Sách Giê-rê-mi-a
SÁCH GIÊRÊMIA
(Chương 1 – 12)
***
I. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH GIÊRÊMIA
Năm 604 trước Công nguyên, Giêrêmia đọc cho Baruch là thư ký của ông viết lại những gì ông đã rao giảng trong 23 năm qua (x. chương 36 và 25,1-14). Khi nhà vua đốt đi cuộn sách của Giêrêmia (36,21-23), Giêrêmia lại giao cho Baruch viết một cuộn khác (36,32). Các học giả tin rằng phần lớn cuộn sách thứ hai này đã được giữ lại trong các chương 1-20 và chương 25 như ta có ngày nay. Các câu 1-14 trong chương 25 có vẻ như là phần kết của cuộn sách đã viết năm 604. Phần còn lại của sách Giêrêmia (chương 26-52) gồm những chất liệu mang tính tự thuật về Giêrêmia (26-44), một tuyển tập những lời sấm chống các dân ngoại (45-51) và chương cuối cùng 2V 25.
Một trong những khó khăn khi đọc sách Giêrêmia là cuốn sách không được viết theo thứ tự thời gian. Ví dụ, chương 21 nhắc đến cuộc vây hãm Giêrusalem năm 588-587, nhưng đến chương 25, người đọc lại bị lôi về năm 604. Và điều này xảy ra thường xuyên. Phải lý giải thế nào về tình trạng này? Theo các học giả Thánh Kinh, có nhiều tuyển tập về lời giảng của Giêrêmia, những câu chuyện về cuộc đời vị tiên tri cũng như những bài tường thuật lịch sử về những ngày cuối cùng của vương quốc Giuđa. Khi biên soạn những tài liệu này, thay vì sắp xếp các tư liệu theo thứ tự thời gian, vốn là công việc hết sức khó khăn, người biên soạn cứ xếp tư liệu này nối tiếp tư liệu khác, do đó tạo cảm giác không rõ ràng về thứ tự thời gian.
Có thể phân chia sách Giêrêmia như sau:
Phần I : Ơn gọi của Giêrêmia (1,1-19)
Phần II : Lời rao giảng của Giêrêmia từ năm 626 đến 604 (2,1 – 20,18)
Phần III : Những lời tiên tri chống lại các vua và các tiên tri giả (21,1 – 25,38)
Phần IV : Những tư liệu mang tính tự thuật và giao ước mới (26,1 – 33,26)
Phần V : Bất trung và sự tàn phá (34,1 – 39,18)
Phần VI : Bất trung đến cùng (40,1 – 45,5)
Phần VII : Những lời sấm chống lại các dân và kết luận (46,1 – 52,34)
II. ƠN GỌI CỦA GIÊRÊMIA (1,1-19)
1. Bài tường thuật về ơn gọi (1,4-10)
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi… Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”: Giêrêmia sử dụng ngôn ngữ tượng hình để nhấn mạnh sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông không những trong lịch sử Israel mà cả trong lịch sử các dân tộc.
“Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”: lời này nhắc ta nhớ đến Môsê tìm cách thoái thác những khó khăn của sứ vụ tiên tri (x. Xh 4,10-13). Giêrêmia biết rằng các tiên tri phải sống cuộc đời đơn độc, phải chấp nhận bị người ta chế giễu và kể cả bách hại; vì thế ông tìm cách tránh né.
“Đừng nói ngươi còn trẻ…Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”: Sự nâng đỡ duy nhất mà Giêrêmia nhận được là lời hứa của Chúa “Ta ở với ngươi”. Đây cũng là lời hứa Chúa dành cho những người Chúa sai đi thi hành sứ mạng Người trao phó (x. Xh 4,12; Gios 1,5; Tp 6,16; 1Sam 3,19; 16,13).
Chúa giơ tay chạm vào miệng Giêrêmia (câu 9): câu này muốn khẳng định rằng những lời Giêrêmia rao giảng không phải là lời của loài người mà là Lời của Thiên Chúa (so sánh với Is 6,6-7; Ez 3,1-4.10-11).
Câu 10 cho thấy sứ mạng của Giêrêmia không chỉ dành cho dân Israel nhưng còn cho các dân khác, và lời rao giảng của ông có cả hai mặt tiêu cực và tích cực, “Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ để lật, để huỷ để phá, để xây để trồng.” Một đàng, ông loan báo sự chấm dứt giao ước cũ và triều đại hiện hữu của Đavít, nhưng đàng khác ông loan báo giao ước mới và Davít mới (x. chương 30-33).
Trình thuật ơn gọi này soi sáng cho bạn điều gì cho ơn gọi của mình (ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi tu trì)?
2. Hai thị kiến (1,11-16)
Thị kiến về “cây canh thức”: những cây này nở hoa vào đầu tháng hai. Điều được nhấn mạnh ở đây là chính Chúa đang canh thức để làm cho Lời của Người được hoàn thành. Thị kiến “cái nồi đang sôi… và mặt nồi từ phía Bắc nghiêng xuống” ám chỉ hướng mà quân xâm lăng Babylon sẽ tấn công Giêrusalem.
Bài tường thuật về hai thị kiến được xếp vào phần nói về ơn gọi của Giêrêmia vì những thị kiến này báo trước việc thực hiện những lời tiên tri của Giêrêmia về Giêrusalem thất thủ.
3. Thiên Chúa khích lệ Giêrêmia (1,17-19)
Những câu này kết thúc trình thuật về ơn gọi của Giêrêmia. Thiên Chúa nhấn mạnh với vị tiên tri: ông không ở một mình khi đối diện với quân thù (câu 17), chính Chúa sẽ làm cho ông mạnh sức (câu 18) và cuối cùng ông sẽ chiến thắng vì Chúa ở với ông (câu 19).
Giêrêmia rất cần sự khích lệ của Chúa, nhất là trong những lúc chán nản và thất vọng như ta sẽ thấy sau này. Bạn có dám tin vào quyền năng che chở của Chúa trên cuộc đời mình không?
Sách Giêrêmia, chương 13 – 23
***
I. TỔNG QUÁT
Các chương từ 11,1 – 20,18 tiếp tục trình bày những lời tiên tri Giêrêmia tố cáo và lên án Giuđa. Tuy nhiên những lời tố cáo và lên án này được trình bày bằng nhiều hình thức khác nhằm lôi kéo sự chú ý của Dân Chúa hơn. Cách cụ thể, lời tố cáo và lên án của Giêrêmia được trình bày qua những bài giảng (các chương 11, 16, 17, 19, 20), một số dụ ngôn (các chương (13, 18, 19), và năm lời tự thú rất nổi tiếng của vị tiên tri.
II. NHỮNG LỜI TỰ THÚ
Tiên tri Giêrêmia có năm lời tự thú (11,18 – 12,6; 15,10-21; 17,12-18; 18,18-23; 20,7-18). Đây là những tâm tình sâu kín vị tiên tri bày tỏ với Chúa về ơn gọi, về sứ mạng, về những đau khổ phải gánh chịu cũng như những giằng co nội tâm của mình. Những đoạn văn này có chiều sâu nội tâm và giá trị giáo huấn đặc biệt.
Hãy thử tập trung vào lời tự thú thứ năm (20,7-18). Hầu như tuyệt vọng, vị tiên tri than trách Chúa rằng chính Chúa đã “quyến rũ” ông chấp nhận một sứ mạng vốn chỉ đem đến toàn là tai hoạ và đau khổ, “suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.” Vì thế, vị tiên tri chán nản đến độ nguyền rủa chính ngày sinh của mình, “tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi?”… và toan tính rũ bỏ sứ mạng, “Có lần con tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Thế nhưng chính lúc ấy ông lại cảm thấy Lời Chúa như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy khiến ông không chịu nổi, “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim.” Dẫu biết rằng sứ mạng tiên tri mang đến quá nhiều đau khổ, Giêrêmia tin rằng Chúa ở với ông và kẻ thù của ông sẽ không thể chiến thắng. Và với niềm tín thác vào Chúa, ông kêu cầu Chúa trả thù thay cho mình.
Bạn hãy đọc lại những lời tự thú của Giêrêmia và tâm niệm rằng con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa không phải là con đường dễ dãi. Ai nghĩ rằng đó là con đường dễ dãi, người ấy cần nhìn lại xem mình đang đi trên nẻo đường Phúc âm hay một con đường nào khác! Tuy nhiên, dù khó khăn và đau khổ, ta không cô đơn trên con đường này vì có Chúa đồng hành, và có rất nhiều anh chị em cũng phải kinh qua những khổ đau và thử thách đó như Giêrêmia, và họ đang đồng hành với ta.
III. CÁC DỤ NGÔN
Giống như Chúa Giêsu, tiên tri Giêrêmia hay sử dụng các dụ ngôn khi rao giảng. Hầu hết các dụ ngôn là những câu chuyện được sáng tác, vd. Người Samari nhân hậu, Người con hoang đàng, Người giàu cóù và Ladarô. Một vài dụ ngôn được thể hiện bằng hành động, vd. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Khác với tỷ ngôn mang tính so sánh từng chi tiết, mỗi dụ ngôn có một trọng điểm và ta cần khám phá ý nghĩa đó.
– Đai lưng tốt đã trở thành vô dụng (13,1-11): Lưu ý các từ “huỷ diệt” (13,9) và “thắt chặt” (13,11).
– Người thợ gốm (18,1-12: Lưu ý câu “Ta lại không thể làm được như người thợ gốm này hay sao?” (18,6).
– Cái bình vỡ (19,1 – 20,6): Lưu ý hành động Giêrêmia đập vỡ bình và những lời kèm theo.
IV. GIÊRÊMIA VÀ CHÚA GIÊSU
Trong lịch sử Israel, không có vị tiên tri nào giống Chúa Giêsu cho bằng Giêrêmia:
– Giảng dạy bằng dụ ngôn,
– Bị chính dân mình ruồng bỏ
– Khóc cho dân
– Bị tù tội, đánh đập và giết chết.
– Thảm kịch của Giêrusalem thời Chúa Giêsu cũng tương tự thảm kịch Giêrusalem thời tiên tri Giêrêmia.
– Cả Chúa Giêsu và tiên tri Giêrêmia đã tiên báo sự sụp đổ của Giêrusalem và đền thờ, và cả hai lời tiên tri đều đã ứng nghiệm.
Vì tiên tri Giêrêmia giống Chúa Giêsu như thế nên nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tự hỏi không biết ông này có phải là Giêrêmia trở về từ cõi chết không (x. Mt 16,14).
Sách Giêrêmia
(chương 24-39)
***
1. TIÊN TRI GIÊRÊMIA VÀ GIAO ƯỚC MỚI (30,1 – 33,26)
Gier 31,1-40 cho thấy Giêrêmia chịu ảnh hưởng của tiên tri Hôsê về mặt thần học cũng như về ngôn ngữ và văn phong. Cả hai đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng để nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa dành cho Israel, đồng thời loan báo giao ước mới và vĩnh cửu hoặc cuộc hôn nhân mới và vĩnh cửu (Gier 31,31-34 và Hôsê 2,18-25).
– Câu 1-6 : loan báo dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, nhấn mạnh tình yêu của Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở”
– Câu 7-14 : niềm vui của những người bị lưu đày nay được trở về: “Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân”
– Câu 15-20 : kêu gọi dân đừng than khóc nữa (qua nhân vật Rakhel). Thánh Matthêu cũng dùng hình ảnh này (Mt 2,18). Dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, sẽ hối cải, và được Thiên Chúa thứ tha.
2. Giao ước mới (31,31-34)
“Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập… Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta…”
Đây là lời tiên tri nổi tiếng, làm nền cho giáo huấn thần học của Tân Ước về Giao Ước Mới được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô: “Anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người… Khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor 3,3-6).
Cái “Mới” ở đây là hoa trái của giao ước và phương thế mang lại hoa trái đó: chính Chúa và chỉ một mình Chúa đặt vào tâm hồn con người năng lực đáp trả tình yêu của Ngài. Chúng ta gọi là ân sủng. An sủng đó được ban cho ta cùng với ơn tha thứ tội lỗi, khi ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng đã chết vì yêu thương ta.
3. TIÊN TRI THẬT VÀ TIÊN TRI GIẢ (27,1 – 29,32)
Chương 27 trình bày bối cảnh cuộc xung đột giữa tiên tri Giêrêmia và Hananiah (Kha-nan-gia). Năm 593 trước Công nguyên, vua Zedekiah của Giuđa âm mưu chống lại Nabuchodonosor bằng cách mời đại diện các nước Edom, Moab, Ammon, Tyre và Sidon đến Giêrusalem. Dùng một cái ách làm tượng trưng (dụ ngôn bằng hành động), Giêrêmia loan báo cho vua cũng như các vị đại sứ rằng họ sẽ không thành công nhưng sẽ phải chịu cái ách thống trị của Babylon.
Trong bối cảnh trên, chương 28 trình bày cuộc đối đầu giữa Giêrêmia (tiên tri thật của Chúa) và Hananiah (tiên tri giả). Hananiah loan báo thành công (28,1-4). Giêrêmia tố cáo Hananiah nói sai (28,5-9). Hananiah tháo cái gông ra khỏi cổ của Giêrêmia mà ném xuống đất và lập lại lời loan báo về sự thành công (28,10-11). Cuối cùng Giêrêmia nói tiên tri về cái chết của Hananiah trong vòng một năm vì “Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá.”
Chương 29 tiếp tục trình bày cuộc chiến đấu của Giêrêmia chống lại các tiên tri giả. Trong cảnh lưu đày Babylon, các tiên tri giả quả quyết với dân rằng họ sẽ sớm được hồi hương nhưng Giêrêmia phi bác lời tiên tri đó bằng cách gửi cho dân một lá thư. Ngài khuyên dân chấp nhận định cư ở đó (câu 4-6), cầu nguyện cho sự thịnh vượng của Babylon (câu 7), đừng để các tiên tri giả lường gạt (câu 8-9). Sau đó (câu 10-14) Giêrêmia đoan quyết với dân rằng sau 70 năm, Chúa sẽ đảo ngược số phận của họ và đem họ về quê hương xứ sở của họ.
4. Làm thế nào để phân biệt tiên tri thật và tiên tri giả?
Hãy đọc Gier 28,7-9 và 29,8-9 và tìm ra một vài dấu hiệu nhận diện tiên tri giả.
“Các tiên tri có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn tiên tri nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời tiên tri ấy ứng nghiệm, ông ta mới được nhìn nhận là tiên tri Đức Chúa sai đến thực sự” (28,8-9)
“Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các tiên tri đang ở giữa các ngươi cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy, bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi” (29,8-9).
Sách Giêrêmia
chương 40 – 52
***
I. PHẦN KẾT SÁCH GIÊRÊMIA (52,1-34)
1. Giêrusalem sụp đổ (52,1-16)
Cuộc vây hãm bắt đầu vào tháng giêng năm 588 trước Công nguyên và kết thúc vào tháng 7 năm 587. Binh lính bỏ chạy, bị bắt, vua Zedekiah bị đâm mù mắt… những điều này đã được nói đến ở chương 39,5-7. Một tháng sau, Nebuzaradan, quan chỉ huy thị vệ của vua Babylon, đến để giám sát việc phá hủy thành phố và đưa dân đi đày.
2. Lưu đày (52,24-30)
Đem dân thua trận đi lưu đày là cách thế hiệu quả nhất để ngăn chặn những cuộc nổi loạn có thể bùng phát. Assyria đã từng làm như thế (x. 2V 17). Lưu đày không có nghĩa là đưa toàn bộ dân chúng sở tại đi, nhưng chỉ đưa những người có thế lực và ảnh hưởng đi vì sự hiện diện của họ có thể khơi dậy các cuộc phản kháng và chống đối. Câu 28-30 đưa ra những con số dân lưu đày thuộc 3 nhóm: năm 597, 587, và năm 582.
3. Vua Jehoiachim được tha (52,31-34)
Năm 598, Ông vua trẻ này lên nối nghiệp cha mới được 3 tháng thì bị đày sang Babylon làm con tin. Ông được trả về năm 561. Nhiều người Do thái đang bị lưu đày cũng như đã được về quê hương nhìn vị vua này là vị vua chính thức (chứ không phải vua Zedekiah). Vì thế việc ông ra khỏi tù được coi là dấu chỉ hi vọng cho tương lai. Cách đối xử đặc biệt mà vua Babylon dành cho vị vua này cũng nhằm nói lên ý nghĩa này: nhắc nhớ cho dân Israel lời tiên tri của Giêrêmia rằng thời lưu đày sẽ chấm dứt và họ sẽ được trở về miền đất quê hương.
II. TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TIÊN TRI GIÊRÊMIA
Giống như Môsê và Chúa Giêsu, Giêrêmia sống vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử, và đóng vai trò cầu nối giữa giai đoạn cũ và giai đoạn mới. Trong thị kiến mở đầu, sứ vụ tiên tri của ngài được mô tả là “để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1,10). Trong thực tế, ngài đã làm đúng từng chữ như thế. Ngài đã thấy đế quốc Assyria biến mất khỏi vũ đài lịch sử, và Babylon bước lên thay thế. Ngài đã loan báo sự sụp đổ của vương quốc Giuđa và giao ước Sinai, đồng thời tiên báo việc thiết lập Giao Ước Mới. Ngài đã tuyên bố rằng các vua dòng dõi Davít bị ruồng bỏ, đồng thời loan báo một Đavít mới.
Có thể nói về Giêrêmia rằng không có ai đóng góp nhiều cho dân tộc mình bằng ngài nhưng lại là người bị đối xử tệ hại nhất. Tuy nhiên điều quan trọng không phải là những đau khổ ngài phải chịu, mà là sự phục sinh của một dân tộc. Sự phục sinh này là một trong những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại làm việc qua con người, và Giêrêmia là người đóng góp tích cực nhất.
Khi ngài bắt đầu xuất hiện vào năm 626 trước Công nguyên, khó có người Israel nào có thể hình dung Giêrusalem sẽ bị vây hãm và Đền thờ bị phá huỷ. Ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn các vua dòng dõi Đavít và đã gắn bó với Giêrusalem, nên Giêrusalem bất khả xâm phạm. Việc họ đánh bại Sennacherib thời Isaia lại càng làm cho họ vững tin hơn. Đây là lý do giải thích tại sao họ chống lại Babylon và đến phút cuối, vẫn hi vọng Chúa sẽ can thiệp và hạ gục vua Babylon.
Giêrêmia đã cố gắng chống lại quan điểm tôn giáo sai lầm này. Ngài nhắc cho dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa có thể hủy diệt Giêrusalem và ruồng bỏ hàng vua chúa thuộc dòng dõi Đavít. Điều ngài nhấn mạnh là việc Giêrusalem thất thủ không phải là do đế quốc Babylon nhưng là công việc của Chúa, và Chúa dùng Babylon như khí cụ. Thế là ngài bị chế giễu, khinh khi, nguyền rủa. Các tiên tri giả chiến thắng!
Thế nhưng khi Ngày của Đức Chúa đến, khi Giêrusalem bị tàn phá, khi vua chúa bị lưu đày… người ta nhớ lại lời của Giêrêmia. Và lời rao giảng của ngài, những dụ ngôn (bằng lời và hành động) của ngài được nhìn trong ánh sáng mới. Dân Chúa học được bài học đó đã là đáng quý nhưng phải trả giá quá đắt.
Điều đáng mừng là lời tiên tri của Giêrêmia không dừng ở đó. Bên cạnh thúng vả xấu, còn có thúng vả tốt (24,1-10); bên cạnh lời loan báo hủy diệt, còn có lời hứa hi vọng: “Khi mãn 70 năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt Babylon và dân ấy vì tội lỗi của chúng…” (25,12) và “Người ta sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn tược trong xứ này” (32,15). Và những lời loan báo về giao ước mới (31,31-34; 32,40) cũng như lời hứa về một Đavít mới (33,14-26).
Trong cảnh tang thương, người ta nhớ lại lời tiên tri Giêrêmia và hiểu ra rằng tương lai của dân tộc tùy thuộc vào việc người ta trung thành hay bất trung với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Trong ánh sáng đức tin, người ta hiểu được ý nghĩa những biến cố xảy ra. Và đức tin ấy tiếp tục được thắp lên giữa tăm tối của thời lưu đày, trở thành gạch nối giữa một Israel đau khổ của lưu đày và một Israel được hồi sinh từ nấm mồ lưu đày để bước vào một trang mới của lịch sử Dân Chúa. Giêrêmia là người đã đóng góp phần tích cực nhất cho lịch sử đó.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip