genkan (Tam-Đao Nguyên-Khoan):

- Tớ được người ta mang cho cá Tai ngâm tương, cậu có ăn không?

- Hay quá nhỉ. Đúng là vị cá ngon có khác!

Mitō vui mừng ăn hết. Để hai tiếng sau, tôi mới bảo:

- Khổ thân cậu, lúc nãy không phải cá Tai đâu. Đấy là cá nóc ngâm tương mà tớ xin ở Kurayashiki của lãnh địa Nakatsu về đấy! Chắc cậu biết thời gian cần để tiêu hóa thức ăn chứ? Bây giờ, có uống thuốc giải độc gì thì cũng vô ích thôi. Nếu nôn ra được chất độc của cá thì nôn thử tớ xem nào!

Cậu Mitō cũng học ngành y nên quá hiểu điều đó. Cậu ta lo lắng và trở nên giận dữ đến mức lao vào cào cấu tôi. Sau đó, tôi cũng nghĩ mình làm hơi quá, nên rất lo lắng, vì ăn cá nóc rất dễ xảy ra chuyện tày trời.

Lấy trộm đồ trong quán ăn

Tôi đã có lần kể về việc bị người bán cây cảnh ở Goryō nghi cho tội ăn cắp, nhưng chuyện bị nghi ngờ đó cũng có lý do. Quả thực, học trò trường Ogata hay đi lấy trộm đồ thật. Ăn cắp ở đây không phải là chủ định ăn cắp như kiểu vào tận cửa hàng kimono để lấy những cây lụa về, mà chỉ ở mức độ ăn uống ngoài quán, khi về thì lén trộm những đồ nhỏ dễ giấu như chén rượu, đĩa nhỏ.

Các học trò trong trường coi đấy như "chiến tích" của mình. Những dịp có liên hoan như chia tay ai chẳng hạn, thì những thứ thu hoạch được trưng ra rất nhiều. Trong đó, có người mới tối hôm trước đi nhậu và giấu chiếc đĩa to sau lưng đem về, có người còn lấy cả đĩa thức ăn.

Lại có người bảo: "Toàn những thứ xấu mà các cậu cũng lấy, kém quá. Xem đồ của tớ mang về đây này!". Cậu bạn đó đã từng gói bộ đĩa nhỏ cho những mười người ăn vào khăn tay và mang về. Bây giờ, nghĩ lại tôi có cảm giác người của quán ăn có biết, nhưng họ im lặng. Thực ra, chắc chắn giá tiền của những đồ bị ăn trộm đã được tính vào tiền ăn mà chúng tôi trả, vì đó đã trở thành thông lệ và họ thừa biết chúng tôi là những kẻ trộm chứ không phải ai khác.

Ném đĩa từ cầu Naniwa-bashi

Xung quanh những chiếc đĩa nhỏ ăn cắp về ấy cũng có những chuyện buồn cười. Chuyện xảy ra vào một mùa hè, khoảng hơn mười giờ tối, một người nói thèm rượu, thì ngay lập tức có bốn, năm người bảo cũng muốn đi uống. Nhưng vì trong trường có giờ giới nghiêm, không thể ra ngoài được, nên phải dọa cậu trực ban miễn cưỡng mở cổng cho. Chúng tôi đến một quán khá thoáng mát, có treo mành trước cửa, gọi là quán Nabeshimanohei và uống loại rượu rẻ tiền với khoai cùng bát canh tương nhạt.

Khi về, như thường lệ, chúng tôi lấy khoảng năm, sáu chiếc đĩa nhỏ. Lúc đó có lẽ đã quá 12 giờ đêm, chúng tôi đi trên cầu Naniwa-bashi thì thấy có người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ dùng để du ngoạn từ phía hạ lưu sông và đánh đàn Shamisen inh ỏi. "Làm gì mà ầm cả lên thế không biết! Chúng tao kiếm mãi mới được 150 Mon đi đánh chén về đây mà bọn mày thì hoang phí! Chính vì có bọn mày, mà chúng tao mới phải nghèo khổ thế này đây!". Nói thế và tôi ném liền hai ba chiếc đĩa đang cầm trong tay từ trên cầu xuống. Đến chiếc cuối cùng thì nghe thấy tiếng đàn Shamisen kêu "bụp" một tiếng và tắt ngỏm. Lúc đó, mải chạy trốn, nên tôi không biết có ai bị thương hay không, nhưng tình cờ một tháng sau đó, tôi mới được biết rõ về chuyện này.

Trong trường có một cậu đi chơi ở khu Shinchi phía Bắc. Khi gặp cô Geisha (nghệ-giả) ở quán thì được nghe cô kể lể: "Đời cũng có nhiều kẻ độc ác lắm, anh ạ. Ngay trong tối, khoảng một tháng trước, em đang cùng với một người khách hóng mát trên thuyền ở ngay dưới cầu Naniwa-bashi, thì có người ném đĩa từ trên cầu xuống trúng vào đàn Shamisen của em làm cả hai bị chảy máu. Quả thực là rất nguy hiểm, nhưng may em không bị thương tích nặng. Không biết ở đâu ra mà đi một nhóm bốn năm người, ném xong rồi chạy rầm rầm về phía Nam. Trên đời vẫn có những kẻ thật tồi tệ!".

Khi nghe được chuyện ấy, chúng tôi nhớ ngay ra và hiểu cô Geisha đó là nạn nhân của chính mình, nhưng nói ra thì sợ rầy rà. Nên khi đó, chúng tôi đã giấu không nói với cả những bạn bè khác trong trường.

Cai rượu chuyển sang hút thuốc lá

Vì rượu mà cuộc đời tôi gặp những tổn thất nặng nề. Những tổn hại đó còn hằn lên thân tôi cho đến tận bây giờ. Đó là do lúc ở trường của thầy Ogata, tôi có học hành, nhưng những việc tốt làm được thì ít, chỉ uống rượu là nhiều. Tôi nghĩ đó là điều không nên và đã đoạn tuyệt với rượu. Thế là bạn bè trong trường lắc đầu cười chế nhạo: "Aha, Fukuzawa cai rượu từ hôm qua, các cậu ạ. Hay đấy mà lạ đấy! Không biết tiếp tục được đến bao giờ? Chắc được ba bảy hăm mốt ngày. Cai được ba ngày lại uống lại ngay chứ không sai!". Toàn những kẻ trêu chọc, nhưng tôi đã gắng chịu và trong suốt mười, mười lăm ngày không uống lấy một giọt!

Thấy thế, cậu bạn thân Takahashi Jun'eki (Cao-Kiều Thuần-Ích) khuyên tôi với vẻ chân thành: "Cậu chịu đựng cừ thật! Kéo dài mãi được. Tớ phục cậu đấy! Thế nhưng, thói quen của con người mà đột nhiên bỏ thì không tốt đâu. Dù thế nào cuối cùng cũng sẽ không bỏ được. Nếu cậu đã quyết tâm bỏ rượu thì thay cho rượu chuyển sang hút thuốc lá đi. Con người ta mà không có thú vui gì thì không được!".

Nhưng tôi đại ghét thuốc lá. Cho đến thời điểm đó, tôi đã nói ra rả với những bạn bè hút thuốc trong trường rằng: "Tớ chẳng thể hiểu tại sao các cậu cứ hút cái thứ vô ích, vô bổ và chẳng ra gì như thuốc lá! Chuyện độc hại thì tạm gác lại, chỉ riêng mùi đó là tớ đã không chịu nổi. Làm ơn đừng có hút ở gần tớ!". Tôi đã trót nói đến không còn tình nghĩa như thế mà bây giờ, chính tôi lại hút thì ngượng quá, nhưng lời khuyên của Takahashi không phải là không có lý. "Ừ, hay là để tớ thử nhé?". Nói thế và tôi lập tức thử hút ngay.

Chuyện đó như một sự kiện gây ồn ào trong trường. Có người cho tôi thuốc, có người lại cho mượn tẩu. Trong đó lại có người bảo nghe nói thuốc này nhẹ nên cố gắng đi mua về cho. Nhưng đó không phải là vì những người bạn tử tế gì. Thực ra, từ trước đến giờ, tôi vẫn thường phê phán thậm tệ tật hút thuốc, nên họ mới rắp tâm cho tôi thành kẻ nghiện thuốc lá cho hả dạ đấy thôi. Tôi cũng thừa hiểu rằng, họ đang chơi khăm mình, nhưng vì đang khổ sở bỏ rượu, nên cố gắng hít nhả thứ thuốc lá mà mình vốn không ưa.

Cứ như thế chừng mười hay mười lăm ngày cũng thành quen. Thuốc lá vốn là thứ hôi và đắng thì dần không còn thấy hôi và đắng nữa, mà vị trở nên ngon hơn. Chỉ chừng một tháng là tôi đã trở thành một tay nghiện thuốc lá thực thụ.

Thế nhưng, việc uống rượu vốn vẫn là thói quen trước nay thì tôi không thể nào quên được. Biết là không tốt, nhưng hễ thử uống một chén là tôi lại thèm. Trong dạ chỉ định uống thêm một cốc rồi thôi, nhưng nếu lắc chai thấy vẫn còn tiếng rượu ong óc là không chịu được.

Cuối cùng uống hết cả 3 Gō (khoảng 0.5 lít-ND), và ngày hôm sau lại uống lên 5 Gō (khoảng 0.9 lít-ND). 3 Gō rồi 5 Gō, cứ như thế tôi uống lại như trước. Thuốc lá thì tôi định bụng sẽ không hút như ngày xưa, nhưng vẫn không thể được. Thật là một điều ngu ngốc! Quyết tâm bỏ rượu không xong, trong một tháng đã thành kẻ ngốc, nghiện cả thuốc lá lẫn rượu. Đến tận năm sáu mươi tuổi, tự nhiên tôi mới cai được rượu, nhưng thuốc lá vẫn không thể bỏ được. Đó có thể nói là sự tổn hại về mặt vệ sinh, sức khỏe do chính mình gây nên và tôi không có lời nào để biện bạch cho mình.

Từ Momoyama về chữa cháy

Học trò trường Ogata phần đông là nghèo, nên chuyện đi ra quán, ăn món cá ngon là điều không dễ. Vào buổi tối, ở chân cầu Tenjin-bashi (Thiên-Thần-kiều) hay cầu Temma-bashi (Thiên-Mãn-kiều) đều có họp chợ cá. Nói chung, toàn là cá không bán đi đâu được, nên giá khá rẻ. Chúng tôi thường mua về, cho vào chậu rửa, dùng bàn hay vật gì đó làm thớt và cắt bằng thanh kiếm nhỏ. Tôi vốn được coi là khéo tay, nên lần nào cũng bị phân cho việc rửa cá.

Vào khoảng tháng 3 là mùa hoa anh đào nở rộ. Phía đông thành Ōsaka có một nơi gọi là Momoyama (Đào-Sơn) và người ta bảo ở đó hoa anh đào đang nở rộ, nên chúng tôi quyết định sẽ đi ngắm. Nhưng không thể đi ngắm hoa và đánh chén ở các quán hàng đắt đỏ gần đó được. Như thường lệ, chúng tôi đi mua cá bán ế cùng với nào là đậu Kōri-Dōfu (Băng-Đậu phụ) , nào là rau. Sáng hôm sau dậy sớm vội vàng làm, sắp vào hộp đồ ăn hay đồ đựng khác, rồi mua rượu và rồng rắn mười bốn, mười lăm người kéo nhau đi.

Chúng tôi mang đồ ăn và đi đến Momoyama. Sau khi đã đánh chén no say, đến hồi quậy phá, ngoảnh ra đằng Tây thì thấy phía Nam Ōsaka có hỏa hoạn lớn. Mặt trời đã bắt đầu lặn. Theo giờ ngày xưa là 7 giờ (theo cách tính hiện nay là khoảng 4 giờ chiều-ND). Thế này là nguy to rồi!

Đúng ngày hôm đó cậu Naga'yo Sensai đi xem Shibai ở phố Dōtombori . Những người đi ngắm hoa chúng tôi không ai suy nghĩ gì về sự được mất trong hỏa hoạn của Ōsaka, nên dù có cháy hay không cũng chẳng sao, nhưng vì cậu Naga'yo đang đi ở đó. Chúng tôi lo không biết Naga'yo có bị chết cháy không? Dù thế nào cũng phải đi cứu Naga'yo ra.

Từ Momoyama đến Ōsaka phải qua quãng đường chừng hai, ba Ri (khoảng từ 7800m đến 11700m-ND). Chúng tôi chạy thục mạng đến phố Dōtombori thì đã cháy hết. Cả ba rạp Shibai đều bị thiêu trụi và lửa dần bén sang khu phía Bắc. Mặc dù chúng tôi lo lắng không biết Naga'yo ra sao, nhưng cũng không làm thế nào được. Thoáng chốc, mặt trời đã lặn, bóng tối trùm xuống. Trời tối thì việc tìm tung tích Naga'yo đành bó tay. Tôi mới bảo: "Hay là bọn mình đi xem đám cháy đi!". Thế là chúng tôi dần tiến sâu vào khu trung tâm của đám cháy. Người ta đang dọn đồ rất hỗn loạn. Và chúng tôi giúp họ vận chuyển đồ đạc, chăn màn và cả những gói quấn bằng khăn. Đại khái là chúng tôi lao động khá tích cực.

Thời đó ở Ōsaka, khi những nhà bị cháy là người ta buộc dây thừng cột vào kéo cho đổ. Người ta nhờ chúng tôi kéo dây thừng đó giúp. "Được thôi!". Nói thế và chúng tôi cầm lấy dây thừng kéo. Sau đó, họ cho chúng tôi cơm nắm và cho uống cả rượu! Thật không gì thú hơn! Chúng tôi cơm no rượu say xong thì cũng độ 8 giờ và tất cả kéo nhau về trường. Nhưng vẫn còn cháy. Có người bảo: "Hay là bọn mình lại đi nữa?". Nói thế và chúng tôi lại ra khỏi trường.

Khi có hỏa hoạn thì ở Ōsaka rất náo động. Vùng xung quanh đám cháy ồn ào, nhưng đi ở tâm lửa lại tĩnh lặng, không có một bóng người. Không có gì cả. Người ta chỉ tập trung bàn tán rôm rả ở ven vùng bị cháy mà thôi. Thế nên, hét thật to rồi nhảy tung vào lửa là một thú vui. Chỉ có những người chuyên việc cứu hỏa và các học sinh trường Ogata là lao động cật lực. Đại thể đã có lần chúng tôi hoạt động tích cực như vậy.

Tranh luận mà không cay cú

Về những trò nghịch ngợm tai quái của các cậu học trò trong trường, như tôi đã kể, nhưng giữa các học trò với nhau lại rất thân thiết, không bao giờ đánh nhau. Tất nhiên là rất hay tranh luận. Dù có nói chuyện về nhiều vấn đề, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ dẫn đến cãi lộn. Đặc biệt tính cách của tôi là không đánh nhau với bạn hữu bao giờ.

Chẳng hạn có tranh luận thì tôi chỉ nói những vấn đề mà mình cho là thú vị. Như khi bàn về chuyện nghĩa sĩ Akō (Xích-Tuệ) thì chúng tôi bắt đầu tranh luận về hành động của họ là chính nghĩa hay phi nghĩa. Tôi thì có thể đứng về bên nào cũng được. Chính nghĩa hay phi nghĩa, tất cả đều là ở lập luận tự do, tự tại của mình. Đối phương bảo đó là hành động chính nghĩa thì tôi sẽ chọn ngược lại về phía phi nghĩa. Nếu cậu ta bảo phi nghĩa thì tôi sẽ chọn về bên chính nghĩa và biện luận cho mà xem. Nào đến đây, có đến bao nhiêu lần thì tôi cũng tiếp không mệt mỏi.

Tôi đã nhiều lần to tiếng với những tranh luận không hại đến ai như thế, lúc thì theo bên mình, lúc lại ngả sang bên địch, khi thắng, khi thua, rất thú vị. Tuyệt nhiên, tôi chưa bao giờ tranh luận đến mức mặt mày đỏ gay, phân chia thắng bại bằng được mới thôi.

Sự học của các học trò trường Ogata

Như vậy, kể cả ở trong trường hay bên ngoài chúng tôi cũng vẫn khi thì nghịch ngợm, khi lại tranh luận nghiêm túc. Trong câu chuyện của tôi kể từ đầu đến giờ, nếu nhìn qua có thể có người cho rằng, dù thế nào chúng tôi cũng không phải là những học trò chuyên chú chuyện học hành, mà chỉ đua nhau nghịch ngợm mà thôi, nhưng tuyệt nhiên không phải như vậy. Về chuyện học hành, có thể nói thời đó không ai vượt qua được các học trò trường Ogata.

Tôi xin kể lại một câu chuyện làm ví dụ. Tháng 3 năm Ansei thứ ba (1856-ND), tôi bị sốt, nhưng cũng may là sau đó hồi phục lại được. Trong thời gian điều trị, tôi đã dùng chiếc gối quấn tròn bằng đệm, nhưng khi hơi đỡ một chút lại muốn chuyển sang gối bình thường. Lúc đó, tôi sống cùng với anh ở Kurayashiki của lãnh địa. Anh tôi có một người hầu và tôi nhờ họ lấy cho. Nhưng lục tìm trong nhà mãi mà không thể nào thấy được một chiếc gối. Lúc đó, tôi mới chợt nhận ra rằng trong suốt một năm ở Kurayashiki của lãnh địa chưa một lần dùng gối để ngủ. Mùa nào cũng thế, hầu như không phân biệt giữa ngày và đêm. Đêm xuống cũng không nghĩ đến chuyện ngủ, vẫn chong đèn đọc sách. Đọc sách cho đến khi buồn ngủ thì hoặc là gục lên bàn, hoặc tỳ lên mép Tokonoma (sàng-gian) mà ngủ.

Chưa một lần nào tôi trải đệm, đắp chăn và dùng gối ngủ một cách đàng hoàng. Lúc đó, lần đầu tiên, tôi mới vỡ lẽ ra rằng: "Ừ đúng, nhà mình chắc không có gối thật. Vì cho đến nay mình đã ngủ bằng gối bao giờ đâu". Chỉ qua câu chuyện này chắc bạn đọc cũng có thể hiểu được sự tình thế nào. Đấy không phải là riêng mình tôi chăm chú học, mà bạn bè cùng trường tất cả đều như vậy. Chúng tôi học say mê đến mức trên thực tế chắc không thể làm gì hơn thế.

Chăm chú học không để ý đến chuyện vệ sinh

Từ sau khi vào trường Ogata tôi có nhớ một vài điều mà chính mình đã trải qua. Trong bữa tối, nếu có rượu thì uống và đi ngủ ngay từ canh một. Ngủ một giấc, tỉnh mắt dậy là vào khoảng mười giờ đêm hay hơn gì đó theo cách tính hiện nay. Từ lúc đó là thức thâu đêm để đọc sách. Đọc đến rạng sáng, khi nghe thấy tiếng cơm sôi lục bục ở nhà bếp thì theo dấu hiệu ấy mà đi ngủ. Đến khi cơm chín dậy đi tắm sáng. Sau đó trở về trường ăn cơm và ăn xong lại vào đọc sách. Nhịp sống của học trò trường Ogata đại khái là theo chu kỳ như thế.

Tất nhiên, chuyện vệ sinh thì không hề chú ý. Vì là trường chuyên về ngành y, nên đáng lẽ sẽ phải nói nghiêm khắc về chuyện vệ sinh, nhưng không có ai để ý cả. Hoặc là do không nhớ ra hay sao đó mà không hề có sự nhắc nhở nào. Thế nhưng, mọi người vẫn sống bình thường. Không hiểu đó là do chúng tôi đều khỏe mạnh hay do những học trò ngành y cho rằng, giữ vệ sinh quá, ngược lại, làm người ta yếu hơn?

Sao sách và cách tiến hành giờ đọc hiểu

Đến đây tôi xin được kể về cách học trong trường Ogata. Thường những người mới đến học đều chưa biết gì. Với những người đó thì phải dạy như thế nào? Thời Edo, người ta có tiến hành in hai cuốn sách tiếng Hà Lan là cuốn về ngữ pháp và về cú pháp. Với những người mới vào học thì sẽ dạy cho họ cuốn ngữ pháp, dạy đọc đánh vần và giải nghĩa cho họ nghe. Xong phần đó thì chuyển sang cuốn cú pháp cũng theo đúng trình tự như vậy. Đọc được xong hai cuốn này sẽ chuyển sang giờ đọc. Trong giờ học này, nếu học sinh có mười người thì mười, mà mười lăm người thì mười lăm, sẽ lập thành một lớp, trong đó có một người sẽ đóng vai trò như lớp trưởng, nghe xem những thành viên trong lớp có đọc hiểu được hay không, để đánh các dấu chấm tròn trắng hoặc đen.

Sau khi đã học đánh vần qua hai cuốn sách kể trên và được nghe giải nghĩa xong thì đến giai đoạn tự học tập, nghiên cứu. Có chỗ nào không hiểu cũng không được hỏi người khác, dù chỉ là một chữ hay nửa câu. Nhưng nói chung học sinh trường Ogata không ai dốt nát và hèn đến mức như vậy. Trong trường chỉ có sách về ngành vật lý và ngành y, nhưng tập trung lại cũng chỉ được vẻn vẹn 10 bộ. Những sách đó vốn là do người ta chở bằng tàu từ Hà Lan về, nên mỗi đầu sách chỉ có một bộ. Những học sinh đã qua giai đoạn học ngữ pháp sơ cấp thì thế nào cũng phải sao lại sách. Mọi người đều phải tự sao. Mỗi tháng có 6 lần đọc bằng sách đó. Nhưng giả sử lớp học có mười người thì không thể mười người cùng chép mà phải chia nhau bằng cách bốc thăm.

Về cách sao sách, thời đó không có giấy kiểu Âu, tất cả đều phải dùng giấy Nhật, trải thẳng giấy ra và chép bằng lối Chân thư , nên rất khó. Vì vậy, thường phải gột hồ lên giấy và dùng bút lông ngỗng để chép. Loại bút này hồi đó ở các hiệu thuốc của Ōsaka thường có bán rất nhiều những sống lông dài chừng 3 Shun (khoảng 9.09cm-ND) của chim nhạn hay chim hạc gì đó, mà tôi không rõ. Tôi còn nghe nói người ta thường dùng nó để câu cá thu. Giá bút đó tính ra rất rẻ. Chúng tôi mua lông chim về và dùng kiếm nhọn gọt như hình bút, dùng rất tiện. Mực cũng không thể có mực kiểu Âu được. Lọ mực của người Nhật thường là thấm mực đã mài vào một mảnh bông hoặc dạ, nhưng mực mà chúng tôi dùng để sao lại sách nguyên bản lại là mực mài và để nguyên như thế trong bình mực.

Học trò trường Ogata ai cũng phải sao sách, nên kỹ năng sao chép rất giỏi. Đơn cử một ví dụ: Nếu có ai đó đang sao sách nguyên bản ở bên cạnh, nghe được giọng đọc của họ thì chúng tôi có thể chép nhoay nhoáy mà không hề sai vần. Cứ như thế, hai người phân chia nhau, người đọc người chép, hoặc cũng có thể tự mình nhìn sách chép. Khi nào xong thì chuyển sách nguyên văn cho người khác. Chép xong lại chuyển cho người tiếp theo. Cứ như thế theo tuần tự. Một giờ đọc hiểu được chừng ba hoặc không nhiều hơn bốn, năm trang giấy Hanshi (bán-chỉ) .

Tự thân, tự lực học tập, nghiên cứu

Giờ đọc hiểu sách chuyên ngành vật lý hay y học thì không có người giải nghĩa cũng chẳng có ai đọc cho nghe. Cả chuyện bí mật nhờ người khác chỉ giúp, cũng không ai vi phạm, vì đó bị coi là một điều đáng hổ thẹn. Chỉ còn cách là phải tự mình đọc và hiểu mà thôi.

Để đọc hiểu, ngoài việc dựa trên cơ sở kiến thức về ngữ pháp đã học và từ điển thì không còn cách nào khác nữa. Từ điển mà tôi nói ở đây là cuốn Doeff, cả trường mới có một bản sao. Cuốn này khá dày, khoảng 3000 trang giấy Nhật. Việc sao chép cuốn này là một việc lớn, không phải chuyện dễ. Cuốn từ điển này do một người Hà Lan tên là Hendrik Doeff, sống ở đảo Dejima, Nagasaki, dịch cuốn từ điển song ngữ Đức-Hà Lan ra tiếng Nhật. Cuốn sách này là niềm mơ ước của mọi người, được coi như bảo bối duy nhất trong giới những người theo Hà Lan học. Từ cuốn đó, người Nhật sao ra và trường Ogata chỉ có duy nhất một bản, nên hầu như lúc nào cũng có ba, bốn người quay quanh cuốn Doeff.

Sau này, thêm một bước nữa là có thêm bộ tự điển Hà Lan do Weiland soạn. Bộ này gồm 6 tập, có chú thích bằng tiếng Hà Lan. Nếu đọc Doeff không hiểu thì lại xem Weiland. Nhưng trong thời gian học sơ cấp, có xem Weiland cũng không hiểu được. Bởi vậy, chỉ có thể dựa vào Doeff mà thôi.

Giờ học đọc thường quy định vào các ngày một và ngày sáu (tức ngày 1, 11, 21, 31 và 6, 16, 26 - ND) hay các ngày ba và tám (tức là 3, 13, 23, và 8, 18, 28 - ND). Nếu ngày mai có giờ đọc thì đêm hôm trước đó kể cả những cậu lười biếng nhất cũng không ngủ. Trong phòng để từ điển Doeff thế nào cũng có năm, mười người túm lại, im lặng ngồi học và tra cứu từ điển. Sáng hôm sau là giờ đọc hiểu. Đọc hiểu thì cũng sẽ bốc thăm xem ai phải đọc từ đâu đến đâu. Lớp trưởng, tất nhiên, được giữ cuốn nguyên bản. Năm người thì năm mà mười người thì mười, cứ lần lượt đọc và giảng nghĩa những chỗ mình đã bốc thăm trúng. Nếu người đó không đọc được, sẽ quay vòng sang người khác. Trong đó, người nào đọc được thì ký hiệu bằng chấm trắng, người không đọc được thì đánh chấm đen và người đọc lưu loát không vấp thì đánh dấu tam giác trắng. Đây là dấu của điểm ưu, gấp ba lần dấu chấm trắng tròn.

Trường chia thành bảy, tám cấp học khác nhau. Theo nguyên tắc, người đứng đầu một cấp trong suốt ba tháng sẽ được lên cấp trên. Ngoài giờ đọc hiểu, lớp đàn anh có thể giải nghĩa hay chỉ bảo những chỗ không hiểu cho những người học lớp dưới thân mật như anh em một nhà. Nhưng một khi đã vào giờ đọc hiểu thì hoàn toàn phó mặc cho mỗi người. Không ai giúp cả, nên đối với các học sinh trường Ogata, sáu giờ đọc trong tháng không khác gì sáu lần thi.

Cứ như thế dần dần lên những lớp trên và đọc hết sách có ở trường, không còn gì để đọc nữa. Khi đó, phải đi tìm những gì khó hơn và chúng tôi đã thu thập những lời giới thiệu hay lời tựa sách, những thứ có tác dụng tham khảo, chỉ để cho những học trò lớp trên đọc. Có khi lại nhờ thầy xuống giảng cho. Tôi cũng chỉ là một học trò ngồi nghe giảng, nhưng trong khi được nghe các diễn giải khác nhau của thầy, lần nào tôi cũng thấy khâm phục sự uyên thâm của thầy, vừa cặn kẽ ngọn nguồn, vừa vĩ đại cao siêu. Thầy là một đại gia trong giới những nhà Hà Lan học, một nhân vật lớn vừa có danh, vừa có thực. Sau giờ học, về lại trường tôi vẫn nhớ là đã nói với các bạn đồng môn: "Hôm nay cậu thấy bài thuyết giảng của thầy thế nào? Tự nhiên tớ thấy bọn mình vẫn còn dốt quá!".

Nuôi dưỡng thực lực

Chúng tôi chỉ xuống phố uống rượu, đùa nghịch vào những buổi tối ngay sau giờ đọc hiểu hoặc ngày hôm sau, vì còn rảnh những bốn, năm ngày nữa mới đến giờ học tiếp theo. Sau mỗi giờ học, chúng tôi chơi thoải mái như vậy và gần đến ngày đọc hiểu lại lao vào học. Một tháng có 6 kỳ thi, nên phải học rất nhiều. Việc đọc được sách hay không là tùy thuộc vào sự có tài hay bất tài của từng người, nhưng tuyệt nhiên chúng tôi không có chuyện trí trá hình thức, chỉ cần lấy danh là đã học bao nhiêu năm, lên bao nhiêu bậc và tốt nghiệp, mà thực sự đã nuôi dưỡng được thực lực của mình. Vì vậy, hầu hết các học sinh đều đọc sách nguyên văn bằng tiếng Hà Lan rất giỏi.

Hoạt động sao chép sách

Nhân nói về cuốn từ điển của Hendrik Doeff, tôi xin được kể một câu chuyện có liên quan. Thời đó, thỉnh thoảng lại có ông lãnh chúa đến đặt trường sao giúp cuốn từ điển này. Vì vậy, việc sao chép sách vở, từ điển trở thành một nguồn thu nhập của các học sinh trường Ogata. Thời đó, giá sao sách tính là một trang Hanshi chừng 10 dòng, mỗi dòng 20 chữ thì một trang được vài Mon tiền. Nhưng một trang từ điển Doeff viết theo chiều ngang, gồm 30 dòng, nên sao hết trang đó thì được những 16 Mon. Sau đó, nếu sao cả phần chú thích bằng tiếng Nhật, còn được cộng thêm 8 Mon nữa.

Đem so với việc sao chép những cuốn sách thường khác thì quả thực tiền công sao cuốn này rất hậu. Một trang được 16 Mon, mười trang đã được những 164 Mon . Nếu thêm phần chú thích bằng tiếng Nhật nữa còn được thêm một nửa số tiền ấy, tức là 80 Mon. Có người chuyên chép chú thích, cũng có người chỉ chép phần chữ ngang. Cuốn từ điển Doeff dày 3000 trang, nên nhân tiền công lên sẽ thành một khoản khá lớn, có thể giúp ích cho cuộc sống của các học trò. Bây giờ nghĩ lại khoản tiền này không đáng là bao, chứ hồi đó, tuyệt nhiên không phải như thế.

Thời ấy, một Koku (Thạch) thóc giá 1 Bu 2 Shu, 1 Shō rượu giá từ 160 Mon đến 200 Mon. Chi phí ăn học tại trường một tháng chỉ cần khoảng từ 1 Bu 2 Shu đến 1 Bu 3 Shu là đủ. 1 Bu 2 Shu tiền vàng theo tỷ giá lúc ấy khoảng 2 Kan 400 Mon tiền bạc, nên một ngày chỉ mất chưa đến 100 Mon. Một ngày mà chép mười trang cuốn từ điển Doeff là đã được những 164 Mon, có thể để dư ra.

Tất nhiên, không phải ai cũng sao chép sách là đủ tiền đi học, mà đây có thể nói là một cách kiếm tiền của riêng những người theo Hà Lan học. Tôi xin đơn cử một chuyện thế này. Edo quả đúng là nơi tập trung các lãnh chúa, nên không chỉ từ điển Doeff mà những đơn đặt hàng chép sách cho các học sinh theo ngành Hà Lan học cũng rất nhiều. Tự điều đó làm cho giá sao sách cao lên. So với Ōsaka thì cao hơn nhiều.

Cậu Suzuki Giroku vốn người vùng Kanazawa, lãnh địa Kaga, là cậu học trò đã từ Edo xuống Ōsaka học. Lúc đầu, cậu ta không có một Mon nào trong túi, ở Edo và đã chịu khổ sở, nhưng sau đó nhờ công việc sao sách mà lập được thân và còn tích lũy tiền nữa. Chỉ một, hai năm mà cậu ta góp được những 20 Ryō tiền vàng, sau đó dùng tiền này vào trường Ogata học và trở về quê Kanazawa. Sở dĩ cậu ta có thể làm được như vậy là nhờ vào Hà Lan học. Trong suy nghĩ của Suzuki, Edo là mảnh đất thuận lợi cho việc sao sách để kiếm tiền, nhưng riêng việc học nếu không phải là Ōsaka sẽ không thể học tập đến nơi đến chốn. Cậu ta bảo quyết định theo mục tiêu đó và mang tiền kiếm được ở Edo để về Ōsaka học.

Say mê với kỹ thuật, công nghệ

Hồi đó, sự phát triển của khoa học, công nghệ còn chưa như bây giờ. Những thứ như máy hơi nước có muốn xem cũng không thể có được. Ngay cả những dụng cụ thí nghiệm hóa học cũng không ở đâu có một bộ hoàn chỉnh. Bộ hoàn chỉnh thì không thể có được, mà những thứ chắp vá cũng không. Trong hoàn cảnh đó, cả về máy móc hay hóa học, chúng tôi đều biết nguyên lý hoạt động, nên dù thế nào cũng muốn tự mình thí nghiệm xem sao. Vì vậy, chúng tôi phải khổ công xem sách nguyên văn, sao lại sơ đồ để làm giống hệt như trong sách.

Thực nghiệm làm Acid Hydrochloric

Hồi ở Nagasaki, tôi có nghe nói dùng Acid Hydrochloric kẽm có thể mạ thiếc vào sắt. Từ trước đến nay, người Nhật vẫn dùng nhựa thông. Bằng nhựa thông có thể mạ thiếc vào các dụng cụ bằng đồng. Đánh trắng lại nồi niêu là công việc của ông đồng nát hàn nồi, nhưng nếu có Acid Hydrochloric kẽm và thiếc sẽ gắn kết với sắt. Tuy vậy, đi đến mấy cửa hàng thuốc đều không thấy có, nên đành phải tự tạo vậy. Cách làm Acid Hydrochloric thì qua sách có thể hiểu được. Nhờ phương pháp đó, cuối cùng chúng tôi cũng tạo ra được Acid Hydrochloric. Nung kẽm trong đó và thử đem thiếc gắn với sắt đã thành công đến mức mấy bác thợ đồng nát sửa nồi trong mơ cũng không thấy được. Cả bọn chúng tôi đều lấy làm khoái chí.

Có lần, chúng tôi còn rủ nhau làm Iốt. Sau khi tra cứu nhiều sách vở, chúng tôi đi ra hàng rau ở Temma mua các loại đồ ăn làm từ tảo biển như Kombu, Arame về sao lên, rồi làm theo hướng dẫn, tảo biển đã thành màu đen kịt mà cuối cùng vẫn không được.

Gây náo loạn khi làm Hydrochloric Amonia

Có lần chúng tôi còn nảy ra ý định bày trò làm muối Ammonium Chloride. Mà để làm thì cần nhất là Hydrochloric Amonia. Tất nhiên, Hydrochloric Amonia không phải là thứ có ở hàng thuốc. Làm Hydrochloric Amonia phải dùng xương, mà không phải thứ cần mất thời giờ như xương, đó là những mảnh móng ngựa vụn có rất nhiều ở hàng chuyên các sản phẩm về sừng. Họ có thể cho không. Thường ra không biết họ có dùng để làm phân bón hay không, nhưng hễ cứ đến là họ cho, nên chúng tôi xin rất nhiều về nhét vào bầu rượu, bên ngoài đắp đất kín.

Sau đó, chúng tôi mua một chiếc chum sành lớn về làm lò nướng, nhóm lửa và cho khoảng ba, bốn bầu rượu vào đó. Miệng của mỗi bầu rượu có gắn một chiếc ống thò ra bên ngoài chum sành. Đại khái là làm đủ thứ công phu như thế. Sau đó, quạt lửa cháy ầm ầm lên thì sẽ có một thứ dung dịch trào ra đầu ống. Đó chính là Hydrochloric Amonia.

Hydrochloric Amonia có thể thu được một cách dễ dàng, nhưng vấn đề nan giải là mùi. Mùi Hydrochloric Amonia vừa hôi vừa khai, không biết tả bằng lời thế nào. Móng ngựa đó, tức là một loại xương sừng, mà cho vào bầu rượu đun sôi thì không mũi nào ngửi được. Đã thế, lại đun ngay trong sân vốn rất hẹp của trường Ogata, nên mùi xông tận vào các góc nhà. Các cậu học trò có tiếng là hiếu động và nghịch ngợm khó ngửi, không sao ngồi yên được. Buổi tối đi tắm, mùi từ trong quần áo tỏa ra hôi đến mức chó phải sủa! Thậm chí cả lúc ở trần mà vẫn còn bị người ta bảo là hôi và tránh xa. Tất nhiên, những người đứng ra làm có nhiệt huyết thử tạo ra Ammonium Chloride, nên không sá gì, vẫn hào hứng thử nghiệm. Nhưng xung quanh thì phản đối ầm ĩ. Đến cả những cô người hầu, những anh nô cũng kêu hôi không nuốt nổi cơm. Trong tình cảnh đó, cuối cùng chúng tôi cũng tạo ra được thứ cần làm, nhưng tiếc là không kết tinh lại mà ở dạng bột. Làm thế nào cũng không tạo được Ammonium Chloride hoàn thiện. Hơn nữa, xung quanh lại phản đối gay gắt, nên đành bỏ đấy.

Nhưng những cậu có tính cách mạnh mẽ thì vẫn không chịu thôi. Tôi cùng với Matsushita Gempō (Tùng-Hạ Nguyên- Phương) ở Kurume (Cửu-Lưu-Mễ) và Tsuruta Sen'an (Hạc-Điền Tiên-Am) thì bỏ hẳn. Còn hai, ba người khác vẫn quay ra làm lại với lý do: Đang làm dở mà bảo rằng không được, bỏ đấy thì e rằng, những học giả bên ngoài sẽ cười chê. Họ làm bằng cách ra sông Yodo-gawa (Điện-xuyên) mượn một chiếc thuyền mộc, thuê luôn người chèo và mang chiếc chum sành vẫn thường dùng lên đốt trên thuyền theo cách y như trước.

Nhưng khi khói tỏa và theo gió lên bờ, lại bị mọi người kêu ca. Ở đâu có người phàn nàn lại cho thuyền đi khỏi đó. Cứ như thế lên lên, xuống xuống từ Tenjin-bashi (Thiên-Thần-kiều), Temma-bashi (Thiên-Mãn-kiều) đến tận khu Tamae-bashi (Ngọc-Giang-kiều), vòng vèo trốn lên trốn xuống như thế. Người đầu têu việc này là cậu Nakamura Kyōan (Trung-Thôn Cung-An), sau này là bác sĩ vùng Kompira, Sanuki.

Ngoài ra, chúng tôi còn nhiều lần tiến hành phẫu thuật trên chó, mèo. Đó là điều đương nhiên, mà có khi còn mổ cả những người bị tử hình và thí nghiệm chế các loại thuốc khác nhau. Như thế có thể nghĩ rằng các học trò theo Hà Lan học thời đó nghịch ngợm, quấy phá, nhưng ở nơi mà không ai biết, chúng tôi đã nhiệt tâm học hành, nghiên cứu và đem ứng dụng vào thực tế như thế đấy.

Tắm Acid Sulfuric

Xung quanh việc điều chế thuốc cũng có khá nhiều chuyện buồn cười. Có lần chúng tôi rủ nhau làm Acid Sulfuric. Chúng tôi dùng rất nhiều xương lớn và thu được Acid Sulfuric màu đen, mặc dù không thật đúng theo yêu cầu. Sau đó, phải tinh chế cho thật trong, nên ngày hôm đó đã cho vào bát và để lên trên giá. Nhưng chính cậu Tsuruta Sen'an lại quên. Trong lúc làm gì đó, cậu ta vô tình làm đổ cả bát và bị dội Acid Sulfuric từ đầu xuống chân. Rất may là không bị thương trên người, nhưng khi đó đúng vào dịp tháng 4 âm lịch và bộ áo kimono có chần lớp trong đang mặc của cậu ta bị rách hết.

Chuyện về những bầu rượu dùng để chế thuốc

Khi điều chế thuốc, chúng tôi cần dùng bầu rượu. Cũng may là có hàng rượu tên là Kometō (Mễ-Đằng) ở Dobu'ike-suji, nằm ngay trên đường vào trường. Chúng tôi thường mua mang về, uống xong và giữ luôn bầu rượu lại. Bao nhiêu chiếc cũng không trả mà để điều chế thuốc. Người hàng rượu lấy làm lạ mới dò hỏi anh nô của trường thì được trả lời rằng: Các cậu học trò cần bầu đựng hơn là rượu bên trong! Nghe thấy thế, người hàng rượu càng ngạc nhiên hơn. Từ đó, dù có gọi thế nào, họ cũng không mang đến cho nữa, làm chúng tôi rất bí.

Sao sách nguyên bản của ông Kuroda

Lại có chuyện về ông Kuroda Mino-no Kami (Hắc-Điền Mỹ-Nồng-thủ), người đứng đầu tiểu quốc vùng Chikuzen (Trúc-Tiền) , chính là ông của ngài Kuroda thuộc tầng lớp Hoa tộc bây giờ. Thầy Ogata Kōan vốn hay đi lại nhà ông chữa bệnh, nhưng tất nhiên không phải đi xuống tận Chikuzen hay lên Edo mà chỉ ở Ōsaka và thăm khám cho ông mà thôi. Bởi vậy, khi ông Kuroda đi công cán lên Edo hay trên đường về sẽ ghé qua Ōsaka và thầy sẽ đến khu Kurayashiki của Chikuzen ở Naka-no shima (Trung--Đảo) để vấn an sức khỏe.

Có lần tôi nhớ là khoảng năm Ansei thứ ba hoặc thứ tư (1856-1857) gì đó, ông Kuroda đến Ōsaka và như mọi lần thầy Ogata đi Naka-no shima thăm bệnh. Về đến nhà thầy cho gọi tôi lên. Thầy đưa cho xem một cuốn sách và bảo: "Hôm nay ta đến Kurayashiki của Chikuzen. Ông Kuroda có cuốn sách đưa cho ta xem, nên ta mượn về đây!". Xem ra thì thấy đó là Wonderwelt (?) , cuốn sách vật lý mới nhất viết bằng tiếng Anh và đã được dịch ra tiếng Hà Lan. Trong sách toàn những điều mới mẻ và đặc biệt là viết về điện năng rất tỉ mỉ.

Kiến thức của những người như tôi về điện năng khi còn ở Ōsaka thì cũng không hơn những điều viết loáng thoáng trong sách của các trường học Hà Lan. Nhưng cuốn sách mới được đem về theo tàu này được viết dựa trên cở sở lý thuyết về điện năng của Michael Faraday, một nhà khoa học vĩ đại của nước Anh. Trong cuốn đó có viết rõ về phương pháp làm pin điện. Thật là một thứ quý hiếm làm tôi ngạc nhiên vô cùng. Chỉ nhìn qua là đã bị hút hồn vào đó. Tôi liền mạo muội nói với thầy: "Thầy ạ, đây quả là cuốn sách hiếm. Không biết có thể mượn lại được đến bao giờ ạ?". "Ừ, ông Kuroda ở Ōsaka khoảng hai đêm. Cho đến khi lên đường thì chắc họ cũng chưa cần tới". "Thế ạ? Thế thì con xin được đem về cho các bạn xem một chút".

Nói rồi, tôi mang về trường và bảo: "Này các cậu, thấy cuốn này thế nào?". Lập tức mọi người xúm đen xúm đỏ lại xem. Tôi bàn với hai, ba anh lớp trên và quyết định sẽ phải sao lại cuốn sách này. "Cuốn sách này mà chỉ xem qua thì không có ích gì. Thôi không xem nữa, bắt tay vào chép luôn đi! Nhưng không thể sao hết cuốn sách dày những một nghìn trang này, nên chỉ chép đoạn cuối viết về điện năng thôi. Tất cả mọi người hãy chuẩn bị giấy bút, ta cùng bắt tay vào làm!".

Nói thế, nhưng có một điều khó là không thể tách cuốn sách quý của ông Kuroda ra được. Nếu tách ra làm nhiều phần, vì có đến ba mươi, năm mươi người nên có thể chép xong trong thoáng chốc. Nhưng điều đó là không thể được. Cũng may, học trò trường Ogata đã quen sao chép sách và rất giỏi, nên cứ một người đọc và một người nghe thì có thể chép lại được. Khi người viết mỏi, tay lướt chậm đi sẽ có người khác vào thay. Ai mệt phải đi ngủ ngay, bất kể là ngày hay đêm.

Với cách tổ chức như vậy, không phân biệt ngày đêm, không nghỉ để ăn uống hay hút thuốc, không ngơi phút nào trong suốt ba ngày hai đêm, cuối cùng chép xong được cả phần điện. Phần này khỏi phải nói, cả sơ đồ chúng tôi cũng chép và đọc soát lại. Tổng cộng khoảng 150 hay 160 trang gì đó. Xong được phần đó thì lại muốn chép sang cả phần khác nữa, nhưng thời gian không cho phép. Nhưng chép được từng ấy cũng đã là mừng. Sau đó, nghe thầy Ogata nói, ông Kuroda đã mua cuốn đó mất 80 Ryō thì tất cả chúng tôi chỉ còn biết ngạc nhiên, chứ không thể nào nhen nhóm ý định tự mình mua được.

Gần đến chiều hôm ông Kuroda lên đường, chúng tôi vuốt ve lại cuốn sách và lưu luyến đem trả như khi chào tiễn biệt cha mẹ mình vậy. Từ đó, hiểu biết về điện trong trường thay đổi hẳn. Có thể nói không ngoa rằng, những kiến thức đó là mới nhất và cao siêu nhất ở nước Nhật thời bấy giờ. Những người như tôi, cho đến nay nghe chuyện về điện năng có thể hiểu được là hoàn toàn nhờ vào cuốn sách đó. Quả thực là một cuốn sách quý và có nhiều duyên nợ, nên nhiều lần sau đó tôi định hỏi nhà ông Kuroda xem còn không, nhưng đó là vào thời loạn, nên họ bảo không tìm thấy, không hiểu thất lạc đi đâu. Thật là một điều đáng tiếc.

Đặc trưng của giới học trò ở Ōsaka

Như tôi đã nói, riêng về chuyện học hành, học trò trường Ogata không hề chểnh mảng chút nào. Về tình hình thời đó, nói chung, thỉnh thoảng có những học trò ở Edo lặn lội xuống Ōsaka để học, chứ không ai cất công đi từ Ōsaka lên Edo cả. Nếu có đi chỉ để dạy thôi. Nói như thế không có nghĩa là các học trò giỏi trong cả nước được chọn hết về Ōsaka, hay Edo là nơi tập trung toàn những cậu dốt nát. Thế nhưng vấn đề là phải nghĩ tại sao lại xảy ra sự khác biệt như vậy? Tất nhiên, khi đó những người như tôi đều tự hào rằng, các học trò ở Ōsaka giỏi. Nhưng đó không phải là do sự khác nhau về con người mà chính là về tình hình ở Ōsaka và Edo.

Edo bắt đầu mở cảng biển thông thương. Mà ở đó lại tập trung cả Mạc phủ lẫn Kurayashiki của các lãnh chúa, nên nhu cầu hiểu biết về kỹ thuật mới của phương Tây được mở rộng và hết sức cấp bách. Họ phải thuê những người dù chỉ giải nghĩa được chút ít về sách vở phương Tây, hoặc đi nhờ biên dịch và trả tiền công. Vì vậy, các học trò rất dễ gần với con đường kiếm sống sinh nhai. Người nào may mắn thì được lãnh chúa bao bọc. Hôm qua mới là một cậu học trò mà hôm nay đã thành một Samurai với thu nhập vài trăm Koku là điều mà thi thoảng cũng có.

Ngược lại, Ōsaka chỉ là thế giới của những thị dân, không có chút gì là phong lưu theo kiểu võ gia. Bởi vậy, không có ai định học súng thuật cũng như tra cứu sách vở nguyên bản của phương Tây. Cũng vì thế mà học trò trường Ogata có dùi mài kinh sử bao nhiêu năm, có giỏi đến mức nào cũng hoàn toàn không có cơ duyên sử dụng vào công việc thực tế. Nghĩa là không có duyên với chuyện cơm áo. Không có cơ duyên, nên không ai nghĩ đến chuyện đi cầu cơ duyên. Vì vậy, cũng không giải thích được tại sao mình phải khổ luyện đến như vậy.

Chúng tôi không nghĩ đến tiền đồ của mình và cũng không có ý cầu danh. Không hẳn là không cầu danh mà cứ nói đến các học trò theo Hà Lan học là thiên hạ lại nói xấu, nên chúng tôi cũng chán ngán, chỉ ngày đêm khổ công đọc những sách nguyên bản khó và thấy thú vị với điều đó. Thực ra mà nói chúng tôi ở vào tình trạng không biết phải làm thế nào. Nhưng nếu tiến thêm một bước, thử gõ tận đáy sâu trong tâm các cậu học trò thời ấy sẽ thấy tự thân họ có một thú vui. Điều đó có thể nói bằng một câu là: Họ đọc được những sách vở tiến bộ của phương Tây, điều mà mọi người trong toàn nước Nhật không làm được, chỉ có bọn họ mới có thể làm được mà thôi. Dù có bần hàn, có nguy nan, quần áo có giản dị, ăn uống có đạm bạc, nhìn qua tưởng như bọn họ là một lũ học trò khố rách áo ôm, nhưng sự cao thượng, linh hoạt về trí lực, tư tưởng lại là điều mà vương gia quý tộc cũng phải cúi đầu. Thế nên, học càng khó thì càng thấy thú vị. Họ tự cho mình là người trong cảnh "Khổ trung hữu lạc" hay "Khổ tức lạc" và có ý nghĩ cho rằng, thứ thuốc đắng như thế thì không ai khác, chỉ họ mới uống được. Vì thế, không kể là bị bệnh hay không mà họ có một ý chí mãnh liệt rằng, thuốc càng đắng thì họ sẽ càng uống cho người khác biết họ là thế nào.

Coi những nhà Hán học là kẻ địch

Cho dù nếu có ai hỏi thực chất mục đích của sự khổ học này là gì, thì câu trả lời cũng chỉ là một lý luận mơ hồ mà thôi. Hơn nữa, vì là trường chuyên về ngành y nên cũng không hay thảo luận về chính sự. Nếu nói chuyện bế quan tỏa cảng thì tất nhiên họ có ý kiến phải khai thông cảng biển, nhưng không ai có ý định đấu tranh gì cả. Họ chỉ thấy kẻ thù trước mắt là y học Trung Hoa.

Từ việc ghét các thầy lang mà họ chuyển sang ghét cả ngành Hán học. Những gì liên quan đến Trung Quốc đều muốn loại bỏ là điều có thể thấy ở bất cứ đâu trong giới Hà Lan học. Các nhà Hán học có giảng giải kinh sử cũng không ai muốn nghe. Cứ nhìn thấy các cậu thư sinh Hán học là chỉ thấy buồn cười. Không chỉ cười nhạo mà còn sỉ vả, không bỏ qua dù chỉ một li.

Gần trường Ogata, cụ thể là ở Naka-no shima, có một thầy thuốc Bắc rất giỏi tên là Hana'oka (Hoa-Cương). Các cậu thư sinh ở đó có vẻ là con nhà khá giả, quần áo đẹp đẽ, chứ không phải như các học trò theo Hà Lan học chúng tôi. Mỗi khi gặp nhau đã không ai chào ai mà lại còn lườm nhau rồi mới đi qua. Hơn thế, chúng tôi còn ngoái lại bảo: "Bộ dạng ấy cậu thấy thế nào? Quần áo chải chuốt, là lượt có để làm gì? Đi học thì nghe giảng toàn những thứ hư hư, không không. Trong đám này thục trưởng chính là kẻ tin sùng những thứ lạc hậu ấy nhất! Những kẻ mà sau hai ngàn năm vẫn mang Thương hàn luận về nước mà giết người. Thế chẳng phải là những kẻ đáng sợ hay sao? Cứ nhìn mà xem, chúng đang bóp cổ giết người đấy!".

Lần nào gặp họ, chúng tôi cũng đều nói như thế, nhưng không phải có thâm ý sâu sắc gì trong tâm, mà chỉ là muốn phê phán sự vô khoa học, vô học thuật của y học Trung Hoa. Thế nên các cậu học trò Hà Lan học mới nhiệt huyết phê phán như thế.

Sự học không mục đích

Đại khái học trò trường Ogata, trong mười người thì có đến bảy, tám người là khổ học không mục đích. Nhưng ngược lại, sự học không mục đích đó lại là điều may mắn. Nhờ đó, họ có thể học tốt hơn các học trò ở Edo. Thử nghĩ về những học sinh ngày nay, vừa học mà vừa mải tính toán đến bước đường tiến thân thì không thể chú tâm dùi mài kinh sử được.

Tuy thế, nếu chỉ cắm đầu vào học lại là điều rất dở. Nhưng có người ngoài miệng cho là dở, nhưng ngược lại bị lôi cuốn vào những suy tính tương lai của bản thân, chỉ bận tâm đến chuyện làm thế nào để thành danh, làm thế nào để lập thân, làm thế nào để có thật nhiều tiền, có nhà to, được ăn đồ ăn ngon, được mặc quần áo đẹp và vùi đầu vào sách vở, tôi nghĩ đó không phải là học một cách thực chất.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói một điều: Khi học tập, trau dồi tri thức, các bạn phải đặt mình trong một thế thật tĩnh.

Sổ ghi danh sách những người nhập môn, hiện được lưu giữ tại khu di tích trường Tekijuku, thuộc quận Chuo-ku, thành phố Osaka. Trong đó, ghi rõ F. Yukichi xuất thân từ lãnh địa Nakatsu, nhập môn ngày mùng 9 tháng 3 năm Ansei thứ ba (1856)

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip