hanh trinh den dinh doc lap

Tiêu đề: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Tác giả: Nguyễn Khắc Nguyệt

(Nguyên chiến sĩ lái xe tăng Đại đội 4, Lữ đoàn xe tăng 203)

Đây là cuốn truyện ký của một CCB nguyên là chiến sĩ của Đại đội 4, Lữ đoàn tăng 203 - Đại đội của các xe 390, 843,... đã chiếm và cắm lá cờ đầu tiên trên Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975.

Tôi số hóa cuốn sách này để tặng những CCB đã từng tham gia vào cuộc KCCM nhân kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và riêng tặng chú Tập, chú Nguyên - những người lính của xe 390 năm xưa. Bạn đọc nếu theo dõi sẽ thấy các chú xuất hiện trong cuốn sách này khá nhiều cùng với những tên tuổi nổi tiếng như Bùi Quang Thận, Vũ Đăng Toàn,...

Giữa đêm một ngày cuối tháng 10 năm 1971, Tiểu đoàn 512 của Trung đoàn xe tăng 203 đã có mặt tại ga Vĩnh Yên để chờ tàu vào Vinh. Hơn hai chục chiếc xe tăng nằm rải rác xung quanh đồi Ga, cái thì chui vào vườn nhà dân, cái thì nép mình bên hàng cây xà cừ như những chú voi đang lim dim ngủ.

Trời vừa sáng, cái lạnh của mùa thu se sắt sau lớp áo mỏng. Lũ trẻ con xóm Ga dậy sớm đang túm tụm bàn tán bên những chiếc xe tăng cùng những người lính trẻ rất đỗi hiền lành. Trong căn lán được dựng tạm bằng bạt xe tăng, Ban chỉ huy đại đội Bốn đang ngồi trao đổi công việc. Đại đội trưởng Lê Văn Nghĩa thông báo:

- Theo Ban chỉ huy tiểu đoàn cho biết bên đường sắt vẫn chưa có tàu, vì vậy không loại trừ việc chúng ta phải nằm đây chờ đợi thêm vài ngày nữa. Tôi đề nghị chúng ta phải quan tâm đến mấy việc sau: thứ nhất, phải quản lý tốt quân số, tuyệt đối tránh tình trạng đào bỏ ngũ; thứ hai, mặc dù thời gian này không quân Mỹ ít hoạt động hơn nhưng chúng ta vẫn phải cảnh giác, những xe đã đưa được vào vườn của dân thì thôi nhưng những xe còn nằm ngoài đồi thì phải chú ý thay lá ngụy trang hàng ngày và phải tổ chức canh gác cho tốt; thứ ba, tuy là xe còn mới song công tác kỹ thuật không được lơ là, vẫn cần phải kiểm tra điều chỉnh cho đúng tiêu chuẩn; và thứ tư, phải tổ chức tốt việc ăn ở, ngủ nghỉ của bộ đội, suốt tuần qua anh em đã vất vả nhiều rồi, giờ mà "nó" lăn ra ốm một lượt là gay đấy.

Vẫn bộ quần áo công tác quanh năm bê bết dầu mỡ, Đại đội phó kỹ thuật Nguyễn Văn Đề thủng thẳng:

- Về mặt kỹ thuật xin các anh không phải lo. Xe chúng ta vừa nhận đều là xe mới tinh. Được nhận xe mới anh em trong đơn vị ai cũng phấn khởi và tích cực chăm chút lắm.

Ngồi chân co chân duỗi trên cái hòm đạn, tay vẫn không rời cái điếu cày, Chính trị viên Quản Đức Đán cất cái giọng rè rè vì khói thuốc lâu năm:

- Theo tôi, cái đáng lo nhất và phải quan tâm nhiều nhất là công tác quản lý bộ đội. Cho đến giờ ai cũng biết chúng ta sang nhận xe đợt này là để đi chiến trường mà anh em lại không ai được về phép; vì vậy rất dễ nảy sinh những tư tưởng xấu, nhất là số chiến sĩ mới nhiều khi anh em người ta nghĩ rất đơn giản là về thăm nhà một vài ngày lại lên thì có sao đâu.

Chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn vẫn điềm đạm như mọi ngày, chờ cho mọi người ngồi im một lát anh mới phát biểu:

- Tôi cho rằng tuyệt đại đa số anh em cán bộ, chiến sĩ trong đại đội ta là tốt; chúng ta cũng đã tổ chức tốt việc quán triệt nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong điều kiện ăn ở phân tán như hiện nay, lại ở địa bàn thị xã nên rất cần phải siết chặt lại công tác quản lý. Theo tôi, ta phải giao trách nhiệm cụ thể cho cán bộ trung đội và các trưởng xe phải tự quản lý lấy trung đội mình, xe mình. Đi đâu cũng phải có từ ba người trở lên, đi về phải đúng giờ, phải duy trì nghiêm chế độ điểm danh hàng ngày...

Đại đội trưởng Nghĩa kết luận:

- Tôi sẽ giao nhiệm vụ cho các trung đội trưởng ngay bây giờ. Riêng số anh em "xê bộ" và công tác hậu cần, đề nghị anh Toàn trực tiếp quản lý giúp.

Toàn nhỏ nhẹ:

- Nhất trí thôi!

Ba người chui ra khỏi cái nhà bạt, Đán vẫn yên vị nạp một điếu thuốc lào to vào nõ điếu, bật lửa kéo một hơi dài. Phóng tầm mắt nhìn quanh một lượt, Nghĩa thở dài:

- Lúc nào cũng gấp... gấp rồi nằm đây mà chờ!

Cách đây gần một tháng, cả tiểu đoàn còn đang huấn luyện bên Xuân Mai; đùng một cái lệnh tức tốc sang Vĩnh Phú nhận xe đi chiến trường gấp. Đâm sấp dập ngửa chưa kịp thu dọn gì đã thấy ô tô đến chở đi. Sang đến tổng kho lại giao giao, nhận nhận, mở niêm, kiểm tra, hiệu chỉnh; bổ sung dầu, mỡ, nước, bảo dưỡng đạn, lắp đạn, đưa đạn vào xe... rối rít tít mù cả lên. Tưởng được đi ngay ai cũng háo hức, nào ngờ còn nằm vạ, nằm vật ở chân núi Đinh gần nửa tháng, đến hôm nay ra đây lại bảo chưa có tàu. Không hiểu công tác hiệp đồng của các "bố" bên tác chiến với ngành đường sắt ra làm sao nữa. Biết thế này thì cứ nằm trong núi Đinh có phải hơn không? Được cái anh em đều phấn khởi vì tiểu đoàn được nhận một lúc hơn hai mươi cái T54B mới tinh còn "thơm mùi chính phủ". Đây là loại xe hiện đại nhất của ta hiện nay, có cả hệ thống ổn định pháo và hệ thống dẫn đường. Đại đội trưởng Nghĩa đã nhẩm tính trong đầu một kế hoạch huấn luyện bổ sung cho cán bộ, chiến sĩ trong đại đội có đủ khả năng làm chủ và khai thác tốt loại vũ khí này.

Xuống trung đội Một, Nghĩa cảm thấy rất ưng ý với cách bố trí vị trí trú quân của trung đội trưởng Đậu Minh Tiến. Trong khu vườn rộng sát chân đồi Ga, bốn cái xe nằm nép mình bên hàng rào tre rất gọn gàng, kín đáo. Thấy đại đội trưởng đến, Tiến chạy lại đứng nghiêm báo cáo:

- Báo cáo đại đội trưởng, trung đội đang cho anh em tìm hiểu thêm về xe, pháo và bảo dưỡng kỹ thuật.

Nghĩa hỏi lại:

- Tìm hiểu thế nào?

Tiến cười khoe chiếc răng khểnh:

- Thì từ trước đến nay mình toàn huấn luyện bằng xe cũ; bây giờ được nhận xe mới mà lại hiện đại thế này cũng phải cho anh em tìm hiểu ngay chứ.

- Thế ai hướng dẫn? - Nghĩa vẫn tiếp tục quay.

- Thì anh em tự nghiên cứu là chính, có gì không hiểu sẽ trao đổi với nhau. Cũng may bên tôi có mấy cậu sinh viên đại học và trung cấp cơ khí nên có thể đọc được tiếng Nga lấy làm "trợ giáo".

- Thế thì tốt! - Nghĩa hạ giọng - Nhưng còn tình hình tư tưởng và chấp hành kỷ luật của anh em thế nào?

- Báo cáo "đại trưởng" - (không hiểu từ bao giờ ở "xê Bốn" này anh em khi gọi cán bộ đại đội cứ "ngắt" đi từ đội, nghe cũng hay hay) - nói chung anh em rất yên tâm, phấn khởi lên đường. Tuy nhiên tôi với anh Tự đã thống nhất là không được chủ quan mà phải quản lý chặt chẽ hơn. Đại trưởng xem tôi bố trí thế này là cũng có ý ấy đấy! - Tiến chỉ một vòng, ba xe kia nằm ba góc, xe anh án ngữ ngay cổng vườn.

Nghĩa gật gù:

- Được đấy! Thôi tớ sang trung đội Hai.

Vừa đi Nghĩa vừa thầm so sánh về hai trung đội trưởng: Đậu Minh Tiến quê ở Vinh, thông minh, cao ráo, học xong trường "Cơ khí 1" thì nhập ngũ, vào thiết giáp được đi học trưởng xe rồi đào tạo cán bộ. Trung đội trưởng trung đội Hai là Trương Quang Quý quê Thanh Hoá, thấp đậm như một lực sĩ cử tạ, đang học năm thứ hai Đại học Lâm nghiệp thì đi bộ đội, cũng đã được đào tạo qua trường của binh chủng. Cả hai đều là lính "xe tăng nòi", có văn hoá, hiểu biết khá sâu về kỹ thuật binh chủng nhưng về kinh nghiệm chiến đấu cũng như quản lý đơn vị còn "non". Được cái may là đội ngũ thành viên kíp xe của đại đội này rất vững: quá nửa số trưởng xe, lái xe, pháo thủ là sinh viên đại học và trung cấp, tất cả được huấn luyện rất cơ bản ở trường của binh chủng từ đầu và được huấn luyện nâng cao gần một năm qua, chỉ có mấy pháo hai là do đơn vị tự đào tạo.

Bốn cái xe của trung đội Hai nằm nối đuôi nhau nép mình vào rặng tre dưới chân đồi. Thấy đại đội trưởng đến gần, pháo hai Thành ôm khẩu AK đang đứng gác chào rõ to:

- Chào đại trưởng ạ!

Nghĩa gật đầu và hỏi:

- Anh Quý đâu?

Từ dưới cái bạt xe kéo ra làm thành một "bán mái", trung đội trưởng Trương Quang Quý chạy lại đứng nghiêm:

- Báo cáo đại trưởng, trung đội Hai quân số đủ, bộ đội đang bảo dưỡng kỹ thuật!

Nghĩa gật đầu kéo Quý cùng đi dọc đội hình, anh hài lòng thấy người nào xe nấy đều rất bận rộn với công việc. Nghĩa hỏi Quý:

- Tình hình tư tưởng của bộ đội trong trung đội thế nào?

Trung đội trưởng Quý nghiêm trang:

- Báo cáo đại trưởng, anh em trong trung đội đều rất phấn khởi, có quyết tâm cao và chấp hành nghiêm kỷ luật.

Nghĩa hạ giọng:

- Đại đội ta có thể còn phải nằm đây chờ tàu một vài ngày, các cậu phải hết sức chú ý công tác quản lý bộ đội đấy nhé; tuyệt đối không để xảy ra đào, bỏ ngũ hoặc vi phạm kỷ luật đấy.

Quý đứng nghiêm lại:

- Rõ!

- Ngoài ra, trong quá trình làm công tác kỹ thuật cũng cần tổ chức cho anh em nghiên cứu thêm về xe máy, vũ khí để khai thác, sử dụng đúng quy tắc hơn - Quý chưa kịp trả lời Nghĩa đã hỏi tiếp - Bên cậu có những tay nào đã học đại học và trung cấp rồi nhỉ?

Nhăn trán một thoáng Quý liệt kê:

- Đại học có Bùi Định, Nguyễn Bá Tùng, Lê Tiến Hùng. Còn trung cấp có Tập, Lược, Tráng và... tôi cũng chưa nhớ hết.

Nghĩa phấn khởi hẳn lên:

- Thế là tốt rồi, phải biết tận dụng trình độ của số anh em này; cho "nó" nghiên cứu tài liệu rồi phổ biến cho bộ đội, trước mắt là những nội dung liên quan đến sử dụng xe đã, còn phần vũ khí tính sau.

- Vâng ạ!

Nghĩa siết chặt tay Quý rồi rảo bước về phía nhà chỉ huy.

Là nơi xuất phát chủ yếu của các đơn vị xe tăng đi Nam - ga Vĩnh Yên được thiết kế riêng một đường "ke" để đưa xe tăng lên tàu. Đường "ke" dành riêng ấy có một cái bệ được xây cao đúng bằng độ cao của mặt toa tàu và có độ dài khoảng mười toa. Khi cho xe lên tàu chỉ việc lái xe lên bệ, căn chỉnh cho chính xác rồi từ từ bò từ toa này sang toa khác cho đến khi lên hết cả đoàn, đầu máy sẽ kéo ra để đưa đoàn khác vào. Vấn đề quan trọng là phải căn hướng cho chính xác và giữ cho chân dầu êm, tuyệt đối không chuyển hướng gấp trên tàu.

Quá nửa đêm cả tiểu đoàn đã được đưa hết lên tàu. Bên đường sắt đang cho dồn nối toa. Cánh lính tăng thì cấp tập chằng néo cố định, chèn xích rồi trùm bạt kín. Mỗi xe chỉ để một lái xe ở lại trông chừng còn tất cả dồn vào hai toa hành khách phía cuối đoàn tàu, đại đội Bốn và đại đội Năm ở một toa, toa kia dành cho đại đội Sáu và tiểu đoàn bộ.

Hai giờ sáng, đoàn tàu kéo một hồi còi dài rồi nhằm hướng Nam thẳng tiến.

Trên hai toa hành khách quang cảnh nhộn nhạo như trên một chuyến tàu chợ cuối năm. Đại đội trưởng Nghĩa kéo hai cán bộ trung đội ra đầu toa nói nhỏ:

- Từ giờ trở đi các cậu vẫn phải hết sức chú ý công tác quản lý bộ đội đấy. Tôi sẽ ở đầu toa, anh Đán ở giữa toa, các cậu phân công mỗi người cảnh giới một bên, có vấn đề gì phải báo cáo ngay.

Nghĩa quay trở lại hướng vào trong toa cao giọng:

- Các đồng chí chú ý! Trường hợp bị máy bay địch chặn đánh phải hết sức bình tĩnh, khi tàu dừng thì nhanh chóng chạy xa đường tàu tìm chỗ ẩn nấp; khi báo yên có còi tập hợp phải nhanh chóng về tàu. Còn bây giờ thì tranh thủ ngủ đi, anh nào ngủ ngồi được thì ngủ, không thì rải chiếu ra sàn hay mắc võng lên thành toa mà ngủ.

Một lát sau trật tự đã được vãn hồi; theo nhịp lắc lư của con tàu những con mắt dần dần díp lại.

Lúc chạy, lúc dừng chờ khắc phục cầu đường và tránh máy bay, mất ba đêm tàu mới đến Vinh. Từ đây họ sẽ xuống Bến Thuỷ để đi tàu thuỷ vào Quảng Bình. Xe chiến đấu, trọng lượng nặng, số giờ bảo hiểm chẳng được bao nhiêu, cần phải hết sức tiết kiệm hành trình. Theo thông báo của Hải quân mỗi chuyến họ sẽ chở được tám chiếc nên tiểu đoàn ưu tiên cho "xê Bốn" đi trước, ngay sau khi xuống tàu sẽ hành quân ra Bến Thuỷ, còn "xê Năm" và "xê Sáu" thì vào giấu quân ở mấy làng gần đó chờ chuyến sau.

Tàu vừa dừng, tất cả đã nháo nhào xúm vào gấp bạt, tháo dây thép cố định, bỏ chèn chống... Đưa xe xuống xếp thành đội hình thì trời đã gần sáng, Nghĩa hối hả lệnh cho toàn đại đội nhanh chóng cơ động về phía Bến Thuỷ.

Bình chạy đầu đại đội, cậu ta ngơ ngác, thành phố mà thế này ư? Chả thấy gì ngoài những đống đổ nát, đường phố thì vắng tanh vắng ngắt, Bình lờ mờ cảm thấy sự tàn khốc của chiến tranh và tăng ga chạy miết.

Chẳng mấy chốc đoàn tăng đã ra đến ngoại thành, gần đến phà Bến Thuỷ thì Nghĩa cho đại đội rẽ vào bên trái và dừng lại tổ chức trú quân đợi tàu. Tám chiếc xe tăng náu mình dưới hàng cây phi lao ven đê đang vi vút đùa với gió từ sông Lam thổi lên. Trông thấy khá lộ liễu nhưng cũng chẳng có chỗ nào hơn, Nghĩa hò hét anh em ngụy trang thật kỹ nhưng trong lòng vẫn lo ngay ngáy.

Cơm trưa xong trung đội trưởng Tiến xin phép ghé thăm nhà, Nghĩa đồng ý. Tiến đi rồi Nghĩa gọi Quý và Tự - trung đội phó trung đội Một đi hiệp đồng với bên Hải quân về kế hoạch chạy tàu. Cả ba thầy trò cùng ngao ngán khi nhận được thông báo: chưa có tàu, cứ về đợi, khi nào có sẽ thông báo sau.

Thất thểu ra về, từ xa đã nhìn thấy tám cái xe tăng lù lù ven bờ đê, Nghĩa thấy không ổn. Về đến nơi anh cho pháo hai Đạt đi mời các cán bộ đại đội lên hội ý. Mọi người vừa ổn định chỗ ngồi Nghĩa nói ngay:

- Vừa nãy tôi với anh Quý, anh Tự đây đi làm việc với bên Hải quân, theo thông báo của họ hiện nay vẫn chưa có tàu nên toàn tiểu đoàn ta phải nằm lại đây tiếp tục chờ, thời gian chưa biết đến bao giờ. Sáng nay tưởng có tàu ngay nên tôi mới cho đại đội cơ động ra đây, nhưng bây giờ tình hình như vậy nên theo tôi ta phải cơ động tìm chỗ trú quân khác chứ ở đây điều kiện trú quân không đảm bảo.

Đán tán thưởng:

- Đúng đấy! Chỗ này chỉ có thể ở tạm thời gian ngắn, bốn bề thì trống trơn, có mỗi rặng cây phi lao che chẳng kín xe nhỡ có máy bay thì chết.

Nghĩa hỏi Đán:

- Cậu Tiến vẫn chưa về hả ông?

Đán nhìn đồng hồ:

- Mới có hơn 3 giờ, nó xin đi đến 5 giờ cơ mà.

Đúng lúc đó Tiến được cô em đèo xe đạp ra, anh chạy lại xe đại đội trưởng:

- Báo cáo đại trưởng tôi có mặt!

Nghĩa cười cười:

- Đã hết giờ đâu mà vội thế?

Tiến cũng cười:

- Thời chiến mà, ghé qua nhà được một lúc thế là quý lắm rồi.

Đán chêm vào:

- Nói thế chứ ông ấy mong cậu lắm đấy!

Tiến ngạc nhiên:

- Có vấn đề gì thế ạ!

Nghĩa vỗ vai Tiến:

- Cứ ngồi xuống đây đã. - Anh nhắc lại tình hình phải đợi tàu và tiếp - Cậu là "thổ công" ở đây nên đề xuất xem có địa điểm nào phù hợp, chiều tối nay ta tranh thủ liên hệ với địa phương và bà con để sáng sớm mai đưa xe vào. Các anh thấy thế có được không?

Tiến gật đầu:

- Tôi hoàn toàn nhất trí! Các anh yên tâm, có thể nói quanh đây bà con đều rất tốt, quý bộ đội như con ấy, nhất là bộ đội xe tăng chúng ta.

Chính trị viên phó Toàn nháy mắt:

- Này Tiến, tranh thủ đợt này cưới vợ luôn cho ông bà phấn khởi.

Tiến cười xoà:

- Còn phải hỏi xem người ta có đồng ý không đã chứ.

Thật không ngờ vị trí trú quân đợi tàu của "xê Bốn" lại nằm ngay cạnh nơi trường trung cấp Y Nghệ Tĩnh sơ tán về. Xe mới dừng được một lát đã thấy lố nhố bóng mấy cô gái thấp thoáng ven rặng cây chỉ chỉ trỏ trỏ, rồi xì xào gì đó với nhau. Mấy anh lính mắt cứ sáng rực cả lên nhưng đành chịu vì có lệnh tuyệt đối không được rời xe đề phòng máy bay đánh còn cơ động.

Mãi đến chiều hôm sau, khi đại đội trưởng, đại đội phó và chính trị viên nhận lời ghé thăm nhà trung đội trưởng Đậu Minh Tiến, còn chính trị viên phó Toàn đang mải chỉ huy đám nuôi quân nấu nướng bữa chiều, Tráng với Bình mới mò được vào xóm. Chẳng biết các chàng khua môi múa mép thế nào mà một lúc sau đã thấy hai anh dẫn một đoàn hàng chục em ra xem xe tăng (!). Nghe nói Nghệ Tĩnh này nhiều nắng, lại có gió Lào mà sao con gái lại xinh thế kia, nước da em nào em ấy cứ trắng hồng cả lên, lại bạo dạn nữa chứ. Mấy em cứ xúm lại xe hỏi hết cái này đến cái khác, nói thì toàn "mô, tê, răng, rứa" nhưng nghe thấy dễ thương đáo để.

Cánh lính trẻ vừa thích lại vừa ngượng nên chỉ trả lời gióng một. Bọn Nguyên, Đạt, Khoa, Hùng... nhận được đồng hương cứ tíu tít cả lên; Tráng, Bình và Phong trở thành những hướng dẫn viên nhiệt tình nhất cho các em. Tráng dẫn ba cô về xe mình, hắn ba hoa:

- Đấy các em xem, vỏ thép dày như thế này cơ mà, bọn anh ngồi trong xe là cứ yên tâm, "nỏ có đạn mô bắn thủng được" - Tráng người Thanh Hoá bắt chước giọng Nghệ An thì quá dễ.

Nghe vậy mấy em cùng cười phá lên, tíu tít hỏi:

- Rứa các anh mần răng mà đánh nhau được?

Tráng chỉ vào khẩu pháo 100 ly và khẩu đại liên, giọng càng hùng hồn hơn:

- Bọn anh có một khẩu pháo, ba khẩu đại liên cơ mà, "pháo ni mà đã bắn nỏ có thằng mô sống được" - Cậu ta lại nhại giọng Nghệ Tĩnh, các em càng khoái tợn.

- Nhưng mần răng các anh bắn được tề? - Một cô gặng.

Tay chỉ vào cửa kính ngắm Tê - sa, cậu ta giải thích:

- Bọn anh ngắm qua cái lỗ kính này, khi nào ngắm trúng một cái là chỉ việc bóp cò thôi.

Một cô có vẻ bạo dạn nhất với tay lên sờ vào nòng pháo, đẩy qua đẩy lại không thấy nhúc nhích gì lại hỏi:

- Pháo to thế ni mần răng các anh quay được?

Mắt Tráng sáng hẳn lên:

- Muốn xem mần răng mà quay được thì phải vào trong xe cơ chứ đứng ngoài này thì khó giải thích lắm.

Được lời như cởi tấm lòng, mấy cô vui hẳn lên:

- Cho bọn em lên xem đi.

Tráng làm ra bộ quan trọng:

- Trong xe là bí mật quân sự, đáng lẽ người ngoài không được vào đâu nhưng anh ưu tiên các o đấy. Nhưng nhớ là phải trật tự nhé!

Cả ba cô lặng lẽ theo Tráng ra chỗ thành xe bên phải để leo lên nhưng hì hụi mãi vẫn không lên được. Lúc ấy Tráng mới ra tay, cậu ta bế bổng từng em một đưa lên thành xe, mặc hai tay các em đã bám được vào tay vịn bộ binh rồi cậu ta vẫn cứ ôm chặt lấy hai đùi người ta, mũi thì cứ dúi vào sườn các em mà hít lấy hít để. Đưa được ba cô lên xe, Tráng mới trèo lên mở cửa trưởng xe chỉ vào bên trong:

- Đây là chỗ của anh - Tráng chỉ vào ghế pháo thủ - Anh ngồi đấy, mắt đặt vào ống kính Tê - sa này, hai tay cầm tay tầm, tay hướng quay là pháo quay theo ngay.

Cô bạo dạn nhất đề nghị:

- Cho em quay thử đi anh!

Tráng nhìn quanh không thấy ai để ý, cậu ta đồng ý và hướng dẫn cô gái vào xe; khi cô gái đã ngồi vào ghế pháo thủ cậu ta chui vào ghế trưởng xe và hạ cửa xuống. Không biết Tráng giới thiệu những gì, chỉ biết khi ra khỏi xe hai má cô y sĩ tương lai cứ rực lên như hai trái bồ quân, tóc tai thì rối bù nhưng mắt thì sáng rực.

Bên xe mình Bình cũng đang nhiệt tình giới thiệu với bốn, năm cô nhưng đến khi các cô đòi lên xe thì cậu ta không dám. Hắn vốn "nhát như cáy ngày" mà.

Còn Phong đúng là thằng "dại gái", mới tíu tít một hồi đã thấy mang ra hộp sữa bột tiêu chuẩn đi B để các em giải khát.

Ở chỗ nhận đồng hương Khoa, Nguyên, Hùng, Đạt đã lấy sổ ghi địa chỉ các em. Chẳng biết nói chuyện gì với nhau mà mắt các em đều rơm rớm.

Cuộc hội ngộ bất ngờ chỉ kết thúc lúc còi ăn cơm chiều vang lên, các cô gái bịn rịn mãi rồi mới lục tục kéo nhau ra về.

Tưởng chỉ phải chờ đợi vài ngày, nào ngờ phải gần nửa tháng mới có tàu. Bà con ở đây tốt thật nhưng phải cái nghèo, mặc dù vậy khi có củ khoai luộc, nồi nước chè xanh cũng để phần cho bộ đội. Những người lính xe tăng ăn tiêu chuẩn tương đối cao, mấy cậu lính trẻ cứ ăn gần xong lại đơm một bát cơm đầy mang về nhà bảo để lúc đói ăn nhưng thực ra là đem cho lũ trẻ.

Mọi người thì ngao ngán vì chờ đợi nhưng có lẽ phấn khởi nhất là cánh lính trẻ; cứ rảnh lúc nào là chuồn lúc ấy, đến mức hiền như chính trị viên Đán cũng phải vỗ vai Tráng mà bảo:

- Liều liệu đấy nhé! Đừng để người ta đến bắt đền hay để lại đây cái "xe tăng con" thì khổ cho người ta.

Tráng chỉ cười rồi chống chế:

- Chính trị viên cứ yên tâm, bọn em chỉ qua chơi một chút cho đỡ buồn chứ có làm gì đâu.

Mấy đứa quê Diễn Châu, Nghi Lộc xin về không được nhưng đã nhắn được người nhà lên chơi. Dẫn bố mẹ và các anh em đi xem xe tăng, bọn hắn có vẻ tự hào lắm.

Đợi mãi rồi tàu cũng đến. Nghe thông báo có tàu, cả đại đội lại tíu tít làm công tác chuẩn bị. Cuộc chia tay với bà con nơi trú quân cũng thật bịn rịn, mới đó mà đã thân thuộc như người nhà. Các em y sĩ tương lai thì còn phải nói, có cô khóc như mưa như gió.

Chiều tối, cả đại đội hành quân lên đê sông Lam. Tối được một lúc thì tàu Hải quân đến, cả đại đội ngao ngán: "Tưởng tàu to chở một chuyến tám cái xe tăng, nào ngờ bé tin hin. Mỗi tàu chỉ chở được một cái". Ngao ngán thì ngao ngán vậy, có tàu mà đi còn hơn nằm vạ vật ở đây.

Đại đội trưởng Nghĩa tập hợp toàn đại đội rồi phổ biến:

- Thứ tự xuống tàu vẫn như khi hành quân bộ, xe tôi xuống đầu tiên, sau đó là trung đội Một, trung đội Hai, cuối cùng là xe anh Đán. Khi xe xuống tàu, tất cả phải xuống xe, chỉ mình lái xe ở lại điều khiển xe. Đồng chí Đề đại đội phó kỹ thuật sẽ trực tiếp chỉ huy từng xe xuống tàu. Các đồng chí lái xe chú ý thao tác cẩn thận, căn hướng cho thật cân, chân dầu phải ổn định. Sau khi xe đã dừng hẳn các thành viên mới xuống tàu để chằng buộc, cố định và đậy bạt. Trong quá trình hành quân, tất cả mọi người phải mặc áo phao và tuyệt đối phục tùng sự chỉ huy của thuyền trưởng. Bộ phận "xê bộ" chia ra đi với các xe.

Chưa hình dung ra đi biển thế nào, thấy cánh lính trẻ im ro, có vẻ căng thẳng, Nghĩa trấn an:

- Đây là loại tàu chuyên chở xe tăng, tên của nó là "tăng-kít". Vì vậy các đồng chí cứ yên tâm, sẽ không có vấn đề gì xảy ra đâu.

Nói thì nói vậy chứ bản thân Nghĩa cũng chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì.

Chiếc tàu đầu tiên đã cập bến, cánh cửa phía sau của nó hạ xuống như một cái cầu. Có vẻ hiểu biết, Nguyễn Bá Tùng thì thầm:

- À! Đây là tàu "há mồm" đấy mà. Xem phim màu chiến đấu Liên Xô thấy nó chạy ghê lắm, lao hẳn lên bãi biển rồi há mồm ra cho xe tăng xuống.

Mất thêm hai đêm một ngày lênh đênh trên biển, có cái gì trong bụng là "cho ra hết" đoàn tàu mới cập bến tại Long Đại. Chạy thêm gần hai mươi cây số nữa đại đội Bốn đã có mặt tại vị trí tập kết của trung đoàn.

Nơi đóng quân của Trung đoàn 203 ở xung quanh khu vực hồ Cẩm Ly. Đây là công trình đại thuỷ nông lớn nhất miền tây Quảng Bình. Xung quanh hồ là trùng điệp đồi núi và một nông trường cao su, cây cao su trồng được mấy năm giờ đã bắt đầu khép tán.

Đại đội trưởng Nghĩa dẫn hai trung đội trưởng đi xác định vị trí các xe. Theo quy định của trung đoàn, tất cả các xe đều phải được đào hầm, người cũng phải sinh hoạt trong hầm nên việc đầu tiên cần ưu tiên là đào hầm. Trước hết là đào hầm người, sau đó mới đào hầm xe.

Cũng may khu vực này toàn đồi đất đỏ ba dan nên việc đào hầm cũng đỡ vất vả. Cây cối cũng sẵn, đi vài bước chân là có. Chỉ chưa đầy một tuần, cơ ngơi của đại đội đã hoàn chỉnh; riêng xe đại đội trưởng có cái hầm thùng to làm nơi hội ý cán bộ.

Tuy nhiên cái khó khăn nhất ở đây không phải là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu mà chính là cái ăn. Gạo, thịt hộp, cá hộp thì đầy đủ theo tiêu chuẩn nhưng đặc biệt là không có rau. Chỉ sau mấy ngày không có cái chất xanh ấy, lính tráng xót ruột như bào, đến bữa ngồi gảy gảy từng hạt cơm trông đến tội.

Ban chỉ huy đại đội triệu tập hội nghị cán bộ bàn biện pháp cải thiện đời sống. Nghĩa nêu vấn đề:

- Như các đồng chí đều biết, cái khó khăn nhất đối với chúng ta hiện nay là vấn đề rau xanh cho bộ đội ăn. Cứ như thế này mà kéo thì chỉ vài hôm nữa là lăn ra ốm hết. Vì vậy đề nghị các đồng chí phát huy dân chủ, hiến kế cho đại đội xem có biện pháp gì giải quyết được vấn đề này.

Chính trị viên Đán thêm vào:

- Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Các cụ ta vẫn nói "có thực mới vực được đạo", mà quân ta thế này thì gay to. Đề nghị các đồng chí hết sức lưu tâm.

Đại đội phó Đề thủng thẳng:

- Khó thì phải trồng lấy rau mà ăn thôi. Hồi ở Xuân Mai ta đã làm mãi rồi.

Mọi người đều trầm ngâm, chợt trung đội trưởng trung đội Hai có ý kiến:

- Chúng ta đóng quân ở đây có mấy cái bất lợi cho việc tăng gia. Một là, đây là vùng đất đỏ ba dan, lại đang là mùa khô nên trồng trọt rất khó khăn; hai là, giống má, phân bón đều không có; ba là, đóng quân tạm thời chưa biết lúc nào đi cho nên phát động tăng gia cũng rất khó. Vì vậy, tôi đề nghị ta tiến hành hai biện pháp: thứ nhất, tổ chức một bộ phận đi kiếm rau rừng, rau dại về để cải thiện; thứ hai là đẩy mạnh hơn công tác dân vận, hoặc chúng ta có thể bớt một số thực phẩm để đổi cho dân lấy rau. Hết ý kiến.

Vốn là dân trồng màu ở Gia Lộc, Hải Hưng, chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn rất am hiểu về trồng rau, anh tán đồng ý kiến của Quý:

- Tôi nhất trí với ý kiến đồng chí Quý, đất ở đây mùa này không cây rau nào cắm xuống mà sống được, nếu có sống được cũng bị kiến mối ăn hết, chúng ta không nên phát động tăng gia mà làm như đồng chí Quý vừa nói là hơn cả.

Quý giơ tay xin phát biểu thêm:

- Bên trung đội tôi có đồng chí Định dân Chợ Rã, Bắc Cạn, ở rừng từ bé lại học Đại học Lâm nghiệp nên rất thạo về rừng. Nếu đại đội đồng ý phương án của tôi thì để cho đồng chí ấy phụ trách tổ cải thiện là tốt nhất.

Thấy mọi người không có ý kiến gì thêm, Nghĩa kết luận:

- Nhất trí theo phương án đồng chí Quý đề xuất. Cụ thể như sau: thành lập tổ cải thiện gồm bốn đồng chí pháo hai, mỗi trung đội hai đồng chí do đồng chí Định phụ trách, hàng ngày có nhiệm vụ bảo đảm rau ăn cho đại đội. Còn việc đổi chác với dân giao cho đồng chí Minh quản lý đại đội tính toán thực hiện - Ông nhìn Vũ Đăng Toàn - Việc này nhờ anh Toàn theo dõi hộ.

Tất cả mọi người đồng ý. Cuộc họp giải tán.

Từ hôm vào đến nơi trú quân một mặt bận đào hầm hào, một mặt lạ nước lạ cái nên Tráng chưa đi đâu được cả. Được biết đây thuộc địa bàn Lệ Thuỷ cậu ta đã mò sang "bê Một" nhấm nháy với Bình:

- Ông có biết đây là đâu không?

Bình cười:

- Đây là Quảng Bình chứ còn đâu nữa.

Tráng cáu:

- Thế mà cứ bảo là "thông minh, sáng dạ", đây là Lệ Thuỷ.

Bình tức:

- Lệ Thuỷ thì không là Quảng Bình à?

Tráng hấp háy đôi mắt nhìn quanh không thấy ai mới ghé tai Bình nói nhỏ:

- Thế ông không biết câu "Nón Ba Đồn..." à? Phải tranh thủ đi chứ!

Đến lúc này Bình mới ngớ ra, phục Tráng sát đất.

Vì vậy, khi nghe chính trị viên Đán nói sơ sơ về việc "cải thiện", Tráng mừng rơn, cậu ta gợi ý ngay:

- Ôi! Việc dân vận, chính trị viên cứ giao cho em, đảm bảo là sẽ có đủ rau ăn cho bộ đội.

Đán đi guốc vào bụng Tráng rồi nên cười:

- Cậu thì có mà dân vận cái l. ấy!

Nói thế thôi nhưng ông cũng phải thầm công nhận thằng này có cái mồm dẻo quẹo, dẻo đến mức nó mà nói thì "kiến trong lỗ cũng phải bò ra"; nghĩ bụng chẳng mất gì mà bộ đội có rau ăn nên ông hứa:

- Được rồi! Tớ sẽ bảo cậu Minh quản lý, khi nào đi nó sẽ gọi.

Từ hôm ấy, cứ một vài ngày Minh, Tráng, có hôm thêm cả Bình, lại vác bao tải đựng mấy hộp thịt, hộp cá đi vào dân. Tuy nhiên kết quả dân vận không mấy khả quan, nhân dân quanh vùng cũng đang rất thiếu rau ăn, mọi người vẫn phải nhặt nhạnh quanh vườn mớ rau tập tàng cho qua bữa nên chẳng có gì mà đổi hay cho bộ đội. Kết quả mỹ mãn nhất là Tráng mang về xe được một con chó vàng mới bỏ vú mẹ. Hắn bảo đây là của "bạn" kỷ niệm, đặt cho nó cái tên là "Ních" và chăm chút lắm.

Thấm thoắt chả mấy mà Tết đã đến. Vẫn còn ở trên đất Bắc nên tiêu chuẩn Tết của bộ đội được cung cấp khá đầy đủ. Nghe trên trung đoàn báo lên nhận hàng Tết thằng Minh quản lý sướng rơn, xin phép đại đội trưởng cho toàn bộ số pháo hai đi cõng hàng về. Thôi thì đủ cả: gạo nếp, đỗ xanh, thịt tươi, lá dong, kẹo Hải Châu, thuốc lá Tam Đảo, chè Ba Đình, đặc biệt có cả hai chục cân bắp cải tươi. Đại đội trưởng Nghĩa quyết định: kẹo, thuốc thì chia cho mỗi người một ít, còn lại để dùng chung.

Mặc dù đang ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu nhưng Ban chỉ huy đại đội quyết định phải tổ chức cho anh em ăn Tết thật đầy đủ, thật vui. Những người lính đã vào đến đây rồi cần phải được quan tâm hơn nữa. Việc hậu cần do chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn đặc trách. Việc chuẩn bị đón giao thừa giao cho Lê Xuân Tự, trung đội phó trung đội Một, "cây văn nghệ" của đại đội lo.

Niềm vui năm mới vẫn còn đang rạo rực trong mỗi con tim thì đại đội nhận một tin không vui: giao xe mới cho một đơn vị hành quân đi B2 và nhận lại số xe T59 cũ. Ai cũng buồn vì những chiếc xe họ đã đưa từ Vĩnh Phú vào để chuẩn bị cho chiến dịch này là những chiếc T54B mới tinh, họ đã chăm chút cho chúng từng ly, từng tý như người tráng sĩ chăm chút cho con tuấn mã của mình. Vậy mà sắp đến ngày vào trận lại phải dứt ruột chia tay.

Người buồn và lo nhất chắc chắn là Đại đội phó kỹ thuật Đề. Là người làm công tác kỹ thuật lâu năm, Đề hiểu sâu sắc giá trị của những chiếc xe mới trong chiến đấu. Thực tế các trận đánh ở Làng Vây, Cánh đồng Chum và nhất là trong Chiến dịch Đường 9 Nam Lào đã cho thấy tầm quan trọng của công tác kỹ thuật. Với những chiếc xe mới này, công việc của anh và anh em lái xe sẽ bớt vất vả biết bao nhiêu. Đề băn khoăn không biết tình trạng của số xe T59 sẽ nhận về thế nào, nó mà "nát bét" thì anh sẽ là người vất vả nhất.

Nhưng cũng may, số T59 này cũng không quá cũ. Sở dĩ phải đổi xe cũng là do sự "lo xa" của cấp trên: nhìn chung độ tin cậy của loại xe T59 không bằng được T54B nên phải đổi cho đơn vị đi xa.

Để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, Đại đội phó Đề đề xuất với Ban chỉ huy đại đội một kế hoạch tổng thể nhằm khôi phục tình trạng kỹ thuật của tất cả các xe. Trước hết sẽ thành lập một tổ kỹ thuật gồm đại đội phó, kỹ thuật viên và một số lái xe, pháo thủ có kinh nghiệm. Tổ sẽ đi kiểm tra toàn diện từng xe, sau đó lên kế hoạch sửa chữa, củng cố.

Tám xe T59 nhận về mang các số hiệu 380, 381, 382, 386, 387, 388, 389 và 390. Sau khi kiểm tra toàn diện, Đề đề nghị bố trí như sau: xe 386 là xe đại đội trưởng; xe 390 là xe chính trị viên; trung đội Một gồm các xe 380, 381, 388; trung đội Hai gồm các xe 387, 382, 389. Nhìn chung các xe không có hỏng hóc gì lớn nhưng xe nào cũng cần bảo dưỡng cấp hai và củng cố thêm một số nội dung khác.

Thế là đại đội tạm dừng các khoa mục huấn luyện để dồn sức vào làm kỹ thuật chỉ trừ tổ cải thiện vẫn hàng ngày cần mẫn vào rừng. Xe nào xe nấy truyền động mở bung ra, tất cả các loại bầu lọc đều được xúc rửa, dầu nhờn được thay, các hành trình được điều chỉnh đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Những lúc thế này mới thấy những tay lái cứng như Bình, Hoả, Tập quý giá đến chừng nào.

Những ngày đầu năm 1972, không khí chuẩn bị cho chiến dịch nóng lên từng giờ, ai cũng biết rằng chỉ ngày một ngày hai họ sẽ được tung vào cho những trận đánh mang tính quyết định.

Quả nhiên là như vậy. Giữa tháng hai, đại đội trưởng Nghĩa và trung đội trưởng Quý được lệnh đi trinh sát cùng đoàn cán bộ của trung đoàn. Cánh "tham mưu con" nhận định: nếu đã tung xe tăng vào thì đó phải là một mục tiêu chủ yếu của chiến dịch và chắc chắn đó là thị xã Đông Hà hay thị xã Quảng Trị.

Nhưng nào ai đã học hết chữ "ngờ"!

Nghĩa và Quý vừa đi trinh sát Quảng Trị thì hai hôm sau Đán và Đề cũng được trung đoàn gọi lên nhận nhiệm vụ gấp.

Trong căn hầm chỉ huy dã chiến của Trung đoàn xe tăng 203 có khá đông người: ngoài Ban chỉ huy Trung đoàn còn có thủ trưởng các ban tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, đại uý Nguyễn Văn Toàn tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 512, thượng uý Nguyễn Văn Hiển tiểu đoàn phó tiểu đoàn 198 và mấy người lạ mặt, chắc là mới đến. Tất cả ngồi xung quanh bộ bàn ghế ghép bằng những tấm vỏ hòm đạn pháo 100mm, sổ tay mở sẵn trước mặt. Trung đoàn trưởng Tài và chính uỷ Tùng đang thì thầm trao đổi gì đó với nhau trước tấm bản đồ tỷ lệ 1: 250.000 treo trên vách hầm. Trên tấm bản đồ quân sự còn mới chỉ thấy vẽ một đường chì đỏ khá ngoằn ngoèo trông giống như một hình bình hành thiếu một cạnh, phía cuối đường chì có một vòng tròn đánh dấu X ở giữa. Những người khác cũng thì thầm trao đổi với nhau, những ánh mắt chăm chú hướng về phía hai người chỉ huy cao nhất của trung đoàn. Họ đoán chắc trung đoàn sắp được đưa vào chiến đấu.

Đúng chín giờ, trợ lý tác chiến Bầu xuất hiện trước cửa hầm báo cáo:

- Báo cáo trung đoàn trưởng, các đồng chí trong ban chỉ huy đại đội tăng Bốn đã có mặt theo lệnh của đồng chí.

Trung đoàn trưởng Tài hất hàm:

- Cho các đồng chí ấy vào.

- Rõ. - Bầu trả lời rồi quay ngoắt rất đúng điều lệnh, hạ giọng. - Mời các đồng chí vào!

Trong khoảng sáng cửa hầm xuất hiện hai người, đó là chính trị viên Đán và đại đội phó kỹ thuật Đề. Vừa vào trong hầm, liếc nhanh một vòng, Đán lập tức đứng nghiêm:

- Báo cáo các thủ trưởng, Ban chỉ huy đại đội Bốn có mặt.

Trung đoàn trưởng Tài chỉ tay về phía cuối dãy bàn:

- Các đồng chí ngồi xuống!

Nói xong ông và chính uỷ Tùng quay trở lại bàn chỉ huy. Sau khi lướt qua một lượt các khuôn mặt xem các thành phần, Trung đoàn trưởng hướng về phía hai người mới đến nói từng tiếng chậm rãi:

- Hôm nay trung đoàn triệu tập các đồng chí lên để giao một nhiệm vụ đặc biệt. - Ông dừng lại một chút chú mục vào Đán và Đề như muốn thăm dò phản ứng nhưng trên hai khuôn mặt sạm đen vì nắng gió tây Quảng Bình chỉ thấy rõ sự chăm chú đến cao độ, ông tiếp tục dằn từng tiếng - Như các đồng chí đã biết, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa khô năm nay. Trung đoàn ta cũng đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí tham mưu phó dẫn đầu đi trinh sát chiến trường trong đó. Cấp trên nhận định: với tình thế này chúng ta có thể vượt chỉ tiêu ban đầu đã đề ra. Nếu biết tận dụng tốt thời cơ chúng ta có thể giải phóng cả tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trong mùa khô này.

Nghe đến đây tất cả những người có mặt trong hầm đều sửng sốt, mấy trưởng ban quay sang thì thầm với nhau, những cặp mắt như sáng hẳn lên. Đợi cho mọi người yên lặng trở lại, trung đoàn trưởng Tài mới nói tiếp:

- Không phải như các anh đoán mò đâu. Trung đoàn ta vẫn chưa được sử dụng trong giai đoạn đầu, chúng ta vẫn tiếp tục là dự bị cho mặt trận và tôi chắc là chỉ được đưa vào chiến đấu khi rất cần thiết. Còn nhiệm vụ đặc biệt mà chúng tôi vừa nhận ở trên về là thế này.

Ông bước lại phía tấm bản đồ, với tay lấy chiếc que và rê đầu que chỉ theo đường chì đỏ trên đó rồi tiếp:

- Để đón trước thời cơ giải phóng Huế, cấp trên quyết định phái một đại đội của trung đoàn ta và một đại đội xe tăng bơi nước của trung đoàn 202 bí mật cơ động vào phía tây của Huế để cùng với bộ binh có sẵn trong đó làm mũi vu hồi chiến dịch khi từ ngoài này ta tiến công chính diện vào thành phố Huế. Tuy nhiên, hiện tại Đường Đông Trường Sơn chưa bảo đảm cho xe tăng cơ động được nên chúng ta phải cơ động theo các trục Đường Tây Trường Sơn. Từ đây vào đến đấy chỉ khoảng hai trăm cây số đường chim bay nhưng do phải đi vòng nên chặng đường hành quân sẽ kéo dài hơn. Trong khi đó yêu cầu về thời gian cũng rất gấp gáp, cấp trên giao cho chúng ta phải có mặt ở sân bay A Lưới vào trung tuần tháng ba vì nếu vào chậm thì mũi vu hồi này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì - Ông dừng lại một lát nhìn về phía hai cán bộ đại đội Bốn - sau khi trao đổi trong thường vụ và Ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi quyết định giao nhiệm vụ này cho đại đội Bốn, tiểu đoàn 512. Các đồng chí thấy thế nào?

Vẫn ngồi trầm ngâm từ đầu buổi họp giờ chính uỷ Tùng mới đứng dậy, giọng Quảng Nam của ông vốn đã nặng nay như càng nặng hơn:

- Nhiệm vụ đặc biệt trên giao cho trung đoàn ta các đồng chí đã biết. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn: đưa một đại đội tăng độc lập hành quân vượt Trường Sơn trong điều kiện không quân địch đánh phá dữ dội, thời gian lại gấp gáp, đường cơ động chưa được đảm bảo... không phải dễ dàng gì. Vừa qua chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ cơ động toàn trung đoàn từ Xuân Mai, Vĩnh Phú vào đây nhưng các điều kiện bảo đảm đều thuận lợi hơn nhiều; còn bây giờ mọi việc hoàn toàn do các đồng chí phải tự lo liệu, không có các ban, ngành giúp đỡ, cũng không có các lực lượng bảo đảm kèm theo. Vì vậy, sau khi nghiên cứu tình hình tất cả các đơn vị trong trung đoàn, căn cứ vào kết quả huấn luyện ngoài hậu cứ và tổ chức hành quân vừa qua, chúng tôi thấy rằng đại đội Bốn là đại đội có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn cả. Các đồng chí đại đội Bốn nghĩ thế nào?

Dưới gầm bàn đại đội phó Đề đá nhẹ vào chân chính trị viên Đán:

- Ông là chính trị viên, bí thư chi bộ, ông phát biểu đi. Có gì đâu! Cứ nhận đi rồi đâu khắc có đó.

Chính trị viên Đán từ tốn đứng lên, dáng người vốn thấp nhỏ lại càng như thấp nhỏ hơn bởi nước da đen sạm và cặp mắt trĩu nặng vì mất ngủ:

- Thay mặt cán bộ chiến sĩ đại đội Bốn chúng tôi cảm ơn sự tin tưởng của Thủ trưởng trung đoàn, chúng tôi hứa sẽ khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, hiện nay ở đại đội tôi, đồng chí đại đội trưởng và một trung đội trưởng đang đi trinh sát chưa về. Vì vậy để hoàn thành được nhiệm vụ này, chúng tôi đề nghị trung đoàn triệu tập đồng chí Nghĩa, đồng chí Quý về ngay đơn vị; đồng thời đề nghị trung đoàn chi viện tối đa, đặc biệt là tăng cường cho chúng tôi một số thành viên kíp xe dự bị, một số thợ sửa chữa và các loại khí tài dự trữ vì...

Nghe đến đây trung đoàn trưởng Tài vẫy tay:

- Đồng chí Đán ngồi xuống. Những vấn đề đó trung đoàn đã tính đến. Sau đây đồng chí tham mưu trưởng sẽ giao nhiệm vụ và hiệp đồng cụ thể. Mời anh Công.

Vẫn cắm cúi trước cuốn sổ dày đặc chữ từ đầu đến giờ tham mưu trưởng Công mới ngẩng lên và đứng dậy tiến tới trước tấm bản đồ, ông chỉ vào đường chì đỏ:

- Sau đây tôi phổ biến nhiệm vụ cụ thể của "xê Bốn"! Các đồng chí chú ý ghi chép đầy đủ. Đây là dự kiến đường hành quân của các đồng chí, điểm xuất phát từ nơi chúng ta đang đứng chân; đích đến là sân bay A Lưới ở phía tây thành phố Huế. Khoảng cách theo đường chim bay chưa đầy hai trăm cây số nhưng do phải đi vòng nên chiều dài đường hành quân ước khoảng bốn trăm năm mươi đến năm trăm cây. Đường hành quân dự kiến là - Đầu que chỉ trên tay ông rê dần từng đoạn theo đường chì - Đường 15, Đường 10, Đường 18, Đường 9, Đường 23, Đường B45 và Đường 14. Toàn bộ các con đường trên đều là đường quân sự làm gấp, nhiều đèo dốc lại thường xuyên bị địch đánh phá nên chất lượng rất xấu. Về tình hình địch: chủ yếu chúng dùng không quân trinh sát và đánh phá dọc theo trục đường, một số khu vực trọng điểm có thể có biệt kích, thám báo. Vì vậy các đồng chí chủ yếu hành quân vào ban đêm. Thời gian có mặt tại sân bay A Lưới chậm nhất là ngày 15 tháng 3, tức là còn khoảng hai mươi ngày nữa. Công tác bảo đảm cơ động cũng như cung cấp bổ sung cho các đồng chí trên đường hành quân sẽ do các binh trạm của Đoàn 559 đảm nhiệm. Về nhiệm vụ như thế các đồng chí rõ chưa?

Chính trị viên Đán và đại đội phó Đề đồng thanh đáp:

- Rõ!

Quay lại bàn cầm cuốn sổ, tham mưu trưởng Công nói tiếp:

- Bây giờ tôi tổ chức hiệp đồng giữa các cơ quan và đơn vị để tiến hành công tác chuẩn bị cho "xê Bốn". Về mặt nhân sự, trung đoàn quyết định bổ sung cho "xê Bốn" hai cán bộ vừa từ Bộ tư lệnh vào thay cho đồng chí Nghĩa và đồng chí Quý.

Ông dừng lại chỉ tay về phía người lạ mặt mang quân hàm thiếu uý, dáng cao gầy và có cái đầu hơi hói:

- Đây là đồng chí Bùi Quang Thận, thiếu uý vừa tốt nghiệp Trường sĩ quan Lục quân và học xong lớp chuyển binh chủng ở Đoàn 10 vào - Bùi Quang Thận đứng lên nghiêng đầu về hai phía chào mọi người - Đồng chí Thận được bổ nhiệm làm đại đội trưởng đại đội Bốn thay cho đồng chí Nghĩa.

Ông chỉ tiếp vào người lạ mặt thứ hai, cũng cao, gầy và có cái cằm hơi móm:

- Còn đây là đồng chí Nguyễn Ngọc Nam cũng từ Lục quân về binh chủng ta, đồng chí Nam được bổ nhiệm làm trung đội trưởng trung đội Hai thay cho đồng chí Quý. Ngay sau đây hai đồng chí sẽ cùng về đại đội Bốn để thi hành nhiệm vụ.

Tham mưu trưởng Công dừng lại một chút rồi hướng về phía hai người đeo quân hàm thượng uý:

- Để giúp đỡ các đồng chí, trung đoàn quyết định đưa đồng chí Nguyễn Văn Hiển, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 198 và đồng chí Phạm Công Đính, trợ lý chính trị binh chủng đi cùng "xê Bốn". Đồng chí Hiển đi cùng các đồng chí trên cương vị phái viên đặc biệt và là người chỉ huy cao nhất thay mặt trung đoàn cho đến khi bàn giao "xê Bốn" cho mặt trận Trị Thiên tại khu vực sân bay A Lưới. Đồng chí Đính sẽ giúp các đồng chí về mặt công tác đảng, công tác chính trị. Trong quá trình hành quân, các đồng chí phải thường xuyên báo cáo tình hình về trung đoàn và mặt trận Trị Thiên bằng đài vô tuyến điện 15 "oát". Để đảm bảo cho các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ, trung đoàn tăng cường cho các đồng chí một tổ thợ sửa chữa tổng hợp, một đài vô tuyến điện sóng ngắn 15 "oát", một cơ yếu, một y tá, một quân khí viên, một lái xe dự bị. Về trang bị sẽ bổ sung cho các đồng chí một xe "Vọt tiến" cùng lái xe. Về kỹ thuật sẽ bổ sung hai cơ số khí tài, một cẩu tay. Về hậu cần cấp cho các đồng chí ba mươi ngày ăn và một cơ số nhiên liệu. Toàn bộ việc điều động và cung cấp các loại vật chất trên phải xong trước mười bảy giờ chiều mai. Anh Hiển, anh Đính và các anh "xê Bốn" thấy thế đã đủ chưa?

Nhìn về phía Hiển, Đính, Đán và Đề không thấy biểu hiện gì tân đại đội trưởng Thận đứng dậy:

- Tạm thời chúng tôi chưa có ý kiến gì. Trong quá trình chuẩn bị nếu phát sinh vấn đề gì chúng tôi sẽ báo cáo sau.

Tham mưu trưởng Công quay sang trung đoàn trưởng và chính uỷ, cả hai gật nhẹ đầu. Quay lại phía các trưởng ban, ông cao giọng:

- Theo hiệp đồng như trên, đồng chí tham mưu phó đã đôn đốc quân lực điều động người. Các đồng chí trưởng ban hậu cần, kỹ thuật chỉ đạo cơ quan và các đơn vị khẩn trương tiến hành việc bảo đảm cho "xê Bốn" theo đúng kế hoạch. Tiểu đoàn 512 hiện tại còn hai đại đội, trung đoàn sẽ xin trên bổ sung lực lượng sau - Bỏ cuốn sổ xuống ông quay về phía trung đoàn trưởng - Báo cáo trung đoàn trưởng, tôi đã phổ biến nhiệm vụ và hiệp đồng xong.

Trung đoàn trưởng Tài đứng dậy nhìn khắp lượt và cất giọng nghiêm trang:

- Nhiệm vụ các đồng chí rõ rồi. Khó khăn đấy nhưng phải cố mà vượt qua thôi. Nếu các đồng chí không hỏi gì nữa thì về bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị.

Tham mưu trưởng Công gỡ tấm bản đồ treo trên vách hầm xuống đưa cho đại đội trưởng Thận, ông siết chặt tay anh như thầm gửi gắm lòng tin. Lúc này thượng uý Hiển mới vẫy Thận và Đán lại gần:

- Các anh về phổ biến sơ bộ cho anh em làm công tác chuẩn bị, đúng 13 giờ 30 chiều nay tôi và anh Đính sẽ có mặt ở đại đội và ta sẽ hội ý cán bộ nhé!

- Vâng! Chiều chúng tôi đợi các thủ trưởng! - Thận đáp.

Bắt tay nhau xong Hiển, Đính ra về trước. Đến lúc này Thận mới đưa tay bắt tay Đán và Đề:

- Xin chào các anh, tôi là Thận - Anh vẫy Nguyễn Ngọc Nam - Còn đây là anh Nam. Từ hôm nay chúng ta sẽ cùng làm việc với nhau.

Đán siết chặt tay người đại đội trưởng mới, vồn vã:

- Thay mặt anh em "xê Bốn" chào mừng anh và anh Nam. Thật may quá, các anh không về thì chúng tôi không biết làm thế nào.

- Thôi! Bây giờ ta về luôn đại đội, vừa đi đường vừa nói chuyện thêm.

Thận với tay lấy cái ba lô vẫn để phía sau quàng lên vai và bước ra cửa hầm.

Chưa đến 1 giờ 30 phút chiều, lúc Thận đang còn đăm chiêu bên tấm bản đồ thì Hiển và Đính đã đến.

Nghe tiếng động bên ngoài Thận chui ra khỏi hầm. Lúc này các cán bộ trong đại đội đã đến đông đủ. Anh mời mọi người:

- Mời thủ trưởng Hiển, thủ trưởng Đính và các đồng chí vào đây.

Căn hầm chỉ huy rộng chừng chục mét vuông, hai bên thành hầm để lại hai bờ đất làm ghế ngồi được trải mấy cái bao gạo Trung Quốc, ở giữa là mấy tấm ván vỏ hòm đạn pháo 100 ly đặt trên sáu cái cọc bằng cành cây làm bàn. Chính trị viên Đán nhìn quanh một lượt rồi bắt đầu nói:

- Trước hết xin giới thiệu với các đồng chí trong đại đội: trung đoàn đã quyết định điều đồng chí Bùi Quang Thận về làm đại đội trưởng đại đội ta thay đồng chí Nghĩa và đồng chí Nguyễn Ngọc Nam về làm trung đội trưởng trung đội Hai thay đồng chí Quý. Còn đây là đồng chí Nguyễn Văn Hiển và đồng chí Phạm Công Đính được trên cử làm phái viên đi cùng với đại đội ta để thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Đề nghị các đồng chí nhiệt liệt hoan nghênh.

Mọi người chưa kịp vỗ tay thì thượng uý Hiển đã phẩy tay:

- Thôi! Anh em trong binh chủng cả. Đừng khách sáo thế!

Đán tiếp tục:

- Sau đây tôi xin giới thiệu các đồng chí cán bộ trong đại đội về tình hình chung của đơn vị để các thủ trưởng và anh Thận, anh Nam nắm được. Tôi và anh Đề đại đội phó kỹ thuật các anh đã biết rồi - Lần lượt chỉ tay vào từng người đang ngồi trong hầm ông tiếp - Đây là đồng chí Vũ Đăng Toàn chính trị viên phó; đồng chí Đậu Minh Tiến trung đội trưởng trung đội Một; đồng chí Lê Xuân Tự trung đội phó trung đội Một; đồng chí Bùi Văn Định trung đội phó trung đội Hai. Về đội ngũ thành viên kíp xe biên chế đủ, chất lượng nhìn chung tốt, hầu hết đã được đào tạo cơ bản và đã có ít nhiều kinh nghiệm qua đợt hành quân vừa rồi. Về trang bị của đại đội gồm tám xe T59 nhận của tiểu đoàn 171, trong thời gian vừa qua đã kịp thời củng cố nên chất lượng xe còn khá tốt. Sơ bộ là như vậy, sau này các anh sẽ tìm hiểu rõ thêm. Còn bây giờ xin mời đồng chí đại đội trưởng bắt đầu làm việc.

Bùi Quang Thận đứng lên, cái đầu chớm hói gần chạm nóc hầm:

- Thưa toàn thể các đồng chí! Tôi và đồng chí Nam rất phấn khởi được về nhận nhiệm vụ tại đại đội Bốn, một đơn vị có truyền thống hoàn thành tốt nhiệm vụ của trung đoàn và được trung đoàn giao cho làm nhiệm vụ đặc biệt này. Tuy nhiên, bản thân tôi cũng như đồng chí Nam đều từ bộ binh sang, mới được chuyển binh chủng có ba tháng nên chắc sẽ còn nhiều bỡ ngỡ. Rất mong được các đồng chí tận tình giúp đỡ.

Không khí căng thẳng, dè chừng trong căn hầm như được dỡ bỏ, một vài nụ cười đã nở trên môi những người ngồi họp. Thận treo tấm bản đồ lên vách hầm, anh trở ngược đầu cái bút chì làm que chỉ và bắt đầu nói:

- Tôi xin không dài dòng mà đi ngay vào vấn đề: đại đội ta được trung đoàn giao nhiệm vụ độc lập cơ động vào khu vực sân bay A Lưới để sẵn sàng làm mũi vu hồi từ phía tây vào Huế. Đường cơ động ước khoảng năm trăm cây số - Anh rê cán bút theo đường chì đỏ trên bản đồ - Đó không phải là một con đường thẳng mà sẽ rất ngoằn ngoèo, trong đó có hai lần phải vượt đỉnh Trường Sơn trong thời gian khoảng nửa tháng. Để đảm bảo cho chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ, trên phái đồng chí Hiển, đồng chí Đính đi cùng đại đội ta và tăng cường cho chúng ta một số bộ phận bảo đảm khác như: thợ, điện đài, y tá v.v... trong đêm nay hoặc ngày mai các đồng chí đó sẽ có mặt tại đây. Việc bảo đảm cơ động và cung cấp trên đường do các binh trạm của đường dây 559 đảm nhiệm. Tại đây chúng ta sẽ nhận ba mươi ngày lương thực, thực phẩm, một cơ số dầu, hai cơ số khí tài. Toàn bộ các vật chất này trên sẽ đưa xuống trong đêm nay và ngày mai. Còn trước mắt chúng ta cần tập trung làm thật tốt mọi công tác chuẩn bị cả về tinh thần, tư tưởng con người cũng như trang bị vũ khí và các loại cơ sở vật chất khác. Mọi công việc chuẩn bị phải xong trước 15 giờ chiều mai, nếu có thể chúng ta sẽ xuất phát ngay đêm mai. Nhiệm vụ như thế các đồng chí rõ chưa?

Không khí trong gian hầm như ắng lại. Tất cả những người có mặt đều như thấy bất ngờ. Họ đang rất sẵn sàng bước vào chiến đấu, chiến trường chỉ còn cách họ, một hai ngày hành quân, đơn vị của họ đã đi trinh sát thực địa, họ đã chuẩn bị rất tốt cho trận đánh nay mai nhưng nay tình hình lại đảo ngược thế. Họ chưa hình dung được những gì sẽ chờ đợi mình trong những ngày phải tác chiến độc lập sắp tới, khi phía trước, phía sau, bên trái, bên phải không còn tiểu đoàn, không còn trung đoàn và không còn binh chủng hỗ trợ, sẻ chia. Tất cả sẽ dồn lên đôi vai họ. Để xoá tan không khí trầm lắng trong hầm, chính trị viên Đán cất tiếng:

- Nhiệm vụ của đại đội ta rất nặng nề song cũng rất đáng tự hào. Trung đoàn đã nghiên cứu rất kỹ tình hình mọi mặt, các thủ trưởng đã đánh giá cao đại đội ta trong quá trình huấn luyện ở hậu phương và đợt hành quân vừa qua nên mới quyết định trao nhiệm vụ này. Chúng ta phải hiểu đó là vinh dự và phải hết sức cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi và anh Thận đã hứa trước các thủ trưởng trung đoàn rồi. Rất mong các đồng chí quán triệt tốt nhiệm vụ giáo dục, và động viên bộ đội phấn khởi lên đường.

Thượng uý Hiển giơ tay:

- Tôi có ý kiến! Tôi rất hiểu tâm trạng của các đồng chí lúc này vì chính tôi cách đây nhiều năm cũng trải qua tâm trạng như vậy khi nhận nhiệm vụ đưa đại đội Chín sang chiến đấu bên Lào. Khó khăn thật đấy song không phải là không làm được. Tôi đề nghị thế này, trước hết các đồng chí trung đội trưởng về phổ biến nhiệm vụ cho bộ đội, cũng không cần chi tiết cho lắm, sau đó tổ chức cho bộ đội chuẩn bị tốt về kỹ thuật xe máy. Tất cả pháo súng cho niêm lại trừ khẩu 12,7 ly, pháo quay phía sau, khoá chặt tầm hướng để sẵn sàng cố định lương thực, khí tài. Tranh thủ làm đi vì chiều tối nay là trung đoàn sẽ bắt đầu cung cấp các loại vật chất. Còn Ban chỉ huy đại đội các anh ngồi lại đây ta bàn cụ thể thêm về kế hoạch hành quân.

Đại đội trưởng Thận nhắc lại:

- Nếu không ai hỏi gì thêm thì về thực hiện theo ý kiến của thủ trưởng Hiển.

Không ai nói gì, tất cả lẳng lặng ra khỏi hầm, nét mặt ai cũng đăm chiêu suy nghĩ. Bùi Văn Định nán lại bắt tay Nguyễn Ngọc Nam:

- Xin chào anh Nam! Anh đưa ba lô đây tôi mang giúp, ta cùng về trung đội.

Sau khi các cán bộ trung đội đã ra khỏi hầm, Hiển vẫy Đề và Toàn lại ngồi gần vào mình rồi nói:

- Thú thật với các anh, được trung đoàn giao cho đi với "xê Bốn" lần này tôi cũng rất lo. Những khó khăn thì ta nhắc đến nhiều rồi không cần nói lại làm gì nữa. Từ bây giờ trở đi tôi đề nghị chúng ta phải hết sức đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ; phát hiện thấy bất cứ vấn đề gì trong đơn vị cũng phải thông báo cho các thành viên khác trong Ban chỉ huy, và đặc biệt phải thẳng thắn phê bình, tự phê bình. Kể cả tôi và anh Đính, khi các đồng chí thấy có vấn đề gì chưa đúng, chưa tốt xin cứ góp ý ngay.

Đại đội trưởng Thận đỡ lời:

- Chúng tôi xin tiếp thu ý kiến của thủ trưởng. Còn bây giờ đề nghị thủ trưởng với kinh nghiệm của mình, cho ý kiến về công tác tổ chức chuẩn bị và thực hành hành quân sắp tới.

Thượng uý Hiển đứng lên tới sát tấm bản đồ, nhấn từng từ:

- Đặc điểm lớn nhất trong nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là tổ chức một đại đội độc lập đi làm nhiệm vụ cách xa trung đoàn gần năm trăm cây số không có sự bảo đảm trực tiếp của cấp trên. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ, cần phải xây dựng kế hoạch hành quân thật khoa học, phù hợp với điều kiện địa hình, đường sá, khả năng của trang bị và cũng phải rất linh hoạt vì sẽ có rất nhiều yếu tố tác động. Sau đó, ta phải có sự tổ chức rất hợp lý về đội hình, về cung chặng hành quân. Tôi đề nghị thế này: ngay sau đây anh Thận tập trung làm kế hoạch hành quân cho đại đội. Cần lưu ý việc chia cung chặng cho hợp lý, đoạn từ đây vào đến Đường 9 có thể đạt trên bốn mươi cây số một đêm, còn về sau phải giảm xuống vì địa hình ngày càng phức tạp và nhất là chất lượng đường rất kém. Sau ba, bốn chặng hành quân nên bố trí cho anh em nghỉ một đêm lại sức và bổ sung nhiên liệu. Ngoài ra chúng ta cũng còn phải làm việc với các binh trạm của 559 nữa.

Đại đội trưởng Thận gật đầu:

- Rõ!

Quay sang phía chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn, thượng uý Hiển tiếp:

- Về mặt tổ chức hành quân, theo kinh nghiệm của tôi, cần thiết phải có bộ phận tiền trạm. Bộ phận này sẽ gồm tổ đài 15 oát và một số anh em nữa do đồng chí chính trị viên phó chỉ huy và sẽ sử dụng chiếc xe "Vọt tiến" do trung đoàn tăng cường để cơ động. Nhiệm vụ của đội tiền trạm là: hàng đêm xuất phát trước đội hình chính thức khoảng một giờ; trên đường cơ động phải thông báo cho các chốt của công binh biết có xe tăng sắp cơ động qua, đánh dấu đường khi cần thiết và tìm vị trí trú quân cho đại đội tại điểm kết thúc chặng hành quân. Sau đó đội tổ chức đón và dẫn xe tăng vào vị trí trú quân. Hàng ngày đội tiền trạm phải liên hệ với công binh để nắm tình hình đường sá thông báo cho anh Thận xác định chặng hành quân tiếp theo. Anh Toàn và các anh thấy thế nào?

Quả thật đây là một việc rất mới nên cả bốn anh em chưa kịp có phản ứng gì. Khi thấy cái hất cằm của thượng uý Hiển về phía mình Toàn, đành đứng dậy:

- Thực ra tôi cũng chưa hình dung hết công việc của đội tiền trạm nhưng theo tôi đây là một cách tổ chức rất hợp lý, còn bản thân tôi sẽ cố gắng ạ.

Hiển gật gù:

- Đây cũng là kinh nghiệm xương máu đấy. Về đội hình chính: xe anh Thận đi đầu, sau đó đến trung đội Một, trung đội Hai và sau cùng là xe anh Đán. Tôi sẽ đi cùng xe anh Thận, anh Đính đi giữa đội hình, anh Đề và tổ thợ đi cùng xe anh Đán để giải quyết các sự cố kỹ thuật, đồng chí kỹ thuật viên và y tá đi cuối đội hình trung đội Một. Còn về vấn đề bảo đảm ăn uống thì từ hôm nay bắt đầu tổ chức ăn theo từng xe.

Cả bốn anh em đều hơi ngạc nhiên, đại đội xe tăng có mấy người đâu lại tổ chức ăn thành từng xe làm gì cho rắc rối. Thấy vẻ ngạc nhiên của bốn cán bộ đại đội, Hiển cười:

- Cũng là kinh nghiệm cả đấy! Các anh cứ hình dung trong đêm hành quân một xe bị hỏng phải nằm lại thì anh em ăn uống thế nào? Hay khi trú quân, xe cách xe năm sáu trăm mét, máy bay nó đang quần lượn trên đầu làm sao mà đi ăn cơm được. Ngoài ra, nói dại lúc cả đại đội các bố đang sì sụp với nhau mà dính một quả pháo hay một quả bom thì chả còn gì để nói nữa.

Cả bốn anh em cùng thốt lên:

- Phải! Phải!

Hiển tiếp:

- Vì vậy số lương thực, thực phẩm nhận về phải chia đều cho các xe và xe tiền trạm, dụng cụ cấp dưỡng cũng phải chia. Đảm bảo sao cho xe nào cũng có xoong nồi, có gạo, có muối, có thịt hộp, lương khô v.v... Sau này việc nấu nướng ở từng xe giao cho pháo hai đảm nhiệm, tuy nhiên phải hết sức chú ý giữ bí mật khói, lửa. Ngoài ra, tôi đề nghị anh Đề báo cáo trung đoàn xin tăng cường thêm một hai bộ bình điện khô, vài chục mắt xích dự phòng và đặc biệt là thuốc sốt rét càng nhiều càng tốt.

Lại một sự ngạc nhiên trên gương mặt bốn cán bộ đại đội, Hiển lại cười:

- Chúng ta đang ở ngoài này thì chẳng ai biết sốt rét là gì. Nhưng các anh cứ chờ xem, chỉ cần qua Đường 9 là biết nhau thôi.

Quay về phía Đính, Hiển hỏi:

- Anh Đính có ý kiến gì với anh em không?

Đính nhẹ nhàng:

- Thôi anh ạ! Bây giờ phải để anh em tập trung chuẩn bị đã.

- Vâng! Anh Đính đã nói thế thì các anh về tổ chức cho anh em chuẩn bị, tôi và anh Thận ở lại đây cùng làm kế hoạch - Hiển kết luận.

Đúng lúc đó có tiếng động cơ ô tô vọng tới, một chiếc xe xì-téc đang lặc lè chạy về phía đại đội. Hiển nói:

- Chắc là xe cấp nhiên liệu của trung đoàn đấy. Anh Đề về điều hành cho nó đến từng xe bơm trực tiếp vào tổ dầu. Phải lấy đầy hết các tổ đấy!

- Rõ! - Đề trả lời và chạy vụt đi.

Ngay sau đó là xe chở lương thực thực phẩm, xe chở khí tài dự bị và chiếc xe "Vọt tiến" cùng số chiến sĩ trung đoàn tăng cường cho đại đội cũng ùn ùn kéo đến. Cả đại đội lại túi bụi khuân vác, kiểm tra đến gần nửa đêm mới xong.

Buổi sáng được bắt đầu bằng cuộc họp toàn đại đội.

Cho đơn vị ngồi xuống, đại đội trưởng Thận hướng về phía Hiển và Đính đang đứng phía sau hàng quân:

- Xin phép các thủ trưởng cho bắt đầu.

Thượng uý Hiển gật đầu:

- Đồng chí bắt đầu đi!

Mở cuốn sổ vẫn cầm trên tay, Thận dõng dạc;

- Báo cáo các đồng chí: chúng ta bắt đầu sinh hoạt. Trước hết xin giới thiệu với toàn thể đơn vị: đồng chí thượng uý Nguyễn Đức Hiển và đồng chí thượng uý Phạm Công Đính, phái viên của trung đoàn đi cùng chúng ta để thực hiện nhiệm vụ đợt này - Anh chỉ tay về phía Hiển và Đính - Đồng chí Hiển sẽ là chỉ huy cao nhất trong quá trình hành quân của đại đội ta. Ngoài ra, trên còn tăng cường cho chúng ta một số đồng chí khác, bao gồm: một tổ đài, một tổ thợ, một lái xe tăng, một y tá và một xe ô tô cùng với lái xe; sau này các đồng chí sẽ tìm hiểu thêm cho rõ, còn bây giờ chúng ta vào việc chính.

Sau khi nhắc lại nội dung chính của nhiệm vụ, đại đội trưởng nhấn mạnh:

- Sau khi bàn bạc trong Ban chỉ huy chúng tôi thống nhất bố trí đội hình hành quân như sau: đại đội ta sẽ chia thành hai bộ phận, bộ phận tiền trạm và đội hình chính. Bộ phận tiền trạm gồm tổ đài, cơ yếu, quản lý đại đội do đồng chí chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn chỉ huy, phương tiện cơ động là ô tô; nhiệm vụ của đội tiền trạm đồng chí Toàn đã nắm được rồi. Còn đội hình chính tôi sẽ đi đầu, sau đó đến "bê Một", "bê Hai" và cuối cùng là xe anh Đán chính trị viên. Đồng chí Hiển sẽ đi xe tôi. Đồng chí Đính đi xe đồng chí Tự. Đồng chí Đề đại đội phó kỹ thuật và tổ thợ đi xe anh Đán. Đồng chí Tuyết kỹ thuật viên và đồng chí Tảo - y tá đi với "bê Một". Đồng chí Trang lái xe tôi.

Ngừng lại một lát như để cho mọi người nhớ vị trí của mình, đại đội trưởng Thận tiếp tục:

- Yêu cầu đặt ra đối với chúng ta là đưa được một trăm phần trăm người và xe vào đến vị trí tập kết an toàn, đúng thời gian quy định. Trong khi đó các điều kiện đảm bảo cho chúng ta rất hạn chế, đường lại khó đi và đặc biệt là hoạt động đánh phá ngăn chặn của không quân địch. Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi chúng ta phải tiến hành công tác chuẩn bị thật chu đáo, kỹ càng từ việc nhỏ nhất trở đi. Còn trên đường hành quân phải đặc biệt chú ý giữ bí mật. Tôi quy định như sau: Một là, tất cả các đài chỉ để ở chế độ thu canh, chỉ khi hết sức cần thiết mới được phát và phát phải thật ngắn gọn. Hai là, trong toàn bộ đợt hành quân này chủ yếu chúng ta hành quân đêm, ban ngày nghỉ và làm công tác kỹ thuật, trong quá trình hành quân chỉ được sử dụng đèn gầm, đèn pin của các trưởng xe phải bọc vải lại. Ba là, khi hành quân bắt buộc trưởng xe phải thức để chỉ huy xe, các thành phần khác có thể ngủ. Bốn là, việc bảo đảm ăn uống do các xe tự lo, trách nhiệm chính là các đồng chí pháo hai nhưng phải đặc biệt lưu ý đến vấn đề khói lửa. Năm là, khi đến vị trí nghỉ hàng ngày, sau khi đưa xe vào giấu phải tổ chức ngụy trang xe và xoá vết xích xong trước khi trời sáng. Các đồng chí rõ cả chưa?

- Rõ! - Toàn đại đội đồng thanh trả lời.

Quay về phía chính trị viên, Thận nói:

- Mời anh Đán phát biểu với anh em.

Chính trị viên Đán bước lên phía trước, anh nói giản dị:

- Nhiệm vụ của đại đội ta các đồng chí đã rõ cả rồi. Tôi chỉ xin nhấn mạnh: đây là một vinh dự to lớn mà cấp trên đã tin tưởng giao cho đại đội chúng ta. Tôi đề nghị tất cả các đồng chí, đặc biệt là các đồng chí đảng viên hãy phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, từng người làm tốt công việc của mình đồng thời đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ. Chính trong lúc khó khăn này mới thể hiện rõ nhất bản lĩnh của chúng ta. Các đồng chí có nhất trí thế không?

- Nhất trí! - Toàn đại đội đồng thanh.

Đại đội trưởng Thận tiếp lời:

- Nếu không ai có ý kiến gì thì chúng ta về tiếp tục chuẩn bị. Anh Toàn chủ trì việc phân chia lương thực, thực phẩm cho các xe và xe tiền trạm. Anh Đề phân chia khí tài cho các xe. Các đồng chí trung đội trưởng chỉ huy anh em đến nhận lương thực, thực phẩm, khí tài đưa về xe cố định. Riêng các đồng chí pháo hai ở lại đây gặp đồng chí Định nghe hướng dẫn về cách thức nấu nướng sao cho bí mật, an toàn. Chiều nay, anh Đề tập trung số lái xe thống nhất thêm một số vấn đề về lái xe đường đồi núi. Toàn bộ công tác chuẩn bị xong trước 16 giờ; sau đó các xe ăn chiều để 17 giờ có thể xuất phát được.

Toàn đại đội đứng dậy, các trung đội trưởng tất tả dẫn quân về trung đội, còn tám pháo hai ngồi tại chỗ.

Trong hầm chỉ huy, cuộc họp chi uỷ bất thường đã đến hồi kết thúc. Chính trị viên Đán cất cái giọng ề à vốn có của mình:

- Vừa rồi chúng ta đã thảo luận kỹ tất cả mọi vấn đề. Sau đây tôi xin kết luận: Một, về đánh giá tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ nói chung là tốt, tất cả đều yên tâm phấn khởi nhận nhiệm vụ, không có biểu hiện dao động, trốn tránh. Hai là, công tác chuẩn bị cơ bản đã xong, chúng ta đã tiếp nhận đầy đủ các loại vật chất trên cấp, xe máy khí tài đã được củng cố, sẵn sàng lên đường. Ba là, sau đợt hành quân từ hậu phương vào, trình độ đội ngũ lái xe của đại đội đã được nâng lên một bước rất quan trọng, anh em ta cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm cần thiết. Tuy nhiên chúng ta cũng cần chú ý mấy vấn đề sau: thứ nhất, phải duy trì thật nghiêm kỷ luật chiến trường, đặc biệt là vấn đề giữ bí mật. Thứ hai, phải tiếp tục giáo dục động viên anh em, đi lần này là coi như "bê dài" rồi chứ không phải "cơm Bắc giặc Nam" nữa, nếu không theo sát sẽ phát sinh vấn đề tư tưởng. Bây giờ xin ý kiến các đồng chí!

Ngồi im từ đầu đến giờ, thượng uý Hiển mới lên tiếng:

- Chúng ta đã thống nhất với kế hoạch hành quân do anh Thận chuẩn bị và cũng đã thảo luận kỹ về các biện pháp thực hiện. Tôi hoàn toàn nhất trí với kết luận của anh Đán. Tuy nhiên tôi xin lưu ý các anh: kế hoạch vẫn chỉ là kế hoạch, việc thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Theo kế hoạch chúng ta đề ra thì chỉ khoảng mười đến mười lăm ngày là ta sẽ đến vị trí tập kết; nhưng đấy là mọi việc đều thông đồng bén giọt chứ chỉ cần một, hai xe hỏng hoặc vài ngày đường không thông thì chưa biết thế nào. Vì vậy, tôi đề nghị chúng ta phải thường xuyên giữ vững đội hình hành quân, duy trì tốt thông tin liên lạc, kịp thời hỗ trợ lẫn nhau khi cần thiết. Đặc biệt, đội tiền trạm của anh Toàn cần liên hệ chặt chẽ với lực lượng công binh trên tuyến, phải yêu cầu họ khắc phục ngay những đoạn đường không bảo đảm và phải có lực lượng thường trực kịp thời xử trí các tình huống khác. Còn hàng ngày, căn cứ vào thông báo của công binh về tình hình đường sá ta sẽ điều chỉnh lại cung chặng cho phù hợp. Các anh thấy thế đã được chưa?

Chính trị viên phó Toàn có vẻ rất lo lắng:

- Việc chỉ huy đội tiền trạm và thực hiện nhiệm vụ tôi không có ý kiến gì, các quy định của thủ trưởng Hiển cũng vậy. Nhưng tôi lo nhất là trường hợp chúng ta mất liên lạc với nhau, giả sử chúng tôi đến trước mà sáng hôm sau xe tăng không đến thì xử trí thế nào, quay lại ban ngày thì đi không được.

Thượng uý Hiển trả lời ngay:

- Trường hợp sáng ra chưa thấy xe tăng đến các anh phải nhờ đường dây hữu tuyến của công binh để nắm được tình hình đội hình chính, khi cần thiết phải cho người đi bộ quay lại để đón, ban ngày đi bộ được ấy mà.

Đại đội trưởng Thận tiếp lời:

- Nói chung để đối phó với những tình huống bất thường trên đường hành quân, tất cả chúng ta phải phát huy tinh thần chủ động, độc lập mà xử trí. Theo tôi, trường hợp đội hình hành quân mà bị xé lẻ tôi sẽ trực tiếp chỉ huy "bê Một", anh Đán chịu trách nhiệm chỉ huy "bê Hai", còn anh Toàn phụ trách về đội tiền trạm. Xin ý kiến các anh phân công thế có được không?

- Nhất trí! - Ba người nói vừa đủ nghe.

Đán quay sang Đính:

- Xin ý kiến thủ trưởng Đính ạ!

Đính vẫn nhẹ nhàng như thường thấy ở những cán bộ chính trị lâu năm:

- Tôi hoàn toàn nhất trí với nghị quyết của các đồng chí! Chỉ xin lưu ý các đồng chí phải thường xuyên nắm vững tình hình tư tưởng của anh em. Đi đợt này khó khăn, gian khổ nhiều hơn nên cũng dễ phát sinh tư tưởng ngại khó, ngại hy sinh, chúng ta phải kịp thời phát hiện và giáo dục, ngăn chặn kịp thời.

Cả ba cán bộ đại đội cùng đáp:

- Rõ!

Chính trị viên Đán đứng dậy:

- Ta kết thúc họp ở đây.

Ông Hiển nhìn đồng hồ, đã gần 3 giờ chiều.

Ngoài cửa hầm có tiếng lao xao, cả năm người ngẩng lên nhìn ra, một cái bóng cao to lừng lững đang lom khom bước vào. Đó là chính uỷ Tùng. Thượng uý Hiển vội đứng dậy:

- Báo cáo chính uỷ chúng tôi vừa họp cấp uỷ xong.

Chính uỷ Tùng tươi cười:

- Bận quá nhưng phải cố gắng xuống với anh em "xê Bốn" một chút. - Ông quay nhìn đại đội trưởng Thận - Thế nào Thận, công tác chuẩn bị đến đâu rồi?

Đại đội trưởng Thận đứng nghiêm:

- Báo cáo chính uỷ, cho đến lúc này đại đội Bốn đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị, chúng tôi quyết tâm xuất phát ngay đêm nay. Mời chính uỷ ở lại động viên anh em trước lúc lên đường.

Quay sang chính trị viên Đán, chính ủy hỏi:

- Tình hình tư tưởng anh em thế nào?

Đến lượt chính trị viên Đán đứng lên:

- Báo cáo chính uỷ, toàn thể cán bộ chiến sĩ đại đội Bốn rất yên tâm phấn khởi lên đường nhận nhiệm vụ. Anh em rất tự hào vì đã được trung đoàn tin tưởng giao cho nhiệm vụ đặc biệt này.

Chính ủy Tùng trầm ngâm:

- Phải đưa "xê Bốn" đi trung đoàn cũng tiếc lắm. Nhưng thôi, nhiệm vụ nào cũng vinh quang, "xê Bốn" hoàn thành nhiệm vụ cũng là trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Còn ông Hiển, ông Đính đã quen với đơn vị mới chưa?

Thượng uý Hiển cười:

- Không có vấn đề gì ạ. Người cùng trung đoàn cả mà.

Chính uỷ bớt vẻ trầm ngâm:

- Thế là tốt rồi! Hôm nay tôi sẽ ở lại tiễn anh em.

Không ai bảo ai, cả năm anh em vỗ tay nhiệt liệt.

Đúng 5 giờ, các trung đội trưởng đã dẫn quân về bãi đất bằng cạnh xe 386.

Pháo thủ Tình hôm nay trực ban đại đội cho tập hợp đơn vị thành ba hàng ngang, chỉnh đốn hàng ngũ và hô:

- Ngồi xuống!

Hô xong Tình chạy vụt về phía hầm chỉ huy. Một lát sau chính uỷ Tùng và mấy cán bộ từ trong hầm bước ra. Trung đội trưởng Tiến vội đứng vụt dậy hô:

- Đứng dậy!

Toàn đại đội đứng nghiêm, Tiến định báo cáo thì chính uỷ vẫy tay:

- Được lắm! Vào chiến trường rồi mà vẫn giữ được nền nếp chính quy thế là tốt. Nhưng hôm nay thôi không phải báo cáo nữa. Đồng chí Thận làm việc đi.

- Rõ! - Đại đội trưởng Thận đáp rồi bước về phía trước hàng quân, dõng dạc - Báo cáo các đồng chí, theo đúng kế hoạch hôm nay chúng ta bắt đầu hành quân. Tôi xin giới thiệu đến dự buổi lễ xuất quân hôm nay của đại đội chúng ta có đồng chí chính uỷ Bùi Văn Tùng thay mặt Ban chỉ huy trung đoàn. Tôi đề nghị chúng ta nhiệt liệt hoan hô.

Toàn đại đội vỗ tay rào rào, những gương mặt đang căng thẳng như giãn ra một chút. Đại đội trưởng Thận quay lại phía chính uỷ:

- Xin phép thủ trưởng tôi bắt đầu ạ.

- Được, đồng chí bắt đầu đi!

Đại đội trưởng Thận mở cuốn sổ tay:

- Mệnh lệnh hành quân! - Cả hàng quân đang đứng trong tư thế nghỉ đồng loạt rút chân về, ngực ưỡn ra thành tư thế đứng nghiêm, chính uỷ Tùng gật gù thầm khen cái chất chính quy của đơn vị này, Thận tiếp tục - Nghỉ!

Anh lần lượt phổ biến đường, hướng hành quân, tốc độ trung bình, cự ly giãn cách giữa các xe, các trung đội, đội hình hành quân, ký tín hiệu hiệp đồng và cách xử trí một số tình huống thường xảy ra trên đường hành quân. Cuối cùng anh hỏi - Các đồng chí đã rõ nhiệm vụ chưa?

- Rõ! - Tiếng hô đồng thanh của cả đại đội lay động một góc rừng.

- Kính mời chính uỷ phát biểu với anh em. - Đại đội trưởng Thận quay về phía chính uỷ Tùng.

Tùng bước lên phía trước hàng quân, cất giọng trầm trầm:

- Thưa toàn thể các đồng chí! Trung đoàn hiện đang rất nhiều công việc nên chỉ có mình tôi xuống được với "xê Bốn" hôm nay, mong các đồng chí thông cảm. Về nhiệm vụ của đơn vị mình chắc các đồng chí đã được phổ biến, tôi xin nhắc lại rằng: đó là một nhiệm vụ đặc biệt, có tầm quan trọng chiến lược. Các đồng chí cứ thử hình dung xem: khi ta tấn công mạnh từ phía Bắc vào, địch phải tăng cường lực lượng ra chống đỡ, đúng lúc đó các đồng chí lại đánh từ bên sườn, phía sau thì làm sao chúng trụ được. Nói nôm na, đại đội các đồng chí chính là nhát dao đâm vào sau lưng quân địch ở Huế. Các đồng chí có thấy vinh dự không?

- Có! - Hàng quân lại đồng thanh.

- Tuy nhiên vinh dự càng cao thì trách nhiệm lại càng nặng nề; các đồng chí sẽ phải độc lập tổ chức hành quân vào vị trí tập kết. Ngay cả khi đã đến vị trí tập kết rồi cũng phải tiếp tục độc lập làm nhiệm vụ mà không có sự hỗ trợ của trung đoàn. Từ đặc điểm đó, Ban chỉ huy trung đoàn đã phải thảo luận rất kỹ và đi đến thống nhất chọn "xê Bốn" để giao nhiệm vụ này vì "xê Bốn" các đồng chí là một đơn vị có truyền thống huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm. Trong đợt hành quân từ hậu cứ vào đây đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đưa được một trăm phần trăm người và xe đến đích an toàn tuyệt đối. Trung đoàn tin tưởng rằng với truyền thống của mình các đồng chí cũng sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Các đồng chí có quyết tâm không?

- Quyết tâm! - Tiếng hô lại một lần nữa vang động góc rừng chiều yên tĩnh.

Nhìn một lượt những gương mặt quả cảm, giọng ông ấm áp:

- Vậy thì thay mặt Ban chỉ huy trung đoàn chúc các đồng chí lên đường mạnh khoẻ, không phải là "chân cứng đá mềm" mà là "xích cứng đá mềm", hoàn thành nhiệm vụ. Hẹn gặp lại các đồng chí khi ta giải phóng Huế! - Ông quay lại siết chặt tay đại đội trưởng Thận, Hiển, Đính và các cán bộ đại đội.

Tất cả vỗ tay nhiệt liệt.

Chính trị viên Đán bước lên phía trước, trịnh trọng:

- Kính thưa đồng chí chính uỷ! Toàn thể cán bộ chiến sĩ đại đội Bốn xin hứa sẽ cố gắng hết sức mình, khắc phục mọi khó khăn, đưa xe đến đích và hoàn thành mọi nhiệm vụ trên giao.

Chính uỷ Tùng có vẻ cảm động lắm, ông có cảm giác như đang đưa tiễn những người ruột thịt của mình rời xa gia đình. Mái đầu bạc rung rung, giọng ông nghẹn ngào:

- Cố gắng lên nhé. Trung đoàn tin ở các đồng chí!

Cả hàng quân lặng đi. Trong mỗi trái tim đều rộn lên một cảm xúc xốn xang, khó tả trước lời gửi gắm gan ruột của người lính già. Đại đội trưởng Thận bước lên:

- Nếu không có ai hỏi gì nữa thì tất cả về ngụy trang xe. Năm phút nữa đội tiền trạm sẽ xuất phát. Đúng 17 giờ 30 đội hình chính sẽ xuất phát, lấy tiếng động cơ xe tôi làm hiệu lệnh, sau khi xe tôi qua các xe khác lần lượt tiến theo đúng thứ tự quy định. Anh Đề đứng ở cửa rừng, chờ tất cả các xe qua rồi lên xe 390. Nhớ giữ vững kỷ luật hành quân và kỷ luật giữ bí mật đấy! Dưới quyền của các đồng chí trung đội trưởng cho bộ đội về tiếp tục chuẩn bị. Giải tán!

Bắt tay chính uỷ Tùng và thượng uý Hiển, chính trị viên phó Toàn chạy ngay về xe tiền trạm. Chiếc "Vọt tiến" đã được cắm đầy cành lá ngụy trang, mấy bao gạo xếp một dãy thành một hàng ghế ngồi khá thoải mái, ba lô được buộc chặt vào thành xe, cái máy nạp điện và bộ đài 15 oát được chằng buộc chặt chẽ. Quân khí viên Đặng Xuyên đang nhắc nhở anh em cắm cành ngụy trang cho chặt. Trong mấy anh em đi tiền trạm này Xuyên là người lớn tuổi nhất, cùng học trung cấp cơ khí với Bình, Hoả, Tập nhưng khi vào bộ đội lại được phân đi học lớp quân khí viên, học xong về đại đội sửa chữa của trung đoàn nhưng vẫn thỉnh thoảng xuống "xê Bốn" chơi. Với bộ ba lái xe cùng trường cơ khí đó thì Xuyên thân nhất với Bình vì một sở thích chung là thích tụ tập để bình luận về các cô gái xinh đẹp trong trường. Một cách gần như đương nhiên Xuyên là người phụ trách xe khi chính trị viên phó Toàn không có mặt.

Đứng cạnh xe nhìn lên Toàn hỏi:

- Tình hình xe ta thế nào? Đã xuất phát được chưa?

Xuyên nhổm lên trả lời:

- Báo cáo anh mọi thứ đã chuẩn bị xong.

- Giỏ đâu? Xe tốt chứ? - Anh hỏi lái xe Giỏ.

Từ trong ca bin Giỏ thò đầu ra:

- Báo cáo thủ trưởng xe tốt ạ!

- Thôi! Tất cả lên xe! Chú ý quan sát, thấy máy bay hay sự cố bất thường thì vỗ vào nóc ca bin cho tôi biết. Súng ống sẵn sàng nhớ. Giỏ, cho xe xuất phát!

Lái xe Giỏ khởi động xe rồi vào số. Chiếc xe từ từ lăn bánh về hướng Nam. Trời bắt đầu sâm sẩm.

Đại đội trưởng Thận đứng trên nóc tháp pháo nhìn bao quát toàn đại đội. Tất cả các xe đang tất bật làm nốt những công việc chuẩn bị cuối cùng. Tình và Trang ôm một đống cành lá vứt lên xe cho Đạt cắm rồi chạy đi bẻ tiếp. Bình thì lúi húi trong buồng lái, cậu ta giật thử đôi cần lái, bật đèn gầm rồi nhoài người ra ngoài chỉnh lại cái chụp hạn chế ánh sáng.

Cúi nhìn đồng hồ, Thận nhảy xuống xe đến bên chính uỷ Tùng đang thì thầm trò chuyện cùng Hiển, anh lễ phép:

- Báo cáo chính uỷ, đã đến giờ xuất phát. Xin phép chính uỷ chúng tôi lên đường.

Chính uỷ Tùng dang rộng đôi cánh tay ôm chặt lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi, hai tay ông vỗ nhẹ lên sau lưng Thận:

- Cố gắng nhé! Mình luôn chờ tin các cậu. Thôi, đi đi! - Ông buông Thận ra quay sang bắt tay thượng uý Hiển.

Đại đội trưởng Thận cố nén cơn xúc động:

- Tạm biệt thủ trưởng. - Quay lại xe anh hô - Tất cả lên xe!

Chỉ hai bước nhảy rất thuần thục Bình đã ngồi gọn trong buồng lái, Đạt ôm khẩu 12,7 ly ở cửa pháo hai, Hiển chọn đỉnh tháp pháo ngồi ngay cạnh cửa trưởng xe, Tình và Trang ngồi chễm chệ trên đống lương thực, khí tài sau tháp pháo. Chính uỷ Tùng cũng lên xe ô tô chạy lại tuyến xuất phát phía cửa rừng. Ngoài Hiển - chắc đã quá quen với những cuộc hành quân độc lập - nét mặt không hề thay đổi; còn từ đại đội trưởng Thận đến mấy cậu lính trẻ gương mặt ai cũng lộ rõ vẻ căng thẳng.

Chụp cái mũ công tác lên đầu, siết chặt ống nói và tai nghe Thận hỏi:

- Bình có nghe rõ không?

- Dạ, em nghe rõ ạ! - Tiếng Bình trả lời.

Quay ra đằng sau Thận nhắc:

- Mấy cậu phía sau ngồi cho chắc chắn nhé. Lúc nào buồn ngủ thì vào trong xe. Đạt đưa cái mũ công tác cho thủ trưởng Hiển.

Cả ba cùng đáp:

- Vâng ạ!

Quay về phía Hiển, anh hỏi nhỏ:

- Ta đi chứ anh?

Hiển gật nhẹ đầu, Thận ra lệnh:

- Nổ máy!

Lái xe Bình ấn còi rồi ấn nút khởi động, tiếng động cơ gầm lên, một làn khói xanh phun ra từ ống xả làm đậm thêm màn sương đang bảng lảng. Các xe khác cũng đã nổ máy, tám động cơ 550 mã lực cùng nổ rầm rầm. Tiếng động cơ xe tăng trầm ấm, đĩnh đạc làm náo động cả cánh rừng vốn thường xuyên yên tĩnh. Đợi cho tiếng động cơ ổn định trở lại, đại đội trưởng Thận ra lệnh:

- Tiến!

Bình vào số, thả ly hợp. Chiếc xe chồm lên, xích xe nghiến ken két, mùi khói xả hăng hăng, khét lẹt. Chỗ cửa rừng đại đội phó Đề đang đứng cùng chính uỷ. Xe 386 đến gần, Đề làm hiệu cho xe tiếp tục tiến, còn chính uỷ đứng vẫy tay, không biết có phải do khói xả hay không mà mắt ông cay cay.

Xe 386 đã qua tuyến xuất phát, chiếc thứ hai đang tiến đến. Đề nói:

- Đây là xe 381 của trung đội trưởng trung đội Một Đậu Minh Tiến.

Chính uỷ Tùng đưa tay dụi mắt, ông gật đầu:

- Cậu này quê ở Vinh phải không? Trông cao ráo, thông minh lắm.

Lần lượt các xe 388, 380, 387, 389, 382 đã qua tuyến xuất phát. Xe 390 đến gần, Đề vẫy tay cho xe dừng lại, anh quay lại bắt tay chính uỷ:

- Tạm biệt thủ trưởng!

Chính uỷ Tùng siết chặt tay anh, ông nói to át cả tiếng động cơ:

- Đi mạnh giỏi nhé!

Từ trên xe Đán nhoài người xuống bắt tay chính uỷ, ông cũng hét lên khác hẳn cái giọng ề à thường ngày:

- Thủ trưởng cứ yên tâm.

Xe 390 chồm lên, chính uỷ Tùng đứng nhìn theo cho đến khi đoàn xe đã khuất dạng mới quay lại ô tô. Suốt đường về ông im lặng không nói một lời.

Đường 15 là con đường chiến lược chạy dọc theo hướng Bắc Nam sát chân dãy Trường Sơn. Đèo dốc tuy nhiều nhưng độ dốc không cao lắm, lại ở gần hậu phương miền Bắc nên được chăm chút thường xuyên cũng khá dễ đi. Mấy hôm nay không thấy bóng không quân địch hoạt động trên con đường này, chắc chúng phải tập trung đối phó các khu vực khác.

Trời đã tối hẳn, Bình với tay bật công tắc đèn gầm. Một khoảng sáng nhạt nhoà bằng hai cái chiếu trước đầu xe. Được cái hai bên cây cối rậm rì nên việc quan sát đường không khó khăn lắm, Bình vẫn để xe chạy số 3 ở chân dầu trung bình. Đang là mùa khô, đất mặt đường tơi vụn bị hai băng xích cuốn lên thành một luồng bụi dài phía sau. Trên tháp pháo Thận vẫn căng mắt nhìn đường, suốt từ lúc qua tuyến xuất phát anh vẫn không phải chỉ huy Bình câu nào, thỉnh thoảng thấy đội hình phía sau bị bỏ xa anh mới nhắc giảm tốc độ.

Là tay lái có kinh nghiệm, lại được rèn giũa nhiều khi đi tham gia hội thao, Bình hoàn toàn làm chủ được tình hình, cậu sử dụng chân dầu và cơ cấu hãm để giảm xóc cho xe một cách điệu nghệ, lên số, xuống số êm ru. Các đoạn cua được lượn nhẹ nhàng, khéo léo. Tiếng động cơ lúc to, lúc nhỏ nhưng không khi nào thay đổi quá đột ngột.

Đêm khá yên tĩnh, không có dấu hiệu nào cho thấy có máy bay địch hoạt động. Thỉnh thoảng một chiếc xe ô tô đi ngược từ phía Nam ra thấy xe tăng liền nép vội vào bên đường. Đôi chỗ thấp thoáng các nữ thanh niên xung phong sửa đường, thấy xe tăng cứ túm tụm vào nhau cười và vẫy tay rối rít, các cô nói gì chẳng ai nghe thấy nhưng Tình, Đạt, Trang cũng vẫy tay đáp lại rất nhiệt tình.

Đi được hơn một tiếng, đại đội trưởng Thận hạ lệnh:

- Bình cho xe gọn vào một bên đường. Dừng lại nghỉ ngắn! - Thận quay ra sau - Đạt chạy xuống báo cho trung đội Một, còn các cậu kiểm tra kỹ thuật xe!

Vẫn ngồi trên tháp pháo, đưa bi đông nước cho thượng uý Hiển, Thận hỏi:

- Anh thấy đi như thế có được không?

Hiển nhấp một ngụm nước rồi cười:

- Tốt đấy ông ạ! Đội hình hành quân gọn, kỷ luật nghiêm, tốc độ bình quân đạt yêu cầu. Anh có đội ngũ lái xe khá lắm.

- Tôi sẽ triệu tập anh em cán bộ lên ta rút kinh nghiệm một chút.

- Đồng ý. - Hiển trả lời.

Đứng hẳn lên đỉnh tháp pháo, Thận cầm đèn pin đã được buộc cái mùi soa che mặt kính quay tròn mấy vòng. Từ trên tháp pháo các xe sau những chấm sáng mờ cũng nhấp nháy đáp lại. Thận và Hiển nhảy xuống xe, hai người chọn một cái hầm chữ A ven đường rồi ngồi lên nóc. Một lát sau Đính, Đán, Đề và hai trung đội trưởng đã có mặt. Thận mở đầu:

- Chúng ta vừa hoàn thành chặng hành quân đầu tiên nên ta rút kinh nghiệm một tý. Trước hết, đề nghị hai trung đội trưởng xem có gì đặc biệt thì báo cáo!

Cả Tiến và Nam cùng trả lời:

- Không có gì đặc biệt cả!

Thận tiếp tục:

- Vậy thì tôi nhận xét: theo tôi, chặng vừa qua ta đi thế là tốt, đội hình hành quân gọn, tốc độ trung bình đạt yêu cầu, kỷ luật hành quân được duy trì nghiêm, việc sử dụng đèn và điện đài đúng quy định. Tuy nhiên, điểm cần chú ý là cự ly giãn cách giữa các xe cần bảo đảm hơn, do không dùng điện đài nên nếu để cự ly lớn quá sẽ không thể chỉ huy được. Về kỹ thuật anh Đề có ý kiến gì không?

Đề bình thản:

- Mới chạy hơn chục cây nên chưa có vấn đề gì cả.

Quay sang Hiển, Thận hỏi:

- Xin ý kiến anh Hiển!

Hiển nhẹ nhàng:

- Nói chung nếu chúng ta cứ thực hiện được như thế này là tốt. Tuy nhiên tôi xin lưu ý các đồng chí: đường càng vào sâu sẽ càng khó đi hơn, ngoài ra không loại trừ hoạt động của không quân địch nên ta không thể chủ quan. Các đồng chí nhắc các trưởng xe phải tăng cường quan sát các tín hiệu chỉ huy và trên không, nếu thấy đạn 37 ly bắn lên vài loạt là AC130 ra đấy. Một điểm nữa cũng cần lưu ý là việc giữ gìn sức khoẻ cho anh em, đặc biệt là số lái xe vì đường hành quân còn dài. Thế thôi!

Đại đội trưởng Thận kết luận:

- Ta tạm dừng ở đây! Các chặng nghỉ ngắn sau sẽ rút kinh nghiệm tiếp. Những đoạn đường dễ đi có thể để lái xe dự bị lái cho quen dần. Thôi, các đồng chí về xe chuẩn bị đi tiếp.

Mấy anh em lục tục kéo đi.

Bấm đèn pin soi vào mặt đồng hồ, Thận giục:

- Chuẩn bị đi tiếp! Xe đã sẵn sàng chưa?

- Báo cáo "đại trưởng", sẵn sàng rồi ạ!

- Đường còn đang dễ đi, cậu để Trang nó lái giúp!

- Vâng ạ!

Nghe nói được xuống lái xe người Trang run lên, cậu đã được huấn luyện ở trường nhưng là lái loại xe khác, còn loại xe này mới được giới thiệu sơ qua cho nên run là phải. Bình ngồi ngay cạnh cửa lái xe nhắc:

- Cứ bình tĩnh! Học thế nào bây giờ cứ thế mà làm.

- Vâng ạ! Có gì anh nhắc em ngay nhé!

- Được thôi!

Tiếng Thận vang lên:

- Chuẩn bị xong chưa?

- Báo cáo "đại trưởng", xong rồi ạ! - Trang vội trả lời.

- Thế thì xuất phát!

Trang đưa tay run run ấn nút khởi động, tiếng động cơ gầm lên, cậu vội giảm vòng quay động cơ xuống mức thấp nhất và ngồi yên một lát. Tĩnh trí rồi Trang mới vào số và khởi xe, chiếc xe từ từ lăn xích, Trang thở ra một hơi dài và thấy vững tâm hơn.

Đêm có vẻ bình yên, chỉ thấy những chiếc xe tăng lầm lũi bò đi trong vệt sáng mờ đục của đèn gầm. Thỉnh thoảng bất ngờ hiện ra một chòi gác nhỏ, trong đó một bóng người đứng im lìm như một pho tượng cạnh ngọn đèn bão đã vặn nhỏ. Những người lính xe tăng biết rằng không chỉ mình họ thức mà còn rất nhiều người cùng thức với họ.

Thêm hai chặng nghỉ ngắn nữa thì gặp đội tiền trạm. Xuyên dẫn đại đội trưởng vào vị trí trú quân, chính trị viên phó Toàn chỉ tay giới thiệu:

- Báo cáo anh đây là vị trí trú quân của đại đội ta, chúng tôi đã xem xét kỹ và xác định vị trí của từng xe. ở đây có con suối chảy qua, ta sẽ đi vào theo đường suối vài phút, vừa đỡ công xoá vết xích lại vừa sẵn nước.

Thận nhìn qua một lượt, anh gật đầu:

- Tốt lắm! Bây giờ cho anh em ra hướng dẫn các xe vào vị trí. Chú ý ngụy trang xong trước khi trời sáng.

Ngoài xe Bình hơi nở nụ cười bảo Trang:

- Cậu lái cũng tạm được đấy, nhưng cần chú ý giảm xóc cho tốt hơn.

- Vâng! Em sẽ cố gắng - Trang cười thật tươi.

Đêm hành quân đầu tiên đã qua khá nhẹ nhàng.

Buổi trưa các xe đều ăn cơm sớm hơn thường lệ. Đại đội trưởng Thận dặn:

- Các cậu cố gắng ngủ đi để đêm còn phải thức.

Nói rồi anh xách cái xắc cốt đến bên Hiển và Toàn, cả ba chụm đầu vào tấm bản đồ. Thận nói:

- Theo như anh em công binh cho biết thì chỉ còn hơn chục cây số nữa ta sẽ rẽ sang Đường 10 và khoảng ba mươi cây số nữa sẽ đến chân dốc Cổng Trời. Tình hình đường sá tương đối thuận lợi, không quân địch cũng hoạt động ít hơn trước. Tôi dự định đêm nay chúng ta sẽ chạy đến sát chân dốc mới nghỉ để anh em lấy sức đêm mai vượt Cổng Trời. Các anh thấy thế nào?

Chăm chú nhìn vào tấm bản đồ, trán hơi nhíu lại Hiển nói:

- Tôi hoàn toàn nhất trí - Hiển chỉ vào một điểm sát chân dốc - Anh Toàn đánh dấu chỗ này lại. Nói chung ta nên đến càng sát chân dốc càng tốt vì dốc này dài gần ba chục cây số, đường lại hiểm trở, nếu ta không tiếp cận được thì sẽ không vượt qua trong một đêm. Còn một điểm nữa, theo tôi từ nay ta không tập trung toàn đại đội hạ mệnh lệnh hành quân nữa mà chỉ nên triệu tập cán bộ trung đội đến để phổ biến thôi, chiến trường mà.

- Vâng ạ! - Cả Thận và Toàn cùng trả lời.

Mở tấm bản đồ của mình ra Toàn lấy bút chì khoanh một vòng khu vực dự kiến trú quân đêm nay, anh đề nghị:

- Cũng theo kinh nghiệm của anh em công binh phổ biến: gần đến vị trí trú quân, xe cuối đội hình nên kéo theo một cành cây to thì đỡ rất nhiều công xoá vết xích.

Ông Hiển gật gù:

- Hay! Vậy đêm nay anh cứ cho chặt sẵn mấy cành cây để ở đó trước, khi xe anh Đán đến thì cho buộc vào đuôi xe. Nếu không có ý kiến gì nữa thì các anh cũng tranh thủ ngủ đi.

- Vâng ạ! - Cả Thận và Toàn cùng trả lời và gấp bản đồ cho vào xắc cốt.

Ba giờ chiều Đính và các cán bộ trong đại đội đã có mặt ngay cạnh xe 386. Đại đội trưởng Thận mời:

- Thủ trưởng và các anh ngồi tạm xuống đây.- Anh chỉ vào mấy tảng đá lô nhô cạnh võng anh và Hiển.

Đại đội trưởng Thận treo cái bản đồ lên thành xe và bắt đầu:

- Báo cáo các đồng chí, đêm qua chúng ta đã hoàn thành chặng hành quân theo đúng kế hoạch đề ra, một trăm phần trăm người và xe đến đích an toàn tuyệt đối. Tôi mời các đồng chí đến đây để rút kinh nghiệm một chút và phổ biến kế hoạch hành quân đêm nay. Trước hết ta thống nhất thế này: từ hôm nay hàng ngày sẽ không tập trung toàn đại đội để hạ mệnh lệnh hành quân nữa mà chỉ hội ý cán bộ hàng ngày vào lúc mười lăm giờ như chúng ta đang làm. Sau khi hội ý ở đây về, tuỳ tình hình các trung đội trưởng có thể tập trung trung đội hoặc chỉ gọi các trưởng xe đến để phổ biến nhiệm vụ. Các anh thấy thế có được không?

Tất cả tỏ vẻ đồng tình, trung đội trưởng Tiến phát biểu:

- Tôi hoàn toàn nhất trí! Làm như vậy phù hợp hơn với điều kiện chiến trường và nhất là không phải tập trung đông người ở một chỗ.

Đại đội trưởng Thận tiếp:

- Nếu mọi người nhất trí thì ta cứ thế thực hiện. Còn bây giờ ta đi vào nội dung chính. Về tình hình hành quân đêm qua theo tôi chúng ta đã chấp hành nghiêm kỷ luật hành quân, nhìn chung các xe giữ đúng cự ly giãn cách, đảm bảo bí mật, an toàn. Điểm cần rút kinh nghiệm là tốc độ bình quân còn chậm, và một số trưởng xe bọc đèn pin chưa tốt còn để sáng quá. Các anh có bổ sung gì không?

Chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn có ý kiến:

- Tôi không bổ sung gì về hành quân đêm qua mà tôi chỉ xin có ý kiến về việc trú quân hôm nay. Theo tôi hôm nay chúng ta chấp hành chưa thật tốt kỷ luật ở khu trú quân. Qua theo dõi của tôi một vài bếp còn để khói thành ngọn, phơi phóng quần áo cũng chưa kín đáo và nhất là anh em chiến sĩ của chúng ta còn quá ồn ào, đùa nghịch, tắm rửa cứ nhộn nhạo cả lên. Người ta nói rằng vào đến Trường Sơn là phải ba không: "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng" thì chúng ta chưa đạt yêu cầu, đề nghị các trung đội về nhắc nhở anh em.

Tất cả mọi người đều nhất trí. Đại đội trưởng Thận đến bên tấm bản đồ, cây bút trong tay anh đi nhẹ vào đường chì đỏ:

- Căn cứ vào bản đồ và tình hình anh em công binh cung cấp thì đêm nay ta sẽ chuyển sang Đường 10, tức là con đường ngang theo hướng Đông Tây. Từ ngã ba Đường 10 này đến biên giới Việt Lào, tức là đỉnh dốc Cổng Trời dài khoảng bảy chục cây số, riêng chiều lên của dốc là khoảng gần ba mươi cây số và đường rất hiểm trở, khó đi. Vì vậy tôi đã báo cáo thủ trưởng Hiển và xác định chặng hành quân đêm nay của đại đội ta là: đi từ đây đến chân dốc Cổng Trời thì cho bộ đội nghỉ lấy sức và chuẩn bị vượt dốc trong đêm mai. Chặng hành quân tuy không dài lắm nhưng đường lại khó đi hơn. Các anh thấy thế có được không?

Không ai có ý kiến gì, Thận giục:

- Vậy thì ta về xe cho anh em ngụy trang xe, ăn chiều và sẵn sàng xuất phát.

Chiều muộn, thằng "chỉ điểm" đã cút trả lại sự yên tĩnh cho bầu trời. Đội tiền trạm đã đi được khoảng nửa giờ, đại đội trưởng Thận lệnh cho xuất phát. Tám cái xe tăng bám nhau lầm lũi chạy với tốc độ khá cao vì trời còn sáng và đường khá dễ đi.

Tuy nhiên, từ lúc rẽ vào Đường 10 tốc độ hành quân giảm hẳn vì đường ngày một khó đi. Đây là một trục đường ngang vượt Trường Sơn sang Lào nên đèo dốc nhiều hơn, chất đất không còn là đất đỏ ba dan như dưới Đường 15 mà đã thấy nhiều núi đá; cũng không phải là những triền đồi kế tiếp nhau mà chủ yếu là dốc lên. Cũng may không thấy máy bay địch hoạt động.

Gần sáng đội hình toàn đại đội đã có mặt ở chân dốc Cổng Trời theo đúng kế hoạch. Đội tiền trạm dẫn từng xe vào vị trí giấu quân. Xoá vết xích, ngụy trang xong lính ta lăn ra ngủ say như chết.

*

Nằm dọc theo biên giới Việt - Lào, chạy dài từ phía tây Thanh Hoá vào đến tận Quảng Nam, Trường Sơn là dãy núi dài nhất Việt Nam. Đúng như tên gọi của nó, chiều cao trung bình của Trường Sơn là 2.000 mét, có nhiều đỉnh cao trên 2.500 mét như một bức trường thành án ngữ biên giới phía Tây của dải đất hình chữ S. Trên suốt chiều dài của nó Trường Sơn uốn lượn quanh co và có những lúc hình như muốn áp sát biển Đông, chỉ để lại một dải đồng bằng mỏng manh như lá lúa và chỗ mỏng nhất chính là Quảng Bình.

Bám theo dải đồng bằng mỏng manh ấy, các con đường xuyên Việt dễ dàng bị chặn đứng bởi không lực Hoa Kỳ. Vì vậy, để đưa được bộ đội và hàng hoá vào Nam các con đường vận tải của Đường 559 bắt buộc phải vòng sang đất Lào. Nhưng để sang được đất Lào người ta phải vượt qua đỉnh Trường Sơn. Cổng Trời là một trong những con đường đó.

Cổng Trời - chắc chắn nó phải cao lắm mới có cái tên "ngạo mạn" ấy. Đứng dưới chân dốc nhìn lên chẳng thấy đỉnh, chỉ thấy trập trùng đèo dốc mà thôi. Chỉ tính nguyên chiều lên của nó đã gần ba mươi cây số.

Cổng Trời còn được gọi bằng một cái tên khác - đó là đèo Khỉ - chắc là do nó quá cheo leo, hiểm trở chỉ có loài con cháu của Hầu vương Tôn Ngộ Không sinh sống và qua lại nơi đây (?). Nghe nói đã có rất nhiều xe lăn xuống vực từ độ cao hàng nghìn mét. Cổng Trời cũng còn được gọi là Túi Bom bởi chỉ mấy chục cây số đường đèo đã trở thành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ. Đường thì độc đạo, hiểm trở, khi bị đánh chẳng biết tránh vào đâu. Nghe nói ở đây hàng đêm phải hứng chịu hàng chục cuộc không kích của đủ loại máy bay trong đó có cả B52. Chả biết thực hư thế nào nhưng nhìn lên chỉ thấy những sườn núi lở như thời đồ đá... Mới nghe nói thôi đã thấy sởn gai ốc.

Những tin đồn thổi về Cổng Trời làm cho không khí trong đại đội khá nặng nề. Hiển bảo Thận:

- Nghe thì ghê người đấy nhưng cũng chỉ "tương đối" thôi. Tuy nhiên ta cũng phải quán triệt thêm cho anh em vững tâm mà vượt chứ run tay thì đúng là có nhiều chỗ không qua được đâu. Điều quan trọng là phải chuẩn bị xe cho thật tốt, đặc biệt là cơ cấu hãm và cơ cấu chuyển hướng. Nước cũng phải dự trữ cho nhiều vào, đã lên đèo là không có chỗ nào lấy nước được đâu, lúc mà nhiệt độ động cơ lên cao không có nước bổ sung thì gay đấy.

Đại đội trưởng Thận mở sổ tay gạch mấy cái đầu dòng rồi bảo Đạt gọi chính trị viên, đại đội phó kỹ thuật và hai trung đội trưởng lên hội ý ngay.

Đợi mọi người có mặt đầy đủ Thận vào ngay vấn đề:

- Đêm nay ta sẽ phải vượt Cổng Trời. Chắc các đồng chí đều đã nghe nhiều về nó. Nói gì thì nói đây cũng là một trọng điểm rất khó khăn nên chúng ta phải tiến hành ngay một số biện pháp cần thiết. Trước hết, cần tiến hành quán triệt cho anh em, nhất là anh em lái xe, phải bình tĩnh, tự tin, không sợ nhưng cũng không được chủ quan. Hai là, phải chuẩn bị thật tốt về mặt kỹ thuật. Tôi đề nghị anh Đề phải trực tiếp đến từng xe để kiểm tra, đặc biệt chú ý cơ cấu hãm và cơ cấu chuyển hướng. Ba là, mỗi xe phải dự trữ ít nhất hai bịch nước sạch để sẵn sàng bổ sung cho hệ làm mát, mà phải sử dụng hết sức tiết kiệm đấy. Bốn là, đến những đoạn khó đi tất cả mọi người phải xuống xe, chỉ mình lái xe ở lại, trưởng xe phải đi trước dò đường và chỉ huy xe vượt qua. Mọi công việc chuẩn bị phải xong trước trưa nay, sau khi ăn cơm cho anh em ngủ nhiều một chút để đêm còn thức. Chúng ta phấn đấu trong đêm nay phải vượt được đèo, không để phải giấu xe giữa đèo. Các anh còn ý kiến gì nữa không?

Không ai có ý kiến gì. Những nét mặt căng thẳng đã giãn ra được phần nào.

Vị trí trú quân hôm nay không được thuận lợi như hôm trước làm cánh pháo hai vất vả hơn nhiều. Bọn hắn phải mang đồ nghề lần theo những khe cạn xuống sâu hàng trăm mét mới có nước để nấu cơm. Cũng may đang là mùa khô, những cành cây bị bom đánh tướp ra khô nỏ như bó diêm vừa châm vào đã bén cháy không một sợi khói.

Đạt và Hợp bắc bếp cạnh nhau. Đầu tiên là rang gạo cho vào bi đông rồi bắc nồi đun nước uống. Trong lúc đợi nước sôi Đạt và Hợp rủ nhau đi kiếm rau rừng. Vận dụng hết những kiến thức "tờ ây" Định truyền cho nhưng không có kết quả, chẳng có rau dưa gì trên cái sườn dốc mà bom đạn đã cày đi xới lại không biết bao nhiêu lần. Hợp bảo Đạt:

- Hay mày trông bếp tao về lấy đậu xanh nấu canh cũng đỡ xót ruột.

Đạt đồng ý. Hợp hăng hái leo ngược cái khe cạn gần như dựng đứng về xe.

Ngồi canh chừng hai cái bếp tự nhiên Đạt buồn ngủ rũ ra. Tuy được phép ngủ trong khi hành quân nhưng mấy đêm nay nó ngủ được rất ít. Xe thì xóc, lúc thì lắc bên này, lúc lại ngoặt bên kia, tiếng máy nổ ầm ầm, cái buồng chiến đấu hẹp vanh vanh lại lủng củng ba lô, lương khô, súng đạn... làm sao mà ngủ được. Nó lơ mơ rồi dần chìm vào giấc ngủ. Nó mơ được trở về miền quê Diễn Châu êm đềm, xinh đẹp của nó.

Trên hai cái bếp đang cháy nỏ, hai xoong nước bắt đầu sôi. Những thanh củi khô vẫn cháy vô tư. Nước trào ra làm tắt ngóm cả hai bếp. Những thanh củi đang cháy rừng rực bị giội nước bốc khói nghi ngút. Một cột khói trắng bốc lên càng ngày càng đậm.

Đạt chỉ choàng tỉnh khi có tiếng người xôn xao. Mắt nhắm mắt mở nó cũng không hiểu mình đang ở đâu. Từ trên sườn dốc, Hợp lao như bay xuống bẻ vội một cành cây quạt thật lực vào làn khói, miệng hét:

- Rút từng thanh củi ra dúi mạnh xuống đất!

Đạt làm theo như cái máy, cũng may đất ở đây mềm, nó dúi thanh củi nào vào là tắt được ngay. Một lát sau cột khói loãng dần. Trên đầu thằng OV10 đang vè vè vòng lại. Hai thằng vừa thở vừa nhìn nhau. Hú vía.

Buổi chiều. Trong cuộc hội ý theo thường lệ, sau khi nghe các trung đội trưởng và đại đội phó Đề báo cáo tình hình công tác chuẩn bị, đại đội trưởng Thận kết luận:

- Có một vấn đề đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần song vẫn không thừa, đó là vấn đề chấp hành kỷ luật giữ bí mật trong hành quân cũng như khi ở khu trú quân. Sự việc sáng nay cho chúng ta thấy không được chủ quan một chút nào. Cũng may dạo này không quân địch hoạt động ít, chứ nếu không thì không biết tôi và các anh còn ngồi đây được với nhau hay không? Còn đêm nay, theo báo cáo của các đồng chí thì công tác chuẩn bị của các xe đã làm tốt. Tôi nhắc lại: những đoạn khó đi phải cho bộ đội xuống, trưởng xe đi trước đầu xe để chỉ huy. Còn bây giờ về chuẩn bị ăn cơm, mười bảy giờ sẵn sàng xuất phát.

Trung đội trưởng Tiến bảo pháo thủ Tình:

- Cho anh em trong xe xuống xe tôi sinh hoạt.

Đạt biết lỗi nên buồn lắm. Cơm chiều đã nấu xong, nó ngồi thu lu trong buồng chiến đấu dấm dứt khóc. Tình, Bình cùng xúm lại động viên mãi nó mới chịu đi về phía xe 381.

Cuộc họp của trung đội bắt đầu bằng việc phổ biến nhiệm vụ hành quân đêm nay, những điểm cần chú ý trong quá trình hành quân, nhiệm vụ cảnh giới của các xe. Khi mọi người đã rõ nhiệm vụ, trung đội trưởng Tiến mới nhắc đến sự cố buổi sáng. Lúc đầu anh cũng định làm căng nhưng nhìn đôi mắt sưng húp của Đạt anh thấy thương thương nên chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng:

- Sự việc sáng nay các đồng chí đều đã biết. Rất may là dạo này không quân địch hoạt động ít chứ nếu không thì không biết sẽ dẫn đến đâu. Một lần nữa tôi đề nghị các đồng chí cần thận trọng hơn vì chắc chắn rằng càng đi vào trong địch càng hoạt động mạnh hơn. Còn một vấn đề nữa các đồng chí cũng cần chú ý là việc giữ gìn sức khoẻ: theo quy định của đại đội, trong khi hành quân ngoài lái xe và trưởng xe bắt buộc phải thức, các thành phần khác được phép ngủ nên các đồng chí cũng phải tranh thủ ngủ cho đỡ hại sức, cuộc hành quân còn dài.

Đạt nhìn trung đội trưởng đầy vẻ biết ơn, mặt mũi nó cũng bớt phần u ám.

Mười bảy giờ. Sương núi đã lan ra bảng lảng. Trên trời thằng "chỉ điểm" đã bay về phía Nam rồi mất hút. Đại đội trưởng Thận hạ lệnh xuất phát.

Trời tối dần, đường càng đi càng khó: những vách ta luy cao ngất như chỉ chực đổ ụp xuống đường, bên dưới là vực sâu hun hút. Đường hẹp chỉ vừa hai băng xích xe tăng, có chỗ đất mượn bị xích cào lăn ào ào xuống vực, những khúc cua tay áo cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Cánh lái xe lưng áo ướt đẫm mồ hôi, mắt căng ra nhìn đường, hai tay giật cần lái liên tục rồi lên số, xuống số. Bình lẩm bẩm văng tục:

- Mẹ kiếp! Đường với sá gì mà chỉ toàn bò số 1, số 2 thế này.

Không ngờ đại đội trưởng Thận nghe được, anh nhắc:

- Cứ giữ tốc độ thế thôi. Những đoạn đường hẹp nhớ bám sát bên ta luy dương nhé.

Đi được khoảng một giờ, lại một con dốc gần như dựng ngược hiện ra, đã thế thắt lại như cái cổ chai và cua gấp. Thận ra lệnh dừng xe cho mọi người xuống, anh dùng đèn pin đánh tín hiệu ra phía sau cho các xe biết rồi xuống xe hỏi Bình:

- Nhiệt độ dầu và nước làm mát thế nào?

Bình cúi nhìn bảng đồng hồ rồi nói:

- Đều lên trăm độ cả rồi nhưng chắc vẫn còn đi được.

- Thế thì đi tiếp. Tớ sẽ đi giữa đường, cậu cứ nhìn bóng áo trắng của tớ mà đi.

Thận cởi cái áo ngoài vứt vào cửa lái xe cho Bình. Bình đáp:

- Vâng ạ!

Phía trước Hiển cùng Tình, Đạt, Trang đang rảo bước. Trang bê một hòn đá, miệng nói:

- Xem chỗ này sâu không nhé!

Nói rồi cậu lăn hòn đá xuống, hòn nọ kéo hòn kia rào rào mãi không dứt. Trang lè lưỡi:

- Chắc phải vài trăm mét chứ không ít.

Hiển bảo:

- Theo tớ ước lượng thì chỗ này cao độ khoảng ba trăm mét. Chưa ăn thua gì đâu, đỉnh này ít ra cũng phải trên ngàn mét.

Cả bọn lắc đầu lè lưỡi.

Phía sau, theo cái bóng lờ mờ của đại đội trưởng, Bình cố căn cho xe đi đúng giữa đường, cậu ta luôn bám sát ta luy dương nên thỉnh thoảng lá chắn bùn lại va vào vách đá đánh "uỳnh" một cái. Bình ước tính độ dốc phải xấp xỉ ba mươi độ, không thế làm sao đi số 1 mà nhiệt độ động cơ cứ lên ầm ầm (!).

Lúc cánh đi bộ đã lên đến đỉnh đoạn dốc hẹp ấy xe tăng mới bò đến lưng chừng, mấy thầy trò ngồi nghỉ chân mãi xe mới lên đến nơi.

Phải mất đến ba lần xuống xe đi bộ mới tới đỉnh dốc. Thật lạ lùng, cứ tưởng đỉnh dốc phải chon von lắm hoá ra lại là một đoạn đường khá bằng phẳng và rộng rãi. Đội hình xe nép tạm vào rìa đường nghỉ giải lao và kiểm tra kỹ thuật để chuẩn bị xuống dốc. Trang và Đạt kéo nhau ra tận mép đường để nhìn xuống dưới nhưng chẳng thấy gì ngoài một màu mây, chúng lại lăn thử một hòn đá nhưng chỉ thấy cũng như lần trước - chẳng biết đâu là đáy.

Hoá ra những hình dung trước đây về chiều xuống của dốc Cổng Trời là sai bét cả. Ai cũng nghĩ chiều lên dốc như thế, hiểm trở như thế thì chiều xuống của nó cũng phải "tương đối". Nhưng không phải! Dốc Cổng Trời bên Tây Trường Sơn khá là dễ chịu so với nửa bên Đông, thoai thoải và ngắn ngủn, chắc dưới chân dốc là một cao nguyên với độ cao vài trăm mét trên mực nước biển.

Qua đỉnh dốc vài cây số, đội tiền trạm đã đón sẵn trên đường. Để vào khu trú quân hôm nay phải đi theo một con suối. Đang là mùa khô nên suối ít nước, lòng suối trơ ra những hòn đá đen bóng to nhỏ khác nhau nằm lổng chổng. Trời đã gần sáng, ai cũng muốn nhanh chóng đến chỗ giấu xe.

Xe 386 đã vào vị trí giấu xe xong. Cũng may đi theo đường suối nên không phải xoá vết xích. Mấy anh em nhanh chóng chặt cây bên suối thay cho đám lá ngụy trang đêm qua đã héo rũ. Đại đội trưởng Thận đi kiểm tra khu trú quân, đợi mãi vẫn không thấy ba xe đi cuối đội hình đến nơi, anh và chính trị viên phó Toàn phải dò dẫm lội bộ ra phía đầu đường. Té ra "thằng" 388 bị "trật xích".

Phăm phăm đi đến cạnh xe, bấm cái đèn pin đã bọc vải vào băng xích bị trật, cả Thận và Toàn đều ngạc nhiên: gần như cả băng xích đã bị trượt ra khỏi hàng bánh chịu nặng, vành răng bánh chủ động đâm thủng cả một mắt xích. Chính trị viên Đán, đại đội phó kỹ thuật Đề và lái xe mấy xe đi sau cũng đã có mặt từ nãy đang lúi húi xem xét.

Thận hỏi Đề:

- Ông Đề này, sao nó lại trật đến mức này được?

Đề ngước bộ mặt đen thui dầu mỡ lên trả lời:

- Chắc là do xích bị chùng quá, khi vào đường suối lại chuyển hướng gấp nên đá, cát chèn vào băng xích nhiều, đội hàng bánh chịu nặng lên làm vú xích trật ra ngoài không định vị cho băng xích được. Trong khi đó lực kéo của động cơ rất mạnh nên bánh chủ động vẫn quay và đâm thủng cả mắt xích.

Toàn thì lẩm bẩm:

- Đời lái xe bao nhiêu năm của tôi cũng chưa bao giờ thấy trường hợp nào bị nặng như thế này.

Thận hỏi tiếp:

- Sao không hạ xích xuống mà cắt ra?

Đề ngán ngẩm:

- Bây giờ nó trật ra đến mức này thì hạ làm sao nổi. Lúc nãy đã nối cần tăng lực cho cả chục người vào mà có điều được xích xuống đâu!

Thận dồn tiếp:

- Thế bây giờ phải làm thế nào?

Đề ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Phải bằng mọi cách cắt được xích ra rồi nối lại thôi.

Quay qua hội ý với chính trị viên mấy câu, đại đội trưởng Thận quyết định:

- Chỗ này cũng tương đối kín rồi nên xe 388 cứ để đấy, các xe khác tìm chỗ giấu xe quanh đây rồi cho bộ đội nghỉ. Ngày mai tìm cách khắc phục tiếp.

Tất cả tản nhanh về các xe. Tiếng động cơ rộ lên một lúc rồi im hẳn trả lại vẻ tĩnh lặng của cánh rừng. Trời cũng vừa sáng.

Hôm nay, đại đội nghỉ lại để làm công tác kỹ thuật và cũng để khắc phục vụ "trật xích" của xe 388. Các xe tự tiến hành bảo dưỡng "cấp 1", còn tổ kỹ thuật tập trung ở xe 388.

Mới đầu không ai nghĩ sự việc lại phức tạp đến như vậy. Kỳ cạch đến gần hai tiếng đồng hồ hết tập trung người điều xích đến thay nhau quai búa tạ cong cả tống chốt... mà băng xích vẫn trơ trơ. Từ phía thượng nguồn Hiển lò dò đến, đứng nhìn cả đám người đang hì hục, bảo:

- Đề này, các cậu thử lấy bộc phá đánh xem có đứt được không?

Đề ngạc nhiên:

- Báo cáo thủ trưởng tôi chưa làm thế bao giờ.

Hiển cười:

- Chưa làm bao giờ thì bây giờ làm! Hồi bọn tớ đi đánh Làng Vây đã phải dùng "sách" ấy đấy. Nhưng hồi đó là xe K3, xích nó mảnh nên chỉ cần một bánh hai lạng rưỡi là đứt. Còn xe này chắc phải dùng nửa cân.

Đại đội phó kỹ thuật Đề "bán tín, bán nghi", quả thật chẳng có giáo trình, sách vở nào dạy cách làm như thế. Hiển vẫn nhẹ nhàng:

- Các cậu cũng đã giở hết "bài" rồi còn gì? Thôi, cứ nghiên cứu đi xem còn cách nào thì giở hết ra. Cùng lắm mới phải dùng bộc phá - Nói rồi ông tiếp tục đi về phía xe 390.

Mất thêm nửa giờ cật lực nữa mà chẳng ăn thua gì, băng xích trật vẫn "trơ như đá, vững như đồng". Lái xe Lược mếu máo:

- Làm thế nào bây giờ "đại phó"?

Đề mím môi, quả quyết:

- Đánh bộc phá!

Cả tổ kỹ thuật và thành viên xe 388 im thin thít, chưa ai dạy họ làm cái việc dùng bộc phá đánh đứt xích này bao giờ. Mà ngay cả việc lắp kíp nổ, châm dây cháy chậm đánh bộc phá họ cũng chưa được làm thật vì từ ngày vào bộ đội chỉ chăm chăm học bắn, học lái trên tăng chứ các khoa mục của bộ binh ít ai chú ý đến. Đề ra lệnh:

- Cậu Độ đi mời thủ trưởng Hiển về đây, còn Tùng gặp anh Toàn nhờ anh ấy dẫn vào chỗ đơn vị công binh xin họ mấy cân bộc phá và nhờ người ra giúp đỡ. Nhanh lên đấy!

Từ phía xe 390 đi lại, nhìn vẻ mệt mỏi của Đề, Hiển cười:

- Hết "vở" rồi hả?

Đề nhăn nhó:

- Đúng là hết rồi thủ trưởng ạ.

Hiển động viên:

- Đừng lo, tớ nghĩ là sẽ giải quyết được thôi.

Một lúc sau Tùng dẫn hai chiến sĩ công binh tới, Hiển nói sơ qua tình hình và yêu cầu anh em công binh dùng bộc phá đánh giúp cho đứt xích. Hai chàng công binh cũng ngạc nhiên chẳng kém vì họ chưa bao giờ làm công việc tương tự. Hiển phải hướng dẫn cụ thể vị trí đặt bộc phá và khuyến khích:

- Các cậu cứ làm đi, không sao đâu mà.

Nửa cân bộc phá đã được buộc vào mặt dưới mắt xích nằm giữa bánh chịu nặng cuối cùng và bánh chủ động. Hiển bảo mọi người tản ra xa tìm chỗ trú ẩn rồi bảo hai chiến sĩ công binh:

- Phát hoả đi!

Hai chiến sĩ công binh lúi húi châm dây cháy chậm rồi chạy vào chỗ nấp, thằng Luyến "con gái" chúi vào một hốc đá, hai tay bịt chặt lỗ tai.

"Ầm"! Một tiếng nổ lớn dội lên nghe như tiếng pháo 100 ly nhưng đanh hơn; cát, đá vụn và nước bay tứ tung. Đợi cho đám khói loãng ra mọi người mới chạy lại phía đuôi xe, băng xích vẫn không đứt. Đại đội phó Đề săm soi mấy mắt xích và reo lên:

- Chưa đứt nhưng mắt xích đã rạn nứt thủ trưởng ạ!

- Thế thì đánh tiếp nửa cân nữa! - Hiển quyết định.

Mọi thao tác được lặp lại và lần này kết quả khá mỹ mãn, mắt xích không bị đứt hẳn ra nhưng vết nứt đã lớn hơn làm băng xích chùng xuống một ít, xích được hạ xuống và cắt ra khá dễ dàng, chỉ sau hơn một giờ nữa mọi việc đã đâu vào đấy. Đại đội phó Đề và cả nhóm thở phào nhẹ nhõm. Để tổ kỹ thuật và kíp xe làm nốt phần việc còn lại, anh đi dọc theo đội hình cả đại đội nhắc các xe điều xích cho đúng tiêu chuẩn, lại ghé qua đơn vị công binh xin thêm mấy cân bộc phá, chục cái kíp nổ và ít dây cháy chậm.

Chiều. Buổi hội ý thường lệ của cán bộ vẫn diễn ra bình thường. Chính trị viên phó Toàn báo cáo:

- Theo bên công binh cho biết từ hôm nay ta sẽ đi theo Đường 18 thuộc sự quản lý của binh trạm 33. Đường 18 dài khoảng một trăm năm mươi cây số và sẽ gặp Đường 9 ở phía đông thị trấn Bản Đông. Về tình hình đường sá nhìn chung tương đối tốt, chỉ có điều hơi hẹp. Đặc điểm chủ yếu của đoạn đường này là có rất nhiều đường nhánh, nếu không cẩn thận sẽ bị lạc. Ngoài ra có một số đoạn sẽ đi trong đường "ống", nghĩa là đường mở trong rừng già và phía trên vẫn còn tán cây che phủ, có thể đi được ban ngày. Đáng lưu ý là từ hôm nay ta sẽ đi vào khu vực khan hiếm nước của Tây Trường Sơn nên đề nghị các xe dự trữ đủ nước. Hết!

Hiển và Thận chăm chú xem bản đồ, Thận khoanh tròn hai điểm: một ở phía bắc Đường 9 và một ở quãng giữa cung đường, nơi có vẽ một con suối cạn, sau đó anh ngẩng lên:

- Căn cứ vào thông báo của bên công binh mà đồng chí Toàn vừa báo cáo tôi quyết định sẽ đi hết Đường 18 trong hai ngày đêm, mỗi đêm chúng ta sẽ đi khoảng năm mươi cây số, điểm nghỉ ngày mai ở phía bắc Tà Khống khoảng năm cây số, điểm nghỉ ngày tiếp theo là bắc Đường 9. Sở dĩ quyết định chặng hành quân hơi dài vì có những đoạn đường ống chúng ta có thể tranh thủ chạy thêm ban ngày. Có hai vấn đề các đồng chí hết sức chú ý là: dự trữ cho đủ nước và giữ vững cự ly hành quân tránh để bị lạc. Ý kiến các đồng chí thế nào?

Trung đội trưởng Nam nói:

- Tôi hoàn toàn nhất trí với ý định của đại đội trưởng. Riêng về dự trữ nước, ngoài hai bịch nhựa hai mươi lít ta có thể dự trữ thêm bằng túi ni lông, vỏ bao gạo Trung Quốc, chỉ cần đan một hai cái sọt tre làm cốt mỗi xe cũng sẽ có thêm vài chục lít nước nữa.

Ông Đính gật gù:

- Sáng kiến hay đấy. ở đây đang nhiều nước cứ đưa lên cho xe nó chở.

Đại đội trưởng Thận kết luận:

- Nếu không ai có ý kiến gì thì cứ thế mà thực hiện.

Vẫn nằm trong đoạn đường suối được cây hai bên bờ che tương đối kín nên mới năm giờ chiều đại đội đã được lệnh xuất phát. Đường suối đã hẹp, lại nhiều đá to nên tốc độ hành quân hơi chậm, mất thêm bốn, năm cây số nữa con đường mới ra khỏi suối và đi vào những triền đồi nối tiếp nhau.

Địa hình ở đây tương đối bằng phẳng, những con dốc vừa phải và không hiểm trở lắm, chỉ phải tội bụi. Đang là mùa khô, đất mặt đường bị hàng triệu lượt bánh xe lăn qua tơi vụn ra như bột bây giờ bị xích xe tăng cuộn lên chui qua những chỗ sứt mẻ của lá chắn bùn như táp vào mặt lái xe.

Chạy cuối đội hình, xe 390 là xe hứng bụi nhiều nhất, đứng trên cửa trưởng xe có lẽ Đán cũng không chịu nổi nên bảo Tập giảm tốc độ để tăng giãn cách với xe trước. Liếc nhìn đồng hồ thấy nhiệt độ nước cũng đã lên khá cao, Tập đoán nước trong hệ làm mát đang thiếu nên anh cho xe dừng hẳn lại để bổ sung. Đợi cho áp suất trong hệ làm mát giảm đi một chút anh đổ nước, đậy nắp buồng truyền động rồi vào xe nổ máy, kim đồng hồ từ từ nhích xuống vạch tám mươi độ, Tập vào số rồi cho xe chạy.

Biết rằng đội hình đại đội đã đi khá xa, Tập cho xe chạy với tốc độ cao. Vốn là một tay lái cứng của đại đội, Tập rất tin vào khả năng của mình và anh nghĩ rằng chả mấy chốc sẽ lại phải hít bụi của chúng nó. Nhưng quái lạ, chạy mãi, chạy mãi vẫn không bắt kịp đội hình. Tập nhủ thầm trong bụng: "Không biết hôm nay mấy thằng lái xe ăn gì mà chạy hăng thế?", rồi lại tăng ga cho xe chạy nhanh hơn, mấy chiếc ô tô ngược chiều cứ nép hẳn vào bên đường mà tránh cho xa.

Thêm gần ba mươi phút nữa vẫn không thấy tăm hơi gì, Tập gọi chính trị viên:

- Anh Đán ơi! Hình như mình bị lạc rồi anh ạ!

Quy định hành quân là trưởng xe phải thức cùng lái xe nhưng với những tay lái như Tập, Bình, Hoả thì họ có thức cũng chẳng phải làm gì nhiều. Đán đang ngủ gà ngủ gật trên ghế trưởng xe, thấy tiếng của Tập trong ống nghe anh giật mình hỏi lại:

- Cậu nói sao?

- Hình như mình bị lạc rồi anh ạ! - Tập siết chặt ống nói nhắc lại.

Đán tỉnh hẳn ngủ. Đúng rồi, từ lúc dừng lại bổ sung nước đến đây đỡ bụi hẳn, Đán gà gật ngủ nên cũng chẳng chú ý gì đến đường sá. Chưa biết sẽ phải làm gì anh hạ lệnh cho Tập:

- Dừng lại!

Tập chọn một chỗ đường rộng nép hẳn vào một bên rồi dừng lại. Thấy xe dừng đột ngột Đề, Tráng, Nguyên, Độ cùng lò mò dậy. Theo bản năng nghề nghiệp Đề hỏi ngay:

- Xe bị làm sao à?

Đán nói nhát gừng:

- Xe mình bị lạc đội hình rồi thì phải.

Cả mấy cặp mắt cùng trố lên, Đề lạc giọng:

- Lạc! Mà lạc thế nào được?

Từ phía trước một cái ô tô đang lừ lừ bò lại. Đề chạy hẳn ra giữa đường, cái đèn pin trong tay vẩy xuống làm động tác dừng xe. Xe dừng lại, từ trên ca bin vọng xuống tiếng gắt:

- Sao thế? Hôm nay có thằng nào đánh đâu mà chặn lại. Xin thuốc hả? Không có đâu! Từ trong kia ra có bao nhiêu cho chúng nó hết rồi.

Bám lên cửa ca bin Đề hỏi:

- Không xin thuốc đâu. Này cho tớ hỏi thăm từ trong ấy chạy ra cậu có gặp đoàn xe tăng nào đang đi vào không?

Người lái xe thản nhiên:

- Không! Hôm nay binh trạm ưu tiên cho xe tăng đi đường số 1 nên bọn tôi mới phải đi sang bên này đấy chứ.

- Thế đây là đường số mấy? - Đề gấp gáp.

- Thực ra tôi cũng không biết, thấy cánh công binh họ bảo đi đường nào thì đi đường ấy thôi. Mà bố xuống đi để tôi còn đi chứ, sắp sáng rồi còn gì.

Đề nhảy xuống. Chiếc ô tô lại lừ lừ bò đi để lại đằng sau một đám bụi dài.

Cả xe xúm lại, đại đội phó Đề khẳng định:

- Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là xe ta đi lạc rồi.

Mấy khuôn mặt trẻ nghệt ra, lo sợ. Mà sợ thật chứ, đây dù sao cũng là chiến trường rồi, một thân một mình biết làm thế nào.

Nhìn mấy cái mặt thẫn thờ của đám lính trẻ, Đán bật cười:

- Sợ cái gì chứ! Mọi con đường đều dẫn đến chiến trường mà. Nói đùa vậy thôi, không có gì phải sợ, trước sau con đường này cũng sẽ gặp các con đường kia thôi. - Anh giải thích - Để tăng lưu lượng vận tải và đề phòng khi máy bay địch ngăn chặn, ở những chỗ cho phép công binh sẽ mở nhiều tuyến đường song song, chắc chắn là hiện nay xe ta đang đi trên một con đường song song với toàn đại đội, tớ tin rằng chẳng mấy nữa sẽ gặp lại nhau thôi. Để tớ thử lên đài liên lạc xem sao.

Nghe chính trị viên giải thích mấy cậu lính trẻ mới bớt phần lo lắng. Chui vào ghế trưởng xe, Đán bật đài về chế độ "đơn công", cả xe xúm lại nghe ngóng, con Ních cũng dỏng tai lên. Tuy nhiên mọi cố gắng đều không có kết quả.

Vẫn chỉ có những tiếng lạo xạo trong tai nghe, Đán bỏ mũ công tác ra:

- Không liên lạc được, chắc là vướng núi. Thôi, không sao đâu. Bây giờ cũng gần sáng rồi, Tập cho chạy thêm ít nữa rồi tìm chỗ giấu xe!

Tập cho xe chạy thêm khoảng năm cây số nữa thì trời hửng sáng, thấy một cái khe cạn anh rẽ vào cách đường tuyến hơn chục mét rồi dừng xe, tắt máy.

Đán hô mọi người xoá vết xích, ngụy trang xe rồi giục:

- Tranh thủ ngủ đi một lúc đã rồi tính sau.

Mọi người lục tục đi ngủ. Ngả lưng trên ghế lái, người mệt lả nhưng Tập không sao nhắm mắt được, anh tự trách mình đã không chú ý quan sát các dấu vết trên đường.

Trời đã gần sáng, gặp đội tiền trạm ra đón đại đội trưởng Thận lệnh cho đội hình dừng lại nghỉ. Các xe khẩn trương tìm chỗ giấu xe, xoá vết xích và ngụy trang. Mọi việc đã quen, điểm dừng chân lại có rừng cây che chắn nên chỉ mấy phút sau công việc đã xong. Pháo hai Đạt mau mắn mang hai cái võng xuống cạnh xe mắc cho Hiển và đại đội trưởng. Kiểm tra sơ bộ thấy đội hình trung đội Một đã ổn, Thận quay lại võng, Hiển đang ngồi trên võng như đang chờ anh. Thận vui vẻ:

- May quá anh nhỉ, đêm qua không gặp trở ngại gì nên mình đi cũng được kha khá đường, chắc phải độ hơn năm mươi cây.

Hiển cũng phấn khởi:

- Cứ thế này ta sẽ thực hiện đúng kế hoạch đấy. Thôi, tranh thủ chợp mắt đi một lúc.

Hai anh em vừa gà gà ngủ thì có tiếng lao xao. Nhổm phắt dậy Thận hỏi:

- Cái gì đấy?

Nguyễn Ngọc Nam đã đứng ngay trước mặt, lắp bắp nói không ra tiếng:

- Báo... báo cáo anh, không thấy xe 390 đâu.

Hiển cũng đã nhổm dậy, Thận giục:

- Nói lại đi xem nào.

Nam đã bình tĩnh hơn:

- Báo cáo các anh, trung đội Hai đã giấu xe, ngụy trang xong nhưng chờ mãi không thấy xe 390 đâu cả.

Đại đội trưởng Thận dồn:

- Cậu có lên đài liên lạc với "nó" không?

- Báo cáo anh, chờ một lúc không thấy xe đến tôi đã lên đài gọi mấy lần mà không liên lạc được.

Ông Hiển lẩm bẩm:

- Địa hình này thì đài xe tăng khó liên lạc lắm.

Quay lại phía Hiển, Thận hỏi:

- Có phải cho người quay lại tìm không anh?

Hiển nhát gừng:

- Không cần đâu! Nếu vì lý do kỹ thuật thì xe ấy đã có anh Đề và tổ thợ ở đấy rồi. Nhưng theo tôi chắc là các cậu ấy đi nhầm đường thôi. Đoạn này theo thông báo của công binh có đến ba, bốn trục đường song song chứ ít đâu. Bây giờ các cậu cứ nghỉ đi đã, sáng mai ta cho người đi bộ quay lại vài cây, gặp thì tốt, nếu không ta sẽ cứ đi theo kế hoạch, nhất định các trục đường này sẽ có chỗ gặp nhau.

Nằm chập chờn trên chiếc võng cho đến lúc tia nắng mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu thẳng vào mặt thì Đán dậy, dụi mắt nhìn đồng hồ đã hơn tám giờ; quay qua lay Đề dậy, anh dặn mấy anh em trong xe:

- Bây giờ các cậu ở nhà làm kỹ thuật và nấu cơm, tớ với anh Đề vào chỗ công binh một tý. Tráng đi với bọn tớ!

Với tay lấy khẩu AK trong vành tháp pháo khoác vào người, pháo thủ Tráng đi theo chính trị viên và đại đội phó.

Pháo hai Nguyên pha cho Tập một ca sữa bột rồi bảo Độ:

- Mày ở nhà làm xe với anh Tập. Tao đi nấu cơm đây.

Nói rồi cậu xách cái bao tải dụng cụ cấp dưỡng và túi gạo xuống xe men theo cái khe cạn, cậu hỉ hả nghĩ bụng: "Có khe thế nào cũng có nước, lại có rau, có khi lại còn bắt được cá nữa chứ". Như thường lệ, con Ních bám theo Nguyên như một vệ sĩ trung thành, cứ chạy vài bước nó lại gí mũi vào một gốc cây, lùm cỏ rồi cào cào, bới bới có vẻ phởn chí lắm. Đi mãi chẳng thấy giọt nước nào, lại cũng chẳng có rau, Nguyên tặc lưỡi: "Khe với suối gì mà khô không khốc thế này! Hôm nay lại thịt hộp với canh đậu xanh thôi, mà lại phải về xe lấy nước nữa chứ". Nó quẳng cái túi gạo và bao dụng cụ cấp dưỡng cạnh mấy hòn đá rồi bảo con Ních:

- Mày ở đây trông đồ nhé!

Không biết có hiểu hay không nhưng Ních ta có vẻ mừng rỡ lắm, nó hất hất cái đầu rất ngộ như muốn bảo Nguyên cứ yên tâm.

Nguyên rảo bước đi về phía xe, vừa trông thấy nó lái xe Tập đã réo:

- May quá! Chú về đúng lúc, hai anh em điều xích mệt muốn chết mà không quay nổi.

Miệng làu bàu rằng phải đi nấu cơm không muộn nhưng Nguyên cũng xúm vào điều xích với Tập và Độ. Phải đến mười lăm phút mới xong, Nguyên tất tả xách cái bịch nước đã vơi quá nửa và túm đậu xanh đi về phía chỗ định đặt bếp.

Mọi thứ vẫn ở đó nhưng không thấy con Ních đâu cả, Nguyên tặc lưỡi: "Chắc lại đuổi theo con gì đây", rồi nhanh chóng nổi lửa nấu cơm. Trời khô, củi khô nỏ cháy đùng đùng không một sợi khói, chẳng mấy chốc nước đã sôi, cậu dồn đầy hai bi đông xe nước uống rồi chuyển sang nấu canh và nấu cơm. Trong lúc chờ cơm chín, Nguyên chợt nhớ đến con Ních:

- Quái lạ! Mọi hôm nó cũng đi nhưng có bao giờ đi lâu thế này đâu? - Rồi Nguyên cất giọng gọi to - Ních, Ních, về ngay!

Chỉ có tiếng vọng của chính mình dội về, tuyệt nhiên không thấy tiếng sủa của con Ních đáp lại như mọi khi. Nguyên lầm bầm chửi con Ních rồi tiếp tục men theo cái khe cạn đi sâu vào rừng, vừa đi vừa gọi con Ních liên hồi nhưng vẫn không thấy tăm hơi. Càng đi sâu rừng càng rậm, những cây cổ thụ thân to hai, ba người ôm mới xuể, ngáng chân cậu là các loại dây leo trông như những con rắn khổng lồ, dưới chân lớp lớp lá khô vỡ ra rào rạo. Bỗng Nguyên giật mình đánh thót: "Hay là ở đây có thú dữ và con Ních đã bị bắt đi", bất giác cậu đưa tay ra sau nhưng không có súng, Nguyên quay người phi nước đại về phía xe.

Đang ngồi trên buồng truyền động thấy Nguyên hớt hải chạy về, Tập đùa:

- Mày bị ma đuổi à?

Nguyên hổn hển:

- Con... con... Ních mất rồi, bị... bắt rồi!

Tập ngạc nhiên:

- Ai bắt?

Nguyên đã trấn tĩnh hơn:

- Không biết! Nhưng em tìm nó gần nửa tiếng rồi không thấy.

- Được! Độ trông xe để tao đi với Nguyên nhớ! - Nói rồi Tập cúi người vào trong xe lấy khẩu AK khoác vào người rồi đi cùng với Nguyên.

Nhưng rồi cuộc tìm kiếm vẫn không đem lại kết quả gì. Hai anh em gọi rát cả họng mà con Ních vẫn "biệt vô âm tín". Thấy đã gần đứng bóng Tập bảo Nguyên:

- Về đi! Có lẽ mất thật rồi.

Đi xuôi theo đường tuyến khoảng nửa cây, thấy con đường mòn, Đán bảo vào thử xem. Quả nhiên chỉ sau mươi phút đi bộ đã thấy thấp thoáng những mái lán dã chiến của đơn vị công binh. Người chỉ huy đơn vị công binh còn rất trẻ vồn vã đón khách:

- Chào các anh! Đi đâu mà lại qua đây thế này?

Đán bắt tay người chỉ huy công binh:

- Bọn tôi ở xe tăng hành quân qua, định vào chỗ các anh hỏi đường một chút.

Nghe nói đến xe tăng người chỉ huy công binh tươi hẳn nét mặt:

- Ôi! Quý hoá quá. Mời các anh vào trong này.

Mái lán đơn sơ nhưng bên trong xem chừng đàng hoàng ra phết, chỉ bộ bàn ghế ghép bằng tre, anh đon đả:

- Mời các anh ngồi. Ta uống nước đã.

Chẳng đợi anh chàng công binh rót nước Đán vào đề luôn:

- Đêm qua chúng tôi hành quân từ chân Cổng Trời vào, xe tôi đi sau nên bị lạc thì phải, đi mãi mà không đuổi kịp đội hình.

Người chỉ huy công binh bật cười:

- Đúng là các anh bị lạc rồi. Theo thông báo của trên chúng tôi đã ưu tiên dành cho xe tăng đi tuyến số 1 là tuyến ngắn nhất, còn đây là tuyến tránh số 3 cơ.

Thấy vẻ lo lắng bồn chồn hiện rõ trên mặt anh cán bộ xe tăng, người chỉ huy công binh cười rất tươi:

- Nhưng các anh không việc gì phải lo, các tuyến đường tránh rồi đều sẽ gặp nhau tại một điểm nào đó, chỉ khoảng hơn chục cây số nữa là tuyến tránh số 3 này sẽ gặp lại tuyến số 1 thôi.

Vẻ lo âu trên mặt mấy anh lính xe tăng đã giảm bớt, anh công binh lại cười:

- Sở dĩ phải mở nhiều tuyến đường như thế là vì có những trọng điểm địch đánh rất dữ dội và dễ bị tắc đường, mỗi trọng điểm như thế chúng tôi phải mở thêm hai, ba tuyến đường tránh để trường hợp tuyến này bị tắc đã có tuyến khác.

Đán tỏ vẻ khâm phục:

- Thế mới biết tại sao nó đánh dữ như vậy mà con đường tiếp vận không lúc nào tắc.

Anh chỉ huy công binh rót thêm bát nước chè rừng rồi lại cười:

- Các anh đi đợt này thế là may lắm đấy, từ khoảng một tuần nay cường độ hoạt động của không quân Mỹ giảm đi rất nhiều, chắc là đang mải lo đối phó ở Quảng Trị, chúng tôi cũng nhàn đi bao nhiêu.

Quay trở lại chủ đề chính Đán hỏi:

- Thế đêm nay chúng tôi phải đi như thế nào?

- Các anh cứ đi thẳng, ở chỗ tuyến đường số 3 gặp đường số 1 chúng tôi có một tổ công binh thường trực, hỏi anh em ở đấy các anh sẽ biết đội hình đã đi qua hay chưa.

Đán chìa tay bắt tay người chỉ huy công binh:

- Cảm ơn anh! Thế mà chúng tôi lo quá. Giờ chúng tôi phải về đây!

Trời chưa tối hẳn Đán đã lệnh cho xe chạy. Vừa lùi ra khỏi cái khe cạn lập tức Tập tăng tốc độ tối đa, chiếc xe tăng phăm phăm lao tới để lại đằng sau một luồng bụi dài. Hai tay giữ chặt cửa trưởng xe, Đán lắc đầu nghĩ bụng: "Chắc muốn bù lại lỗi lầm đêm qua đây", nhưng xóc quá không chịu nổi anh hét vào ống nói:

- Tập! Giảm tốc độ! Chạy vừa vừa thôi chứ!

Như chợt tỉnh cơn mê Tập giảm chân dầu, chiếc xe chạy êm ái hơn.

Sâm sẩm tối gặp một ngã ba, thấy cái chòi gác của công binh ngay cạnh đường Tập cho xe dừng lại sát vào một bụi cây, Đán và Đề nhảy vội xuống xe tiến lại cái chòi. Người chiến sĩ công binh niềm nở:

- Chào các anh! Sao chạy sớm thế?

Đưa tay bắt tay người chiến sĩ công binh trong chòi Đán hỏi:

- Ông trực ở đây đã thấy xe tăng đi qua chưa?

Người chiến sĩ công binh tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Xe anh chính là xe đầu tiên đấy. Tôi đang phân vân không hiểu sao hôm nay các "bố" lại chạy sớm thế?

Đán vẫn nửa tin nửa ngờ:

- Thế hôm nay sẽ có xe tăng qua đây à?

Người chiến sĩ công binh càng ngạc nhiên:

- Đúng thế! Chúng tôi được thông báo hôm nay sẽ có một đơn vị xe tăng hành quân qua. Thế anh không phải là xe tăng à?

Đúng lúc đó chiếc "Vọt tiến" của đội tiền trạm xuất hiện, Đán mừng quá chạy ra giữa đường chặn xe. Toàn nhảy xuống, Đán ôm chầm lấy người cấp phó của mình như đã xa nhau từ lâu lắm. Đến lúc này cả xe mới thở phào nhẹ nhõm.

Chừng ba mươi phút sau đã nghe tiếng động cơ xe tăng đang tiến lại gần. Trong rừng chiều chạng vạng tiếng gầm rú của bảy chiếc động cơ 550 mã lực nghe thật hùng dũng. Vừa thu dọn các thứ trên tháp pháo xong thì xe đại đội trưởng Thận xuất hiện. Đán lại đứng ra giữa đường vẫy cái đèn pin lên lên, xuống xuống. Xe dừng, Thận nhảy xuống, bắt tay người đồng nhiệm của mình, anh nói:

- Anh làm tôi lo quá! Sáng nay cho người quay lại tìm chẳng thấy đâu.

Đán có vẻ biết lỗi:

- Các anh thông cảm. Cũng tại không quan sát kỹ đường nên bị lạc.

Xe 381 đã đến ngay phía sau, Đán giục:

- Thôi anh đi đi cho đỡ ùn đội hình.

Một lần nữa họ bắt tay nhau, Thận nhảy lên xe, chiếc xe lại nổ máy và chồm lên phía trước.

Chính trị viên Đán trở lại xe, anh trèo lên thành xe đứng cạnh Đề vẫy chào những người đồng đội thân thiết của mình. Sống với nhau đã lâu nhưng có lẽ ngày hôm nay họ mới cảm nhận hết độ sâu của tình đồng đội, đồng chí.

Lại một đêm nữa trôi qua bình yên, chỉ ở trọng điểm Tà Khống đội hình phải dừng lại chờ gần ba mươi phút vì có bom từ trường. Còn từ đó về sau tốc độ được bảo đảm, gần sáng cả đại đội đã đến vị trí trú quân theo kế hoạch.

Buổi tối, sau khi ra khỏi vị trí trú quân khoảng năm cây số, đội hình hành quân của đại đội bắt đầu vào Đường 9. Đang phải chạy trên những cung đường đèo dốc, đầy hố bom, ổ voi ổ gà nay được chạy trên đường quốc lộ lính ta sướng lắm, cứ cài số ba chạy hết chân dầu.

Con đường khá bằng phẳng và có nền đường tốt, chỉ tội lâu ngày không được duy tu nên nhựa mặt đường bị bong từng mảng lớn. Hai bên đường xác những chiếc xe tăng, xe thiết giáp M113 địch nằm rải rác như những minh chứng về trận đánh ác liệt cách đó gần một năm.

Với tầm quan trọng chiến lược, Đường 9 là một mục tiêu mà cả hai bên tham chiến đều muốn làm chủ. Đỉnh cao của tham vọng ấy chính là Chiến dịch Lam Sơn 719 của Mỹ và ngụy quân Nam Việt Nam. Tuy nhiên chúng đã thất bại nặng nề và các con đường tiếp vận của ta vào Nam vẫn ngày đêm thông suốt.

Vào Đường 9 được một lúc đoàn xe đi qua một thị trấn chỉ còn những ngôi nhà đổ nát, hoang phế, không một bóng người. Qua đó mấy cây số nữa đoàn xe rẽ vào Đường 23.

Đường 23 là con đường chạy hướng Bắc Nam dọc theo dải đồng bằng Nam Lào nên khá bằng phẳng và bị nhiều sông suối cắt ngang. Vùng này không nhiều rừng, trải dài bên đường là những đồi cỏ tranh mịn màng ngả rạp theo chiều gió. Cảnh trí sẽ thật đẹp nếu không có những hố bom dày chi chít như những vết lở loét trên thân thể con người.

Xe chạy suốt đêm trên những nẻo đường lầm bụi, vẫn không thấy máy bay địch ra ngăn chặn, dọc đường chỉ thấy công binh của ta và chị em thanh niên xung phong đang cần mẫn sửa chữa những chỗ đường hư hỏng. Gần sáng gặp đội tiền trạm, cả đại đội dừng lại giấu xe ở một đồi tranh xen kẽ những lùm cây lúp xúp.

Đêm tiếp theo đi trót lọt. Theo Đường 23 hơn ba mươi cây số nữa, đoàn xe đến sông Xê Băng Hiêng. Giữa mùa khô sông cạn nhưng ngầm quá hẹp nên bên công binh phải cho bộ đội đứng làm lộ tiêu sống.

Đợi cho đủ tám xe lên bờ, Thận lệnh cho tăng tốc độ nhưng mới đi được vài trăm mét thì xe 389 phát tín hiệu cầu cứu - xe bị sa lầy: một bên xích xe rệ hẳn xuống bên đường, xích càng cào mạnh đất càng lở nhiều làm xe nghiêng hẳn về một bên, bụng xe bị trệt xuống đất và băng xích quay một cách vô vọng, nếu không tổ chức cứu kéo ngay xe sẽ bị tuột xuống sông. Các xe phía sau cũng đang bị ùn lại. Trung đội phó Tự đang gắt với lái xe Nghị:

- Tại cậu không chịu bám ta luy dương đây mà!

Nghị chống chế:

- Thì ai biết được đất ở đây nó dễ bị lở thế!

Trung đội trưởng Tiến đã quay lại, anh cũng gắt:

- Còn đứng đó mà cãi nhau! Cậu Trực chạy lên bảo xe 380 lùi lại đây ngay, còn cả xe dỡ cáp xuống chuẩn bị cứu kéo.

Pháo hai Trực chạy vụt đi, Nghị và Luông tháo cáp kéo xe đưa về phía trước. Tiến và Tự loay hoay xem xét địa thế, Tiến bảo:

- Chỗ này bố trí cứu kéo hơi khó vì ngay phía trước là một cái cua gấp, sau khi giật được ông lên là thằng 380 phải dừng ngay. Ở đây lại không có chỗ nào đứng chỉ huy cho cả hai lái xe trông thấy. Vì vậy tôi sẽ chỉ huy xe 380, ông đứng trên xe 380 vừa quan sát tôi vừa chỉ huy xe ông, xe vừa lên được là phải cho dừng ngay nhé.

- Được! Anh về vị trí đi.

Trưởng xe 380 Mai Hồng Trị đang chỉ huy cho xe mình lùi về phía xe 389, chiếc xe thận trọng nhích từng tý một trên con đường cặp bờ sông chật hẹp. Phải mất hơn mười phút xe 380 mới lùi về đến trước đầu xe 389. Luông và Trực lúi húi lắp cáp vào vấu kéo sau xe 380. Tiến gọi Nghị và Lạc lại dặn:

- Các cậu chú ý tín hiệu chỉ huy nhé: sau khi kéo được xe 389 lên là hai xe phải dừng ngay, sau đó 380 lùi lại một tý để tháo cáp. Cậu Lạc thực hiện theo tín hiệu chỉ huy của tôi, còn cậu Nghị theo tín hiệu chỉ huy của anh Tự. Rõ chưa? - Không thấy ai nói gì anh tiếp - Nào, bây giờ tất cả về vị trí!

Tiến đứng ngay khúc cua gấp trước đầu xe 380, Tự đứng chênh vênh trên buồng truyền động, trên tay mỗi người là chiếc đèn pin bọc vải. Thấy mọi người đã về vị trí, Tiến quay tròn cái đèn pin, phía sau cái đèn pin trong tay Tự cũng quay tròn, cả hai xe cùng nổ máy. Tiến cặp cái đèn pin vào nách rồi giơ hai tay ra phía trước ra hiệu "căng cáp" rồi vẩy đèn mấy cái, Lạc vào số, thả ly hợp từ từ, xe 380 nhích dần lên, chiếc cáp kéo xe căng ra. Tiến hỏi to:

- Tất cả sẵn sàng chưa?

- Sẵn sàng! - Tiếng Tự vọng xuống.

- Chuẩn bị nhé! - Tiến nhắc lại.

Tay Tiến hất mạnh cái đèn lên trên, phía sau cây đèn pin trong tay Tự cũng hất lên mấy cái. Cả hai lái xe cùng tăng ga, tiếng máy của xe 380 gằn lại rồi bung ra, xe 389 đã được kéo lên mặt đường. Thấy xe 389 đã lên được Tiến vẩy mạnh cái đèn pin xuống, lái xe Lạc lập tức dừng xe. Chiếc xe dừng đột ngột làm Tự ngã ngồi xuống tấm bạt cố định trên buồng động lực, cái đèn pin trong tay rơi ra lăn lông lốc xuống đường. ở phía sau xe 389 chồm lên, một băng xích của nó trèo hẳn lên thành xe bên trái xe 380. "Két... két..." - những tiếng nghiến giữa thép với thép nghe ghê cả răng, chỗ xích cào lên thành xe toé lửa.

Khi thấy xe mình đang trèo lên xe trước, Nghị vội cho xe lùi lại, tim cậu đập thình thịch. Dưới ánh đèn gầm chiếu sát gần thấy toàn bộ lá chắn bùn phía sau của xe 380 bị cào rách, ống xả thì bị xích xe 389 nghiến cho bẹp rúm.

Gắt gỏng một hồi rồi cũng nguôi, Tiến nhảy lên xe 380 bảo Lạc:

- Chạy đi!

Lạc nổ máy, tiếng động cơ không giòn giã như mọi ngày mà "bậm bà bậm bạch" như người nghẹt mũi. Cậu vội cố định tay dầu rồi chui ra xem sao. Nhìn thấy cái ống xả bẹp rúm, Lạc than:

- Thế này có chết tôi không cơ chứ? Làm sao mà chạy được với cái ống xả này.

Trung đội trưởng Tiến hỏi:

- Sao không chạy đi?

- Anh không nghe tiếng máy à, nó nổ như thằng ngạt mũi ấy, đi làm sao được!

- Cứ chạy đi đã, mai tìm cách khắc phục sau! - Tiến ra lệnh.

Lạc ấm ức vào xe cho xe chạy, nhưng chỉ vừa mới chạy đến chỗ xe 381 của trung đội trưởng Tiến đỗ thì nó dừng lại không chịu chạy tiếp. Tiến hỏi:

- Làm sao thế Lạc?

- Anh xuống mà xem đồng hồ đây này, cả nước và dầu đều lên 120 độ rồi - Lạc nói vẻ dằn dỗi.

- Lạ nhỉ? - Vừa nói Tiến vừa cúi nhìn vào cửa lái xe, anh phát hoảng thật sự khi thấy kim đồng hồ nhiệt độ đều lên trên vạch giới hạn.

Tiến ôm đầu suy nghĩ, từ đây đến chỗ nghỉ chặng cũng còn hơn chục cây số nữa, xe 380 chắc chắn là không chạy được nữa rồi, có lẽ phải để nó nằm lại đi sau thôi. Nghĩ vậy, anh gọi Trị lại:

- Trị này! Cậu ở đây chờ anh Đề lên thì báo cáo tình hình, nếu khắc phục được thì đi tiếp, còn nếu không thì tìm chỗ giấu xe quanh đây, ngày mai khắc phục. Chỗ nghỉ chặng này cũng chỉ còn chục cây số nữa, chiều mai tớ sẽ đề nghị anh Thận chờ xe cậu lên rồi mới đi.

- Được thôi! Các anh cứ yên tâm.

Trị chỉ huy xe dẹp vào một bên đường cho các xe khác vượt lên, đợi xe 390 đến gần anh ra hiệu cho xe dừng lại. Đại đội phó Đề nhảy xuống:

- Xe sao thế Trị?

- Động cơ bị tăng nhiệt quá cao "đại phó" ạ! Có lẽ do ống xả của xe bị đè bẹp.

Bấm cái đèn pin vào ống xả Đề thốt lên:

- Bẹp rúm thế này thì đi thế quái nào được! Thôi được rồi, cậu Độ xuống đây ở lại với tôi. Anh Đán cứ đi trước đi và báo cáo lại tình hình với anh Thận nhé! Mai chúng tôi sẽ khắc phục và đuổi kịp đội hình.

- Được! Mấy anh em ở lại nhé! - Đán trả lời, xe 390 chồm lên đi tiếp.

Đề bảo:

- Bây giờ tìm chỗ giấu xe đã, còn mọi cái ngày mai sẽ tính.

Hì hục gần hết buổi sáng mấy anh em mới đục thủng được cái ống xả xe 380, tiếng động cơ của nó bây giờ nghe cứ phè phè như rắn phun nhưng nhiệt độ đã trở lại bình thường. Lạc tức lắm nhưng chẳng biết làm sao.

Sẩm tối hôm ấy khi xe 380 đuổi kịp đại đội cả bảy xe xếp thành đội hình hành quân. Sau khi nghe Trị báo cáo sơ bộ tình hình, Thận lệnh cho toàn đại đội xuất phát. Bắt đầu từ đây họ rẽ vào đường B45 để về Việt Nam.

Đường B45 là con đường chạy theo hướng Tây - Đông, có thể coi nó song song với Đường 9 nhưng địa hình mà nó đi qua thì khác hẳn. Nếu như Đường 9 chạy trên cao nguyên bằng phẳng thì đường B45 phải đi qua một địa hình phức tạp hơn nhiều: nửa đầu nó lượn lờ cặp kè với một con sông ở bình độ thấp rồi sau đó vọt lên vượt Trường Sơn để trở về Việt Nam ở độ cao trên nghìn mét. Những đỉnh cao chập chùng của Trường Sơn làm con đường trở nên vô cùng hiểm trở.

Quả thật, đoạn đầu đường B45 khá là dễ chịu với cánh lái xe, đường tương đối bằng phẳng, dốc thì ít mà nếu có cũng chỉ qua loa, chỉ phải cái gặp khá nhiều sông suối. Rút kinh nghiệm của đêm qua các lái xe trong đại đội khi qua ngầm rất thận trọng nên không có sự cố gì.

Nửa đêm về sáng độ cao tăng lên rõ rệt, hầu như chỉ thấy dốc lên mà không thấy dốc xuống, những đồi cỏ tranh ít dần đi thay thế bằng những cánh rừng trùng điệp và núi đá nối tiếp nhau. Sau mấy đêm đầu không ngủ được giờ cánh pháo thủ, pháo hai và thợ sửa chữa đã quen, cứ ngủ lăn long lóc mặc tiếng động cơ inh tai, nhức óc cùng những cú đập xóc nảy người trên đường xấu.

Gần sáng đại đội đã đến vị trí nghỉ chặng đúng theo kế hoạch. Trong đêm tối cánh pháo thủ, pháo hai nhanh chóng xoá vết xích. Chỉ một loáng sau tất cả đã chìm vào giấc ngủ say sưa.

Buổi hội ý cán bộ sớm hôm ấy được tổ chức ngay trên thảm cỏ dưới một gốc thông già cạnh chỗ xe 386 đỗ. Sau khi Toàn báo cáo tình hình chung và xin ý kiến Hiển, đại đội trưởng Thận kết luận:

- Cho đến hôm nay chúng ta đã thực hiện hành quân đường dài được một tuần. Trừ một vài trục trặc nhỏ còn nhìn chung chúng ta đã thực hiện đúng kế hoạch đề ra, nếu không có gì đặc biệt thì chỉ ba, bốn hôm nữa là chúng ta sẽ có mặt tại vị trí tập kết chiến đấu. Vì vậy, sau khi đã xin ý kiến thủ trưởng Hiển, tôi quyết định hôm nay chúng ta sẽ cho bộ đội nghỉ một đêm. Một mặt để cho bộ đội lại sức, một mặt chúng ta cũng cần bảo dưỡng khôi phục tình trạng kỹ thuật cho xe máy, bổ sung nhiên liệu, dầu, mỡ - Hai trung đội trưởng nhìn nhau cười sung sướng - Tuy nhiên, mặc dù điều kiện ở đây rất tốt song các trung đội cần nhắc bộ đội tiếp tục nêu cao cảnh giác, giữ bí mật vị trí trú quân. Còn tôi, thủ trưởng Hiển, thủ trưởng Đính, anh Đán và anh Toàn chiều nay sẽ vào binh trạm bộ để cảm ơn và xin thêm một số vật chất. Các đồng chí có ý kiến gì khác không?

Đề giơ tay:

- Tôi có ý kiến! Tuần qua chúng ta đã đi được khoảng gần bốn trăm cây số, nhưng do đường xấu, tốc độ trung bình thấp nên đã tiêu hao quá nửa cơ số nhiên liệu. Vì vậy khi các anh vào binh trạm thì đề nghị các đồng chí ấy bổ sung cho chúng ta một ít nhiên liệu và dầu nhờn.

- Được! Tôi sẽ đề nghị - Thận gật đầu - Còn các đồng chí khác?

Không thấy ai nói gì anh tiếp luôn:

- Không có ý kiến gì thì các đồng chí về triển khai công việc.

Buổi sáng trong rừng thông thật dễ chịu, Đính vươn vai khoan khoái:

- Hôm nay phải tắm cái các ông ạ! Gần tuần nay chẳng tắm rửa rồi còn gì.

Chỉ một lát sau khu rừng đã nhộn nhịp hẳn lên, tất cả các xe buồng truyền động mở toang, các lái xe đang cẩn thận kiểm tra kỹ thuật, tuy nhiên huyên náo nhất vẫn là cánh pháo thủ, trưởng xe đang gò lá chắn bùn. Tính ra, sau một tuần hành quân đã có ba xe bị bay lá chắn bùn bên phải, hai xe bị bay lá chắn bùn bên trái, một xe mất chắn bùn sau, còn móp méo thì "trăm phần trăm". Thảm thương nhất là thằng 380 - vừa mất lá chắn bùn trước, vừa mất chắn bùn sau lại còn bị "sứt môi" nữa chứ.

Kết quả cuộc đi thăm binh trạm bộ 42 thật là mỹ mãn. Đồng chí binh trạm trưởng không chỉ cho bổ sung nhiên liệu theo yêu cầu lại còn hào phóng "tặng" cho bộ đội xe tăng mấy thùng thịt hộp và hàng chục cân đường sữa.

Sau hai ngày một đêm được nghỉ ngơi lính ta có vẻ sung sức lắm, nên đêm hôm đó mặc dù phải vượt dốc Đá là một trọng điểm tương đối khó đi song đại đội vẫn đến địa điểm nghỉ chặng tiếp theo đúng kế hoạch.

Nơi trú quân của chặng này nằm ở một mỏm đồi cách chân dốc Mèo một cái yên ngựa dài chừng hơn cây số. Đứng ở mỏm đồi này nhìn sang chỉ thấy dãy núi trơ trụi không một bóng cây, không một ngọn cỏ. Đất đá bị bom đạn cày xới và mưa gió bào mòn phơi màu bạc phếch. Đây đó thỉnh thoảng một cây cổ thụ trụi lá vươn những cành cây khẳng khiu lên bầu trời như chứng tích cho những trận mưa chất độc hoá học và bom rải thảm. Len lỏi giữa đống hỗn độn ấy là một con đường ngoằn ngoèo bò qua những cua tay áo, những đoạn dốc đứng để lên tới cái đỉnh lúc nào cũng lờ mờ trong mây trắng. Phía dưới con đường những xác xe tải cháy đen thui nằm rải rác đây đó.

Buổi chiều, lúc nhóm cán bộ đang ngồi cạnh xe 386 trao đổi về kế hoạch hành quân đêm nay thì pháo thủ Tình kêu lên:

- Các cậu ơi! Ra mà xem cái này này!

Cả Bình, Trang và Đạt từ trong xe đều chui ra ngỏng cổ lên trời, mấy cán bộ cũng nhìn theo: trên bầu trời trong xanh của mùa khô Tây Trường Sơn ba dải khói bạc thẳng tắp từ phía tây đang dần tiến lại. Hiển thất thanh:

- B52 đấy! Nếu nó cua thì phải vào trong xe ngay.

Nhưng không, ba cái máy bay vẫn bay thẳng về phía đông, ba dải khói bạc thẳng tắp loãng dần và bị gió đưa đẩy thành những dải khói ngoằn ngoèo trên nền trời xanh biếc. Hiển tức tối nhìn theo:

- Nó bay từ Thái Lan sang chắc để đánh Quảng Trị đây. ở đây lực lượng phòng không của mình yếu nên nó không coi ra gì cả, cứ bay thấp tè tè thế đấy - Quay về phía mấy cán bộ cũng đang đứng nhìn ông tiếp - Nhân đây cũng phổ biến cho anh em biết: nếu B52 bay thẳng như thế này thì không sao, nhưng nếu gần đến chỗ mình mà nó cua thì có nghĩa là mình nằm giữa bãi bom đấy, liều liệu mà ẩn nấp.

Tiến, Nam đều lè lưỡi:

- Nằm giữa bãi bom B52 thì làm sao mà sống sót được?

Hiển cười:

- Các cậu này hay nhỉ? Thế chưa biết câu "bom đạn nó tránh mình" à! Nhưng thôi, cẩn thận vẫn hơn, ở đâu cũng bám xe, bám hầm là được rồi.

Đại đội trưởng Thận vẫy tay:

- Thôi! Đề nghị các anh ngồi xuống ta tiếp tục - Đợi mọi người ổn định chỗ ngồi anh tiếp - Theo đội tiền trạm cho biết tổng chiều dài của dốc này cả lên và xuống là gần hai mươi cây số, tuy nhiên đường rất hiểm trở, khó đi. Vì vậy tôi đề nghị chúng ta áp dụng các biện pháp như hôm vượt dốc Cổng Trời. Nghĩa là: chuẩn bị tốt kỹ thuật, dự trữ đủ nước, những đoạn khó đi phải cho người xuống đi bộ, nếu có điều kiện thì xuất phát sớm để qua hết dốc trong đêm. Trường hợp bắt buộc giấu xe trên dốc thì phải lợi dụng địa hình địa vật, sử dụng các vật liệu sẵn có tại chỗ như cành cây khô, đất đá để ngụy trang xe. Các đồng chí còn ý kiến gì nữa không?

Chính trị viên phó Toàn giơ tay:

- Tôi không có ý kiến gì bổ sung vào kế hoạch mà chỉ xin thông báo: hiện nay quân khu đã cử cán bộ đón chúng ta ở khu vực A Lưới. Tôi đã báo cáo nếu không có gì thay đổi chúng ta sẽ có mặt tại A Lưới vào đêm mai. Vì vậy đề nghị các đồng chí động viên anh em cố gắng thực hiện đúng kế hoạch hành quân. Hết!

Đại đội trưởng Thận kết luận:

- Nếu không ai có ý kiến gì nữa thì về tiếp tục chuẩn bị!

Mọi người lục tục về xe.

Đúng là "cầu được ước thấy", mới bốn giờ chiều sương mù từ các hốc núi đã bò ra bảng lảng khắp các ngõ ngách, từ trên đỉnh dốc mây cũng dần sà xuống. Đại đội trưởng Thận bảo Đạt:

- Chạy nhanh báo anh Toàn cho đội tiền trạm đi đi, còn các trung đội đúng ba mươi phút nữa sẽ xuất phát.

Màn sương như một lớp ngụy trang tự nhiên càng ngày càng dày, trời vẫn còn sáng nhìn xa được hai ba chục mét nên chỉ sau khi xuất phát độ mười lăm phút đội hình đã vượt qua cái yên ngựa và bắt đầu leo dốc. Đường hẹp và nhiều cua gấp, độ dốc lại tương đối lớn nên xe toàn bò số một, số hai. Nước trong hệ làm mát sôi sùng sục, nhiệt độ chẳng mấy chốc đã lên tới trên một trăm độ C.

Bình vẫn thận trọng bám sát ta luy dương để bò, cái lá chắn bùn mới gò lại thỉnh thoảng lại va vào vách đá đánh "thình" một cái lại rách te tua, bụi luồn qua các lỗ rách phả vào mặt Bình rát rạt nhưng cậu vẫn căng mắt nhìn đường. Dưới ánh đèn gầm mờ đục, Bình chỉ nhìn được mấy mét phía trước, nghĩ bụng: "Sương mù thế này bật đèn pha lên cũng chẳng thằng nào thấy gì". Nghĩ là làm, Bình với tay bật công tắc đèn pha. Nhưng quái lạ, đèn pha đã bật lên cũng chẳng nhìn được xa hơn, chỉ thấy một đám mờ mờ, trăng trắng trước mũi xe. Cậu dừng xe lại.

Thấy xe dừng Thận vội hỏi:

- Sao thế Bình?

- Báo cáo "đại trưởng" chẳng nhìn thấy gì cả.

Thực ra đứng trên cửa trưởng xe dẫu đã căng mắt ra nhìn Thận cũng chỉ nhìn thấy phía trước mũi xe vài mét, anh chỉ hy vọng lái xe ngồi thấp hơn sẽ vẫn nhìn được đường nên mới chưa cho dừng lại. Đến bây giờ thì rõ ràng là lái xe cũng không còn tự tin để cầm lái nữa, anh bảo Bình:

- Thôi! Tắt máy nghỉ giải lao đã.

Nhảy xuống đường, cởi cái áo quân phục ném lên đầu xe rồi đi về phía trước độ bốn, năm mét Thận hỏi Bình:

- Thế này có nhìn thấy không?

- Nhìn thấy ạ!

Thận bước thêm mấy bước nữa, Bình vội kêu lên:

- Không nhìn thấy gì đâu, "đại trưởng"!

- Thôi được rồi! Từ giờ tớ sẽ đi trước đầu xe mấy mét để cậu theo, đến chỗ nào không cần nữa cậu nháy đèn vài cái. Tình đâu, xuống phổ biến cho các trung đội thực hiện như thế nhé!

Phải mất mấy cây số "cầm đèn chạy trước xe tăng" như vậy mới đến chỗ sương mù mỏng hơn, chắc là sắp đến đỉnh, gió thổi mạnh hơn làm sương mù loãng ra.

Mãi rồi cũng đến đỉnh. Đỉnh dốc Mèo không bằng phẳng như Cổng Trời mà nhọn hoắt nên Thận quyết định không nghỉ mà cho đổ dốc luôn, anh cười thầm: "Mới có một tuần mà mình đã hai lần qua biên giới. Cũng là đi nước ngoài rồi đấy nhưng nước ngoài thế này thì chả ai mong".

Chiều xuống bên phía đông của dốc Mèo cũng tương tự như chiều xuống bên tây của Cổng trời: ngắn và không dốc lắm. Chỉ khoảng một tiếng đội hình đại đội đã đến chân dốc. Ngay chân dốc là một ngã ba, đội tiền trạm đã đón ở đấy.

Đội trưởng tiền trạm Toàn báo cáo:

- Đây là ngã ba Đường B45 với Đường 14, nó là cây số 71 của Đường 14 nên gọi là ngã ba Bảy Mốt, từ đây vào A Lưới chỉ còn hai mươi cây. Tuy nhiên đoạn phía trước rất trống trải cho nên ta phải chạy ngược Đường 14 một ít để trú quân sẽ bảo đảm hơn.

- Đồng ý! - Thận trả lời - Ông cho người trực ở đây để hướng dẫn, còn ông lên xe này đi luôn.

Toàn bám vào thành xe đu lên, chiếc xe lầm lũi đi ngược ra hướng Bắc.

Nơi trú quân hôm nay của đại đội là một con suối nằm cách ngã ba Bảy Mốt hơn cây số. Mặc dù đang là mùa khô nhưng sông suối bên Đông Trường Sơn vẫn có nước. Cánh pháo hai lại được dịp trổ tài, xe nào xe ấy được bữa tươi.

Cơm nước xong, nạp điếu thuốc lào to tổ bố vào nõ điếu, bật lửa rít một hơi dài rồi vừa thở khói chính trị viên Đán ngả mình xuống võng một cách khoan khoái. Vẫn trong trạng thái lơ mơ, Đán bật công tắc chiếc Xương Mao rồi lần tìm sóng đài BBC nghe bản tin trưa. Bỗng Đán giật thót mình ngồi dậy ghé sát đài vào tai rồi không kịp xỏ chân vào đôi dép, anh thập thễnh bước thấp bước cao chạy về phía

xe 386, tay vẫn áp cái đài vào tai.

Hiển và đại đội trưởng Thận cũng đã ăn trưa xong đang ngồi trên võng chuyện vãn, thấy Đán hớt ha hớt hải chạy đến, Hiển cười:

- Đi đâu mà như "ma đuổi" thế?

- Báo... báo... cáo thủ trưởng - Đán lắp bắp - Không biết làm sao mà "thằng BBC" đã đưa tin: "một thiết đoàn xe tăng Bắc Việt đã có mặt ở tây thành phố Huế" đây này.

Đán vặn to cái đài lên nhưng bản tin đã chuyển sang các tin tức khác. Đại đội trưởng Thận hỏi:

- Anh có nghe nhầm không đấy?

- Không! Tôi không thể nhầm được! Vừa nghe đến thế tôi chạy sang đây ngay, nó còn dự đoán cả hướng vu hồi của ta cơ.

Hiển trầm ngâm:

- Phải thừa nhận thằng này có đội ngũ săn tin rất hiệu quả và nhanh chóng chứ không phải chỉ có đoán mò đâu. Phải xem lại tình hình chấp hành kỷ luật giữ bí mật của anh em mình thôi, nhất là phải kiểm tra xem có anh nào sử dụng đài vô kỷ luật không?

Thận nôn nóng:

- Tôi đã quy định đài chỉ được để ở "thu canh", bản thân tôi cũng theo dõi không thấy ai lên đài phát cả. Chỉ có hôm xe anh Đán bị lạc thì tôi có cho phát hai lần rất ngắn gọn, nhưng lúc đó ta vừa mới vượt Cổng Trời chưa vào đến Đường 9 cơ mà.

Hiển nói giọng nghiêm trang:

- "Thằng BBC" mà đã biết thì chắc chắn thằng Mỹ cũng đã biết. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với chúng ta là phải nâng cao cảnh giác hơn nữa, dừng bất cứ ở đâu cũng phải ngủ hầm hoặc ngủ trong xe, tuyệt đối không được ngủ võng hoặc ngủ ngoài trời. Nhìn chung nhiệm vụ của ta ở hướng này sẽ khó khăn hơn đây vì đã mất yếu tố bất ngờ.

Ngay lập tức đại đội trưởng Thận cho triệu tập họp cán bộ. Mọi người vừa đến đủ anh vào vấn đề ngay:

- Cậu Tiến, cậu Nam cho biết mấy ngày vừa rồi có xe nào sử dụng điện đài ở chế độ phát không?

Cả hai trung đội trưởng đều ngớ ra, bối rối. Tiến thận trọng:

- "Đại trưởng" đã quy định đài chỉ để ở "thu canh", về trung đội tôi cũng thường xuyên nhắc nhở. Mà có anh nào phát thì trong mạng phải biết chứ ạ.

Nam cũng đồng ý:

- Bên tôi cũng vậy! Không có xe nào sử dụng sai quy tắc đâu.

Thận giải thích lý do tại sao anh lại hỏi vậy rồi kết luận:

- Tôi cũng tin anh em mình sử dụng đúng quy định vì vừa qua chúng ta hành quân trong điều kiện tương đối thuận lợi, địch ít đánh phá, đội hình hành quân gọn. Tuy nhiên trong tình thế này tôi đề nghị như sau: Một là, phải nâng cao cảnh giác giữ bí mật hơn nữa kể cả trong hành quân, trú quân; trong nấu nướng, sinh hoạt, tắm giặt; gặp những người có nghi vấn phải lập tức báo cho cán bộ, cần thiết thì giữ lại để kiểm tra. Hai là, bất kỳ ở đâu cũng không được ngủ ngoài trời, bắt buộc phải ngủ trong xe hoặc trong hầm, nghỉ ngắn một ngày thì thôi nhưng từ hai ngày trở lên đều phải đào hầm, đặc biệt đội tiền trạm phải lưu ý vấn đề này.

Chính trị viên phó Toàn có ý kiến:

- Theo thông báo của quân khu thì từ mấy hôm nay địch tăng cường đánh phá trên trục Đường 14 và 12, có thể chúng đã nghi ngờ và đánh hơi thấy sự có mặt của xe tăng ta trên hướng này. Vì vậy tôi nhất trí với những biện pháp mà đồng chí đại đội trưởng vừa nêu ra. Một kinh nghiệm cần phổ biến với các đồng chí là ở trong này, cứ dọc đường tuyến hay trong bất kỳ khu rừng nào đều có rất nhiều hầm do các đơn vị đi trước để lại. Vì vậy khi dừng ở đâu chúng ta nên tìm quanh sẽ thấy và sửa lại chút ít là có hầm ngay, đỡ công đào mới.

Trong lúc đó, nghe lỏm được câu chuyện Đán nói với Hiển và Thận, Bình "trắng" lập tức nhót qua đội tiền trạm để thông báo cho Xuyên:

- Này! Bọn ta khéo sắp bị "nó" săn cho "ra bã" đấy!

Bến, Minh đang nằm trên võng gần đấy cũng bật dậy ngay, Xuyên hỏi:

- Có tin gì à?

- Có chứ! BBC đã đưa tin đại đội mình đã vào đến phía tây thành phố Huế và sẽ đánh vào Huế từ hướng Tây.

Cả ba thằng trợn mắt lên:

- Chưa đi đánh nhau mà nó đã đọc vị lên như thế còn đánh đấm gì? Mà thế nào nó chả săn bằng được!

- Thôi tao về đây! Thế nào rồi ông Toàn cũng về phổ biến cho bọn mày ngay bây giờ ấy mà.

Nói rồi Bình biến mất như ảo ảnh.

Quả thật ngày hôm ấy thằng OV10 hình như "soi" kỹ hơn thì phải, không phải chỉ có một chiếc mà có đến hai chiếc luân phiên nhau quần lượn trên trời từ sáng tới sẩm tối, tiếng vè vè của chúng cộng với những tin tức mới được phổ biến làm không khí trong đại đội có phần căng thẳng.

Do chặng hành quân này ngắn hơn, đường lại khá bằng phẳng nên Thận quyết định sẽ xuất phát muộn hơn mọi ngày. Nhưng khi chuẩn bị xuất phát thì thấy mấy loạt đạn 37 ly bắn lên trời, anh nghĩ bụng: "Có thể là AC130 ra" và quyết định dừng lại thêm một chút.

Đúng vậy, chiếc máy bay hung thần ban đêm được Mỹ mệnh danh là "Người tuần đường" đã xuất hiện. Từ hôm bắt đầu hành quân đến nay đã nghe nói đến "nó" nhiều nhưng hôm nay mới "mục sở thị". Trên nền trời đen nhờ nhờ, chiếc AC130 bay thấp trông to như chiếc thuyền nan, cứ lừ lừ bay dọc theo tuyến đường đúng như một người tuần đường cần mẫn. Thỉnh thoảng từ bụng nó một dây đạn 20 ly đỏ rực xối xuống dai như trâu đái, có chỗ sau một loạt dài 20 ly nó chuyển sang bắn cối 40 ly. Đây đó những ngọn lửa bùng lên dưới những loạt đạn quái ác ấy. Nghe nói ta chưa có phương tiện phòng không nào trị được nên nó ngông nghênh lắm. Đứng trên đỉnh tháp pháo ngóng cổ lên trời trung đội trưởng Tiến lầm bầm:

- Thảo nào mà cánh lái xe gọi nó là "xuyên thùng". Mà này! Chắc chắn nó có thiết bị ổn định vì nó vừa đi vừa bắn mà đạn cứ chụm lại một chỗ các cậu ạ.

Cả xe im thin thít quan sát, chỉ có tiếng lái xe Hoả đầy lo lắng:

- Gay đấy anh ạ! Gặp thằng này thì nguy to.

Mấy đốm lửa bùng lên phía dốc Mèo và Đường 14, chắc cho rằng hôm nay "Việt cộng" không dám cơ động trên đoạn này nữa nó lừ lừ bay về hướng Nam.

Đợi cho tiếng động cơ máy bay im hẳn một lúc lâu, đại đội trưởng Thận mới ra lệnh xuất phát. Đường tương đối bằng phẳng, xe có thể chạy được số hai, số ba nên quá nửa đêm toàn đại đội đã có mặt ở phía nam sân bay A Lưới. Anh nhắc các xe khẩn trương xoá vết xích, ngụy trang và tranh thủ nghỉ ngơi.

Nằm kẹp giữa dãy Động Ngài ở phía đông với độ cao trung bình trên một ngàn mét và dãy A Ngo ở phía tây với độ cao trung bình gần hai ngàn mét, thung lũng A Lưới có độ cao trung bình khoảng tám trăm mét so với mực nước biển. Nó kéo dài gần ba mươi kilômét, chỗ rộng nhất tới bốn kilômét, còn chỗ hẹp cũng vài trăm mét. Nhờ bức trường thành phía tây chắn luồng hơi nước theo gió Đông Nam từ biển thổi vào đã làm cho A Lưới trở thành một địa danh có lượng mưa trung bình hàng năm rất cao. Khí hậu mát mẻ, lượng mưa dồi dào, thổ nhưỡng màu mỡ đã biến A Lưới thành khu rừng nhiệt đới điển hình với nhiều loại động, thực vật quý hiếm.

Nằm cách Huế chưa đầy 60 kilômét, trấn giữ con đường huyết mạch Đông Trường Sơn từ Bắc vào Nam, A Lưới có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng nên đã được các nhà quân sự Mỹ để mắt đến. Trong những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi, Ngô Đình Diệm đã cho mở Đường 12 từ Huế lên A Lưới và tuyên bố sẽ Bắc tiến từ đây. Trên thung lũng này hai sân bay quân sự đã được xây dựng là sân bay A Lưới và sân bay A So. Thung lũng này cũng đã trở thành địa bàn giành giật của hai bên trong nhiều năm và đã trở thành vùng giải phóng từ Mậu Thân 1968. Bị mất quyền kiểm soát, quân đội Mỹ đã biến A Lưới thành một trọng điểm đánh phá ác liệt bằng bom đạn và chất độc hoá học. Hàng nghìn tấn chất độc hoá học được rải xuống cái thung lũng hiền hoà này đã biến những cánh rừng đại ngàn ở đây thành rừng chết. Đi qua A Lưới giờ chỉ thấy những cây cổ thụ vài trăm năm tuổi vẫn đang vươn những cành cây trụi lá lên trời cao như những cánh tay cầu cứu. Những trận B52 rải thảm cùng những trận không kích của F, của A đã biến thung lũng này thành "thung lũng tử thần" đối với mọi sinh vật.

A Lưới, đó cũng là đích đến bước đầu của đại đội xe tăng Bốn.

*

Khi biết rằng đây đã là địa điểm tập kết chiến đấu mà đại đội mình phải có mặt theo quy định của cấp trên, Tùng đã ngủ một giấc thật ngon, thật sâu không mộng mị và chỉ tỉnh giấc khi những tiếng chim hót líu lo ngay cạnh xe mình. Đẩy cửa trưởng xe lên anh đứng dậy vươn vai khoan khoái và hít căng lồng ngực thứ không khí tinh khiết của buổi ban mai.

Thấy cả xe vẫn đang say giấc ngủ anh lặng lẽ bước ra ngoài đứng trên đỉnh tháp pháo nhìn bao quát một lượt như muốn tìm hiểu về vùng đất mà mình có nhiệm vụ phải đến. Phóng tầm mắt nhìn quanh anh chỉ thấy những cành cây cổ thụ trơ trụi vươn cao lên bầu trời, anh nghĩ bụng: "Chắc chắn là hậu quả của chất độc hoá học đây", xung quanh anh chỉ là những lùm cây nhỏ chắc là mới tái sinh vài năm nay và lau lách thì bạt ngàn.

Đứng trên một nóc hầm chữ A ven đường, Tùng phóng mắt nhìn về phía Bắc - chỗ rộng nhất của thung lũng - nơi đó đã từng là một sân bay quân sự nhưng nay chỉ còn dấu tích là những đoạn đường băng phẳng lì phủ ghi sắt mà đêm qua xe anh đã đi qua.

Có một âm thanh gì đó ù ù rền rền vọng tới, Tùng ngước mắt nhìn lên trời. Bầu trời trong xanh của buổi sáng mùa khô có ba vệt trắng đang lừ lừ từ phía tây bay tới. Theo phổ biến của đại đội anh đã biết đó là B52. Nhưng ba vệt trắng thẳng tắp bỗng đổi hướng, chúng đang ngoặt xuống phía nam, người Tùng bỗng sởn gai ốc, anh chỉ kịp nghĩ "nó cua rồi" và lao vội vào trong hầm, hai tay ôm lấy đầu kẹp vào giữa hai đầu gối.

Vẫn giữ thói quen từ hồi ở Trường Lục quân, dẫu mệt mỏi đến mấy hàng ngày Thận vẫn dậy sớm và tập thể dục buổi sáng đều đặn. Sáng nay cũng vậy, đẩy cửa trưởng xe ra một cách nhẹ nhàng, anh chui ra ngoài đứng trên buồng truyền động làm mấy động tác thể dục cho giãn gân cốt. Từ hôm qua anh và Hiển đã không mắc võng ngủ ngoài trời nữa, cái võng của Hiển được mắc ngay trong buồng pháo hai, Đạt nằm ở phía dưới, Bình thì vẫn nằm ghế lái xe, Tình nằm ngang dưới đuôi pháo, Trang nằm ngay dưới ghế pháo thủ, còn anh thì ngủ ngồi trên ghế trưởng xe nên khá mỏi.

Trèo lên đỉnh tháp pháo, Thận nhìn bao quát xung quanh, anh thấy hơi sửng sốt: giữa một vùng đồi núi điệp trùng cao ngất lại sinh ra một cái thung lũng bằng phẳng đến lạ kỳ. Phía bắc thung lũng trải dài đầy lau lách, thứ cỏ dại mà lá sắc như dao. Nhìn sang hai bên là màu xanh ngút ngát của hai dãy núi với những đỉnh cao còn chìm trong mây trắng. Nhìn về phía nam cách chỗ anh đứng khoảng hơn cây số là một ngọn núi có màu đất đỏ tươi - anh biết đó là Bốt Đỏ, nơi bắt đầu của con đường 12 mà đơn vị anh phải tới để tiến về thành phố Huế.

Nhìn bao quát khu vực trú quân của đại đội, Thận thấy hài lòng, những chiếc xe tăng nằm kín đáo dưới tán rừng tái sinh không để lại một dấu vết gì cho người đi ngoài đường thấy. Các xe bên cạnh lác đác cũng đã có người dậy. Chợt Thận nhìn thấy ba vệt trắng đang cua về phía nam, anh vội hét to:

- Tất cả vào xe! Đóng chặt cửa vào!

Vừa nói Thận vừa co người chui vào xe và sập cửa xuống.

Không biết trận cuồng phong của thép và lửa kéo dài bao lâu. Bắt đầu là những tiếng rít nghe rùng rợn như cứa dao vào tinh nứa, sau đó là những tiếng nổ trầm đục thúc vào màng nhĩ, những làn hơi nóng ập đến như muốn làm nổ tung lồng ngực và bóp nát cái đầu, tiếng mảnh bom va vào thành tháp pháo chan chát. Những chiếc xe tăng ba mươi sáu tấn chao đảo như nằm trên võng. Mùi khói bom xộc vào mũi rát rạt. Hai tai ù đi. Cái đầu cũng tê dại.

Ngồi như đóng băng trên ghế trưởng xe, tay ôm chặt lấy đầu, ý nghĩ cuối cùng thoảng qua trong óc Thận là: "Đại đội anh đang nằm giữa bãi bom B52, may ra thì sống, còn nếu có quả nào trúng là chết", rồi anh cũng tê dại đi không biết bao lâu.

Người đầu tiên tỉnh táo lại sau trận bom là Hiển. Khi những tiếng nổ đầu tiên dội đến anh vẫn còn đang lơ mơ ngủ. Bản năng của người lính đã từng dạn dày với bom đạn bảo anh nằm yên hai tay ôm chặt lấy đầu. Khi những tiếng nổ cuối cùng đã lặng đi anh biết là mình vẫn sống. Nhổm dậy khỏi võng, thấy Thận vẫn đang ôm đầu ngồi bất động trên ghế trưởng xe, anh gọi:

- Thận! Thận! Có sao không?

Từ từ mở mắt như vừa mới ở một thế giới khác trở về, hai tay bỏ ra khỏi đầu, sờ dọc thân mình Thận sững sờ:

- Tôi không sao cả.

Hiển tiếp tục gọi:

- Tình đâu! Bình đâu! Có cậu nào bị làm sao không?

Tình đang ôm đầu nhăn nhó vì lúc quả bom đầu tiên nổ, giật mình cậu nhổm dậy thúc ngay đầu phải cái đuôi pháo, nhăn nhó:

- Em không sao ạ!

Không thấy tiếng Bình trả lời, Hiển gấp gáp:

- Bò sang chỗ thằng Bình xem sao!

Đạt, Tình, Trang lóp ngóp chui sang chỗ buồng lái: Bình đang nằm co như con tôm, hai tay vẫn ôm chặt lấy đầu, người cậu ta run bần bật từng cơn như đang lên cơn co giật. Đạt vỗ vỗ vào tay Bình rồi gọi:

- Anh Bình! Anh Bình!

Bình từ từ bỏ tay ra, mở mắt, hai con mắt cậu ta thất thần đang rỉ ra hai dòng nước.

Hiển vẫn là người tỉnh táo nhất:

- Mình trúng B52 rồi Thận ạ! Bây giờ phải ra ngoài xem thế nào!

Lúc Thận dậy thì Toàn cũng đã dậy. Đội tiền trạm của anh không có xe nên phải ngủ trong hầm. Cũng may đến trước có thời gian nên anh đã chọn được hai cái hầm khá rộng rãi và vững chắc, sàn hầm lát gỗ cẩn thận. Toàn bố trí tổ đài và cơ yếu, lái xe ở cùng anh; còn Xuyên, Bến, Minh ở một hầm. Ngủ trong hầm khá ngột ngạt nên vừa tỉnh giấc anh muốn chui ra ngoài hít thở không khí nhưng vừa nhô người ra cửa hầm thì nghe tiếng hét thất thanh của Thận nên thụt ngay vào. Chưa vào hẳn trong hầm hơi bom đã đẩy anh ngã sấp, anh vội đưa hai tay ôm chặt lấy đầu rồi co chân lên theo bản năng. Căn hầm lắc lư, chao đảo như đưa võng, hơi bom từng đợt từng đợt thốc vào cửa hầm nóng bỏng.

Khi trận bom qua đi Toàn mở mắt, thấy mấy cậu tổ đài đang ngồi run như dẽ trong góc hầm, anh biết là mình còn sống và cả hầm mình còn sống. "Không biết hầm kia thế nào?" - Anh nghĩ bụng và lấy hết can đảm mò ra cửa hầm rồi gọi lớn:

- Xuyên, Bến, Minh đâu? Có làm sao không?

Im lặng như tờ. Toàn bò lên mặt đất rồi lom khom chạy đến hầm bên cạnh. Kéo vội những cành cây phủ kín miệng hầm anh chui vào: ba thằng đang rúm lại trong một góc, hai tay ôm chặt lấy đầu kẹp giữa hai đầu gối như ba bức tượng. Bò sâu vào trong Toàn đập vào vai Xuyên:

- Xuyên! Xuyên! Không sao rồi! Sống rồi!

Cả Xuyên, Bến, Minh ngơ ngác mở mắt ra mà như không nhìn thấy gì.

*

Những đợt hơi bom như ép Tùng vào vách hầm. Lớn lên ở vùng đất Nghệ Tĩnh, tuổi học trò của Tùng cũng đã trải qua những trận ném bom của không quân Mỹ nên anh không quá khiếp sợ. Nhưng quả thật những gì anh đã biết, đã trải qua ngày trước không thấm tháp gì so với hôm nay. Tùng lịm đi cho đến lúc sự im lặng chết chóc bao trùm lên cả khu vực làm anh tỉnh lại.

Từ từ chui ra khỏi hầm, một quang cảnh hãi hùng đập vào mắt Tùng: cả một vùng đất bị đào bới xới lộn, quăng quật hoang tàn như "thời kỳ đồ đá", những lùm cây và cả những thân cây khô đang cháy đùng đùng, mùi khói bom khét lẹt xộc vào mũi làm người ta muốn nghẹt thở. Con đường mà Tùng vừa đứng đã biến dạng hoàn toàn, ngay cách anh mấy chục bước chân là một hố bom toang hoác đất còn ám màu đen sạm. Tùng nghĩ: "Không biết nó còn quay lại không? Phải về xe ngay thôi". Anh quay lưng định chạy nhưng khựng lại ngơ ngác: "Xe mình đâu rồi?" - Cái xe 388 mà anh vừa ra khỏi mấy chục bước chân đã biến đi đâu mất.

Lấy hết dũng khí trong người, Tùng bước bừa qua những cành cây và đống đất đá nằm ngổn ngang về phía xe mình. Mắt anh bỗng trợn tròn: chỗ xe 388 của anh vừa đỗ là một hố bom toang hoác đang bốc khói, cách đó chừng năm sáu bước là chiếc xe tăng lật ngửa bụng lên trời. Đứng như trời trồng một lát Tùng vùng chạy về phía xe 386 như một thằng điên, vừa chạy cậu vừa la khóc:

- "Đại trưởng" ơi! Xe em chết hết rồi!

Bước lên ghế pháo hai, tay mở chốt cửa Hiển bảo Thận:

- Bây giờ cậu xuống "bê Một" và đội tiền trạm, tớ xuống chỗ "bê Hai" xem tình hình thế nào. Cần thiết nhất bây giờ là xem có ai bị thương phải cấp cứu ngay, sau đó ổn định tư tưởng cho anh em. Còn mấy cậu cứ ở yên trong xe nhé!

Cả hai bật cửa ra ngoài. Quang cảnh bên ngoài làm Hiển phải thốt lên:

- Khủng khiếp thật. Mình còn sống thế này là phúc tổ bảy mươi đời đấy nhé!

Hai anh em chia nhau chạy theo hai hướng.

Thận vừa chạy được mấy bước thì gặp Tùng đang chạy ngược lại. Thấy Thận cậu ta lao đến ôm chặt cứng người anh, miệng lảm nhảm không ngừng:

- "Đại trưởng" ơi! Xe em chết hết rồi! Chết hết rồi!...

Dìu Tùng vào cạnh xe 381, Thận gọi:

- Tiến đâu? Mở cửa ra!

Dẫu ngày còn bé đã biết đến bom đạn nhưng Tiến cũng chưa nếm trải cảm giác nằm giữa bãi bom B52 bao giờ nên đầu óc anh cũng mụ đi ngay từ tiếng nổ đầu tiên, khi nghe tiếng Thận gọi anh mới bừng tỉnh dậy và mở cửa chui ra. Tiến dụi mắt nhìn khung cảnh tan hoang xung quanh rồi nhảy xuống. Thận bảo:

- Cậu đỡ nó cho tỉnh rồi hỏi xe bị làm sao. Tớ chạy xem các xe khác có bị làm sao không?

Tiến đưa tay đỡ Tùng dìu vào cạnh xe, miệng nó vẫn lảm nhảm không ngớt:

- Chết hết rồi! Chết hết rồi!

Vỗ vỗ nhẹ vào vai Tùng mấy cái Tiến dỗ dành:

- Tùng! Bình tĩnh lại nào! Xe bị làm sao?

Tùng mở to mắt nhìn Tiến ngơ ngác mấy giây rồi lại lảm nhảm:

- Anh Tiến ơi! Xe em chết hết rồi.

Tiến ngoái đầu gọi với vào trong xe:

- Hoả, Hạnh, Hợp đâu? Ra đây ngay!

Mấy thành viên lóp ngóp chui ra. Tiến quát:

- Xuống đây! Chạy sang xem xe 388 làm sao?

Thấy các xe khác không bị làm sao Thận quay lại. Anh bảo:

- Tất cả theo tôi sang xe 388!

Cả bọn lúp xúp chạy theo đại đội trưởng, những cành cây, mô đất bị bom quăng quật bừa bãi trên đường ngáng chân người chạy. Tất cả bỗng sững sờ trước cái xe bị lật ngửa chổng hai băng xích lên trời bên cạnh cái hố bom còn vương vất khói. Thận quát hỏi Tùng:

- Lúc cậu ra ngoài xe thì anh em ở đâu?

Đã hồi tỉnh lại đôi chút Tùng mếu máo trả lời:

- Lúc em đi ra ngoài chúng nó vẫn ngủ yên trong xe.

Thận hô:

- Tìm cách vào xe đưa người ra - Quay lại sau anh quát - Đi gọi y tá lại đây!

Mọi người đang lúng túng không biết vào xe thế nào thì ai đó nói:

- Thử vào bằng cửa an toàn xem.

Tùng trèo phắt lên bụng xe, cửa an toàn đang mở thật - hơi bom từ dưới đẩy lên đã bẻ gãy hai vấu khoá cửa an toàn, anh co người tuồn mình xuống cửa an toàn chui vào trong xe. Người đầu tiên Tùng nhìn thấy là lái xe Lược - Lược nằm sấp trên trần buồng lái, người vẫn nguyên lành. Tùng kéo Lược ra phía cửa an toàn, người Lược mềm nhũn như không còn xương cốt, hai dòng máu trong tai đang ri rỉ chảy. Mấy người phía ngoài kéo Lược lên bụng xe và hô hấp nhân tạo. Trung đội trưởng Tiến cũng chui vào xe với Tùng, trong bóng tối hai anh em lần tìm và lần lượt đưa được Luyến, Kiểm, Hùng ra cửa.

Bên ngoài y tá Tảo đã đến, anh nhanh chóng mở túi thuốc tiêm cho mỗi người một ống trợ tim rồi bảo mọi người làm hô hấp nhân tạo. Nhưng tất cả đã vô vọng - Lược, Luyến, Kiểm, Hùng đều đã hy sinh.

Hiển, Đính, chính trị viên Đán, chính trị viên phó Toàn, trung đội trưởng Nam và anh em các xe bên cạnh đến mỗi lúc một đông. Tất cả lặng đi trước bốn cái xác của đồng đội. Hiển vẫy Thận và Đán lại gần rồi nói:

- Bây giờ tập trung đông người ở đây thế này không có lợi, mà đi ngay khỏi đây cũng không được. Tôi đề nghị các anh khẩn trương ổn định tổ chức đơn vị, cho anh em củng cố lại ngụy trang và mai táng liệt sĩ. Chỉ ở lại đây ít người thôi.

- Vâng ạ! - Thận và Đán cùng đáp.

Trèo lên bụng cái 388 đại đội trưởng Thận dằn từng tiếng:

- Các đồng chí chú ý! Sau đây trung đội Một cử một số đồng chí ở lại cùng đồng chí Toàn mai táng cho bốn liệt sĩ, còn lại tất cả về xe củng cố ngụy trang, hầm hào chờ lệnh tiếp. Nếu không có việc gì tuyệt đối không rời xe.

Tất cả tản ra về xe, trên trời thằng OV10 đã vè vè nghiêng ngó.

Nhìn bốn thi hài liệt sĩ nằm giăng hàng, Toàn đau như xé ruột: "Các em còn trẻ quá, nếu không có chiến tranh tương lai các em sẽ đẹp đẽ biết bao, tuổi này lẽ ra các em vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường, biết đâu trong các em sẽ có những nhân tài làm vinh danh đất nước. Thế mà hôm nay các em sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi này, đến một cái quan tài, một nén hương cũng không có nổi để thắp cho các em". Anh cứ đứng lặng đi, hai hàng nước mắt chảy dài mãi cho đến lúc trung đội trưởng Tiến đến cạnh hỏi:

- Làm thế nào bây giờ anh!

Toàn nén khóc bảo:

- Tùng vào xe xem ba lô của anh em ở đâu lấy ra đây, còn cậu tìm xem chỗ nào đẹp đẹp thì cho anh em đào huyệt đi.

Tùng chui vào xe lấy ra bốn cái ba lô lép kẹp, Toàn bảo:

- Lau mặt mũi cho chúng nó đi rồi chọn bộ quần áo nào mới nhất để mặc cho anh em.

Nghiêng cái bi đông xe ra thấm khăn mặt Tùng cẩn trọng lau từng gương mặt thân yêu đã cùng gắn bó với anh hàng năm qua. Giũ tung mấy cái ba lô anh chọn những bộ quần áo còn mới và cùng với Toàn thay cho đồng đội. Đây là Lược lái xe thông minh, lém lỉnh và cẩn thận, chẳng bao giờ để một trưởng xe như anh phải nhắc nhở về công việc. Đây là Luyến pháo thủ trắng như trứng gà bóc, cái mặt tròn lúc nào cũng tươi như hoa, giọng thì eo éo nên anh em trong đại đội vẫn gọi nó là thằng "con gái". Đây là Hùng pháo hai đẹp trai, rắn rỏi, làm cái gì cũng băng băng. Đây là Kiểm, nó không phải thành viên xe anh mà là thợ và chỉ bắt đầu đi với xe anh từ Quảng Bình nhưng đã thân nhau như ruột thịt. Cả bốn thằng đều ít tuổi hơn anh, chúng luôn coi anh là người anh cả. Thế mà hôm nay chúng lại cùng một lúc xa anh.

Toàn bảo Tùng lấy bộ tăng võng của từng người ra, anh rải chiếc tăng xuống dưới, rải chiếc võng lên trên rồi hai anh em cuốn từng người một vào cái võng, tiếp theo cuốn cái tăng bọc bên ngoài rồi lấy dây võng buộc lại. Cả hai đầm đìa nước mắt.

Trung đội trưởng Tiến đã trở lại, anh nói nhỏ:

- Huyệt đã đào xong rồi, mời anh ra kiểm tra!

Bốn cái huyệt đào song song dưới một gốc cây to ba bốn người ôm trụi lá. Tiến bảo:

- Chọn chỗ này để lấy cái cây làm vật chuẩn sau này còn tìm lại.

- Được rồi - Toàn gật đầu - Cậu cho anh em về đưa các liệt sĩ ra đây!

Nghĩ thương anh em nằm trong đất lạnh chẳng có quan tài Toàn bảo Tiến:

- Cậu cho anh em chặt một ít cành cây ken thành cái hầm kèo cho chúng nó.

Bốn nấm mộ dần dần thành hình, Toàn lấy tấm bản đồ ra đánh dấu vị trí mộ. Trời đã quá trưa, anh bảo tất cả những người có mặt đứng thành một hàng ngang trước bốn nấm mộ rồi chắp tay vái, mọi người cũng vái theo. Vẫn nắm hai tay trước bụng giọng Toàn trang nghiêm và đau xót:

- Kính thưa hương hồn bốn liệt sĩ! Các đồng chí đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đất nước sẽ ghi công các đồng chí! Toàn dân sẽ mãi mãi nhớ đến các đồng chí! Còn chúng tôi thề sẽ chiến đấu đến cùng để trả thù cho các đồng chí! Một phút mặc niệm, bắt đầu!

Tất cả lặng yên cúi đầu.

- Thôi! - Toàn hô và quay lại - Tiến cho anh em về xe, còn nhiều việc phải làm đấy. À! Bảo cậu nào khéo tay làm cho anh em cái mộ chí chiều nay ra cắm vào đây nhé. Thôi ta về đi!

Mọi người lục tục ra về, chỉ còn Tùng vẫn đứng lặng người bên mấy nấm mộ. Bỗng anh quỵ xuống như người không còn sức lực, anh bò tới ôm lấy từng nấm mộ, miệng thầm thì như người mê sảng mãi cho đến khi trung đội trưởng Tiến ra kéo về xe.

Vừa ở chỗ xe 388 về gần đến xe mình Hiển và Thận đều ngỡ ngàng vì Tình ra đón báo là có khách. Quái lạ! Sao lại có khách vào lúc này, khách là ai mà mò ra tận bãi bom B52 thế này chứ? Cả hai vội rảo bước về xe.

Ngồi cạnh xe anh là hai người: một cao, đen trạc ngoài bốn mươi; một thấp nhỏ, trắng trẻo và cũng cỡ tuổi Thận. Thấy hai người về, người lớn tuổi đứng dậy giơ tay bắt rồi tự giới thiệu:

- Tôi là Nguyễn Bá Trác, trợ lý xe tăng quân khu; còn đây là đồng chí Nhơn, trợ lý tác chiến. Chúng tôi có nhiệm vụ đón các đồng chí ở đây.

Hiển mừng ra mặt:

- À! Thế ra từ hôm đi chúng tôi vẫn liên lạc với quân khu qua anh phải không? - Thấy Trác gật đầu, Hiển tiếp - Tôi là Hiển, phái viên của trung đoàn 203 đi với đại đội Bốn. Còn đây là đồng chí Thận, đại đội trưởng.

Cả bốn người bắt tay nhau lần nữa, Trác thân mật:

- Chúng tôi đã đợi các anh ở đây mấy hôm rồi. Tôi ở trên Bốt Đỏ kia kìa - Anh chỉ tay về hướng Nam - ở đó hầm của Mỹ còn tốt lắm. Sáng nay thấy B52 nó đánh chỗ này, tôi căn bản đồ đoán là các anh dính nên vội đến đây ngay. Tình hình đại đội thế nào, thương vong có nhiều không?

Thấy Hiển hất đầu về phía mình, Thận vội báo cáo:

- Báo cáo anh! B52 đã ném trúng đội hình đại đội, hiện tại mất một xe, hy sinh bốn đồng chí, không có ai bị thương.

Nhìn vẻ mặt bi quan của Thận, Trác động viên:

- Thế là may đấy! B52 ném trúng đội hình mà chỉ bị có vậy là phúc lớn lắm rồi. Nói nhỏ với các anh - Anh nhìn quanh - Đại đội xe bơi nước đi sau các anh mấy ngày để cùng vào đây ấy, cháy không sót chiếc nào. Các anh đi đợt vừa rồi là nhanh đấy! Tôi cứ tưởng hàng tháng nữa mới vào đến đây ấy chứ!

Vẻ hơi nôn nóng, Hiển hỏi:

- Thế nhiệm vụ tiếp theo của chúng tôi là gì? Đêm nay phải cơ động đi khỏi chỗ này chứ nếu ở đây nó "chần" cho trận nữa thì gay to!

Trác gật đầu:

- Rồi tôi sẽ phổ biến nhiệm vụ cho các anh. Bây giờ sơ bộ như thế này: chiến dịch Quảng Trị đã mở được mấy ngày, sau mấy ngày đầu thuận lợi đến nay ta đang gặp khó khăn và vẫn chưa chiếm được Đông Hà. Vì vậy thời cơ sử dụng đại đội Bốn ở hướng Tây này chưa đến. Quân khu quyết định các đồng chí chưa vào Đường 12 vội mà sẽ cơ động vào một vị trí an toàn để bảo toàn lực lượng - Anh quay sang Thận - Bản đồ của anh đâu lấy ra đây!

Thận trèo lên xe lấy chiếc bản đồ, Trác mở ra lấy đầu ngón tay trỏ vàng khè khói thuốc chỉ rất thành thạo:

- Hiện nay chúng ta đang ở chỗ này, đây gọi là cây số 90 Đường 14, đi thêm một cây nữa là ngã ba Chín Mốt rẽ vào Đường 12; nhưng đêm nay ta sẽ đi thẳng vào cây số 108, ở đó có các vị trí trú quân khá an toàn. Tôi sẽ trực tiếp dẫn đường cho các anh.

Đến lúc này Hiển mới hỏi:

- Xin lỗi anh Trác! Trước anh ở đâu mà tôi thấy quen quen.

Trác cười ha hả:

- Thì người nhà cả mà! Tôi trước ở 202, học ở Trung Quốc về! Năm sáu nhăm tôi được tăng cường cho quân khu Trị Thiên này, bỏ nghề thiết giáp từ đó đến nay mới lại được dùng đến đấy.

- Thì ra vậy - Hiển vươn người bắt tay Trác một lần nữa - Chắc hồi ở doanh trại 92 ta đã có dịp gặp nhau.

- Chắc là thế! - Trác gật đầu.

*

Cũng lúc đó tại căn hầm của đội tiền trạm đang có cuộc tụ tập của bộ tứ Xuyên, Bến, Minh và Bình. Thực ra từ sau khi trận bom B52 kết thúc cả Xuyên, Bến và Minh đều như người mất hồn, chúng không dám rời hầm ra ngoài một bước.

Cả ba chỉ ngồi dậy khi Bình đến. Vừa đến nơi Bình đã thì thầm:

- Tao vừa nghe được câu chuyện của cái ông trên quân khu về với ông Hiển và ông Thận, ông ấy bảo ở Đường 12 nó còn đánh mạnh hơn. Kiểu này thì "toi" mất.

Cả ba dỏng tai lên nghe rồi dồn dập hỏi:

- Ông ấy còn nói gì nữa?

- Ông ấy bảo mức độ ác liệt thế này đã ăn thua gì, cái đại đội xe tăng bơi đi sau mình mấy ngày bị đánh cháy không còn chiếc nào, người cũng hy sinh gần hết ngay bên Lào ấy.- Cả bọn trợn tròn mắt, Bình lại thì thầm - Ông ấy bảo đại đội mình may đấy, hành quân đúng vào lúc quân Mỹ mải lo đối phó ở Quảng Trị nên nó mới lơi lỏng đường dây 559. Tao không hiểu rồi đây còn ác liệt đến thế nào nữa.

Chiều tối, các xe trong đại đội đã xếp thành đội hình hàng dọc ngang chỗ xe 388 bị lật, sau khi dừng xe nép vào bên đường tất cả lục tục xuống xe kéo vào chỗ mộ bốn người đồng đội của họ. Họ đi lặng lẽ, ngay cả những anh mồm mép thường ngày liến thoắng giờ cũng im như thóc, mấy chú pháo hai mắt vẫn đỏ hoe. Nguyễn Bá Tùng đã ở bên bốn ngôi mộ từ lúc nào, anh đang sửa lại các tấm mộ chí cho ngay ngắn.

Thấy mọi người đã đến đủ đại đội trưởng Thận hô:

- Thành ba hàng ngang. Tập hợp!

Mọi người nhanh chóng đứng vào vị trí. Chính trị viên Đán bước lên, anh hắng giọng mấy lần mới nói thành lời:

- Kính thưa hương hồn các liệt sĩ! Thưa toàn thể các đồng chí! Hôm nay, bom đạn quân thù đã cướp đi của chúng ta bốn người đồng đội; các đồng chí Lược, Luyến, Kiểm, Hùng đã hy sinh! Đây là một tổn thất vô cùng to lớn của đơn vị chúng ta nhưng chúng tôi mong rằng mỗi chúng ta hãy biến đau thương thành hành động, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Vĩnh biệt các đồng chí, chúng ta thề sẽ chiến đấu đến cùng để trả thù cho những đồng đội thân yêu của chúng ta. Một phút mặc niệm, bắt đầu!

Mọi người im lặng, cúi đầu. Giật khẩu AK trong tay Đạt, đại đội trưởng Thận mở khoá an toàn, kéo trọn một băng đạn lên trời rồi quay lại:

- Thôi! Xe nào về xe đấy! Chuẩn bị xuất phát!

Vị trí trú quân mới của đại đội nằm bên cạnh một con suối lớn, cách đường tuyến bốn mươi phút đi bộ, cách sân bay A So chừng ba cây số. Từ ngoài đường tuyến đi vào càng sâu lòng suối càng hẹp lại và dãy đồi hai bên bờ cũng cao dần lên. Rừng ở đây còn khá rậm rạp, những tán cây rừng che rợp cả trên bờ và dòng suối.

Công việc đầu tiên phải tiến hành ngay là làm hầm. Thật may, ở đây có rất nhiều những căn hầm cũ, chỉ cần sửa sang lại chút ít là sử dụng được ngay. Chỉ trong vòng hai ngày đã cơ bản hoàn thành hệ thống hầm hào sinh hoạt: mỗi xe có một hầm chữ A, "xê bộ", tổ thợ và tổ đài có hầm riêng, Ban chỉ huy đại đội ngoài hai hầm ngủ còn có cả một hầm thùng rộng để hội họp.

Xong hầm người đến hầm xe. ở đây đất đồi nhưng nằm ven suối nên cũng khá mềm, nhiều chỗ lại tận dụng được công sự cũ của các loại xe pháo nên công việc cũng không vất vả lắm, chỉ sau hai ngày nữa các xe đã có đủ hầm.

Đề yêu cầu tất cả các xe làm bảo dưỡng cấp hai và củng cố về mặt kỹ thuật, các nắp truyền động xe lại bung lên, cánh lái xe và tổ kỹ thuật lại tất bật suốt ngày nhưng mặt mũi tươi hơn hớn, ồn ào nhất là xưởng gò lá chắn bùn do kỹ thuật viên Tuyết phụ trách.

Ven suối, rau dớn, rau sam đá mọc đầy, trên bờ rau tàu bay, lá bứa cũng sẵn, dưới suối còn có thể bắt được cua cá, mấy chú pháo hai đã quen tay nghề nên các bữa ăn cũng đỡ đơn điệu hơn những ngày đang hành quân.

Mọi việc cứ tuần tự trôi một cách bình lặng nếu không có hai bất ngờ xảy đến.

Bất ngờ thứ nhất là việc kiểm kê lương thực, thực phẩm.

Vừa mới ổn định xong chỗ ăn, chỗ ở thì quân khu cử người đến kiểm kê lương thực, thực phẩm. Sau một cuộc hội ý ngắn gọn đoàn cán bộ của quân khu đến từng xe để kiểm kê, ghi chép tỷ mỷ từng thứ một: gạo còn bao nhiêu cân; thịt hộp bao nhiêu, loại gì? Rồi lương khô, đường sữa, mỳ chính, bột trứng... tất tần tật phải lôi ra cho họ kiểm tra.

Chỉ có quản lý Minh là hơi "nghi nghi" cuộc kiểm kê này, với bản năng nghề nghiệp cậu lờ mờ đoán rằng sau cuộc kiểm kê sẽ là một sự thay đổi, chắc chắn rằng không có chuyện ăn uống vô tư, thoải mái như trước. Và cậu đi đến một quyết định: "Không thể khai báo hết mọi thứ, phải có chút gì để dự trữ chứ!".

Quyết định thế rồi, nhân lúc ông đoàn trưởng mải nói chuyện với đại đội trưởng cậu chạy ù về "xê bộ" xách luôn hai thùng lương khô, một hòm thịt hộp và mấy thứ linh tinh đem giấu vào một căn hầm bỏ hoang; sau đó cậu chạy tắt đồi đến báo cho mấy xe ở gần "xê bộ" tìm cách giấu bớt lương thực, thực phẩm đi và báo hộ cho những xe khác. Xong xuôi cầm cuốn sổ tháp tùng đoàn kiểm kê đi làm việc.

Bản năng nghề nghiệp của Minh quả không sai. Ngay sau khi kiểm kê xong ông Trác tuyên bố trước tất cả cán bộ đại đội:

- Từ hôm nay, các đồng chí đã chính thức trở thành Quân giải phóng miền Nam thuộc Quân khu Trị Thiên và vì vậy chúng ta cũng phải sống theo chế độ của Quân giải phóng. Mặc dù ở tương đối gần hậu phương nhưng Quân khu Trị Thiên chúng ta, tức là B4 cũng khó khăn, gian khổ không kém bất cứ chiến trường nào. Do đó, từ ngày hôm nay tiêu chuẩn của các đồng chí như sau - Ông dừng lại liếc nhìn hết lượt mọi người rồi dằn từng tiếng - Gạo sáu lạng một ngày, muối bảy lạng một tháng, mì chính bảy mươi gam một tháng; đó là ba thứ cơ bản, những thứ khác có thì cấp không thì thôi. Toàn bộ số lương thực thực phẩm kiểm kê hôm nay coi như quân khu đang gửi các đồng chí, các đồng chí cần tính toán cẩn thận để sử dụng cho đúng tiêu chuẩn, nếu sử dụng quá tiêu chuẩn thì sẽ bị trừ vào tháng tiếp theo.

Thấy mọi người im lặng có vẻ ngỡ ngàng, ông tỏ vẻ thông cảm:

- Tôi cũng biết các đồng chí bị bất ngờ vì đang hưởng tiêu chuẩn bộ đội xe tăng ngoài Bắc rất cao, nhưng vào đây rồi ai cũng phải thế. Tôi cũng xin thông báo với các đồng chí luôn để các đồng chí biết: đây đang là mùa khô việc cung cấp còn thuận lợi thì chúng ta mới được như thế này. Còn ít bữa nữa sang mùa mưa tiêu chuẩn sẽ tiếp tục bị giảm đi, giảm bao nhiêu thì cũng chưa biết được nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào công tác tiếp vận của hậu phương.

Không ai nói một câu nào nhưng tất cả đều biết rằng một giai đoạn mới của cuộc đời họ đã bắt đầu với những thử thách mới ngoài sự ác liệt của bom đạn mà họ đã từng biết tới.

Bất ngờ thứ hai là việc "mất tích bốn người" xảy ra sau hôm kiểm kê vài ngày.

Chiều hôm đó chính trị viên phó Toàn - người phụ trách bộ phận "xê bộ" không thấy quân khí viên Xuyên, cơ công Bến và quản lý Minh về ăn cơm. Thực ra mấy hôm nay bận tối mắt tối mũi nên anh cũng chẳng để ý lắm đến vấn đề quân số. Sau hôm bắt gặp ba thằng sợ đến "vãi đái ra quần" trong trận B52 đánh vào đội hình anh đã luôn quan tâm, gần gũi động viên chúng. Vào đây thấy mấy thằng đã trở lại bình thường, cùng anh em đào hầm đào hố tích cực lắm nên anh nghĩ rằng nỗi sợ của chúng đã qua. Hôm kiểm kê thấy thằng Minh săm sắn nhiệt tình lại khôn ngoan giấu được khá nhiều lương thực, thực phẩm làm dự trữ cho đại đội anh đã thấy phấn khởi và ít để mắt đến chúng hơn. Hôm nay cũng vậy, thấy chúng không về ăn cơm anh nghĩ bụng: "Chắc lại la cà đâu đó thôi", rồi bảo mấy đứa tổ đài để phần cơm cho chúng nó.

Đến tối, có việc cần hỏi quản lý Minh, anh bảo lái xe Giỏ đi gọi. Đi một hồi về Giỏ báo cáo không thấy Minh và cả Xuyên, Bến đâu anh mới cầm đèn pin đi vòng một lượt trong đại đội để tìm. Vẫn không thấy anh quyết định về hầm của chúng để kiểm tra.

Vào hầm của ba thằng kiểm tra Toàn phát hiện thấy không còn cái ba lô nào nữa, giữa sạp nằm anh thấy một cái túi cơm đặt ngay ngắn trên tờ giấy. Trên tờ giấy là mấy dòng nguệch ngoạc:

"Kính gửi anh Toàn và các anh trong đại đội.

Em xin lỗi các anh, nhà em chỉ có một mình, em mà chết thì bố mẹ em cũng không sống được nên em phải về. Còn mười gói mỳ chính của đại đội em xin gửi lại anh chia cho các xe hộ em. Minh".

Đọc xong tờ giấy anh choáng người chạy vội về hầm chỉ huy, đúng lúc đó Tình - pháo thủ xe 386 cũng đang đứng trước cửa hầm miệng lắp bắp:

- Báo cáo "đại trưởng" thằng Bình lái xe đi đâu cả ngày giờ chưa thấy về.

Đại đội trưởng Thận đang nghe đài nên thủng thẳng:

- Chắc nó sang xe nào chơi mải vui chưa về thôi. Cậu lên chỗ "xê bộ" xem, nó hay lên chỗ thằng Xuyên chơi lắm.

Tình định quay đi thì Toàn bảo:

- Thôi! Không phải đi tìm nữa! Chúng nó đào ngũ rồi.

Cả đại đội trưởng Thận và chính trị viên Đán cùng giật thót người sửng sốt:

- Sao? Ông bảo sao? Thằng nào đào ngũ?

Chìa mảnh giấy về phía Thận, Toàn nói:

- Đây! Thằng Bình, thằng Xuyên, thằng Bến và thằng Minh. Mấy hôm nay tôi vẫn thấy thằng Bình lên chỗ thằng Xuyên chơi, cứ nghĩ quê quán, bạn bè đến thăm nhau không ngờ chúng bàn nhau đi trốn. Tai hại quá chừng!

Thận nhổm hẳn dậy:

- Thế có biết chúng nó đi từ lúc nào không?

Tình nhăn nhó:

- Chắc là từ tối hôm qua. Đêm qua cũng không thấy thằng Bình về ngủ, em cứ nghĩ nó nằm đâu đó hay nằm trong xe nên không đi tìm.

Thận thừ người:

- Thế thì nó đi từ tối hôm qua rồi. Giờ có đuổi cũng không tìm được chúng nó.

Toàn hối hận:

- Tôi cũng chủ quan quá. Hôm B52 đánh thấy ba thằng sợ "vãi đái ra quần" tôi cũng nghi nghi; từ hôm đó vẫn theo sát động viên thấy cũng có nhiều tiến bộ, công tác cũng tích cực lắm. Từ hôm qua đến nay bận quá không để mắt đến chúng nó được. Thế là...

Không để anh nói dứt câu Đán an ủi:

- Thôi, anh Toàn ạ! Nếu chúng đã muốn trốn thì chẳng có cách nào giữ chúng lại được. Vấn đề của chúng ta bây giờ là những anh em còn lại ấy.

Đại đội trưởng Thận cũng thêm vào:

- Cũng may có mỗi thằng Bình là thành viên kíp xe chứ không thì gay go to - Quay sang phía Tình - Bây giờ cậu đi gọi tất cả các cán bộ trung đội và trưởng xe lên đây cho tôi.

Cả Đán và Toàn đều gật đầu đồng tình, trong tình huống này chỉ có các trưởng xe mới quản nổi chiến sĩ của mình một cách sâu sát nhất.

Chỉ trong vòng chưa đầy một tuần mà mất đến tám người, Thận và Đán lo lắm. Tối hôm qua sau khi gọi các trung đội trưởng và trưởng xe lên giao nhiệm vụ quản lý bộ đội thuộc quyền, hai người còn ngồi bàn bạc với nhau mãi. Quả đúng như Đán nói: nếu người ta đã muốn trốn và quyết trốn thì chẳng có biện pháp nào giữ chân người ta được. Vì vậy chỉ có biện pháp giáo dục, động viên làm sao cho mọi người thấy hết trách nhiệm của mình, của gia đình trước Tổ quốc và nhân dân; thấy được đi chiến đấu ở chiến trường là niềm vinh dự của mỗi người - đặc biệt là thế hệ thanh niên; từ đó tự giác ở lại đơn vị, tự giác làm tròn nhiệm vụ. Để làm được điều này không chỉ có các bài học chính trị mà còn hàng loạt các biện pháp giáo dục khác. Hai người nhất trí với nhau: đã cơ bản hoàn thành nơi ăn ở rồi thì dần dần phải đưa các hoạt động của đơn vị vào nền nếp, tổ chức các hoạt động thi đua giữa các trung đội, giữa các xe, tránh tình trạng xe nào biết xe ấy rồi cứ tối đến là rúc vào hầm nói chuyện linh tinh dễ phát sinh tư tưởng tiêu cực; trước mắt ngay từ ngày mai sẽ tổ chức ăn theo bếp trung đội và "xê bộ", vừa đảm bảo sinh hoạt chung mà cũng tiết kiệm được lương thực thực phẩm.

Hai anh em cứ rì rầm nói chuyện cho đến gần sáng, thực ra từ ngày về cùng đơn vị tới nay họ đã có lúc nào tâm sự được với nhau đâu.

*

Cuộc sống ở "hậu cứ 108" dần dần đi vào nền nếp, bộ đội đã dần quen với cuộc sống chiến trường, dư âm của trận B52 cũng qua đi, bốn thằng bỏ trốn. Ba thằng là Xuyên, Bến, Minh đã quay về đơn vị. Chúng cũng được đưa ra kiểm điểm nhưng vì đã thành khẩn nhận khuyết điểm và tự giác trở về đơn vị nên hình thức kỷ luật cũng nhẹ nhàng. Thay thế cho Bình lái xe 386 là Thái người Thanh Hoá cũng là một tay lái cứng; chi bộ đại đội cũng đã họp để đánh giá toàn diện đợt hành quân vừa qua và ra nghị quyết lãnh đạo đơn vị trong hoàn cảnh mới; chi đoàn thanh niên đã tổ chức một buổi diễn đàn rất sôi nổi để mọi người nói lên suy nghĩ thật của mình. Nói chung tình hình đơn vị đã trở lại ổn định.

Ông Trác lại từ quân khu xuống mang theo một quyết định của Bộ Tư lệnh Quân khu: thành lập tiểu đoàn xe tăng trực thuộc Quân khu Trị Thiên mang phiên hiệu Tiểu đoàn 408. Tiểu đoàn gồm hai đại đội: đại đội xe tăng Bốn và đại đội xe tăng bơi nước Ba đang trên đường hành quân vào. Ban chỉ huy gồm có: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Bá Trác, chính trị viên Phạm Công Đính và tiểu đoàn phó Phạm Ngọc Bảng đang đi cùng đại đội Ba. Hiển trở về trung đoàn nhận nhiệm vụ mới. Đi theo ông Trác xuống là một số cán bộ, chiến sĩ thông tin, công binh, quân y hình thành nên bộ phận "dê bộ" để giúp việc. Chiếc xe "Vọt tiến", tổ đài 15 "oát" và tổ thợ đi cùng "xê Bốn" cũng được rút về "dê bộ".

Xuống được ít hôm ông Trác tổ chức một đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa bên Đường 12, ông bảo: "Đằng nào ta chả phải đánh địch ở đó nên cứ đi nghiên cứu trước là hơn". Ông xác định nếu bước vào chiến đấu thì nhiệm vụ trước mắt của "xê Bốn" là tiêu diệt cứ điểm Động Tranh và chi khu Bình Điền, hai căn cứ quan trọng bảo vệ hành lang phía tây của cố đô Huế nên cần nghiên cứu kỹ.

Hậu cứ 108 quả là một nơi an toàn, suốt từ hôm "xê Bốn" đến không thấy thằng nào nhòm ngó đến; ban ngày thằng OV10, ban đêm thằng AC130 vẫn mải miết săn ngoài đường tuyến, còn trong này thì như một ốc đảo bình yên. Sau hơn tháng lao động, tình trạng kỹ thuật xe pháo đã được củng cố ngon lành, những nụ cười cũng rạng rỡ hơn trên những gương mặt trẻ, những người lính đã dạn dày hơn và đang sẵn sàng đương đầu với những thử thách mới.

Cuối tháng 4 năm 1972.

Trên mặt trận Quảng Trị ta đã chiếm được thị xã Đông Hà và một số địa bàn quan trọng phía bắc sông Thạch Hãn, quân ta đã áp sát và chuẩn bị đánh chiếm thị xã Quảng Trị, thời cơ tiến công Huế đã đến. Đại đội Bốn nhận lệnh rời khỏi "hậu cứ 108" vào Đường 12 sẵn sàng đánh địch.

Đã quen với những lần cơ động và nếp sống chiến trường, mọi công việc chuẩn bị rất nhanh, lệnh trên đến lúc trưa thì chiều tối đại đội đã sẵn sàng xuất phát. So với cuộc hành quân từ Quảng Bình vào đây dạo trước thì cuộc hành quân này ngắn hơn nhiều nhưng chắc chắn là khó khăn, ác liệt thì không kém.

Thứ nhất, về mặt địa hình, Đường 12 là con đường độc đạo nối Huế với A Lưới mới được mở đầu những năm sáu mươi, đây là con đường từ độ cao ngót nghìn mét xuống đồng bằng nên đèo dốc rất nhiều và hiểm trở. Gần như cả chiều dài con đường một bên là ta luy dương cao ngất, một bên là vực thẳm sâu hun hút; lại là đường độc đạo, không có các tuyến đường tránh nên sử dụng xe tăng rất khó khăn, khi đang cơ động mà bị chặn đánh cũng khó tìm nơi tránh trú. Mặt khác, do là vùng tranh chấp lại không phải là đường vận chuyển của 559 nên con đường không được tu sửa thường xuyên, nhiều đoạn bị hỏng nặng, đưa xe tăng có trọng lượng lớn đi qua sẽ rất nguy hiểm.

Thứ hai, đây là cửa ngõ phía tây của thành phố Huế, từ A Lưới xuống Huế chỉ chưa đầy sáu mươi cây số, nếu tính đường chim bay chỉ trên dưới ba mươi cây nên địch rất cảnh giác và thường xuyên tăng cường lực lượng phòng thủ. Các cứ điểm Động Tranh, Bình Điền đều rất kiên cố, có quân số đông và hoả lực mạnh, được coi là "thành đồng vách sắt" của Huế. Ngoài ra không quân địch hoạt động với cường độ cao, khi cần thiết pháo hạm ngoài biển Đông cũng có thể bắn vào.

Sau khi đi trinh sát về Thận đã bàn bạc kỹ với các cán bộ trong đại đội, anh dự kiến nếu vào Đường 12 thì phải bố trí trú quân ở khu vực Sông Bồ - tức khoảng cây số 20 tính từ ngã ba Bốt Đỏ. Từ đó xuống Huế chỉ có bốn mươi cây, cách Động Tranh khoảng mười cây và đặc biệt là địa hình cho phép giấu quân tốt nhất. Anh dự kiến từ "108" nếu đi nhanh thì một đêm, còn không thì hai đêm sẽ đến vị trí đó.

Năm giờ chiều bộ đội đã ăn cơm xong và tập trung nghe phổ biến mệnh lệnh hành quân. Sau khi hạ đạt các nội dung về đường hành quân, đích đến, chiều dài đường hành quân, đội hình hành quân... Thận nhấn mạnh một số tình huống có thể gặp trên đường:

- So với đợt hành quân trước đợt này hoạt động của không quân địch mạnh hơn rất nhiều, đặc biệt là AC130 thường canh suốt đêm; cho đến nay qua tìm hiểu chúng ta đã hiểu biết hơn về loại máy bay này, chúng chỉ có súng đại liên 20 ly và cối 40 ly nên có thể khẳng định là không thể bắn cháy xe tăng, tuy nhiên nó có thể gọi phản lực đến đánh. Vì vậy nếu gặp AC130 chúng ta cần bình tĩnh, đóng hết các cửa lại tìm chỗ kín đáo giấu xe, trường hợp bất đắc dĩ vẫn có thể tiếp tục đi cho đến khi tìm được vị trí thích hợp. Một vấn đề nữa cần hết sức lưu ý là đường hành quân rất nhiều chỗ sạt lở, hư hỏng nên các đồng chí lái xe phải hết sức cẩn thận, trường hợp cần thiết trưởng xe phải xuống chỉ huy xe. Vấn đề thứ ba xin nhắc các đồng chí cần rút kinh nghiệm đợt trước để giữ bí mật được tốt hơn, ở bên ấy các vị trí giấu quân không được kín đáo như ở đây, lại rất gần địch nên nếu chúng ta không cảnh giác giữ bí mật tốt thì thiệt hại rất khó lường. Về đội hình hành quân chỉ có một thay đổi nhỏ là: xe 380 sẽ đi cuối cùng cùng với tổ thợ do anh Đề phụ trách để giải quyết các sự cố kỹ thuật trên đường hành quân. Nhiệm vụ như vậy các đồng chí đã rõ cả chưa?

- Rõ! - Tiếng đáp lại đồng thanh của cả đại đội.

- Về xe! Chuẩn bị xuất phát! - Thận ra lệnh.

Lần lượt từng xe rời khỏi hầm, tăng ga lao ra đường suối, khói xả phun ra mù mịt một góc rừng. Đi hết mấy cây số đường suối họ ngược ra phía bắc và mới hơn tám giờ đã đến ngã ba Chín Mốt (km 91 Đường 14), Thận cho dừng lại nghỉ, anh nghĩ bụng: "Chắc đêm nay sẽ đến sông Bồ".

Hết giờ giải lao đoàn xe rẽ phải bắt vào Đường 12, và chỉ một lúc sau đã đến chân dốc Bốt Đỏ. Dốc Bốt Đỏ không dài lắm nhưng độ dốc khá cao, đang là mùa khô xe tăng qua một cách dễ dàng nhưng nếu là mùa mưa chắc sẽ gặp khó khăn. Leo hết dốc Bốt Đỏ là đoạn đường tương đối tốt nên tốc độ hành quân khá nhanh. Tuy nhiên càng đi đường càng khó, nhiều chỗ hẹp chỉ vừa hai băng xích đi qua.

Đang căng mắt nhìn đường để chỉ huy xe, Thận không để ý lắm đến trên không, bỗng anh giật bắn mình vì một loạt tia chớp như hoa cà hoa cải ngay trước mũi xe, anh biết đó là AC130 nên tay mở chốt sập cửa trưởng xe miệng hét:

- AC130 đấy! Đóng cửa lại!

Tất cả các cửa xe vừa được đóng lại thì loạt đạn thứ hai đã trùm lấy xe, nhìn qua kính mặt bằng anh chỉ thấy lửa loé lên từng chập cùng những tiếng nổ chát chúa. Thận nghĩ: "Chắc nó có thiết bị ổn định thật, nó vẫn bay chứ có đứng yên đâu mà đạn của nó cứ trúng một chỗ như thế này". Thái đã tìm được một chỗ hõm vào ở ta luy dương, nó cho xe dạt vào nép mình vào ta luy. Chắc góc nhìn đã bị hạn chế chiếc máy bay chuyển làn về các xe sau.

Đi sau xe đại đội trưởng, khi nhìn thấy một dây lửa từ trên trời phóng xuống tháp pháo xe 386 Tiến biết ngay là bị AC130 chặn đánh, anh lập tức ra lệnh:

- Tất cả đóng cửa! Hoả tìm chỗ dừng xe!

Hoả thấy một cái mang cá bên đường hai bên lau lách um tùm bèn đưa xe vào rồi tắt máy. Tiến ngoảnh nhìn lại phía sau, các xe sau cũng đang tìm chỗ ẩn nấp. Thấy nó thôi không bắn nữa Tiến chắc mẩm nó chỉ phát hiện ra một xe 386 và đã khấp khởi mừng thầm thì bỗng loá mắt bởi những chớp lửa đang toé như hoa cà hoa cải ngay trước mắt. Tiến nhắm chặt hai mắt và đưa tay ép chặt mũ công tác lại, nhưng anh chợt nhớ ra đây chỉ là đạn 20 ly nên lại mở mắt ra nhìn. Lửa vẫn loé lên từng chập trên tháp pháo xe anh, Tiến cười thầm: "Mày bắn thế chứ bắn nữa thì cũng chỉ như gãi ghẻ thôi. Nhưng tại sao xe mình đã đỗ vào chỗ tương đối kín mà nó vẫn phát hiện ra, chắc chắn nó có thiết bị trinh sát hồng ngoại rồi; thế thì những xe sau chắc cũng sẽ bị nó hỏi thăm!".

Đúng như vậy, bắn vào xe Tiến chừng một phút thì nó chuyển làn sang các xe sau. Cứ thế nó vòng đi vòng lại, hết bắn 20 ly lại đến cối "xuyên thùng" dọc đội hình. Gần một tiếng đồng hồ sau thì nó bỏ đi không biết là do hết đạn hay bắn mãi không có kết quả nên nó chán.

Đợi một lát cho tắt hẳn tiếng động cơ, đại đội trưởng Thận xuống xe đi dọc đội hình kiểm tra một lượt, đến xe 390 anh khen:

- Chính trị viên tìm được chỗ giấu xe khéo quá, cả đại đội bị nó bắn cho tơi bời, mỗi xe anh là không bị thôi.

Đán cười hỉ hả:

- Chắc là mấy bụi giang này che kín quá.

Đi gần cuối đội hình nên khi biết bị AC130 chặn đánh xe 390 vẫn có điều kiện tìm một chỗ giấu xe rất kín - đó là một hố bom cũ nằm ngay ven đường, bên trên miệng hố bom là một búi giang lớn. Về số một, Tập từ từ cho xe bò xuống, chiếc xe nằm gọn trong lòng hố bom, toàn bộ phần thân xe được những cây giang ken khít che kín. Có lẽ nhờ đám cây này mà xe 390 che được mắt thằng AC130, cả đại đội bị nó "hỏi thăm", riêng xe 390 vẫn "bình an vô sự".

Đại đội trưởng Thận bảo:

- Cũng may không ai việc gì anh Đán ạ! Anh bảo cậu Tập cho xe lên đi rồi ta tiếp tục hành quân.

- Vâng! - Đán trả lời rồi giục - Tập, cho xe lên đường đi!

Tập nổ máy, gài số lùi định cho xe ra khỏi hố bom thì thấy xe không nhúc nhích, anh tăng chân dầu song xe chỉ rung lên từng chập nhưng vẫn nằm yên; nền đất thành hố bom tơi vụn ra dưới hai băng xích làm nó chuội đi không bám được, càng to chân dầu xích càng quay nhanh tung đất bụi mù nhưng xe vẫn ỳ ra. Tập hơi cuống, anh bảo chính trị viên:

- Xe mình bị lầy rồi anh Đán ạ!

Hai anh em xuống xem xét, đất thành hố bom đã bị xích cào đi, đuôi xe gần như chạm vào một cái bờ dựng đứng, Đán bảo:

- Phải nhờ xe kéo thôi! - Anh quay lên xe gọi - Tráng đâu, chặn xe 380 lại. Nguyên chạy lên báo anh Thận biết xe mình bị lầy.

Nguyên lao vụt về phía trước, một lát sau nó quay về thở hồng hộc:

- "Đại trưởng" bảo cứ tổ chức cứu kéo đi, anh ấy cho các xe tìm chỗ giấu xe kín hơn để đợi.

Tráng đứng hẳn ra giữa đường giơ tay ra hiệu cho xe 380 dừng lại, từ trên xe đại đội phó Đề nhảy xuống, anh xem xét một lát rồi bảo Tập:

- Phải kéo thôi - Quay lên trên Đề gọi - Lạc đâu, cho xe tiến sát lên đây! Còn Tráng, Nguyên dỡ cáp xuống.

Lạc cho xe tiến sát đến mép hố bom, Tráng và Nguyên loay hoay móc cáp vào móc kéo đầu xe Lạc, Đề gọi cả Tập lại thống nhất:

- Bây giờ ta phải kéo lùi. Hai cậu chú ý theo chỉ huy của tôi.

Anh bước về phía trước mũi xe 390, tay phải bấm đèn pin vào tay trái, lòng bàn tay trái mở ra hướng về phía trước. Tập và Lạc đã nổ máy, gài số lùi. Khi thấy hai xe đã gài số xong, Đề ẩy mạnh bàn tay trái về phía trước, hai cái động cơ cùng gầm lên, xích xe 380 cào xuống mặt đường toé lửa, xích xe 390 cũng quay tít và rùng mình một cái rồi từ từ lên khỏi hố bom. Phía sau Lạc vẫn cho xe lùi, bỗng cậu thấy xe mình bị khựng lại. "Chắc đuôi xe mình chạm ta luy rồi" - Lạc nghển cổ lên nhìn về phía sau; một cái gì đó đen ngòm áp sát vào má, Lạc định thụt đầu xuống nhưng không kịp.

Khi xe đã trở lại thăng bằng Tập cảm thấy như xe mình vừa đụng vào một cái gì đó, với phản xạ của một lái xe có kinh nghiệm Tập lập tức dừng xe. Từ phía trước Đề cũng đã dập đèn xuống báo dừng xe rồi nói to:

- Tráng, Nguyên đâu, vào tháo cáp đi!

Hai thằng bước vào vừa định tháo cáp ở móc kéo đầu xe 380 thì Tráng hét thất thanh át cả tiếng động cơ:

- Tập! Cho xe tiến lên đi!

- Sao? Tiến lên để mà xuống hố à? - Từ phía trước Đề quát.

- Tiến lên đi! Nòng pháo xe mình đè vào đầu thằng Lạc đây này! - Tráng hét lạc cả giọng.

Nhảy ba bước Đề đã vọt đến đuôi xe 390, dưới ánh đèn pin của anh là một cảnh tượng hãi hùng: nòng pháo xe 390 đang đè gí đầu Lạc vào tháp pháo. Nhảy ngược về phía trước Đề quát:

- Tập! Cho xe tiến lên!

Tập vội gài số một và cho xe nhích lên, đầu Lạc từ từ ngoẹo xuống.

Trưởng xe Mai Hồng Trị vội trèo lên xe, hai tay anh xốc nách Lạc kéo mạnh lên khỏi cửa lái xe và đặt ngồi dựa vào tháp pháo. Dưới ánh đèn pin đầu Lạc trông như phình ra, Trị hét:

- Gọi y tá mau!

Đề cũng nhảy lên đầu xe, anh nắm lấy tay Lạc bắt mạch, những chuyển động hết sức mờ nhạt lướt qua đầu ngón tay anh, anh bảo Trị:

- Đặt nó nằm xuống hòm dụng cụ!

Cả hai thận trọng đặt Lạc nằm xuống hòm dụng cụ thành xe, Đề ngồi lên bụng Lạc và làm hô hấp nhân tạo.

Y tá Tảo đã đến, anh nhanh nhẹn tiêm cho Lạc một mũi trợ tim và soi đèn vào mắt Lạc, đôi mắt vẫn mở to, vẫn còn một chút gì đó rất mong manh của sự sống, Tảo bảo:

- Anh ấy vẫn còn sống! Bây giờ phải chuẩn bị võng để đưa đi quân y!

Đề độp lại:

- Quân y ở chỗ nào? Cậu có biết không?

Quả thật vừa chân ướt chân ráo đến đây chẳng ai trong đại đội biết trạm quân y ở chỗ nào. Đại đội trưởng Thận đã quay lại, nghe thủng chuyện anh phân công:

- Xe 380 chuẩn bị võng cáng đi, còn Tráng bắn ba phát một báo hiệu cấp cứu, Trung đi gọi cậu Liên lên lái xe 380, tất cả đưa xe vào chỗ giấu. Đêm nay ta nghỉ lại đây.

Tráng chui vào xe lấy khẩu AK hướng lên trời bắn ba phát, đợi một lát sau lại ba phát nữa.

Việc cấp cứu vẫn được tiến hành tích cực, Lạc vẫn nằm thiêm thiếp, nửa đầu bên phải chuyển dần thành màu tím. Từ trong buồng lái 390 nhảy ra Tập lao đến chỗ Lạc nằm, nhìn thấy đầu bạn đã biến dạng anh ngồi thụp xuống, hai tay ôm đầu rên rỉ:

- Tại tôi! Tại tôi! Tôi đã giết nó rồi.

Từ phía sau có mấy bóng người đi tới, một người cất tiếng hỏi:

- Anh em xe tăng có vấn đề gì đấy?

Biết đây là lực lượng bộ binh hay công binh sở tại nên Thận mừng rỡ:

- May quá có các anh ở gần đây. Bọn tôi có một đồng chí bị thương phải đưa đi cấp cứu nhưng chẳng biết quân y ở đâu cả, đề nghị các anh giúp đỡ.

- Được thôi - Người vừa hỏi trả lời - Cách đây gần "một tiếng" có quân y của "căn cứ Hai", chúng tôi sẽ cử người dẫn đường cho các anh.

Võng cáng cũng đã xong, Tảo, Tráng, Chính, Trung lập tức đặt võng lên vai đi như chạy theo người chiến sĩ bộ binh dẫn đường.

Lái xe Liên từ phía trước chạy tới, Thận bảo:

- Cậu lái xe này thay Lạc. Trị đâu, chỉ huy xe tìm chỗ giấu đi. Xe 390 cũng tìm chỗ giấu đi! Gần sáng rồi.

Toàn đại đội chạy thêm chừng hơn cây số nữa rồi tìm chỗ giấu xe trong một cái khe cạn, xoá vết xích, ngụy trang xong thì trời cũng gần sáng.

Ngay từ sáng sớm thằng OV10 đã vè vè soi dọc Đường 12, nó cứ quanh đi quẩn lại như muốn tìm kiếm dấu vết của những mục tiêu mà thằng AC130 bắn hàng giờ đồng hồ không cháy đêm qua; có những lúc nó sà xuống rất thấp như khiêu khích.

Bốn đứa đưa Lạc đi quân y đã về đến nơi, trên tay mỗi thằng là một cành lá vừa che nắng vừa ngụy trang. Vừa chui vào xe Tráng đã báo cáo ngay:

- Báo cáo chính trị viên, Lạc chết rồi ạ!

Cả xe lặng đi không ai nói một lời, dù biết Lạc bị chấn thương rất nặng nhưng trong lòng ai cũng nhen nhóm một chút hy vọng là sẽ cứu được. Cả Đán, Đề và Tập ai cũng như thấy mình có lỗi trong cái chết của Lạc, cuối cùng Đán phá vỡ sự im lặng:

- Thế các cậu chôn cậu ấy ở đâu?

- Bọn em bàn giao giấy tờ của cậu ấy cho quân y căn cứ Hai, ở đó người ta sẽ mai táng và làm mộ chí.

Từ lúc đưa Lạc đi Tập vẫn không nói một lời nào, sau khi giấu xe xong anh cũng không ngủ được. Nằm ngả người trên ghế lái xe anh cứ tự dằn vặt mình, tại sao mình lại đưa xe xuống cái hố bom ấy để đến nỗi phải cứu kéo? Tại sao khi xe vừa lên mình không lập tức dừng xe? Mà Lạc ơi, tại sao em lại thò đầu lên cao thế làm gì?... Biết bao cái tại sao cứ lởn vởn trong đầu óc Tập. Là một lái xe "già", Tập cùng với Hoả, Bình được coi là "cây đa, cây đề" trong đội ngũ lái xe của đại đội, cánh lái xe trẻ coi các anh như người anh lớn trong gia đình, có cái gì vướng mắc là tìm hỏi, nhiều khi không chỉ là những vướng mắc về kỹ thuật. Trong số đó anh quý Lạc nhất, cái thằng đến là ham học hỏi, nhiều câu hỏi của nó làm anh cũng bí. Lúc chúng nó khiêng Lạc đi anh vẫn hy vọng vào một sự thần kỳ nào đó nhưng bây giờ thì hết rồi, hết thật rồi. Tập lẳng lặng dậy làm mọi việc theo chức trách của mình như một người mộng du.

Chiều tối, thằng OV10 vừa cút được một lát, Thận định cho đại đội xuất phát thì thằng AC130 đã ra, nó ngạo nghễ bay thật thấp như chúa tể bầu trời, không coi ai ra gì. Chắc vẫn hậm hực vì đêm qua sau hàng giờ bắn phá mà không thiêu được "con mồi" nào. Nó bay rất chậm nghiêng ngó dọc con đường 12, thỉnh thoảng xả một tràng 20 ly xuống những chỗ nó nghi ngờ. Toàn đại đội vẫn "án binh bất động" đóng cửa ngồi trong xe.

Hơn một giờ sau nó mới chuyển sang hướng khác, đợi một lúc không thấy nó quay trở lại Thận mới lệnh cho xuất phát.

Chặng hành quân hôm nay không dài, chỉ hơn chục cây số nhưng tốc độ cơ động chậm vì đường hẹp, nhiều chỗ sạt lở chỉ vừa đủ cho hai băng xích trườn qua, cánh lái xe đã được quán triệt trước cứ bám sát ta luy dương mà đi nên mấy cái lá chắn bùn tự tạo lại lần lượt bay mất. Quá nửa đêm thì toàn đại đội đến vị trí trú quân mới. Đại đội trưởng Thận gọi Nam và Tiến đến gặp, trong ánh sao mờ mờ anh chỉ:

- Đây là ngầm Sông Bồ, tức là cây số 17 Đường 12. Khi đi trinh sát thực địa tôi và anh Trác đã quyết định chọn làm vị trí trú quân của đại đội ta. Chúng ta sẽ bố trí thành hai khu vực, trung đội Một sẽ ở phía trước bên kia sông Bồ - Anh chỉ tay về phía một ngọn đồi lùm lùm phía trước - Còn trung đội Hai bên này sông - Anh chỉ về phía một cái khe cạn nằm bên phải con đường - ở đó kín lắm. Hai trung đội sẽ cách nhau khoảng hơn hai cây số. Bây giờ các cậu cho trung đội mình về vị trí, xác định vị trí của từng xe rồi cho ngụy trang xoá vết xích đi.

Tiến và Nam lặng lẽ về xe, Nam cho gọi các trưởng xe lên cùng xác định vị trí, còn Tiến cho trung đội vượt ngầm Sông Bồ đi về phía trước.

*

Vị trí trú quân của trung đội Hai là một cái khe cạn mọc đầy giang, cái giống này thuộc họ tre, trúc nhưng chẳng giống họ hàng nhà nó lúc nào cũng vươn thẳng mà lại sống bò. Mỗi bụi giang là hàng trăm cây cứ ngoằn ngoèo bò ken khít vào nhau tầng tầng lớp lớp. Nhìn bụi giang um tùm tối sẫm Nam chợt nảy ra một sáng kiến, anh bảo các trưởng xe:

- Này! Đừng có phát nó đi nhé.

- Không phát thì làm sao mà đưa xe vào được? - Định hỏi.

- Không! Phát nó đi thì phí quá. Bây giờ ta về chặt cây chống nó lên rồi cho xe lùi vào thì có phải được một giàn ngụy trang tự nhiên quanh năm không phải thay lá hay không?

- Hay! Hay! - Cả bọn thốt lên rồi ai về xe nấy.

Quả thật, những cây giang ken khít nhau làm thành một mái vòm rất chắc chắn, lá cây xanh mướt đứng dưới không nhìn thấy trời. Chỉ gần một giờ sau tất cả các xe đã yên vị. Từ ngoài đường tuyến đứng nhìn vị trí trú quân của trung đội mình Nam mãn nguyện lắm.

Bên trung đội Một vượt qua ngầm Sông Bồ gần một cây số đến quả đồi lùm lùm tròn mà đại đội trưởng đã chỉ Tiến cho trung đội dừng lại, anh gọi các trưởng xe và Tình pháo thủ xe 386 lên cùng đi xác định vị trí của từng xe. Quả đồi toàn lau lách tốt ngập đầu người, thỉnh thoảng mới có một lùm cây bụi đứng lẻ loi. Ba người đi quanh một vòng xác định vị trí của từng xe xong, Tiến bảo Tự và Tình:

- Kiểu này chỉ có cách đánh từng cụm le đặt lên xe mà ngụy trang thôi.

- Ở đây thì cũng chỉ còn cách ấy - Trung đội phó Tự đồng tình.

- Nhớ xoá vết xích cho kỹ vào nhé! Hôm qua thằng OV10 soi kỹ lắm - Tiến dặn thêm.

Ba người quay về xe, tiếng máy rộ lên một lúc rồi im hẳn trả lại vẻ yên tĩnh cho con đường độc đạo vắng vẻ.

Nằm trên độ cao gần nghìn mét, lại ở sườn Đông Trường Sơn nên ngày đến với Đường 12 rất sớm. Tình và Đạt đã tranh thủ được một giấc dài nên tỉnh như sáo, chúng nhẹ nhàng mở cửa pháo hai chui ra như không muốn đánh thức đại đội trưởng và hai lái xe. Đứng trên buồng truyền động hai anh em vươn vai hít căng lồng ngực thứ không khí mát lành của buổi ban mai trên sườn Đông Trường Sơn. So với các bạn đồng môn từ Đại học Lâm nghiệp vào Tình sống kín đáo và trầm tính hơn, lúc nào cũng chỉn chu công việc và chẳng khi nào muốn nói về mình, có lẽ vì vậy mà anh được chọn làm pháo thủ xe "đại trưởng". Tình càng ngày trầm lặng hơn và càng quán xuyến hơn đến công việc của xe như một trưởng xe thứ hai.

Hôm nay cũng vậy, sau vài động tác hít thở, Tình bảo Đạt:

- Xe mình ngụy trang vẫn chưa được kín lắm Đạt ạ, anh em mình phải bổ sung cho nó mấy cụm le lên đây - Tình chỉ tay vào mấy chỗ còn tương đối lộ - Bây giờ chú ở trên này, anh xuống đào le đưa lên cho chú đặt vào từng vị trí nhé.

Nhìn Tình xúng xính trong bộ Tô Châu còn khá mới thường ngày vẫn nằm dưới đáy ba lô, Đạt hơi ngạc nhiên:

- Sao hôm nay anh diện thế?

- Ôi dào! Đã vào đến đây sống chết chẳng biết thế nào, để dành làm gì - Tình cười rõ tươi rồi xắn tay áo lên.

Rút cái xẻng to ra khỏi giá Tình nhảy xuống đất xăm xăm bước lại chỗ mấy cụm le độc lập bên vệ đường, cậu nghiêng ngó lựa thế rồi đặt cái xẻng vào sát gốc le, trong bụng nghĩ thầm: "Cụm le to có đất thế này sẽ tươi được mấy ngày đây". Tình đặt chân vào vai xẻng rồi đạp mạnh xuống.

Pháo hai Đạt ngồi chồm hỗm trên buồng truyền động, nó vui vẻ dõi theo từng bước chân của Tình với một niềm yêu mến, cảm phục đến vô bờ. Sống cùng xe với nhau mới được gần năm nhưng Đạt luôn coi Tình là người anh lớn mẫu mực và đáng kính trong gia đình, cái gì hỏi anh cũng biết, việc gì đáng làm dẫu khó đến đâu anh cũng làm, có cái gì ngon anh cũng nhường nhịn cho... Đang miên man với những ý nghĩ vui vẻ Đạt bỗng bật ngửa ra buồng truyền động vì một chớp lửa nhoáng lên ngay dưới chân Tình kèm theo đó là một tiếng nổ lớn. Dứt tiếng nổ Đạt chồm ngay dậy, Tình đã gục xuống ngay bên cạnh bụi le. Đạt quên hết tất cả nhảy xuống đất lao về phía Tình, miệng gào thất thanh:

- Anh Tình! Anh Tình ơi!

Thấy tiếng nổ đại đội trưởng Thận và cả xe đều choàng tỉnh. Thò đầu ra cửa Thận dụi mắt nhìn quanh rồi chỉ với ba bước nhảy anh đã ở dưới đất và lao tới bên Đạt và Tình. Đạt đã lật Tình nằm ngửa lại ngay cạnh đường. Thận thất kinh khi thấy bộ mặt đẹp trai của Tình loang lổ máu, đôi mắt nhắm nghiền, phần ngực cái áo Tô Châu đang mặc trên người lỗ chỗ vết thủng và từ đó những dòng máu đang rỉ ra. Đạt cuống hết tay chân không biết làm gì. Thận quát:

- Vào xe mang hộp thuốc cứu thương ra đây! Trang đâu, gọi y tá đến mau!

Đạt chui vội vào xe gỡ cả cái hộp cứu thương mang ra. Thận thận trọng lau máu trên mặt Tình, anh khấp khởi vì không thấy vết thương nào to lắm. Anh nhẹ nhàng cởi áo cho Tình và không tin vào mắt mình: ngực Tình băm bổ như mặt sàng, từ những lỗ nhỏ trên ngực máu đang rỉ ra cùng với bong bóng theo mỗi nhịp thở khó nhọc của Tình, trên ngực trái có một lỗ nhỏ thôi nhưng máu phun ra từng đợt, từng đợt. Thận bóc vội mấy túi gạc đắp vào những chỗ đang rỉ máu rồi bảo Đạt đỡ Tình lên lấy băng cuốn mấy vòng thật chặt.

Trang và y tá Tảo đã chạy về đến nơi. Tảo sà ngay xuống chỗ Tình, anh vẫn đang thở một cách khó nhọc. Tảo mở túi thuốc tiêm cho Tình một mũi trợ sức rồi lấy băng cuốn thêm vào ngực Tình.

Cả Tiến, Tự và mấy anh em xe bên đã chạy đến, Thận bảo:

- Thái, Đạt chuẩn bị võng cáng đi, Tiến cử mấy người đưa cậu ấy đi quân y.

Tiến nhặt cái xẻng lên, toàn bộ phần lưỡi xẻng đã bị xé nát bươm, anh nói:

- Mìn vướng đây mà, một mình cậu ấy lãnh trọn một quả anh Thận ạ!

Thận không nói gì, anh đang chăm chú nhìn vào bộ ngực của Tình, máu đang thấm dần ra ngoài làm ướt hết mấy vòng băng, tiếng thở của Tình cũng đã yếu đi nhiều, anh không dám nghĩ đến một kết cục xấu. Mới về đại đội này được hơn hai tháng, lại đúng lúc đơn vị nhận nhiệm vụ hành quân độc lập đường dài anh chưa đủ thời gian để gần gũi với tất cả anh em chiến sĩ trong đại đội nhưng riêng với mấy thành viên xe 386 thì đã thân mật lắm rồi. Đặc biệt với Tình - người pháo thủ có khuôn mặt điển trai, lúc nào cũng trầm lặng nhưng chu đáo, tận tình đã giúp anh chỉ huy tốt cả xe những lúc anh bận công việc chung của đại đội.

Võng cáng đã buộc xong, Tiến, Tự xúm lại đỡ Tình từ tay Thận đặt lên võng. Bỗng Tình rướn người lên thở gấp rồi giật mạnh một cái, cổ ngoẹo hẳn sang một bên. Đặt tay lên động mạch cổ y tá Tảo nói như hụt hơi:

- Anh ấy chết rồi!

Thận ngồi bệt xuống cạnh cái võng, mắt anh nhìn đăm đăm vào gương mặt trẻ trung của người đồng đội. Đau quá, xe anh lại mất thêm một người. Đán và Toàn cũng đã đến. Nhìn Tình nằm bất động trên cái võng Toàn nhớ lại gương mặt của Lược, Luyến, Kiểm, Hùng, Lạc hôm nào và nghĩ: "Đúng là hòn vàng thì mất, toàn những thằng đẹp trai, giỏi giang lại chết...". Từ từ đứng dậy, Thận bảo:

- Anh Toàn và Tiến chỉ huy anh em chuẩn bị mai táng cho cậu ấy, còn lại xe nào về xe ấy củng cố lại ngụy trang, chú ý mìn vướng nhé.

Nói xong Thận cúi đầu lẳng lặng chui vào xe.

Ngồi tỳ trán vào kính trưởng xe Thận im lìm mặc cho đầu óc phiêu diêu vô định. Đau đớn quá! Chỉ trong vòng hai mươi mấy tiếng đồng hồ đại đội anh lại mất thêm hai người. Thế là chưa đánh đấm gì cả sáu đồng đội của anh đã hy sinh, một thằng đào ngũ chẳng biết còn sống hay đã chết. Những cái chết đến với đồng đội anh thật bất ngờ và muôn hình vạn trạng, đang ngủ trong xe cũng chết, đang ngồi trong buồng lái cũng chết, ra ngoài xe ngụy trang cũng chết... Thật chẳng biết trước thế nào mà đề phòng. Tĩnh tâm lại một chút anh tự trách mình: nếu như xe 388 hy sinh còn cho rằng đó là không may bị bom B52 đánh trúng thì hai cái chết của Lạc, của Tình không thể không có trách nhiệm của những người chỉ huy các anh. Giá như tổ chức chỉ huy cứu kéo chặt chẽ hơn chắc gì Lạc đã chết; giá như trước khi hành quân vào đây mình phổ biến cho anh em kỹ càng hơn về đặc điểm tình hình và những cạm bẫy mà vũ khí giết người của bọn Mỹ đang giăng ra khắp nơi thì có khi Tình không bị làm sao... Trong thâm tâm anh không sợ chết, hồi còn ở bộ binh anh cũng đã từng đối mặt với nó vài lần mà chỉ lo không hoàn thành nhiệm vụ. Đại đội xe tăng có một dúm người, cứ thế này biết lấy đâu ra thành viên mà bổ sung cho kịp. Không như ở bộ binh chỉ cần biết bắn khẩu súng AK là có thể chiến đấu được, các thành viên xe tăng đều phải qua trường đào tạo mấy tháng mới sử dụng được loại trang bị hiện đại này. Phác nhanh trong đầu một kế hoạch Thận chui ra khỏi xe, anh muốn nhìn mặt người pháo thủ của mình lần cuối cùng.

Lật tấm vải võng che mặt Tình ra Thận nhìn thấy Tình nằm đó thanh thản, vô tư. Lòng Thận đau xé, tất cả những đồng đội đã hy sinh của anh cũng như biết bao người khác đang hàng ngày, hàng giờ ngã xuống trên khắp các chiến trường đều còn trẻ quá, họ chưa kịp hưởng thụ tất cả những điều tốt đẹp mà tạo hoá ban cho mỗi con người, từ ghế nhà trường họ đi thẳng vào quân ngũ và nằm lại đây mãi mãi. Còn trẻ lắm nhưng tất cả đã để lại bao điều tốt đẹp mà những người còn sống sẽ không thể nào quên. Anh lặng lẽ đậy tấm vải võng lại, lòng thầm hứa sẽ làm tốt hơn để những đồng đội trẻ của anh sẽ bớt đi những cái chết thương tâm và bất ngờ này.

Đầu giờ chiều Thận bảo Đạt đi gọi các cán bộ lên hội ý. Cuộc hội ý chớp nhoáng diễn ra ngay bên vệ đường cách chỗ Tình hy sinh chỉ mấy bước chân, anh đi thẳng vào vấn đề:

- Chỉ trong hai ngày vừa qua chúng ta đã mất hai đồng chí, nghiêm khắc kiểm điểm lại tôi cho rằng chúng ta đã có phần chủ quan trước khi cơ động sang Đường 12 này. Có một đặc điểm mà tôi xin nhắc lại là đại đội ta đa phần là trẻ, hầu hết mới lần đầu tiên vào chiến trường cho nên sẽ có nhiều cái rất bỡ ngỡ. Vì vậy như đồng chí Trác tiểu đoàn trưởng đã nói hôm trước là với trách nhiệm và kinh nghiệm của mình chúng ta phải hướng dẫn cho anh em từ những cái nhỏ nhất trở đi. Đã đành rằng không ai học hết chữ ngờ, không ai lường hết được những tình huống sẽ xảy ra để tìm cách đối phó trước nhưng nếu ta dự kiến trước được càng nhiều sẽ càng tốt. Tôi đề nghị từ nay các trung đội trưởng cần quản lý bộ đội chặt chẽ hơn, trước khi giao nhiệm vụ làm bất cứ việc gì cũng phải quán triệt, nhắc nhở để anh em thận trọng hơn. Tuổi trẻ thường vô tư, nhiều khi chủ quan, bốc đồng nên chính chúng ta chứ không còn ai khác phải làm cái tay lái, cái phanh cho anh em.

Đến lượt chính trị viên Đán:

- Những vấn đề đồng chí Thận nêu tôi hoàn toàn nhất trí, anh em chiến sĩ trong đại đội ta nhìn chung mới trên dưới hai mươi tuổi, hầu hết vừa rời ghế trường phổ thông hoặc giảng đường đại học để vào bộ đội, tri thức thì họ có nhưng kinh nghiệm chiến trường thì rất nghèo nàn, nếu cứ để thực tiễn dạy họ thì chúng ta sẽ còn phải trả giá đắt. Vì vậy tôi đề nghị chúng ta cần nêu cao trách nhiệm người cán bộ, đảng viên trong công tác quản lý, chỉ huy bộ đội, cố gắng đến mức cao nhất để hạn chế đến tối thiểu sự hy sinh của đồng đội cũng như bản thân chúng ta.

Mọi người trao đổi thêm với nhau một số tình hình ở Đường 12 và khu vực trú quân sắp tới, sau đó Thận kết luận:

- Như vậy chúng ta đã thống nhất ý kiến với nhau và tôi xin được kết luận thế này: chúng ta phải coi cuộc hành quân vào Đường 12 và trú quân tại vị trí này là một cuộc chiến đấu thực sự nên tuyệt đối không được chủ quan, mất cảnh giác, phải đảm bảo sẵn sàng chiến đấu hai tư trên hai tư giờ đồng thời phải biết tận dụng mọi điều kiện để tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng đội. Từ nay chúng ta phải đẩy mạnh các biện pháp sau: Một là, phải tăng cường công tác quản lý bộ đội trong mọi tình huống, mọi nhiệm vụ, cử anh em đi đâu phải phân công người phụ trách. Hai là, phải hướng dẫn cho anh em cách phát hiện và phòng tránh các loại vũ khí của địch, cách tổ chức sinh hoạt ở gần địch. Ba là phải liên hệ chặt chẽ với các đơn vị bạn trên địa bàn để tạo điều kiện giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Về biên chế tôi quyết định đồng chí Tùng sẽ về xe tôi làm pháo thủ thay đồng chí Tình. Nếu các đồng chí không có ý kiến gì nữa thì ta kết thúc ở đây.

Mọi người lặng lẽ về xe, nét mặt ai cũng lộ rõ vẻ lo âu, căng thẳng.

Vị trí trú quân mới của đại đội nằm hai bên bờ sông Bồ, con sông bắt nguồn từ sườn Đông Trường Sơn đổ xuống vùng đồng bằng Thừa Thiên Huế nên lượng nước hai mùa thay đổi rõ rệt. Có thể nói suốt dọc con đường 12 từ Bốt Đỏ đến Động Tranh không thể tìm ra chỗ trú quân nào tốt hơn cho một đại đội xe tăng như ở đây: địa hình tương đối bằng phẳng, cây cối um tùm, lại sẵn nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và công tác kỹ thuật. Tuy nhiên có một điều bất lợi là gần địch quá, đây chỉ cách Động Tranh hơn mười cây số. Theo chiến thuật xe tăng thì nơi này nên được chọn là vị trí tập kết trước chiến đấu chứ không nên là nơi trú quân lâu dài. Nhưng tình thế bắt buộc không còn chỗ nào hơn nên Trác và Thận vẫn quyết định chọn đây làm nơi trú quân ngay từ khi đi trinh sát thực địa cách đây gần một tháng, khi thời cơ sử dụng xe tăng đến thì chính đây sẽ là vị trí tập kết trước chiến đấu luôn. Lựa chọn như vậy nhưng trong thâm tâm Thận rất lo, lo nhất là nếu phải ở đây lâu dài thì làm sao giữ được bí mật vì đây rất gần địch, nếu bọn chúng nống ra sẽ rất nguy hiểm, đặc biệt là nếu để không quân địch phát hiện và đánh phá thì không có đường nào mà rút nữa.

Công việc trước tiên cần được tiến hành lại là làm hầm: hầm người, hầm xe, hầm sinh hoạt chung, hầm bếp v.v..., cái điệp khúc vô cùng nhàm chán và mệt mỏi đối với mỗi người lính chiến trường nhưng chẳng ai dám lơ là lại diễn ra. Đối với lính xe tăng thì đỡ khẩn trương hơn vì còn dựa dẫm vào xe, chưa có hầm còn chui vào xe mà ngủ được nhưng khối lượng công việc lại nhiều hơn vì ngoài làm hầm cho người còn phải đào hầm cho xe.

Sau cái chết của Tình, anh em trong đại đội đã cảnh giác và thận trọng hơn nhiều, trước khi lội vào những chỗ còn nghi ngờ đã biết dùng cây sào dài để khua hay ít nhất cũng là vài vốc đất đá được ném vào trước. Cuộc sống chiến trường đã dạy cho họ nhiều bài học mà khi đào tạo ở nhà trường họ chưa bao giờ biết đến.

Chỉ sau một tuần vị trí trú quân đã ổn định xong, ở trung đội Một những bụi le đánh trồng trên nóc hầm ngủ và thành hầm xe được tưới nước đều đã bắt đầu bén rễ và xanh tốt trở lại, đi ngang qua nếu không để ý sẽ không biết sau những lùm cây xanh tốt ấy là cả một chiếc xe tăng. Còn ở trung đội Hai mọi việc thuận lợi hơn nhiều, những bụi giang hàng trăm cây đan vào nhau làm thành một dàn ngụy trang thiên nhiên cực kỳ kín đáo.

Cứ tưởng vào đây rồi được đi đánh nhau ngay, nào ngờ cấp trên vẫn chưa dùng đến vì thời cơ chưa thích hợp nên cứ phải chờ. Tiêu chuẩn thì vẫn hạn hẹp như vậy, lượng dự trữ giấu được hôm kiểm kê cũng đã hụt đi nhiều nên các trung đội lại phải tổ chức các tổ cải thiện để bảo đảm đời sống cho anh em.

Con sông Bồ trở thành cứu tinh cho cuộc sống những người lính nơi đây. Mặc dù đang là mùa khô sông vẫn khá nhiều nước, hai bên bờ dòng nước trong mát cũng là những khu vườn vô tận để hàng ngày lính ta gùi về hàng tải rau dớn, rau tàu bay, môn thục và măng lồ ô... Dưới sông từng đàn cá nhởn nhơ bơi lượn ngày đêm trở thành mục tiêu săn bắt của các tay "sát cá", chỉ với cái cần câu con con mà dây cước là dây mìn vướng, lưỡi câu là sợi dây thép niêm mài nhọn chịu khó ngồi một hai tiếng cũng có thể kiếm vài con cá về nấu bữa canh chua. Đời sống chiến trường tuy tiêu chuẩn eo hẹp nhưng cũng không đến nỗi nào. Nổi tiếng "sát cá" trong đại đội là "nhà thơ" Nguyễn Bá Tùng.

Từ ngày bốn đồng đội ở xe 388 hy sinh, Tùng lặng lẽ hẳn đi, anh lao vào bất cứ công việc gì dù nặng nhọc, khó khăn đến đâu cũng không một lời kêu ca, phàn nàn. Có cảm tưởng như anh muốn làm thay công việc cho cả bốn người anh em của mình. Lúc nào rỗi việc cũng chẳng đi đâu chơi chỉ ngồi trầm ngâm một mình rồi lại giở cuốn sổ tay ra ghi ghi, chép chép. Từ hôm Tình hy sinh anh được điều về làm pháo thủ xe đại đội trưởng, Tùng có vẻ phấn khởi lên một chút. Anh thực hiện rất tốt vai trò của mình, lúc rỗi rãi thay vì việc ngồi trầm ngâm một chỗ anh lại vác cần câu và cầm cuốn sổ ra bờ sông, chọn chỗ khuất nẻo ngồi nhẫn nại và lúc về thế nào cũng xách theo vài con cá.

Chiều ấy xong việc Tùng lại ra bờ sông như thường lệ, anh chọn một chỗ khuất nẻo sau một gộp đá nhô ra lòng sông để ngồi câu. Ngồi đây anh có thể tự do thả hồn theo những vần thơ mà chẳng ai để ý. Chính cái gộp đá ấy đã cứu anh thêm một lần nữa. Không biết phát hiện được gì ở thượng nguồn sông Bồ mà một đợt B52 toạ độ đã được ném xuống đây. Đang ngồi chăm chú theo dõi cái phao, Tùng chỉ nghe những tiếng rít gió qua đầu, phản xạ tự nhiên giục Tùng nép mình vào gộp đá trước khi một quả bom nổ cách anh chỉ vài chục mét. Dứt đợt bom Tùng nhổm lên nhìn về phía đại đội mình thấy không có biểu hiện gì của bom đạn, hoá ra chúng đánh phía thượng nguồn, quả bom rơi gần anh chỉ là "bom rớt", anh vội vàng thu xếp đồ nghề định chạy về xe.

Nhưng trong cái không may lại có cái may, vừa đứng dậy anh bỗng nhìn thấy cá nổi trắng cả sông, những con cá đang ngắc ngoải cố dướn mình lên ngớp ngớp lấy chút không khí trên mặt nước. Tùng chạy vội về xe hô cả bọn ra vớt cá, hôm ấy cả đại đội vớt được đến ba, bốn xô cá, con nào con ấy vỡ hết bong bóng. Nghe Tùng kể chuyện, Thận bảo:

- Cậu thế là "cao số" đấy! Nhưng đừng thấy thế mà chủ quan, "quá tam ba bận" thôi.

Không biết do cá dưới sông ngày một ít đi hay chúng khôn ra mà càng ngày càng ít cắn câu, đã mấy ngày nay xách cần đi rồi lại về không, Tùng bàn với Liên và Tuyết kỹ thuật viên:

- Bom đánh cá chết thì chắc thuốc nổ, lựu đạn nó cũng chết chứ! Hôm nào ta đánh thử đi!

Tuyết đồng tình:

- Hồi ở quê tao cũng thấy người ta đánh cá bằng thuốc nổ rồi, có gì lạ đâu.

- Nhưng lấy đâu ra thuốc nổ bây giờ nhỉ? - Tùng hỏi.

- Ở xe tao vẫn còn mấy cân thuốc nổ lấy ở 388 sang đấy.- Liên nhớ ra.

Thế là ba thằng rủ nhau lên tận trên nguồn cách chỗ trú quân của đại đội gần cây số chọn một chỗ nước sâu để "thử nghiệm". Sau khi lắp dây cháy chậm vào kíp, gắn kíp vào thỏi thuốc nổ Tùng châm lửa và ném; mấy chục giây sau một cột nước bùng lên và một tiếng nổ trầm ấm nghe như từ rất sâu vọng lại. Ba thằng hý hửng chuẩn bị vớt cá nhưng đợi mãi chỉ thấy vài con "tép" nổi vật vờ. Có tiếng cười phía sau, cả bọn quay nhìn - một người mặc quần dài nhưng cởi trần phô bộ ngực lực sĩ đang tiến lại gần, thấy vẻ thất vọng của ba thằng anh ta giải thích:

- Các cậu đánh cá thế thì ăn gì? Dây cháy chậm cắt dài cả gang tay, ném xuống nước nó sôi ùng ục, có con cá nào nó chạy sạch thì còn ăn nỗi gì. Lần sau muốn đánh được cá phải cắt dây cháy chậm thật ngắn, vừa chạm mặt nước đã nổ rồi cá mới không kịp chạy, hiểu chưa?

Nhìn anh ta xách theo mấy con cá lạ dài loằng ngoằng, lưng có vằn có vện, mỗi con dễ đến hai cân Tùng vội hỏi:

- Anh bắt được con gì thế?

Người công binh ngạc nhiên:

- Các cậu không biết thật à? Mới vào hả? Đây là cá chình, chỉ sông này mới có thôi, thịt ngon lắm.

Ba con cá chắc đã ở trên cạn đã lâu nhưng vẫn còn khoẻ lắm, chúng cứ oằn mình giãy đành đạch mỗi khi cái que chọc nhẹ vào, Tùng chợt nhớ ra:

- Ở quê tôi người ta gọi con này là con "chạch chấu".

- Cũng có thể chúng có họ hàng với nhau nhưng chạch chấu nhỏ hơn nhiều.

Tùng không quan tâm đến nó là cá gì mà nó quan tâm nhiều đến cách bắt cá. Thấy thằng bé dễ thương anh công binh vui lòng giới thiệu bộ đồ nghề và hướng dẫn rất tỷ mỷ cách bắt cá. Chuẩn bị chia tay biết ba thằng ở xe tăng mới vào anh còn hào phóng cho chúng một con về "ăn thử".

Bữa chiều hôm ấy trung đội Một được ăn tươi, con cá chình nặng gần hai cân được chế biến thành hai món: cá kho và canh chua lá bứa. Gắp miếng cá trắng như thịt gà lên nếm đại đội trưởng Thận phải thốt lên:

- Quê tớ ở vùng biển, tớ đã ăn bao nhiêu loại cá rồi mà chưa thấy con nào ngon như con này. Có lẽ phải xác định đây là nguồn dự trữ thực phẩm quan trọng trong thời gian tới đấy!

Nhìn mọi người xì xụp rõ ngon, mắt Tùng ánh lên niềm vui.

Tiểu đoàn trưởng Trác từ "108" sang, ông mang theo một tin vui là người anh em "xê Ba" cùng tiểu đoàn đã vào đến nơi và đang tiếp quản khu vực trú quân tại hậu cứ "108" của họ. Để vào đến đây "xê Ba" đã phải mất hơn hai tháng trời và cũng phải bỏ lại dọc đường hai chiếc xe: một vì hỏng và một bị đổ. Nghe tin này ai cũng phấn khởi vì ít ra họ cũng có một người anh em gần gũi ở bên, không còn "đơn thương độc mã" nữa, có vấn đề gì còn chi viện, giúp đỡ lẫn nhau. Hỏi sao mãi chưa được đi đánh nhau, Trác buồn buồn:

- Đưa các cậu vào đây rồi ai chả muốn dùng nhưng thời cơ chưa đến thì đành phải chịu thôi. Ngoài Quảng Trị sau khi chiếm được Đông Hà cứ tưởng sẽ phát triển thuận lợi, nào ngờ có mỗi cái Thành cổ Quảng Trị mà giành đi giật lại hàng mấy tháng không phân thắng bại. Các cậu có biết người ta gọi chỗ đó là gì không? Là "cối xay thịt" đấy! Mà ngoài đó chưa qua được chỗ ấy thì các cậu cứ việc nằm đây mà chờ.

- Thế thì chờ đến bao giờ? - Đại đội trưởng Thận nôn nóng.

- Cậu tưởng chỉ mình cậu nóng ruột thôi à? Cấp trên còn nóng gấp mấy ấy chứ! Tớ thì lo nhất mùa mưa này mà vẫn phải nằm ở đây thì gay go đấy - Thấy những ánh mắt ngạc nhiên của mọi người ông giải thích - Các cậu mới vào nên chưa biết thế nào là mùa mưa ở đây: khủng khiếp lắm, mưa triền miên, "thối đất thối cát", các phương tiện vận tải không chạy được, nguồn tiếp viện từ Bắc vào bị gián đoạn, thiếu từ hạt gạo thiếu đi. Thế cho nên trong này mới có câu: "Bao giờ mùa nắng - ta thắng Mỹ thua; chờ đến mùa mưa - ta thua Mỹ thắng". Các cậu cũng phải có kế hoạch đối phó dần đi, củi khô tích trữ cho nhiều vào. Gạo, muối bây giờ dù tiêu chuẩn có thấp vẫn phải tiết kiệm dành ra một lượng dự trữ chứ không đến lúc thì cháo cho người ốm cũng không có. Còn sốt rét nữa, nó cũng thường phát tác vào mùa mưa nên nhắc anh em phải hết sức giữ gìn.

Mấy anh em nhìn nhau. Quả thật, lần đầu ở chiến trường này họ chưa hiểu hết những vấn đề tưởng như đơn giản mà lại vô cùng phức tạp ấy, Thận ghé tai Đán nói nhỏ:

- Có lẽ ta phải có một nghị quyết chuyên đề về mùa mưa này thôi.

Tiểu đoàn trưởng cũng mang sang một quyết định của Đảng uỷ tiểu đoàn phê chuẩn về việc kết nạp đoàn viên Nguyễn Bá Tùng vào Đảng.

Chiều hôm sau chính trị viên Đán triệu tập cuộc họp cấp uỷ để thông qua nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo đơn vị trong mùa mưa sắp tới, ngoài ba người trong cấp uỷ anh còn mời tiểu đoàn trưởng Trác đến tham dự. Đã dạn dày kinh nghiệm ở chiến trường này, Trác đóng góp rất nhiều ý kiến quý báu cho nghị quyết. Trước hết là vấn đề sẵn sàng chiến đấu, trong mùa mưa không loại trừ việc địch "nống" ra, nếu không xuất xe được phải sẵn sàng tác chiến bằng bộ binh. Thứ hai là công tác phòng gian giữ bí mật, cần tiếp tục củng cố ngụy trang cho kín đáo, tăng cường canh gác, hạn chế tiếp xúc với người lạ. Thứ ba, về bảo đảm sức khoẻ bộ đội, phải có quy định về việc ngủ màn, mang tất và uống thuốc phòng sốt rét. Thứ tư, về công tác kỹ thuật vẫn phải duy trì đều đặn để giữ vững sức chiến đấu, hàng tháng phải tiến hành nạp điện bổ sung cho bình điện, hàng tuần dành một ngày bảo dưỡng xe. Thứ năm, về công tác hậu cần phải tích trữ đủ củi khô, tăng cường dự trữ các loại lương thực thực phẩm, trong đó chú trọng cá khô, măng khô, sẵn sàng tổ chức tiếp nhận lương thực thực phẩm trên cấp.

Nghe tiểu đoàn trưởng nói mọi người vỡ ra nhiều điều, quả thật chẳng có gì dạy người ta nhanh bằng thực tiễn cuộc sống. Rời binh chủng từ năm sáu nhăm đến nay ông liên tục chiến đấu ở Quân khu Trị Thiên. Mặc dù là sĩ quan xe tăng nhưng từ lúc vào đây ông đã được phân công làm rất nhiều công việc khác nhau chẳng liên quan gì đến chuyên môn được đào tạo, nhưng với bản lĩnh của một cán bộ được đào tạo cơ bản ông luôn hoàn thành nhiệm vụ. Về phía mình từ khi nhận được tin sẽ có một tiểu đoàn xe tăng vào trực thuộc quân khu ông mừng lắm, khi được cử làm tiểu đoàn trưởng ông sung sướng đến nghẹn ngào, về với anh em xe tăng ông như được về với mái nhà mình. Nhưng ông cũng biết lính xe tăng là loại "lính cậu", khi vào chiến trường thường bỡ ngỡ nhiều nên có chút kinh nghiệm nào ông cũng dốc hết "ruột gan" ra để truyền đạt lại.

*

Thấy đại đội trưởng đi họp, ở xe cũng chẳng có việc gì, Tùng bảo Thái:

- Mấy hôm nay thực phẩm cạn cả rồi. Tao đi kiếm cá ăn đây!

Nghĩ đến việc bắt cá chình, Tùng thấy vui vui. Theo đúng hướng dẫn của người công binh hôm trước anh lấy cái thông nòng AK mài nhọn rồi đem uốn cong thành một cái móc, chập ba đoạn dây điện lại buộc vào làm dây kéo. Lần đầu tiên đi thử Tùng kéo cả mấy thằng pháo hai đi, mang theo một đống chăn màn. Cả bọn chọn chỗ lòng sông chia làm hai dòng lấy đá xếp lại rồi phủ chăn màn lên thành một cái đập ngăn một dòng lại. Nước bị chặn lại dồn hết về dòng bên kia, dòng bên này dần cạn phơi ra những hốc đá là nơi trú ngụ của bọn cá chình, chú ý quan sát các hốc đá sẽ phát hiện ra chỗ nó đang ở. Tùng bảo bọn pháo hai lấy quần áo nhét kín các hốc không cho cá chui ra, chỉ chừa đúng một hốc để đặt cái móc vào đó. Cởi hết cả quần dài, áo lót rồi mà vẫn chưa nút kín Tùng hét: "Cởi nốt ra, sợ gì", rồi gương mẫu tụt luôn quần đùi ra, bọn pháo hai nhìn anh tồng ngồng cứ lăn ra cười nhưng sau cũng cởi nốt quần ra nhét vào mấy cái hốc còn lại. Cá chình trong hang có vẻ bức xúc cứ lượn đi lượn lại, đợi đến lúc nó lượn qua chỗ đặt cái móc câu Tùng giật mạnh cái móc, da cá chình vốn dai nên nếu đã móc vào là ăn chắc. Mấy thằng xúm lại cùng kéo, con cá cũng lên hết gân cốt trì néo lại nhưng không trụ nổi, cuối cùng đành thua cuộc và chỉ còn biết giãy giụa một cách bất lực dưới cái móc. Bắt được cá cả bọn nhảy tưng tưng hò reo vang một khúc sông. Tùng cầm con cá cứ cười ngặt nghẽo, cả bọn cúi xuống nhìn mới nhớ ra tất cả đều đang tồng ngồng vì quần áo đã lột hết ra để bịt hốc đá. Vui thật!

Sau vài lần như vậy trình độ bắt cá của anh em Tùng nâng lên rất nhiều, chẳng cần chặn sông nữa mà chỉ cần ngụp xuống sờ, xác định có cá trong hốc là mang theo móc xuống lừa nó một lúc thế nào cũng bắt được. Cá bắt được nhiều nên mỗi trung đội cũng sấy được vài cân để dành. Nhưng sự đời trớ trêu, thứ gì dù có ngon đến đâu ăn mãi cũng chán nên hôm nay Tùng định đổi món, anh quyết định đánh một mẻ "bộc phá tiến công" để về nấu bữa canh chua.

Tiêu đề: Re: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Gửi bởi: dongadoan trong 18 Tháng Tư, 2009, 05:06:28 pm

Đến điểm đã định hai thằng dừng chân, Tùng lấy đồ nghề ra bắt đầu tra dây cháy chậm vào kíp và cắt, Tuyết lấy dao chặt nhỏ bánh bộc phá ra thành từng mẩu bằng ngón tay, sau đó đem buộc kíp vào. Xong xuôi mọi thứ Tùng xếp bốn thỏi bộc phá thành hàng ngang sát bờ sông, anh bảo Tuyết:

- Ông ra đằng kia nấp đi! Để đó tôi làm.

Rất tự tin Tùng bật lửa và nhanh nhẹn châm dây cháy chậm thỏi thứ nhất rồi đặt xuống chỗ cũ. Châm thỏi thứ hai, thỏi thứ ba xong cũng đặt xuống. Thỏi thứ tư châm xong Tùng ném luôn xuống mặt sông rồi cúi nhặt thỏi thứ ba, thỏi thứ hai ném xuống, đến lúc cúi nhặt thỏi thứ nhất vừa định ném thì bộc phá nổ, Tùng ngã dúi xuống sông.

Thấy Tùng gục xuống Tuyết chồm dậy định chạy lại. Bước được mấy bước nhìn thấy Tùng nằm bất động trên mặt nước cậu hoảng sợ: "Tùng chết rồi". Bước chân Tuyết chậm lại, một ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu: "Thôi thì đằng nào nó cũng chết rồi, mình mà kéo nó lên thì mình cũng chết". Nghĩ đến đây Tuyết quay đầu chạy một mạch về xe, chui vào hầm và kéo chăn trùm kín đầu.

Khi chớp lửa nhoáng lên ngay trên tay Tùng ngất đi không biết gì nữa và nhào xuống nước. Nước sông mát lạnh làm anh tỉnh lại nhưng không thể nào cử động được. Mãi đến khi không thở được Tùng mới cố ngóc đầu khỏi mặt nước hớp lấy vài ngụm không khí rồi từ từ bò dậy. Nhìn bàn tay phải tướp ra không còn tý thịt da nào đầu anh chỉ có một ý nghĩ: "Thế là hết rồi Tùng ơi" rồi gục xuống.

Mãi chiều tối Tùng mới lê bước về đến xe. Mặc cho mọi người hỏi han, băng bó Tùng vẫn lặng thinh như một người câm cho đến lúc được đặt lên võng đưa đi quân y viện anh mới nói độc một câu:

- Em xin lỗi các thủ trưởng, xin lỗi tất cả anh em!

Nhìn theo cái võng đi xa dần chính trị viên Đán than:

- Sao em dại dột thế, Tùng ơi! - Quay sang đại đội trưởng Thận anh nói nhỏ - Lại phải đề nghị huỷ quyết định kết nạp Đảng của nó thôi anh Thận ạ.

Đại đội trưởng Thận không nói gì, mắt anh như đang nhìn về một nơi nào đó rất xa, một chiến sĩ nữa của anh lại phải xa rời cuộc chiến đấu này vì những lý do chẳng đâu vào đâu.

Chẳng hiểu vì lẽ gì mà mùa mưa năm nay ở phía tây thành phố Huế lại đến sớm hơn mọi năm. Mới sang tháng tám mà đã có dấu hiệu bắt đầu mùa mưa, bầu trời thường ngày trong xanh đã chuyển sang màu xám xịt, những đám mây đen mọng nước nặng nề như muốn sà thấp xuống núi rừng báo hiệu một mùa mưa dữ dội. Nhìn lên bầu trời u ám ấy những người đã sống và chiến đấu lâu năm ở chiến trường Trị Thiên đều lắc đầu ngán ngẩm - mùa mưa đối với họ là nỗi ám ảnh khôn nguôi - đó là đói, là rét, là địch nống ra, là lũ quét, là tắc đường, là sốt rét... và trăm thứ bà giằn khác nữa mỗi khi mùa mưa đến. So với các chiến trường khác mùa mưa ở Trị Thiên dai dẳng và dữ dội hơn nhiều.

Cứ thế, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác suốt mấy tháng trời, mưa đến thối đất thối cát, mưa làm ẩm mốc mọi thứ, mưa biến suối thành sông, biến sông thành đại trường giang, quần áo chẳng có chỗ phơi phải hong trên bếp lửa lúc nào cũng khét mù mùi khói, mưa làm sạt núi lở đường, mọi hoạt động vận tải cơ giới trên các tuyến đường bị đình trệ, tất cả phải thay bằng đôi vai... Trong màn mưa dai dẳng ấy chỉ có lũ muỗi, vắt là nhởn nhơ, còn con người như cũng nát nhũn ra.

Con sông Bồ mùa khô chỉ nhỉnh hơn dòng suối, nước trong văn vắt hiền hoà chảy nay chỉ sau mấy trận mưa đã trở thành một con sông hung dữ, dòng nước đục ngầu cuồn cuộn chảy cuốn theo đủ thứ nó gặp trên đường. Cái ngầm 17 mới hôm nào lội qua nước chỉ ngang đầu gối nay có to gan đến mấy cũng chẳng dám lội qua, đội hình trú quân của đại đội đã bị cắt ra làm hai.

Dưới giàn ngụy trang tự nhiên bằng giang, mấy tấm bạt truyền động và ni lông vỏ bao gạo được giăng ra tạo cho trung đội Hai một chỗ sinh hoạt chung tương đối khô ráo và kín đáo. Còn ở trung đội Một chỉ có cái hầm và toen hoẻn tý cửa hầm được che chắn là khô, còn ở đâu cũng ướt át, nhớp nháp đến ghê người.

*

Mới bắt đầu mùa mưa được mấy ngày thì chính trị viên Đán lên cơn sốt rét. Thấy người Đán nóng hầm hập, đắp cả đống chăn vẫn run cầm cập Tráng chạy vội sang xe "bê trưởng" Nam báo cáo. Vừa sang đến nơi nhìn Đán nằm co quắp dưới đống chăn, Nam biết anh đã bị sốt rét, nhưng y tá lại đang ở bên "bê Một" phải qua sông mới tới mà nước lại đang to. Quay sang Tráng, Nam hỏi:

- Trung đội mình cậu nào bơi khá nhất?

Hiểu ý Nam muốn tìm người sang "bê Một" gọi y tá, Tráng bảo:

- Cũng sàn sàn nhau cả thôi. Thôi được, để tôi đi cho!

- Cậu có chắc qua được sông không? - Nam gặng.

- Thì cũng phải liều thôi.

Trong hầm Đán không chỉ rên mà bắt đầu nói sảng, Nam quyết định:

- Được! Cậu đi đi! Tớ sẽ cho mấy thằng ra đó hộ tống.

Chưa bao giờ vượt sông trong mùa lũ nhưng Tráng tin rằng nó sẽ qua được, thời học thể thao Tráng đã được mệnh danh là con cá kình của nhà trường, tuy nhiên anh cũng chỉ bơi ở bể bơi hay sông Mã chứ chưa bao giờ phải bơi trong điều kiện thế này. Vắt cái bao gạo Trung Quốc lên vai Tráng bảo Nam:

- Anh về gọi Phong, Thành đi với tôi, nếu kiếm được sợi dây thừng dài thì tốt.

Nam chạy đi, một lúc sau anh và Thành, Phong quay lại, cả bốn anh em sải bước về phía bờ sông.

Con sông Bồ hôm nay có vẻ đỡ hung dữ hơn, nước vẫn to, vẫn cuồn cuộn chảy nhưng không còn cuốn theo cành cây, rác rưởi như mấy hôm đầu mùa mưa nữa. Túm đầu cái bao gạo buộc thành một cái phao Tráng bảo:

- Bây giờ ba anh em cứ đứng đây, tôi sẽ lên chỗ kia để bơi sang - Tráng chỉ tay về cái gộp đá chìa ra sông cách đó mấy chục mét về phía thượng nguồn - Nếu trôi đến đây mà vẫn không sang được thì quăng dây ra kéo tôi vào.

- Được! Nhưng phải cẩn thận nhé! - Nam dặn.

Đứng cạnh mỏm đá chìa ra nhiều nhất Tráng lao người ra sông, dòng sông hung dữ như muốn nuốt chửng anh chỉ thấy hai cánh tay thi nhau quạt nước và cái đầu nhấp nhô trên mặt nước đục ngầu. Đã ra đến giữa sông, rồi hai phần ba sông, gần đến ngầm 17 thì Tráng đã vào được bờ bên kia, cậu ta giơ cao tay hét lớn:

- Được rồi! Cứ đứng đấy đợi nhé!

Nam thở phào nhẹ nhõm. Ba anh em đứng đợi chừng mười phút đã thấy Tráng và y tá Tảo trở lại. Hai anh em lại lò dò ngược lên ngang chỗ lúc nãy rồi lao ra sông, chắc do Tảo bơi yếu hơn nên Tráng phải vừa bơi vừa dìu, gần đến ngầm mà hai thằng vẫn cách bờ gần chục mét. Phong lấy hết sức quăng sợi dây ra, Tráng tóm được đầu dây. Trên này ba anh em cùng ghì chặt, Tráng và Tảo dạt ngay vào bờ.

Đưa tay kéo Tráng và Tảo lên Nam mừng rỡ:

- May quá! Đúng là dân thể thao chứ như tớ chắc trôi xuống tận biển rồi.

Cả năm anh em chạy như bay về xe 390. Không kịp thay quần áo Tảo lấy cặp nhiệt độ nhét vào nách Đán rồi lấy ra cái xi lanh và mấy ống thuốc màu vàng đậm, cậu ta bảo Tập:

- Anh Tập đun cho em tý nước sôi.

Mấy phút sau, rút cặp nhiệt độ ra, Tảo soi vào ngọn đèn dầu tù mù rồi hốt hoảng:

- Chính trị viên sốt đến bốn mốt độ các anh ạ!

Tập đã đem nước sôi vào. Tảo nhanh chóng lấy thuốc rồi bảo Nguyên lật sấp người Đán lại, anh vạch mông Đán ra và chọc vào đó một xi lanh đầy cái thứ nước vàng sẫm. Tảo lấy ra một vốc thuốc nữa cho Đán uống rồi quay ra hỏi:

- Thuốc phòng sốt rét phát cho các anh hồi trước các anh có uống đều không?

- Thì vẫn uống như cậu dặn mà. - Nam trả lời.

- Thế thì tốt. Bây giờ trùm chăn vào cho anh ấy. Chắc chốc nữa sẽ đỡ thôi.

Ngoài trời mưa vẫn rơi tí tách như không bao giờ ngừng

Nằm liệt ba ngày thì Đán nhúc nhắc ngồi dậy được, người anh bơ phờ như không còn sức sống, cái món khoái nhất của anh là thuốc lào giờ nghĩ đến thì thèm nhưng đưa điếu lên miệng lại chẳng muốn hút nữa. Nguyên "béo" đã xuất cái khoản dự trữ bí mật một hộp thịt để nấu cháo bồi dưỡng chính trị viên. Cầm bát cháo bốc mùi thơm lựng lên anh cũng chỉ húp qua loa vài miếng rồi đặt xuống, Nguyên phải dỗ dành mãi Đán mới ăn hết bát cháo.

Từ hôm qua mưa đã ngớt, nước sông Bồ cũng rút đi được mấy phần nên hôm nay đại đội trưởng Thận và chính trị viên phó Toàn mới sang "bê Hai" được. Đảo qua chỗ Nam nắm tình hình rồi hai anh em mới về xe 390 thăm Đán. Nhìn bộ dạng người chính trị viên Thận bảo:

- Anh phải cố ăn đi cho chóng lại sức, có mấy anh em với nhau mà lăn cả ra ốm thì hỏng bét.

- Tôi cũng biết thế nhưng không thể nào nuốt được, miệng cứ đắng ngăn ngắt ấy. - Đán thều thào.

Toàn đưa cho Nguyên hộp sữa và cân đường xuất từ quỹ dự trữ của đại đội ra và bảo:

- Cậu giữ lấy, mỗi ngày pha cho anh ấy hai bát sữa nhưng nhớ là phải bắt ăn cho bằng hết nhé.

- Tình hình bên "bê Một" thế nào các anh? - Đán vẫn không quên chức trách.

- Anh cứ yên tâm nghỉ ngơi, mọi việc bình thường, chỉ hơi vất vả tý thôi - Thận đang giấu chính trị viên, bên "bê Một" và cả "bê Hai" này nữa hầu như xe nào cũng có người sốt rét, ngay cả anh cũng thấy người ngây ngấy sốt.

Trong những ngày này người bận rộn nhất đại đội là y tá Tảo, anh chạy như con thoi hết xe này đến xe khác, hết "bê Một" lại "bê Hai"; chỗ thì tiêm, chỗ thì cho uống thuốc. May mà hồi bắt đầu đi ở Quảng Bình trung đoàn đã cấp cho rất nhiều quinin và nivaquin cả uống lẫn tiêm nên vào đây cũng dư dả thuốc mà dùng, "nhưng cứ với tốc độ này thì chẳng mấy mà hết". - Tảo nghĩ bụng.

Đại đội trưởng Thận thật sự bối rối khi chính Tảo lăn ra sốt, anh nghiến răng nghiến lợi tự tiêm cho mình một mũi quinin vào bắp tay trái dù biết rằng nguy cơ apxe sẽ rất cao. Trong khi đó gạo trong kho cũng gần cạn, ngay lập tức Thận cử pháo thủ Phong và quản lý Minh về tiểu đoàn cầu cứu.

Ngay ngày hôm sau hai đứa đã trở về cùng Phong - quân y sĩ của tiểu đoàn. Phong người Nam Hà nhưng đã vào Trị Thiên mấy năm nên rất có kinh nghiệm điều trị sốt rét, ngoài việc dùng thuốc theo phác đồ anh còn vận dụng một số bài thuốc dân gian vào việc hạ nhiệt độ, cắt sốt và bồi dưỡng người mới ốm dậy, tuy nhiên mọi người đều không biết tại sao anh em "dê bộ" lại gọi anh là Phong "Ba".

Quản lý Minh về mang theo một phiếu nhận gạo tại kho 70 và một thông báo rút mức ăn xuống còn năm lạng. Thận nghĩ bụng: "Sáu lạng đã đói mờ mắt rồi không biết năm lạng thì thế nào đây?". Từ hôm bắt đầu mùa mưa công việc cải thiện gặp rất nhiều khó khăn, những vạt rau dớn, rau sam ven sông đã bị nước lên ngập hết, cá thì lại càng khó kiếm nên chỉ biết trông vào măng tươi và ít cá dự trữ từ hồi mùa khô. Mà hình như càng mưa lại càng thấy đói thì phải, lúc nào cũng thấy thèm ăn, rỗi rãi ngồi với nhau cũng chỉ chuyện ăn nên bụng lại càng đói thêm gấp bội. Nhìn cái phiếu nhận gạo lại càng ngán ngẩm, có mấy tạ gạo mà phải ra tận kho 70 ở cây số 48 Đường 14 cách đây gần sáu mươi cây số để nhận. Lính xe tăng trước khi vào chiến trường có được rèn luyện hành quân xa mang vác nặng bao giờ đâu, đi đến đâu cũng có xe chở, thiếu cái gì thì tiếp tế cũng bằng cơ giới, thằng nào đi đâu phải cõng ba lô vài cây số đã la oai oái... thế mà giờ đây phải đi sáu mươi cây số để cõng gạo về ăn thì còn gì để nói nữa. Nhưng không đi thì lấy gì mà ăn(?).

Thận gọi Tiến, Nam và Trị lên thống nhất chọn mỗi xe một người còn khoẻ cùng hai người của "xê bộ" giao cho Mai Hồng Trị chỉ huy đi nhận gạo, đồng thời tăng cường người đi "cải thiện" để bổ sung nguồn thực phẩm đang ngày càng khan hiếm.

Hôm nay theo lịch nạp điện cho xe 390. Ngay từ sáng sớm Tập đã chui vào xe tháo bình điện ra, đợi mọi người đến đủ anh xỏ đòn vào quai bình rồi bảo:

- Tớ khiêng với Nguyên, còn lại cứ hai người một bình như mọi khi. Đi nào!

Tám anh em nhũng nhẵng đi, mấy hôm nay trời bớt mưa hơn nhưng đường vẫn cực kỳ lầy lội, cái thứ đất đỏ ba-dan lại mến người cứ dính bết vào dép thành hai cục nặng như đeo đá, đi một quãng lại phải dừng lại gột. Gần đến ngầm sông Bồ, Tập bỗng sững lại, chắn giữa đường là mấy cành cây và một tấm vỏ thùng phuy trên đó nguệch ngoạc dòng chữ bằng than: "Bom từ trường, cấm qua lại!".

- Quái lạ! Sao lại có bom từ trường ở đây? - Tập ngạc nhiên thốt ra, mới hôm kia anh đi qua có thấy gì đâu.

Ba cặp đi sau cũng đã đến, ai cũng ngạc nhiên không kém. Tráng chỉ tay về phía trước:

- Đúng bom từ trường rồi. Cánh của nó kia kìa.

Tất cả nhìn theo hướng tay của Tráng, một cái cánh bom từ trường nằm giữa tim đường như thách thức. Nghị nhớ lại:

- Chiều hôm qua chỉ thấy một cái máy bay bay "rẹt" qua một cái, tưởng nó chỉ trinh sát thôi không ngờ nó lại ném bom từ trường.

Cả bọn ngồi bàn nhau: "Đi gần đến nơi quay về cũng dở, mà ông Đề đâu có chịu bỏ lịch, hôm nay không nạp được thì hôm khác lại phải khiêng lên". Cuối cùng Tráng bảo:

- Bỏ hết những gì bằng sắt trên người xuống là đi qua được thôi.

- Nhưng còn bình điện thì sao? - Nguyên "béo" hỏi.

Nhìn lại cái bình điện, đúng là toàn bộ giá và quai xách của nó đều bằng sắt cả. Tập quả quyết:

- Đây là bình điện chì nên không ảnh hưởng gì, bây giờ chỉ cần tháo hết giá ra là được.

- Nhưng không có giá thì khiêng thế nào được? - Nguyên "béo" gặng.

- Lấy dây rừng buộc nó vào đòn mà khiêng! - Tập kiên quyết.

Một lúc sau bốn chiếc bình điện đã được tháo hết giá ra và buộc vào đòn khiêng, tất cả thắt lưng, bật lửa, dao găm được cởi ra đem giấu vào một bụi cây. Nghĩ ngợi một lát Tập bảo:

- Bây giờ tớ với Nguyên đi trước, bọn tớ qua rồi các cậu mới được đi nhé! - Tay anh cầm một đầu đòn - Nào đi Nguyên!

Nguyên hơi ngần ngừ nhưng nhìn thấy ánh mắt của Tập, anh cũng cúi xuống cầm đòn và xốc lên vai, hai anh em lẳng lặng tiến vào khu vực cấm, sáu cặp mắt nhìn theo không chớp.

Đã gần đến chỗ cái cánh bom nhô lên giữa tim đường, thấy bước chân Nguyên phía sau hơi chựng lại Tập nói nhỏ:

- Cứ bình tĩnh, không sao đâu chú.

Nói vậy nhưng anh cũng nín thở chờ đợi, không biết những suy luận của anh có chính xác không, nếu nó nổ chắc hai thằng không còn một mảnh. Tập thận trọng đi sát vào bờ ta luy, mắt vẫn liếc về phía cái cánh bom như bị hút vào đấy. Giây phút căng thẳng đã qua, không có tiếng nổ nào cả, Tập vẫy tay cho phía sau đi tiếp. Vài phút sau bốn bình điện đã được xếp ngay ngắn trong hầm nạp điện.

Thật không may, cái máy phát điện hôm ấy bỗng nhiên "dở chứng" không thể khắc phục được. Đề nhăn nhó bảo cả bọn:

- Các cậu này! Máy phát điện bị hỏng, khả năng phải vài ngày mới chữa được. Các cậu cho anh em mang bình điện về, hôm nào chữa xong lại mang lên nạp.

Mấy cái mặt cùng méo xệch đi, Tập đề nghị:

- Đề nghị "đại phó" cứ cho anh em để bình điện ở đây, máy chữa xong lúc nào thì nạp lúc đấy, nạp xong báo cho chúng tôi lên mang về có hơn không?

- Không được! Nhỡ đêm nay nó đánh ra thì sao, cậu định bỏ xe à? Mang về! - Đề dứt khoát.

Thấy "đại phó" đã to tiếng không thằng nào dám ho he, tất cả lẳng lặng buộc lại bình điện vào đòn khiêng rồi nhũng nhẵng ra về. Đến tận ngầm sông Bồ, Tráng mới dám phát một câu:

- Đúng là "nước sông, công lính"!

Lải rải mỗi xe một, hai người sốt, người này cắt thì người khác bị, mới chỉ gần hai tháng mùa mưa mà ký sinh trùng sốt rét đã "hỏi thăm" gần hết đại đội. Nhưng cũng lạ, trong khi nhiều người sốt đến rụng cả tóc đầu, sốt đến sợ cả nước cả gió, sốt đến vàng da, vàng mắt, cháo đưa lên miệng không muốn ăn, ruồi đậu vào mép không buồn đuổi, có người như Bùi Định sốt đến cả tháng trời, lúc cắt tóc còn phát hiện đầy đầu chấy... thì có những người vẫn khoẻ như vâm, hình như ký sinh trùng sốt rét không chạm vào được chúng hay sao ấy. Trên xe 380 tất cả nằm liệt, riêng Chính vẫn nhởn nhơ như thường, da vẫn trắng như trứng gà bóc, môi vẫn đỏ như son, mọi việc trong xe hay trung đội phân công một mình cậu làm tất. Nội việc chăm sóc ba ông tướng sốt rét cũng bở hơi tai rồi mà Chính cứ làm băng băng lại còn véo von: "Anh vẫn còn chân, chưa bị cưa chân nào".

Rồi cũng đến lúc ba anh em bình phục dần, sau sốt "ăn trả bữa" lúc nào cũng thấy đói, Chính lần mò vào tận căn cứ Hai xin được ít sắn về "bồi dưỡng" cho ba anh, luộc sắn xong ngồi nhìn ba ông anh vừa thổi vừa ăn Chính mãn nguyện lắm.

Cứ tưởng như Chính thì "voi vật không chết", ai ngờ anh đổ bệnh nhanh thế. Chiều hôm ấy sau khi khiêng bình điện lên trạm nạp về anh kêu nhức đầu rồi đi nằm sớm, lúc Trung lấy cơm về anh cũng không ăn, sờ trán thấy nóng Trị vội bảo Trung đi gọi y tá. Tảo chưa sang đến nơi thì Chính đã lên cơn co giật, người lúc co rúm vào, lúc lại bung ra như một cái lò xo, hai mép thì sùi bọt, mắt trợn trừng toàn lòng trắng. Trị và Liên một người giữ đầu, một người giữ chân nhưng mỗi khi Chính giật thì văng ra cả. Vừa sang đến nơi Tảo đã hốt hoảng:

- Nó bị sốt rét ác tính rồi, các anh chuẩn bị đưa nó đi viện ngay.

Trị bảo Trung đi báo cho trung đội trưởng rồi cùng Liên cố sức giữ Chính để Tảo tiêm cho Chính.

Trung đội trưởng Tiến đã có mặt, anh phân công người chuẩn bị võng cáng để đưa Chính đi. Nằm trên võng rồi người cậu ta vẫn vặn vẹo không ngừng, Tảo giục:

- Phải chạy nhanh lên không thì không kịp.

Cả bốn anh em cùng rảo bước. Đứng nhìn theo cái võng đang đi xa dần Tiến lẩm bẩm:

- Cứ tưởng người như nó thì không bao giờ bị sốt chứ.

Linh cảm sẽ có chuyện không hay đến với Chính nên suốt đêm ấy Trị gần như không ngủ, nằm mãi mỏi lưng anh lại ra cửa hầm ngồi dõi về phía căn cứ Hai, lòng anh bồn chồn như lửa đốt.

Sáng bảnh ra năm anh em đưa Chính đi viện mới về. Nhìn mấy cái mặt bơ phờ méo xẹo của chúng Trị biết linh cảm của anh đã đúng, anh hỏi nhỏ Tảo:

- Thế nào? Có kịp không?

- Không kịp. Nó co giật suốt dọc đường, vào đến quân y vẫn còn co giật hàng tiếng nữa rồi mới chết. ở đấy người ta bảo những "ca" bị như thế này hầu như đều không cứu được.

Trị lặng đi, anh cảm thấy như vừa mất đi người em ruột của mình.

Từ dạo đầu mùa mưa thằng OV10 ít ra hơn nhưng "toạ độ" lại nhiều hơn, chẳng biết chúng trinh sát thế nào nhưng nửa đêm chỉ thấy phản lực "rẹt" một cái hay B57 ì ì một lúc rồi dội lên "ùng, oàng" mấy tiếng. Thận thầm nghĩ: "cũng may chưa có loạt nào trúng vào khu trú quân của đại đội, chắc là vì chỗ này khá bất ngờ với chúng và cũng vì công tác phòng gian giữ bí mật của anh em đã khá hơn rất nhiều". Bảy cái xe tăng nằm ngay bên đường nhưng đi qua nếu không để ý thì chẳng ai biết. ở "bê Một" những cụm le đánh lên trồng trên xe và thành hầm xe đã bén rễ, được nước mưa tưới thường xuyên nay đã tốt um. Còn bên "bê Hai" thì khỏi nói, cái giống giang càng mưa càng mọc khoẻ, dưới gốc thì măng đâm lên tua tủa, trên đầu thì lá cứ ken khít lại với nhau nên càng kín.

Mọi cái rồi dần cũng quen, bây giờ cái đáng lo nhất đối với Thận là tình hình sạt lở đường sá ngày càng nghiêm trọng, cả phía trước và phía sau của đại đội đường đều sạt đến mức không thể cơ động được, anh nghĩ bụng: "Bây giờ nó mà nống ra thì chỉ còn nước bỏ xe đánh bộ".

Nỗi lo của Thận quả thật là có cơ sở.

Ngay chiều hôm ấy trời hửng lên một chút đã thấy hai cái A37 quần đảo ngay trên đầu rồi lao xuống ném bom ở mạn dưới. Trèo lên đỉnh đồi quan sát Thận thấy nó đang đánh Tà Lương, đây là một điểm cao có ý nghĩa khống chế đối với Đường 12 cách chỗ đại đội anh giấu quân chừng bốn cây số và bấy lâu nay vẫn do quân ta kiểm soát. Bọn A37 vốn đánh dai như đỉa, mỗi lần nó lao xuống chỉ cắt một quả bom, ở đây ta không có lực lượng phòng không nên chúng nhởn nhơ lắm, cứ nhẩn nha đánh từng quả một đến lúc hết bom lại gọi hai cái khác đến đánh, cuộc ném bom kéo dài gần một giờ đồng hồ mới kết thúc.

Đang suy nghĩ không hiểu chúng định làm gì thì một lúc sau thấy khoảng một trung đội bộ binh lốc nhốc cáng nhau qua, Thận ra chặn đường hỏi:

- Tình hình trên ấy thế nào?

Một người dáng chừng là chỉ huy mệt mỏi trả lời:

- Còn thế nào nữa? Nó chiếm Tà Lương rồi.

Thận giật mình, từ đây lên đấy có vài cây số, không biết bao giờ thì nó lấn ra đến đây, anh chạy theo gặng:

- Quân mình còn bộ phận nào trên ấy không?

- Còn một ít đang chốt ở cây số 20 nhưng cũng chẳng biết có giữ được không - Vẫn anh cán bộ trả lời, nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Thận anh nói thêm - Mùa mưa năm nào chả thế, có năm nó còn ra tận Bốt Đỏ cơ mà.

Bụng nghĩ: "Không khéo nó lấn ra tận đây thật", Thận lập tức quay về cho gọi ban chỉ huy và hai trung đội trưởng lên hội ý gấp.

Nghe Thận thông báo tình hình ai cũng lo lắng ra mặt, quả thật đây là một thời điểm hết sức khó khăn của đại đội, đúng là "tiến thoái lưỡng nan". Vốn thẳng tính Đề bực bội phát luôn:

- Đúng là "đem con bỏ chợ", biết là mùa mưa sẽ khó cơ động lại không cho người ta rút ra, cứ bảo nằm đấy đợi thời cơ. Bây giờ thì nằm đây mà chờ chết ấy!

- Thôi! Đừng có kêu ca phàn nàn gì nữa, kêu cũng chẳng ích gì. Bây giờ chẳng còn cách nào khác ngoài tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Tôi đã lên kế hoạch tác chiến tại chỗ rồi, mời các đồng chí xem và đóng góp ý kiến.

Thận mở rộng cuốn sổ tay anh vừa mới phác mấy đường xanh xanh đỏ đỏ lúc chờ mọi người tới, cái vốn kiến thức sĩ quan lục quân bây giờ lại tỏ ra đắc dụng nên không ai có ý kiến gì. Cuối cùng Thận kết luận:

- Các đồng chí đã nhất trí với phương án tác chiến tại chỗ rồi thì cứ thế mà triển khai. Còn bây giờ ta phải thống nhất với nhau mấy vấn đề thế này: Một là phải tiếp tục làm tốt công tác phòng gian giữ bí mật như thời gian vừa qua chúng ta đã làm, có nổ máy chống gỉ cũng nổ nhỏ thôi, máy nạp điện của anh Đề giảm âm thanh đi chút nữa. Hai là phải tăng cường sẵn sàng chiến đấu hơn nữa, tất cả các xe phải dỡ cố định và chuẩn bị phương án sao cho khi cần quay được pháo ngay. Ba là phải chuẩn bị đầy đủ vũ khí bộ binh cho anh em, lúc nào súng đạn cũng phải bên mình và cuối cùng là tăng thêm một vọng cảnh giới phía trước của "bê Một". Các anh xem có ý kiến gì nữa không?

Chính trị viên phó Toàn vẫn giữ vẻ điềm đạm thường ngày, ngay ở giữa chiến trường nhưng quần áo lúc nào cũng phẳng phiu, đầu tóc chải gọn gàng chả bù cho Đán với Đề lúc nào cũng luộm thuộm, được chăng hay chớ, trong các cuộc họp anh cũng ít nói nhưng đã nói là chắc như đinh đóng cột. Hôm nay cũng vậy, cho đến khi Thận hỏi anh mới nhỏ nhẹ:

- Tôi xin có ý kiến! Từ hôm vào Đường 12 đến nay đại đội ta đã hy sinh ba, bị thương một, số anh em sốt rét cũng rất nhiều nên nếu có tình huống xảy ra sẽ không đảm bảo sức chiến đấu. Vì vậy tôi đề nghị chúng ta cần nghiên cứu xin tiểu đoàn điều cho một số thành viên kíp xe từ "xê Ba" sang, dù sao bên 108 cũng đỡ "căng" hơn bên ta.

Mấy anh em đều gật gù đồng ý, Thận cũng nhất trí ngay:

- Tôi cũng đã có ý định ấy rồi. Đợi một vài hôm nữa ta sẽ cử người sang 108.

Không có thuốc hút thì thèm chứ không chết, có thể nhịn được; còn không có gạo, không có xăng mới gay go. Số gạo đi lĩnh hồi trước đến nay cũng đã gần cạn, còn cái máy nạp điện cũng đã ngốn gần hết số xăng dự trữ ban đầu. Đối với đại đội phó kỹ thuật Đề thì đây là một nguy cơ nhãn tiền vì số bình điện theo xe đã lác đác hỏng, đã phải dùng đến bộ bình điện khô dự trữ để thay dần. Nguyên nhân cũng không có gì khó hiểu: đây là số xe đã cũ, hầu hết bình điện theo xe đã quá niên hạn sử dụng, nếu như ở ngoài Bắc thì đã phải thay mới, ngoài ra do đặc điểm hành quân đường dài và thay đổi chỗ trú quân luôn luôn nên chế độ nạp bổ sung định kỳ không bảo đảm. Vì vậy khi nằm tương đối ổn định ở đây anh đã có kế hoạch nạp điện bổ sung rất chặt chẽ hòng kéo dài tuổi thọ cho chúng, nhưng kế hoạch đó có nguy cơ phá sản vì máy nổ đã hết xăng, vào căn cứ Hai xin cũng không có nên phải đề nghị tiểu đoàn chi viện.

Mấy ngày sau tiểu đoàn thông báo sang là cử người đi lĩnh gạo và năm mươi lít xăng ở kho K70 lần trước; đồng thời bổ sung cho đại đội hai thành viên là pháo thủ Độ "híp" và pháo hai Thọ "điếc". Mai Hồng Trị lại được tín nhiệm cử làm đoàn trưởng đi lấy gạo. Tuy nhiên khi nói đến đoạn nhận xăng thì anh hơi phân vân:

- Gạo thì gùi đã đành, nhưng xăng thì làm sao mà mang về được?

- Thì đem can đi mà khiêng hay đóng vào bao mà gùi về chứ sao! - Thận gắt.

Câu nói gắt gỏng của Thận đã gợi ý cho Trị một ý hay: đường rừng nếu mang can khiêng thì rất nhũng nhẵng khó đi, nhưng nếu đóng được vào bao mà gùi thì thuận lợi hơn nhiều, mà túi ni lông vỏ bao gạo Trung Quốc thì không thiếu.

Đoàn đi lấy gạo và xăng lần này vẫn là mười người, đã dẻo chân đi bộ và gùi nặng nên mọi việc suôn sẻ và tốc độ cũng nhanh hơn, nhiều tay tỏ ra còn thích được đi lấy gạo vì thế nào cũng "cải thiện" được tí ti và sẽ được ăn no hơn. Tuy nhiên với hai người gùi xăng thì không đơn giản.

Trị đã chọn hai người to khoẻ nhất trong đoàn là Tráng và Cát để đảm nhiệm phần việc gùi xăng, lúc nhận xong ở kho đem đóng vào bao ni lông rồi cho vào ba lô hai tên có vẻ phởn chí lắm vì hai nhăm lít xăng có hai mươi cân, nhẹ hơn so với bọn gùi gạo những năm cân cơ mà. Nhưng mới đi được độ một tiếng thì hai tên đã tỏ ra bức bối lắm. Không như đeo ba lô gạo, cái ba lô xăng cứ dán chặt vào lưng, mỗi bước chân lại óc a óc ách như sóng vỗ bờ, mồ hôi đổ ra không thoát đi đâu được khó chịu vô cùng. Mà cái thứ chất lỏng này cũng lạ, đã đựng vào hai lần túi ni lông rồi nhưng không hiểu sao nó vẫn thấm ra ngoài được, ngấm vào lưng áo và trộn với mồ hôi thành một thứ hỗn hợp nhớp nháp, loang lổ trông phát khiếp. Về đến trạm trung chuyển mọi người cởi áo ra ai trông cũng lắc đầu: hai tấm lưng đỏ ửng, nhiều chỗ bợt bạt như sắp bong ra, cái áo thì đem hơ mãi mà vẫn chẳng chịu khô. Trị quyết định cho đoàn nghỉ một ngày rồi hôm sau sẽ gùi xăng về trước.

Khi đưa được hai gùi xăng về đơn vị lưng Tráng và Cát đã chuyển sang màu đỏ sậm, mấy hôm sau chuyển thành màu đen và bong ra hàng mảng. Y tá Tảo bảo: "Hai anh bị nhiễm độc chì từ xăng ngấm vào". Nhìn hai tấm lưng chỗ trắng chỗ đen như rắn lột dở ai cũng lắc đầu lè lưỡi.

Càng đến gần ngày 27 tháng 1 năm 1973 ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực không khí càng căng thẳng, đại đội cũng nhận được lệnh đi trinh sát Tà Lương để sẵn sàng tiến công khi có thời cơ. Theo hướng từ A Lưới xuống Huế cứ điểm Tà Lương nằm ở phía bên trái Đường 12. Nó gồm hai mỏm: Tà Lương 1 và Tà Lương 2. Tà Lương 1 thấp hơn nằm ngay sát đường, còn Tà Lương 2 cao hơn nằm lui về phía sau, hai mỏm Tà Lương nối với nhau bằng một cái yên ngựa chừng hai trăm mét. Lực lượng địch đóng ở đây có khoảng một đại đội được tăng cường các hoả khí tương đối mạnh như tên lửa chống tăng, cối 106,7 ly... Xung quanh cứ điểm là hàng chục lớp hàng rào dây thép gai, công sự được xây dựng khá kiên cố bằng gỗ súc và bao cát.

Với lực lượng và trang bị vũ khí như vậy sẽ chẳng ăn nhằm gì với một đại đội xe tăng, nhưng cái khó nhất ở đây chính là đường cơ động. Từ Đường 12 lên mỏm 1 và sang mỏm 2 của cứ điểm chỉ có một con đường độc đạo, sau một mùa mưa dài Đường 12 và con đường lên cứ điểm đều bị sạt lở nghiêm trọng. Nhìn con đường có chỗ đất sụt gần sát ta luy dương Thận ngán ngẩm: "Đường với sá thế này thì đánh nhau thế quái nào được".

Sáng 24 tháng 1 năm 1973, đại đội trưởng Thận và chính trị viên Đán được lệnh vào căn cứ Hai nhận nhiệm vụ. Khi hai người đến hầm chỉ huy của căn cứ đã thấy khá đông người trong đó, tiểu đoàn trưởng của các anh cũng đã từ 108 sang đây từ bao giờ. Người giao nhiệm vụ cho các anh là tham mưu phó quân khu. Sau khi tóm tắt tình hình địch và ý định của ta ông nhấn mạnh:

- Lực lượng tham gia tiến công Tà Lương gồm có một đại đội bộ binh của căn cứ Hai hiệp đồng với đại đội xe tăng Bốn, sử dụng bao nhiêu xe do các anh bàn bạc thống nhất với nhau. Về thời gian tiến công quân khu ấn định là vào nửa đêm về sáng 26 tháng 1 và phải hoàn thành trước 7 giờ sáng là giờ hiệp định chính thức có hiệu lực. Chỉ huy chung trận đánh là chỉ huy trưởng của căn cứ Hai, đồng chí tiểu đoàn trưởng xe tăng sẽ làm đại diện xe tăng tại sở chỉ huy.

Ông còn nói dài dài về tầm quan trọng của trận đánh nhưng Thận chẳng còn bụng dạ nào để nghe, anh đang nhẩm tính các công việc tiếp theo sẽ phải làm. Ngoài ra khi nghe đến phải hiệp đồng với quân của căn cứ Hai anh đã thấy nản: đây đâu phải là "lính chiến" mà toàn là lính hậu cần chuyên gùi gạo, cáng thương. Vì vậy ngay sau khi tham mưu phó hỏi ai có ý kiến gì không anh lập tức giơ tay:

- Tôi hoàn toàn nhất trí với nhiệm vụ nhưng có một số đề nghị sau: Thứ nhất hiện nay Đường 12 từ chỗ chúng tôi lên đến Tà Lương bị sạt lở nghiêm trọng, đề nghị cấp trên cho khắc phục ngay thì chúng tôi mới đưa được xe tăng lên để tham gia chiến đấu. Thứ hai, Tà Lương có hệ thống hàng rào, vật cản rất kiên cố và chắc chắn là có mìn chống tăng, vì vậy chúng tôi đề nghị quân khu phải bổ sung lực lượng công binh mở cửa và dò gỡ mìn khi cần thiết. Thứ ba đề nghị đồng chí chỉ huy phải tổ chức hiệp đồng chặt chẽ giữa xe tăng và bộ binh vì tôi biết lực lượng bộ binh của căn cứ Hai chưa bao giờ tác chiến hiệp đồng với xe tăng.

Chỉ huy trưởng căn cứ Hai cũng đứng dậy:

- Quả thật bộ đội của căn cứ Hai chúng tôi chưa bao giờ tác chiến hiệp đồng với xe tăng và nói chung cũng ít có cơ hội tham gia trực tiếp chiến đấu như thế này. Vì vậy chúng ta sẽ tổ chức hiệp đồng ngay trong buổi trinh sát thực địa vào chiều ngày mai. Còn các đề nghị của xe tăng chúng tôi sẽ cố gắng bảo đảm dến mức cao nhất.

Dù không thoả mãn lắm nhưng đánh thì vẫn phải đánh thôi - Thận tự nhủ. Sau khi đi trinh sát thực địa về anh quyết định chỉ sử dụng trung đội Một và xe 386 của anh vì địa hình ở đây không cho phép. Quá trình cơ động xe 381 của Tiến sẽ đi đầu, xe 380 đi thứ hai, xe 386 của anh sẽ đi cuối. Khi đến tuyến triển khai xung phong các xe phía sau sẽ dừng lại dùng hoả lực chi viện các xe phía trước xung phong và sau đó sẽ nhanh chóng chuyển sang xung phong. Cái khó nhất ở đây là đường độc đạo cho nên chỉ sử dụng được đội hình hàng dọc, mà nếu một xe bị làm sao thì các xe sau sẽ không thể vượt qua được. Còn trung đội Hai sẵn sàng bước vào chiến đấu khi cần thiết vì cấp trên dự kiến nếu tình hình phát triển thuận lợi sẽ đánh luôn cả Động Tranh.

Mờ sáng ngày 27, khi bộ binh đã chiếm lĩnh trận địa xuất phát xung phong thì xe tăng được lệnh xuất kích. Ba chiếc xe tăng thành một hàng dọc theo đường 12 tiến về Tà Lương, những chỗ sạt lở trên đường đã được công binh vá víu nhưng vẫn rất hẹp và yếu nên tốc độ cơ động rất chậm. Khi còn cách Tà Lương khoảng một cây số trời đã sáng hơn, đã nhìn rõ lá cờ ba sọc và công sự trên cứ điểm thì Thận cho phát hoả, anh nhấn công tắc ngực nói từng tiếng không dùng mật ngữ:

- Toàn đại đội phát hiện mục tiêu tiêu diệt! 381 tăng tốc độ! - Bỏ nút phát anh hạ lệnh - Đạn nổ, mỏm Tà Lương 1, 800, dừng bắn!

Thái dừng xe kéo một bên cần lái cho nòng pháo hướng thẳng về phía Tà Lương, pháo hai Đạt đã tống một quả đạn vào nòng, Độ "híp" dán chặt mắt vào kính ngắm. "ầm" một tiếng, cái vỏ đạn rơi "xoảng" xuống sàn xe. Qua kính Thận đã nhìn thấy điểm nổ của đạn, anh hô:

- Tốt lắm! Giữ nguyên phần tử chuyển sang bắn các mục tiêu khác.

Phía trước xe 380 cũng đang bắn từng phát chắc nịch, xe 381 thì vừa chạy vừa bắn. Không nhìn thấy lực lượng mở cửa của bộ binh đâu Thận lo lắm, anh chửi thầm: "Biết ngay mà, chỉ ăn với gùi có biết đánh nhau đâu". Nhìn thấy các công sự ở mỏm 1 đã bị tiêu diệt hết Thận ra lệnh:

- Tất cả tăng tốc độ! Tập trung hoả lực bắn vào cửa mở - Quay về nội bộ anh hô - Bắn mạnh vào chỗ cửa mở.

Xe 386 và 380 tiếp tục bắn mạnh vào đầu con đường lên cứ điểm - chỗ được xác định là cửa mở; trong khi đó xe 381 đã áp sát Tà Lương 1 và chỉ còn vài chục mét nữa sẽ đến đầu con đường dẫn vào cứ điểm, khẩu súng máy bên pháo của nó xổ ra hàng tràng đạn như hoa cà hoa cải vào mấy công sự phía trước mỏm 1.

Tiêu đề: Re: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Gửi bởi: dongadoan trong 19 Tháng Tư, 2009, 12:26:46 pm

Dán mắt vào kính trưởng xe Đậu Minh Tiến trông thấy toàn bộ địch ở mỏm 1 đã bị tiêu diệt và bỏ chạy hết. Hàng rào dây thép gai chỗ đầu đường vào cứ điểm đang bị hai xe phía sau bắn phá dữ dội đã bị hư hại một ít. "Chỗ còn lại vẫn có thể xông qua được" - Anh nghĩ vậy và hô:

- Lái xe tăng tốc độ! Pháo thủ bắn mạnh vào cửa mở!

Lữ Văn Hoả nhấn mạnh chân dầu, chiếc xe tiếp tục băng băng lao tới. Đã vượt qua tuyến bộ binh, một vài chiến sĩ lúp xúp chạy theo xe. Pháo thủ Hạnh hạ nòng pháo bắn vào đầu con đường dẫn lên cứ điểm, khoảng cách chỉ còn hơn trăm mét, nhìn rõ những búi thép gai tung lên sau những tiếng nổ.

Một đoạn đường hẹp hiện ra trước kính lái, chỗ này đường bị sạt nặng nhưng chắc gần địch quá nên công binh không sửa, Hoả kéo cần lái ép sát ta luy dương và thận trọng lái qua. Bỗng chiếc xe lạng đi và nghiêng hẳn về một bên, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống lưng Tiến, anh biết xe mình đã bị rệ. Hoả cũng vậy, anh vội về số Một và đưa hai cần lái về vị trí "hành tinh" hòng vượt qua tình huống khó khăn này. Nhưng xích càng guồng đất càng lở và xe càng nghiêng hơn, Hoả đành bấm "báo gọi" và nói:

- Xe bị rệ rồi anh Tiến ạ!

- Có lên được không? - Tiến hồi hộp.

- Cố mãi mà không lên được đâu. Rệ nặng lắm!

Tiến bóp công tắc trên ngực báo cáo:

- 81 gọi 86! 81 bị rệ nặng không lên được. Xin chỉ thị!

Từ phía sau Thận đã nhìn rõ xe 381 bị nghiêng hẳn về một bên đang nằm chênh vênh trên miệng vực, từ trên sở chỉ huy tiếng tiểu đoàn trưởng Trác nhắc:

- 86 nhanh chóng xung phong! Gần đến giờ quy định rồi.

Đầu Thận rối bời, đường thì độc đạo, xe 381 đã bị rệ chắn hết cả đường không thể nào vượt lên được, trên thì cứ giục; anh bóp công tắc phát:

- Báo cáo! Xe 381 bị rệ chắn mất đường, 386 không thể xung phong được. Đề nghị cho tại chỗ bắn chi viện bộ binh xung phong.

Chắc ở sở chỉ huy có sự trao đổi gì đó nên một lát sau mới thấy trả lời:

- Đồng ý! Tại chỗ bắn vào mỏm 2 chi viện cho bộ binh xung phong.

Thận trả lời:

- Nhận đủ! 80 chú ý, bắn mạnh vào mỏm 2 - Quay về nội bộ anh hô - Tại chỗ bắn mạnh vào mỏm 2!

Độ "híp" rê nòng pháo vào mỏm 2 bắn liền ba, bốn phát rồi bóp cò mãi vẫn không thấy đạn nổ, Thận giục:

- Tiếp tục bắn đi chứ!

- Báo cáo bóp cò mãi đạn không nổ! - Độ hổn hển trả lời.

Thận rời mắt khỏi kính trưởng xe nhìn sang buồng pháo hai, trong buồng chiến đấu khói mù mịt, thum thủm mùi thuốc phóng cháy. Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn trần anh thấy Đạt đang nằm giữa đống vỏ đạn ngổn ngang, hai tay vẫn ôm một quả đạn. Thận đoán rằng Đạt đã bị ngất vì gắng sức và ngạt thở nên khi thấy bên ngoài khá an toàn Thận với tay mở khoá và đẩy mạnh cửa pháo hai lên, anh quát Độ:

- Sang buồng pháo hai đưa Đạt ra ngoài.

Hai anh em trầy trật đưa được Đạt ra buồng truyền động, anh nằm lả đi. Độ vội làm mấy động tác hô hấp nhân tạo. Mắt Đạt từ từ mở ra, ngỡ ngàng không biết mình đang ở đâu. Nhận được tín hiệu của Thận bộ phận hậu cần, kỹ thuật đã tới đón Đạt về phía sau. Chỉ còn ba anh em, Thận bảo Độ:

- Cậu sang nạp đạn để tớ bắn.

Trời đã sáng nên các mục tiêu nhìn rất rõ, Độ nạp đạn cho Thận bắn vào mỏm 2 thêm mấy phát nữa, phía trước xe 380 cũng đang bắn mạnh vào mỏm 2. Quân địch không thấy phản ứng gì.

Sở chỉ huy yêu cầu báo cáo tình hình. Thận dừng bắn bóp công tắc phát:

- 86 gọi 81! Yêu cầu 81 báo cáo tình hình.

- 81 gọi 86! Xe vẫn bị rệ, không thể khắc phục được!

Thận gọi về sở chỉ huy:

- 86 gọi sở chỉ huy! Hầu hết công sự tại mỏm 2 đã bị phá hủy, địch không phản ứng gì nhưng không thấy bộ binh xung phong. Xe 381 vẫn chưa khắc phục được. Hết!

Lại im lặng một lúc lâu, chắc có sự tranh luận gì đó ở sở chỉ huy. Cuối cùng giọng chỉ huy trưởng căn cứ Hai vọng đến:

- 86 chú ý nhận lệnh: cho người trong xe 381 rời xe, bắn hủy xe 381 rồi cơ động về vị trí tập kết!

Thận như không tin vào tai mình, anh lên đài hỏi lại:

- 86 gọi sở chỉ huy! Đề nghị nhắc lại mệnh lệnh!

Vẫn tiếng người chỉ huy căn cứ Hai:

- Tôi nhắc lại: cho thành viên xe 381 rời xe, tổ chức hủy xe rồi cơ động về vị trí tập kết! Thời gian không còn nhiều nữa đâu!

Thận nài nỉ:

- Tôi đề nghị cho xe lên kéo!

- Không kịp nữa rồi! Đã sắp đến giờ hiệp định có hiệu lực. Các anh phải chấp hành mệnh lệnh!

Thận thấy đầu ong ong như muốn lên cơn sốt, anh biết rằng sắp đến giờ Hiệp định Pa-ri chính thức có hiệu lực, việc giữ thể diện là cần thiết nhưng anh không nỡ. Một cái xe tăng là bao nhiêu tiền của, đưa vào đến đây đâu có dễ dàng gì, anh và đồng đội của anh đã phải trải qua trăm ngàn gian khó mới hoàn thành được nhiệm vụ đó. Trong đầu Thận chợt loé lên một ý nghĩ, anh vội lên đài:

- 86 báo cáo sở chỉ huy. 86 bị khuất tầm nhìn không bắn được. Xin chỉ thị!

Trên sở chỉ huy lại im lặng, Thận phấp phỏng hy vọng. Bỗng giọng người chỉ huy căn cứ Hai lại vang lên:

- 86 lập tức cho người rời xe và cơ động về vị trí tập kết. Tôi sẽ cho bộ binh bắn hủy.

Biết không còn cách nào khác Thận đành bóp phát:

- 86 gọi 81! 81 nhanh chóng cho thành viên rời xe cơ động về phía sau. Nhận đủ trả lời!

Thực ra các cuộc trao đổi trên đài Tiến đã nghe được cả, anh bảo Hoả cố tìm cách khắc phục xem sao nhưng vẫn không được, bây giờ nhận lệnh rời xe để hủy nó anh thấy lòng đau như dao cắt. Chiếc xe tăng 381 như con tuấn mã thân thương đã cùng anh và đồng đội gắn bó biết bao, đến nỗi nó đã như một phần máu thịt của mỗi người. Trên đài Thận lại đang nhắc lại:

- 86 gọi 81! Nhanh chóng rời xe cơ động về phía sau. Nhận đủ, trả lời!

- Nhận đủ! - Tiến buông xõng rồi hô - Tất cả ra khỏi xe!

Dẫu đã biết trước nhưng cả bốn anh em vẫn lặng đi một lúc rồi mới mở cửa chui ra. Ra khỏi xe họ còn đứng lặng một lát rồi mới nép sát vào ta luy chạy về phía sau. Đi ngược chiều với họ là một chiến sĩ bộ binh vác khẩu B41, anh ta nói:

- Các ông đi nhanh lên để tôi còn bắn!

Thấy anh ta đã quỳ xuống ngắm bắn bốn anh em đều dừng lại nhìn. "Bùm", "Ầm" - hai tiếng nổ kế tiếp nhau, một đụn khói bốc lên trùm kín chiếc xe. Tiến liếc nhìn mọi người, cả ba đứa mắt đều đỏ hoe. Cố nén cơn xúc động anh giục:

- Thôi đi về!

Lúc đó là 7 giờ kém 15 phút sáng 27 tháng 1 năm 1973, mười lăm phút trước khi Hiệp định Pa-ri chính thức có hiệu lực.

Đưa xe vào giấu xong Thận bực bội chẳng nói chẳng rằng ngồi bệt xuống cửa hầm. Từ phía trước xe Tiến đã về tới nơi. Đúng lúc đó Trác cũng từ sở chỉ huy về, cùng đi với ông có cả Đán, Toàn. Thận cáu:

- Chỉ huy như..., cứ như thế thì chỉ có nướng quân thôi! Lại cái bọn bộ binh nữa, đã bắn nát cả cứ điểm ra rồi mà có thằng nào dám lên đâu!

Tiến cũng phụ hoạ:

- Bọn tôi ở ngay đấy, có thằng địch nào bắn đâu mà gọi mãi bọn nó vẫn nằm ỳ ra chẳng thằng nào nhúc nhích cả.

Trác dàn hoà:

- Thôi! Thông cảm với người ta, lính hậu cần ấy mà, vơ vét mãi mới đủ một đại đội đấy.

Thận vẫn bực bội:

- Đưa được một cái xe tăng vào đây có phải dễ đâu mà động một tý là đòi hủy, hủy cái...

Đán vội chen vào:

- Thôi anh Thận ạ! Thế là ta cũng đã hoàn thành nhiệm vụ rồi.

Thận càng tức:

- Hoàn gì mà hoàn... đã chiếm được Tà Lương đâu, lại còn mất xe nữa chứ!

Đúng lúc ấy từ phía vọng cảnh giới pháo hai Thành đang chạy như bay về phía xe "đại trưởng", vừa đến nơi chưa kịp lấy lại hơi nó đã hổn hển:

- Quân... quân ta chiếm được Tà Lương rồi, mà xe 381 vẫn còn nguyên.

Tất cả như không tin vào tai mình, Thận bật dậy hỏi:

- Cậu nhắc lại xem nào?

Thành đã bình tĩnh hơn:

- Bọn em thấy cờ giải phóng đã cắm trên đỉnh Tà Lương. Còn cái xe trông vẫn bình thường, chưa bị cháy.

- Đi, ta lên vọng cảnh giới xem sao - Thận khoát tay vẫy mọi người rồi chạy về phía vọng cảnh giới.

Từ trên vọng cảnh giới dõi ống nhòm về phía Tà Lương, Thận nhìn rõ lá cờ nửa xanh, nửa đỏ đang ngạo nghễ tung bay trong nắng sớm. Hạ ống nhòm xuống chỗ xe 381 anh thấy xe vẫn nguyên màu sơn chứng tỏ nó chưa hề bị cháy. "Thật chẳng hiểu ra làm sao nữa" - Thận nghĩ bụng. Chiếc ống nhòm được chuyền từ tay người này sang người khác, ai cũng hớn hở ra mặt. Thận phân công:

- Bây giờ cậu Tiến đem theo mấy người lên trên đó xem xét thực hư thế nào? Trường hợp xe vẫn còn thì lên đài báo về. Ở nhà Tự để đài thu canh, khi Tiến báo về thì cho xe lên kéo.

Mãi đến chiều khi xe 381 đã được kéo lên và chạy về chỗ giấu mọi người mới biết đầu đuôi câu chuyện: thì ra khi thấy xe tăng tiến đánh bọn địch ở Tà Lương đã rút bỏ cứ điểm bằng đường mòn phía sau, một đơn vị bộ binh của sư 324 khi cơ động qua đó đã phát hiện cứ điểm đã bị bỏ trống nên họ đã cắm cờ giải phóng lên và cử một trung đội chốt giữ. Còn cái xe 381 gần như nguyên vẹn, chỉ mất mấy thứ lặt vặt do bộ binh thu "chiến lợi phẩm". Mọi người còn băn khoăn tại sao xe 381 bị B41 bắn hủy mà không cháy thì Tiến suy luận:

- Khi lên đó chúng tôi thấy một vết đạn nổ ở vách ta luy ngay sau đuôi xe, có lẽ do thằng cha ấy bắn kém quá nên đạn trúng vào đó, khi đạn nổ khói trùm kín cả xe nên chúng tôi tưởng là xe đã bị cháy.

- May nhé! May mà bọn bộ binh này kém nên mình đỡ mất một xe nhé! - Trác đùa.

Thế là ngày đầu tiên của hoà bình trên Đường 12 đã trôi qua! Thật là khác xa với những ai giàu trí tưởng tượng nhất - nó được bắt đầu bằng tiếng gầm rú của động cơ xe tăng cùng những chớp lửa của trọng pháo và kết thúc bằng buổi tụ tập nghe đài ở hầm "đại trưởng" và chính trị viên. Hết đài ta đến đài địch lên án nhau vi phạm hiệp định. Tráng thủng thẳng phán:

- Hiệp định ký rồi mà vẫn đánh nhau loạn xạ như thế này thì ký làm đếch gì? Có khác gì trước đâu?

Đán chấn chỉnh ngay:

- Khác nhiều chứ cậu! Nếu không có hiệp định thì bọn Mỹ nó chịu để chúng ta yên thế này à?

Có tiếng ai đó bâng quơ:

- Hình như gần Tết rồi hay sao ấy nhỉ?

Tất cả ồn lên, chủ đề câu chuyện chuyển sang đề tài Tết nhưng không ai biết được chính xác hôm nay là ngày bao nhiêu âm. Đán lục tìm cuốn sổ công tác cũ anh vẫn để trong xắc cốt, may quá trong đó có in lịch năm 1973. Anh giơ cao cuốn lịch đã nhàu nát và hồ hởi:

- Hôm nay là hai mươi sáu Tết rồi các cậu ạ. Ta phải chuẩn bị Tết đi là vừa!

*

Ngay ngày hôm sau chi bộ họp ra nghị quyết lãnh đạo, trong đó có hai vấn đề trọng tâm là bảo đảm sẵn sàng chiến đấu chống lấn chiếm và chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Quý Sửu.

Sẵn sàng chiến đấu thì rõ rồi, lính tráng trong chiến trường mà không sẵn sàng chiến đấu cao thì chết đầu nước ấy chứ. Còn Tết thì có quái gì mà chuẩn bị. Tiêu chuẩn ăn thì vẫn thế, có một ít thực phẩm dự trữ thì cũng đã cạn kiệt trong mùa mưa vừa rồi. Bí thư chi đoàn Lê Xuân Tự cũng không thể nghĩ ra được hình thức tổ chức vui Tết thế nào trong hoàn cảnh hiện nay vì hai trung đội đóng quân cách xa nhau đến ba cây số, lại chẳng có địa điểm nào đủ rộng để tập trung. Cuối cùng phương án cụ thể cũng được thông qua: tăng quân số "cải thiện" trong những ngày giáp Tết, tăng khẩu phần ăn cho ngày mồng Một, đêm giao thừa các trung đội tổ chức liên hoan văn nghệ và đón nghe chương trình Chúc mừng năm mới trên Đài tiếng nói Việt Nam, ngày mồng Một tổ chức thi đấu cờ tướng và thi nấu ăn. Có một điều khoản mà những tay "hiếu chiến" nhất phải đồng ý một cách miễn cưỡng là: tuyệt đối không dùng súng, lựu đạn hay bộc phá để gây tiếng nổ trong những ngày Tết.

Thật may, không biết chuẩn bị từ bao giờ mà quân khu cũng đã có hàng Tết để cấp cho các đơn vị. Vào cái lúc bí bách nhất không nghĩ ra cái gì bảo đảm cho bộ đội đón Tết thì tiểu đoàn cho người mang sang: mỗi người được hai điếu thuốc lá Điện Biên, mười cái kẹo Hải Châu, một cân rưỡi gạo nếp, một cân lương khô và ba lạng thịt hộp, ngoài ra còn một ít đường sữa để dùng chung. Chính trị viên Đán và bí thư chi đoàn Tự mừng húm như giải được bài toán khó.

Cái Tết hoà bình đầu tiên sẽ thật sự bình yên nếu không có chuyện ngay trong đêm cuối cùng của thoả thuận ngừng bắn ăn Tết quân ngụy đã xua quân đánh Tà Lương. Lực lượng trên chốt vốn đã mỏng lại có phần chủ quan nên chúng đã chiếm được Tà Lương tương đối dễ dàng, sáng mồng Ba Tết đã thấy trên đỉnh Tà Lương hai lá cờ ba sọc được kéo lên. Chính trị viên Đán lại được dịp nhắc nhở:

- Các cậu thấy không? Chỉ cần mất cảnh giác một tý là nó đánh cho trở tay không kịp ngay.

Đại đội trưởng Thận thì thấy lo lo, linh cảm mách bảo anh rằng rồi đại đội anh sẽ lại phải đánh chiếm lại Tà Lương. Thực ra đánh nhau thì anh không lo, đó là chuyện bình thường của những người lính, đối với anh em trong đại đội mặc dù mới thử lửa một trận nhưng anh tin rằng họ sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cái anh lo là lực lượng mà mình sẽ phải đến phối thuộc cơ, nếu lại phải hiệp đồng với các lực lượng của căn cứ Hai thì thật là tai hoạ. Họ đâu có phải là lính chiến đấu, nhiệm vụ thường xuyên của họ là bảo đảm nên khi đánh nhau họ rất bỡ ngỡ, cứ nghĩ lại trận đánh hôm trước anh vừa tức lại vừa buồn cười.

Nhưng rồi cái lo của Thận đã trở thành hiện thực, đại đội anh lại có nhiệm vụ phối thuộc cho căn cứ Hai tiến công chiếm lại Tà Lương.

Trong buổi nhận nhiệm vụ anh đã nói rất căng thẳng:

- Có thể nói trận đánh hôm 27 tháng Giêng vừa qua chúng ta đã không hoàn thành nhiệm vụ. Về phía xe tăng chúng tôi việc xe bị rệ là bất khả kháng, đường sá sửa như thế không lăn xuống vực là may. Nhưng còn phía bộ binh thì sao, khi chúng tôi đã dùng pháo bắn trực tiếp phá hủy hầu hết công sự trên cả hai mỏm, xe chúng tôi đã đến sát mỏm 1 mà nào có thấy bộ binh đâu, gọi lên cũng chẳng ai chịu lên, nếu hôm đó mà các anh lên ngay thì có phải mọi việc đều tốt đẹp không? Còn về phía chỉ huy tôi đề nghị các đồng chí nên bình tĩnh hơn khi có các tình huống xảy ra, may mà hôm ấy bắn trượt chứ nếu không ta đã mất oan một chiếc xe tăng. Tóm lại tôi đề nghị về phía căn cứ Hai phải củng cố lại phân đội bộ binh và các lực lượng bảo đảm, nếu để như hôm trước thì chúng ta chắc cũng sẽ không hoàn thành nhiệm vụ được.

Người chỉ huy căn cứ Hai có vẻ sượng sùng, anh ta vội đứng lên dàn hoà:

- Tôi xin tiếp thu tất cả những ý kiến đề nghị của các đồng chí xe tăng. Về phía chúng tôi sau trận đánh hôm trước cũng đã rút kinh nghiệm và kiểm điểm một cách rất sâu sắc rồi, các đồng chí cứ tin tưởng trận này sẽ không để xảy ra tình trạng như trận trước.

Chẳng biết nói gì hơn nữa Thận ra về nhưng trong lòng vẫn chẳng thoải mái hơn được tý nào.

Trận đánh Tà Lương lần thứ hai được ấn định vào rạng sáng, về sử dụng lực lượng Thận quyết định vẫn dùng ba xe gồm hai xe của trung đội Một và xe 386 của mình. Hồi ta làm chủ Tà Lương Đường 12 đã được sửa sang chút ít nên vấn đề cơ động cũng đỡ lo, chỉ lo nhất là đường vào cứ điểm có mìn. Địa hình thì anh em thuộc làu làu rồi chẳng cần đi trinh sát nữa, phương án tác chiến thì vẫn như trận trước - bộ binh sẽ chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công trước, xe tăng vẫn bắt buộc phải sử dụng đội hình hàng dọc vì địa hình không cho phép, các xe sẽ chi viện cho nhau lần lượt xung phong và dẫn dắt bộ binh tiến công.

Sau một đêm ngủ vật vờ, gần sáng Thận thấy bụng đau dữ dội, những cơn đau quặn ruột quặn gan làm anh phải nằm sấp xuống ôm chặt cái ba lô vào bụng và ép chặt hai đầu gối vào mà vẫn không chịu được, một lúc sau cơn đau chuyển xuống phía dưới, Thận chạy vội ra sau hầm, thế rồi miệng nôn trôn tháo, ra cả mật xanh mật vàng.

Thấy "đại trưởng" bị như thế pháo hai Đạt nhanh chân chạy ngay sang "xê bộ", chính trị viên phó Toàn, đại đội phó Đề và y tá Tảo có mặt ngay lập tức. Nhìn Thận y tá Tảo bảo:

- Chắc "đại trưởng" bị cảm lạnh rồi - Anh mở vội túi thuốc lấy mấy viên thuốc đưa cho Thận.

Thận phều phào:

- Gay quá! Sắp đến giờ xuất phát rồi.

Toàn bấm đèn pin xem đồng hồ, đúng là đã đến giờ xuất phát theo hiệp đồng, phía bên ngoài đã nghe tiếng máy nổ của hai xe 380 và 381, anh quả quyết:

- Anh đau như thế không đánh nhau được đâu! Để tôi đi thay anh!

- Liệu anh có chỉ huy được không? - Thận nhăn nhó hỏi.

- Được thôi! Phương án tác chiến ta đã thảo luận kỹ rồi, cứ thế mà đánh thôi chứ gì?

Đại đội phó Đề cũng góp ý:

- Anh cứ yên tâm! Chắc là không có vấn đề gì đâu!

- Thôi được! Anh Toàn thay tôi nhé! Nhưng phải đi ngay không... - Một cơn đau lại quặn lên làm Thận không nói được hết câu.

Toàn cúi xuống vỗ vai Thận:

- Anh cứ yên tâm nghỉ ở nhà - Quay ra sau anh nói - Tảo ở nhà trông anh Thận nhé, còn tất cả lên xe.

Xe 386 ra khỏi chỗ giấu đã thấy 381 và 380 xếp thành một hàng dọc bên đường chờ từ lúc nào. Tiến và Tự thấy xe 386 đến cùng chạy lại, cả hai đều ngạc nhiên khi thấy người vừa từ trên xe bước xuống không phải đại đội trưởng Thận mà là chính trị viên phó Toàn. Thấy cả hai có vẻ ngạc nhiên Toàn giải thích ngay:

- Anh Thận ốm, tớ đi thay. Phương án tác chiến ta đã bàn kỹ rồi, cứ thế mà thực hiện. Các cậu còn hỏi gì nữa không?

- Không ạ! - Tiến, Tự cùng trả lời.

- Vậy thì ta đi!

Cả hai chạy về xe, ba chiếc xe cùng nổ máy nhằm hướng Tà Lương thẳng tiến. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sớm, ba chiếc xe tăng thành một hàng dọc theo thứ tự 381, 380, 386 lầm lũi chạy, tiếng động cơ, tiếng xích nghiến ken két phá tan bầu không khí tĩnh lặng của buổi ban mai.

Trời sáng dần, đến cách Tà Lương khoảng một cây số đã nhìn rõ các mục tiêu trên mỏm 1, Toàn nhấn công tắc ngực hạ lệnh:

- Tăng cường quan sát, phát hiện mục tiêu, tiêu diệt! - Quay về nội bộ anh hô - Pháo thủ chú ý, đạn nổ, Tà Lương 1, 1000, tạm dừng bắn!

Đạt đã nạp xong viên đạn đầu tiên, Độ dán mắt vào kính ngắm, miệng hô:

- Lái xe dừng!

Thái từ từ dừng xe, trong giây lát một chớp lửa bùng lên, tiếng vỏ đạn rơi trong buồng chiến đấu loảng xoảng. Dán mắt vào kính trưởng xe Toàn thấy phát đạn đã bắn trúng một công sự ngay phía chân mỏm 1, anh hô:

- Đạn trúng! Tiếp tục bắn!

Phía trước hai xe 380, 381 cũng vừa chạy vừa bắn, những đụn khói bốc lên trùm hết mỏm 1, loáng thoáng những bóng rằn ri chạy về phía sau, Toàn nghĩ: "Chắc bọn nó không chịu nổi, đã bắt đầu rút rồi".

Đến cách Tà Lương chừng hai trăm mét Toàn thấy một số bộ binh đang nằm trong công sự bên đường, anh mở cửa xe khoát tay ra hiệu cho họ tiến theo xe tăng. Qua kính trưởng xe anh thấy xe 381 đã vượt qua cửa mở, rẽ phải lên mỏm 1, súng máy từ hai khẩu đại liên bắn xối xả vào các công sự ở khoảng cách gần, hai băng xích đã chồm lên đè sập một công sự gần nhất, anh bóp công tắc phát:

- 86 gọi 81! Nhanh chóng làm chủ mỏm 1 để chi viện cho 80 và 86 xung phong sang mỏm 2.

- 81 nhận đủ! - Tiến trả lời ngắn gọn.

Nhưng cái gì thế kia: xe 380 đã đến cửa mở nhưng không lao lên mỏm 1 như phương án mà lại chạy thẳng theo Đường 12, Toàn vội bóp công tắc phát:

- 86 gọi 80! 80 rẽ trái lên cứ điểm!

Không thấy tiếng trả lời, anh nhấn công tắc gọi tiếp:

- 86 gọi 80! 80 đã bị lạc đường, quay lại qua cửa mở đánh vào mỏm 2! Nghe rõ trả lời!

Vẫn không thấy tiếng trả lời của Tự, xe thì đã đến gần cửa mở, Toàn bóp công tắc về nội bộ rồi hạ lệnh:

- Rẽ trái, vượt qua cửa mở! Pháo thủ tăng cường quan sát tiêu diệt các mục tiêu ở mỏm 2.

Xe 381 đã lên đến đỉnh mỏm 1, nó đã quay pháo về phía mỏm 2 để bắn, đã thấy những cụm khói bốc lên ở mỏm 2. Toàn hô:

- Thái! Chạy thẳng lên mỏm 2! Độ, tiếp tục bắn mạnh vào!

Chiếc xe như một con mãnh hổ ngoặt sang trái lao xuống cái yên ngựa nối giữa mỏm 1 và mỏm 2, cứ chạy một đoạn lại dừng và hộc lên một tiếng, một chớp lửa bùng lên ở đầu nòng pháo và trên mỏm 2 một đụn khói lại bốc lên. Toàn quay kính lại đằng sau vẫn không thấy xe 380 đâu nhưng ngay sau xe anh lúp xúp bóng mấy chiến sĩ bộ binh ôm AK vừa chạy vừa bắn, anh lên đài gọi:

- 86 gọi 80! Nhanh chóng quay về mỏm 2! Nhận đủ trả lời!

Quái lạ! Vẫn không thấy tiếng trả lời. Anh đoán do khuất núi nên không liên lạc được. Yên tâm vì có bộ binh đi cùng rồi, Toàn gọi Tiến:

- 86 gọi 81! 81 tiếp tục bắn chi viện cho 86 xung phong!

- Nhận đủ! - Tiến trả lời.

Quay về nội bộ Toàn hô:

- Tăng tốc độ! Tiếp tục bắn vào mỏm 2.

Thái nhấn mạnh chân dầu, chiếc xe chồm lên vượt qua đoạn yên ngựa và bắt đầu leo lên mỏm 2. Bỗng "ầm" một tiếng, đầu xe như bị nhấc bổng lên rồi đập xuống, Thái hoảng hốt:

- Anh Toàn! Xe mình bị mìn rồi!

Toàn cũng đã đoán vậy, anh hỏi lại:

- Xe có làm sao không?

- Xe cứ tự chuyển hướng, chắc đứt xích rồi!

- Thế thì tại chỗ bắn chi viện cho bộ binh xung phong.

Độ tiếp tục ngắm bắn vào mỏm 2, Thái đạp bàn đạp hãm và ghì chặt hai cần lái nhưng đang ở trên dốc nên cứ mỗi phát pháo xe lại trôi vài mét. Trên đài Toàn nghe tiếng Tiến:

- 81 gọi 86! 81 quan sát thấy địch đã rút chạy!

Biết xe mình không thể tiến được nữa, lại đang nằm trên con đường độc đạo nên các xe khác cũng không thể vòng tránh để vượt lên Toàn mở cửa trưởng xe đứng hẳn dậy hét thật to:

- Địch rút chạy hết rồi! Các ông nhanh chóng lên làm chủ đi!

Thấy cánh bộ binh vẫn không chịu vượt lên trước anh lại hét lớn:

- Xe bị mìn rồi, không chạy được nữa đâu. Cứ lên đi, chúng tôi sẽ bắn yểm hộ. Mà địch nó rút hết rồi còn gì.

Cánh bộ binh trao đổi với nhau một lát rồi lúp xúp chạy lên trước, anh bảo Độ:

- Tiếp tục bắn đi nhưng chú ý không bắn vào bộ binh đấy!

Cả hai xe 386 và 381 cùng tiếp tục bắn vào đỉnh mỏm 2, bộ binh đã tràn lên chiếm các công sự ở phía trước. Chắc địch đã rút hết nên chỉ một lúc sau đã thấy họ lên gần đến đỉnh, một người quay lại phía sau xua tay. Đoán chừng họ ra hiệu thôi đừng bắn nữa Toàn hạ lệnh:

- Ngừng bắn! - Tay bóp công tắc ngực anh gọi Tiến - 86 gọi 81! Ngừng bắn!

- Nhận đủ! - Tiến trả lời gần như ngay lập tức.

Trên đỉnh mỏm 2 lá cờ ba sọc đã bị hạ xuống, thay vào đó là lá cờ giải phóng đang phất phới tung bay trong gió sớm, mấy chàng lính bộ binh đang khoa chân múa tay ra chiều hoan hỉ lắm. Toàn nhẹ hẳn người: "Thôi thế là ta đã hoàn thành nhiệm vụ", anh bảo mấy anh em trong xe:

- Ta chiếm được Tà Lương rồi. Bây giờ ra ngoài xem xe bị làm sao?

Cả xe mở cửa nhảy ra, tất cả đều trố mắt nhìn: một băng xích của xe đã bị đứt đang trải dài ở phía trước, lái xe Thái phân bua:

- Tôi đã khoá bàn đạp hãm và ghì chặt hai cần lái rồi đấy mà nó vẫn trôi thế này cơ à. Chắc là vì đang ở trên dốc mà chỉ còn một băng xích nên lực bám kém, cứ bắn mỗi phát pháo nó lại trôi một ít.

Trời đã sáng hẳn, đằng đông mặt trời đã nhô lên hứa hẹn một ngày khô ráo, đẹp trời.

Thế là sắp phải xa Đường 12, sắp phải xa sông Bồ rồi! Mới đó mà đã nửa năm, trọn vẹn một mùa mưa gắn bó với nó, những kỷ niệm về con đường 12 đâu có êm thấm gì. Ngay đêm đầu tiên đến với nó đã bị AC130 săn cho một mẻ thừa sống thiếu chết, rồi thằng chết vì kéo xe, thằng chết vì mìn vướng, thế rồi đói, rồi sốt rét, rồi lũ quét, rồi thiếu thốn mọi bề... thế mà khi sắp phải xa nó lại cảm thấy bùi ngùi, quyến luyến mới oái oăm chứ. Quả thật cái ông nhà thơ nào đó đã có lý khi viết: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn".

Không! Nói cho công bằng Đường 12 cũng đã để lại trong lòng những người lính đại đội Bốn nhiều kỷ niệm đẹp đấy chứ: đó là hơi ấm đồng đội khi ôm chặt lấy nhau vượt qua cơn sốt rét ác tính, đó là khúc sắn lùi dành cho nhau ăn "trả bữa" mà để có nó phải lặn lội hàng chục cây số đường rừng, đó là điếu thuốc lào bằng hạt đỗ xanh vẫn phải hút thật dè để thằng sau còn "chồng sái", đó là những trận cười nghiêng ngả giữa đêm sâu hun hút mùa mưa rừng Trường Sơn, đó là những lần cởi truồng chặn sông vây bắt cá chình "đặc sản", đó là những lá thư đầu tiên nhận được ở chiến trường được chuyền tay đọc chung cho đến khi nhàu nát chưa thôi ...

Thấy mấy thằng trong xe cứ thẫn thờ Đán phải giục:

- Ngẩn ngơ gì nữa, tranh thủ mà chuẩn bị đi, các anh ấy quay về là đi luôn đấy. Cái gì mang theo được thì mang, cái gì không mang được thì bỏ.

Đi một vòng quanh đại đội thấy xe nào lính tráng cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ như xe mình Đán nghĩ: "Quái lạ, chúng nó còn lưu luyến gì cái chốn này". Nhưng chính anh cũng không giải thích được tại sao trong lòng anh cũng đang có cảm giác bùi ngùi như sắp phải xa một người thân; anh tự bảo mình: "Phải nhắc trung đội Một nhớ đắp lại mộ cho Tình".

Ba hôm sau thì đoàn đi trinh sát địa điểm mới đã quay về, nhìn nét mặt ai cũng buồn buồn, Đán gặng mãi thì chính trị viên phó Toàn mới trả lời:

- Mộ mấy anh em xe 388 bị mất rồi! - Anh quay đi giấu mấy giọt nước mắt đang chực lăn xuống.

Đán không hỏi thêm gì, anh biết đó là một trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ nên việc mộ anh em mình bị bom đạn đào xới lên cũng là chuyện bình thường nhưng trong lòng anh cũng nhói lên một nỗi đau không tả xiết. Lúc tin này được thông báo đến toàn đại đội ai nấy đều lặng đi, nhiều cặp mắt ầng ậng nước.

Ngày hôm sau cả đại đội lên đường về vị trí mới. Khi hành quân vào thì phải đi đêm dấm dấm dúi dúi, còn hôm nay hành quân ra giữa ban ngày, không trống giong cờ mở nhưng bảy cái xe tăng nối đuôi nhau với cự ly gần trông cũng oai hùng lắm. Lên đến đỉnh dốc Bốt Đỏ, Tráng và Nguyên cùng chụm tay làm loa hét át cả tiếng động cơ:

- Vĩnh biệt Đường 12 nhé!

Tiêu đề: Re: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Gửi bởi: dongadoan trong 19 Tháng Tư, 2009, 06:52:24 pm

4

Chẳng mấy mà đại đội Bốn đã đứng chân ở vị trí mới được gần 2 năm. Thời gian đã đủ để cho họ dựng lên một cơ ngơi khá đàng hoàng và vững chãi. Về mặt biên chế của đại đội đã có những thay đổi rất cơ bản, một loạt cán bộ, chiến sĩ được điều động đi nhận công tác mới, một số được trên điều về để thay thế. Cho đến cuối năm 1974 bộ khung của đại đội đã gần như hoàn toàn mới. Trừ đại đội trưởng Bùi Quang Thận còn các vị trí khác đều thay đổi. Chính trị viên phó Vũ Đăng Toàn được bổ nhiệm làm chính trị viên, thay anh làm chính trị viên phó là Lê Xuân Tự, trợ lý kỹ thuật tiểu đoàn Lê Văn Phượng được cử làm đại đội phó kỹ thuật. Các trung đội cũng có thay đổi: trung đội trưởng trung đội Một là Mai Hồng Trị, còn trung đội Hai do Phạm Xuân Tráng phụ trách, Sáu Bùi được đôn lên trưởng xe 382, còn Nguyễn Đình Luông làm trưởng xe 380. Toàn tiểu đoàn cũng đã trở về đội hình của lữ đoàn 203 và mang phiên hiệu là tiểu đoàn Bốn.

Hai năm tương đối yên bình tập trung vào nhiệm vụ huấn luyện và xây dựng đơn vị nhưng những người lính đại đội Bốn vẫn linh cảm thấy một cái gì đó rất trọng đại sắp xảy ra.

Thật vậy, ngày 10 tháng 3 năm 1975 ta tiến công Buôn Ma Thuột. Cả tiểu đoàn sôi động hẳn lên, ai cũng háo hức chắc rằng xe tăng sắp được dùng đến sau mấy năm chờ đợi.

Chẳng phải chờ lâu! Chiều 18 tháng 3 tiểu đoàn nhận điện từ lữ đoàn: "Ngày 20 tháng 3 đại đội Bốn sẽ xuất kích, chậm nhất chiều 22 tháng 3 có mặt tại đỉnh Động Truồi để sẵn sàng tham gia tiến công Huế".

Chiếc xe "Vọt tiến" của tiểu đoàn được điều động đi đón số đang lao động cho quân khu về ngay trong đêm. Số còn lại ở nhà bắt đầu công tác chuẩn bị, dự kiến chiều hôm sau đại đội Bốn sẽ lên đường.

Nửa đêm, vừa về đến nhà Thận đã triệu tập toàn bộ cán bộ trong đại đội đến hội ý, chỉ thiếu chính trị viên phó Lê Xuân Tự đang đi học ngoài lữ đoàn chưa về kịp. Không dài dòng văn tự, anh đi ngay vào vấn đề:

- Nhiệm vụ của đại đội ta các đồng chí biết cả rồi, tuy nhiên quy định về thời gian của trên là rất gấp; vì vậy chúng ta càng xuất phát sớm càng tốt. Tôi dự kiến mọi công tác chuẩn bị phải xong trước 17 giờ ngày mai, ngay sau đó chũng ta sẽ xuất kích. Bây giờ đề nghị anh Phượng cho biết về tình trạng kỹ thuật của xe máy, vũ khí thế nào?

Lê Phượng đáp ngay:

- Báo cáo các đồng chí! Về tình trạng kỹ thuật xe máy, vũ khí không có vấn đề gì lớn. Tôi đề nghị ngay sáng mai sẽ cho tất cả các xe ra khỏi lán để nổ máy kiểm tra lần cuối, có gì khắc phục ngay sau đó mới cho cố định lương thực và khí tài.

- Đồng ý! - Thận quay sang chính trị viên Toàn - Anh Toàn có ý kiến gì không?

Vẫn với tác phong điềm đạm thường ngày Toàn chậm rãi:

- Việc quán triệt nhiệm vụ của bộ đội ta đã làm thường xuyên nên tôi nghĩ sẽ không có vấn đề gì. Qua theo dõi tình hình tư tưởng bộ đội thấy rằng anh em đều thông suốt, sẵn sàng lên đường chiến đấu. Nếu để ý các đồng chí sẽ thấy anh em phấn khởi thế nào khi được đón từ nơi lao động về. Vì vậy theo tôi cũng không cần thiết phải tổ chức sinh hoạt đại đội mà cần tập trung cho đơn vị làm công tác chuẩn bị. Tôi chỉ xin mấy phút động viên anh em khi anh Thận hạ mệnh lệnh hành quân thôi.

- Đồng ý! - Thận quay sang Trị, Tráng - Các đồng chí trung đội trưởng có ý kiến gì không?

- Nhất trí! - Cả Trị và Tráng cùng nói.

Thận ghi vài chữ vào sổ tay rồi ngẩng lên:

- Vậy thì tôi xin kết luận, đêm nay cho anh em nghỉ bình thường. Sáng mai sau khi ăn sáng các trung đội cho người đến nhận một tháng lương thực, thực phẩm và khí tài dự trữ đưa về các xe, riêng các lái xe ở nhà đưa xe ra khỏi lán và chuẩn bị về mặt kỹ thuật. Anh Phượng và anh Liên trực tiếp đi kiểm tra từng xe một, sau khi kiểm tra xong thì mới cho cố định vật chất. Chúng ta chỉ mang theo quân tư trang và lương thực, thực phẩm, khí tài theo quy định, còn toàn bộ các loại vật chất khác để nguyên tại chỗ bàn giao cho tiểu đoàn. Nếu các đồng chí không có ý kiến gì nữa thì ta nghỉ.

Mọi người không ai có ý kiến gì, Trị và Tráng ra về, ba cán bộ đại đội còn ngồi lại thì thầm bàn bạc với nhau một lúc nữa mới đi ngủ.

17 giờ, toàn đại đội tập trung nghe phổ biến mệnh lệnh hành quân, tiểu đoàn trưởng Phạm Ngọc Bảng cũng có mặt. Pháo thủ Dênh tập trung đại đội thành ba hàng ngang rồi mời đại đội trưởng ra làm việc. Thận trang phục gọn gàng, tay cầm cuốn sổ chạy lại trước tiểu đoàn trưởng, ông Bảng khoát tay:

- Anh cứ làm việc đi!

Bước lên phía trước hàng quân, Thận dằn giọng:

- Mệnh lệnh hành quân! Nghỉ! - Sau khi nêu các tuyến đường, hướng, tốc độ, đội hình, cự ly, giãn cách hành quân anh chốt lại - Đặc điểm chủ yếu trong đợt hành quân lần này là đường 73 rất hiểm trở, mặt đường hẹp, độ dốc lớn, yêu cầu các đồng chí lái xe và trưởng xe phải hết sức thận trọng, khi cần thiết trưởng xe phải xuống xe để chỉ huy. Các đồng chí đã rõ nhiệm vụ chưa?

- Rõ! - Hơn ba chục lồng ngực trẻ cùng bật ra.

- Mời đồng chí chính trị viên lên làm việc! - Thận quay về phía Toàn.

Chính trị viên Vũ Đăng Toàn bước lên phía trước, bộ quần áo Tô Châu không còn mới nhưng vẫn thẳng nếp như thường lệ, anh trịnh trọng:

- Thưa toàn thể các đồng chí! Đây chính là thời cơ lớn mà chúng ta đã mong đợi suốt mấy năm nay. Ngày 10 tháng 3 vừa qua chúng ta đã nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột, quân địch đã hoang mang rút chạy khỏi Tây Nguyên. Đại đội chúng ta nhận lệnh lên đường dịp này có nhiệm vụ giải phóng Huế, tiến tới cùng toàn dân, toàn quân giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thay mặt Ban chỉ huy đại đội và cấp ủy tôi kêu gọi tất cả các đồng chí trong đơn vị hãy phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin của đồng bào, của cấp trên.

Một tràng vỗ tay vang lên giòn giã, Thận quay về phía tiểu đoàn trưởng Bảng:

- Mời thủ trưởng động viên anh em!

- Chúc toàn thể anh em lên đường thắng lợi - Bảng xuề xoà - Các cậu cứ đi trước, mai kia tớ cũng đi mà. Hẹn gặp ở Huế nhé!

Thận quay về trước hàng quân hô to:

- Từng xe về vị trí! Chuẩn bị xuất phát!

Thận, Toàn, Phượng quay lại bắt tay tiểu đoàn trưởng Bảng rồi chạy về xe. Bảy cái động cơ gầm lên vang động cả rừng chiều. Tiểu đoàn trưởng Bảng còn đứng nhìn theo mãi cho đến khi chiếc xe cuối cùng đi khuất.

Đường 73 là con đường nối giữa Đường 14B với Đường 14 cũ, hai con đường sẽ gặp nhau tại Nam Đông, nó vừa mới được ta tranh thủ mở sau Hiệp định Pa-ri nên còn rất hẹp. Vắt ngang dãy A Roàng từ thung lũng A Lưới xuống bình nguyên Nam Huế nên cũng tương đối hiểm trở. Chỉ có điều sướng hơn năm bảy hai là không có máy bay, chạy được suốt ngày, còn đêm đến thì cứ bật đèn pha mà chạy. Tự tin vào tay lái của mình Trang bảo trưởng xe Luông:

- Anh mà buồn ngủ thì cứ ngủ đi! Kệ em!

Từ A Lưới vào đến hậu cứ cũ ở cây số 108 đường bằng phẳng, xe toàn chạy số ba số bốn, nhưng bắt đầu vào đường 73 chỉ còn chạy số một, số hai; con đường cứ dốc ngược lên, những cái cua gập như tay áo. Đi thứ ba trong đội hình nhiều lúc Trang phát hoảng bởi nhìn thấy dưới băng xích xe 386 đằng trước đất đá cứ rơi lả tả xuống vực. Mấy cái chắn bùn được hàn vá tương đối chắc chắn nay lại va vào ta luy rách tơi tả. Đã vào mùa khô, đất đá tơi vụn ra dưới hai băng xích thi nhau thốc vào mặt mũi cánh lái xe, mỗi lần nghỉ ngắn nhìn thấy nhau lại bò ra cười vì thằng nào thằng ấy cứ như hề.

Chạy cật lực gần suốt đêm thì Thận cho đại đội dẹp vào một bên đường dừng nghỉ. Vừa hạ ghế lái xuống Trang đã ngủ luôn không kịp uống ca sữa Thọ pha, Thọ lẩm bẩm: "Đúng là ăn pháo thủ, ngủ lái xe; sáng mai pha cho nó ca khác" rồi làm một hơi hết ca sữa.

*

Sau bữa cơm cả đại đội lại tiếp tục lên đường, lại những con dốc ngất trời, những khúc cua chóng mặt, lại va vào ta luy dương, đất đá lại lả tả lăn dưới những băng xích. Đến chặng nghỉ thứ nhất đợi mãi không thấy xe 382 và 389 tới nơi, Thận vội chui vào xe mở đài thì nhận được báo cáo của đại đội phó Phượng:

- 82 gọi 86! Xe 382 bị hỏng giảm tốc sườn, do đường hẹp xe 389 cũng bị kẹt lại. Xin chỉ thị!

Chẳng mật ngữ gì nữa Thận gắt:

- Thế liệu có khắc phục được không? Mất bao nhiêu lâu?

- Hiện tại không có khí tài thay thế ở đây, phải quay về A Lưới lấy nên có lẽ hơi lâu - Tiếng Phượng vọng về từ xa tắp.

- Thôi! Anh cứ ở lại với anh em, bao giờ xong thì đuổi theo đội hình. Có lẽ bọn tôi phải đi trước đây.

Ra khỏi xe anh bảo Chỉnh đi gọi chính trị viên, hai người chụm đầu bàn bạc một lúc, cuối cùng Thận bảo:

- Cứ phải đi cho kịp đã, chúng nó đuổi kịp thì tốt, còn nếu không có xe nào đánh xe ấy.

Thế là đại đội còn có năm xe, trung đội Hai bây giờ còn mỗi xe trung đội trưởng.

Chạy đến hai mốt giờ ngày hôm sau toàn đại đội đã có mặt tại đỉnh Động Truồi trước thời gian quy định, hai xe bị kẹt lại vẫn chưa lên kịp. Người của sư 324 đã có mặt tại đó để đón và hiệp đồng đến 9 giờ sáng hôm sau có mặt tại cầu Răng Cưa để đi trinh sát thực địa chuẩn bị tiến công cứ điểm Núi Bông, Núi Nghệ. Hỏi cầu Răng Cưa ở chỗ nào thì chỉ được trả lời vắn tắt: "Cứ đi thẳng đường này, thấy cái cầu nào mà người ta xây các ụ xi măng hai bên thì đó là cầu Răng Cưa".

Thế là chẳng còn xa xôi gì nữa, ngay dưới chân con dốc này thôi là địch, là đồng bằng, là Huế thân yêu - nơi đã từng là mục tiêu của chính đại đội này ba năm về trước. Đúng là "con đường thẳng chưa chắc đã là đường ngắn nhất", từ Cẩm Ly, Quảng Bình vào Huế theo quốc lộ Một chỉ gần hai trăm cây số thôi mà đại đội Bốn này đã đi hết ba năm với gần nghìn cây số. Những tháng ngày nằm ở Đường 12 tưởng chỉ đi "rốn" một tý là đến Huế mà nào có được, rồi hai năm ăn chực, nằm chờ ở A Lưới đợi đến lúc này đây.

Mặc dù đã lâu không hành quân đường dài ai cũng mệt nhưng những cảm xúc xốn xang trào đến làm mọi người trằn trọc. Nói gì thì nói dù đã trở lại với đội hình lữ đoàn nhưng những người lính tiểu đoàn Bốn xe tăng nói chung và đại đội Bốn này nói riêng ai cũng coi mình là một người lính của Thừa Thiên Huế, cái mong ước được về giải phóng Huế như một ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng họ đã mấy năm và chỉ nay mai sẽ bùng lên. Mấy thằng tếu táo vẫn kháo nhau: "sau này thế nào cũng phải kiếm một cô vợ Huế"; "rắn" như đại đội trưởng Thận mà còn dặn vợ: "Nếu đẻ con trai thì đặt tên là Thành, còn nếu đẻ con gái thì đặt tên là Huế" cơ mà... Vì thế thật dễ hiểu khi đêm nay mọi người cùng khó ngủ.

Sáng hôm sau Thận gọi Tráng, Tập và Trang cùng anh đi trinh sát thực địa; bốn anh em mỗi người một khẩu AK, một bi đông nước và hai bánh lương khô kéo nhau đến chỗ hẹn. Đi một thôi chừng ba mươi phút thấy một cây cầu đúng như lời dặn của anh chàng trinh sát bộ binh, cũng cầu bằng bê-tông, cũng hai dãy ụ xi măng hai bên làm giới hạn, Tráng bảo:

- Ừ! Trông xa đúng như cái lưỡi cưa nằm ngửa thật! Chắc chỗ này rồi!

Trông trước, ngó sau Thận bảo:

- Chắc đúng rồi đấy! - Anh giơ tay xem đồng hồ - Mới có chín giờ kém mười, còn sớm chán. Ta cứ ngồi đây đợi vậy!

Đợi đến mười hai giờ vẫn chẳng thấy cánh bộ binh đến. Thận quyết định:

- Ta cứ đi! Trên đường nếu gặp họ thì tốt, còn nếu không thì chủ yếu trinh sát đường cơ động thôi, không vào Núi Bông nữa.

Đi được chừng bảy, tám trăm mét, vừa qua khỏi một khúc cua Trang đi đằng trước mấy bước đã reo lên:

- Đây cũng có cầu Răng Cưa các anh ạ!

Thật vậy, cái cầu ở đây cũng y hệt cái cầu mà họ vừa ngồi đợi, Thận lẩm bẩm:

- Kiểu này chắc còn nhiều cầu Răng Cưa nữa chứ chẳng phải chỉ hai cái đâu.

Đi dấn thêm gần một cây nữa lại có một cây cầu y hệt, chỉ khác là ở đó có ba bốn chàng bộ đội đang ngồi tán dóc một cách uể oải. Vừa nhìn thấy thầy trò Thận đến một anh dáng chừng là chỉ huy đã hỏi ngay:

- Các anh bên xe tăng đi trinh sát phải không?

- Đúng đấy! Tôi là Thận, đại đội trưởng - Thận giơ tay ra bắt.

- Tôi là Sơn, trung đội trưởng - Anh trả lời và đưa tay bắt tay Thận - Nhưng sao các anh đến muộn vậy, hẹn chín giờ cơ mà! - Sơn có vẻ trách móc.

- Ai bảo các bố xác định địa điểm không rõ ràng, bảo nhau đến đợi ở cầu Răng Cưa nhưng bố cứ thử đếm xem ở con đường này có bao nhiêu cái cầu như cầu Răng Cưa này - Thận trả lời.

Anh chỉ huy trinh sát có vẻ ngượng:

- Thế "nó" không chỉ cho anh trên bản đồ à?

- Không! Chỉ thấy nói đúng một câu rồi đi luôn.

- Thôi được! Giờ ta đi vẫn còn kịp.

Bốn anh em xe tăng và bốn chiến sĩ trinh sát nhập với nhau thành một đoàn, họ vừa đi vừa trao đổi về nội dung và phương pháp tiến hành trinh sát. Sự trục trặc về hiệp đồng đã lấy mất của họ một khoảng thời gian hết sức quý báu. Nếu không có gì thay đổi sáng sớm mai sẽ nổ súng tiến công Núi Bông mà giờ họ còn chưa đến vị trí trinh sát, vì thế Sơn luôn giục mọi người rảo bước.

Đã đến đỉnh Động Truồi, từ đây trở đi chủ yếu là xuống dốc. Sơn bảo mọi người dừng lại giới thiệu khái quát địa hình toàn bộ khu vực, cuối cùng chốt lại:

- Vấn đề mà các anh cần lưu ý nhất khi đi từ trên này xuống là giữ bí mật. Các anh đều biết ở trên cao này chỉ cần một que diêm thì dưới chân dốc nhìn đã rất rõ, vì thế nếu các anh bật đèn thì địch sẽ phát hiện ra ngay và sẽ gọi pháo từ Mỏ Tàu, Phú Bài ngăn chặn quyết liệt. Vì vậy tôi đề nghị khi xuống dốc tuyệt đối không được bật đèn - Tập và Trang nhìn nhau, lè lưỡi. Sơn vẫn tiếp - Ngay cả bây giờ chúng ta cũng nên nép vào một bên mà đi, không loại trừ địch có những phương tiện trinh sát hiện đại có thể nhìn thấy chúng ta đang đi ở trên này.

Thận nhắc nhở:

- Tập với Trang chú ý nắm tình hình đường sá nhé. Đêm nay là đi "mò" đấy!

- Vâng ạ! - Tập trả lời.

Con đường đã lâu không có phương tiện cơ giới qua lại nên lau lách um tùm chờm hết cả vào lòng đường, cả tám người nép vào bóng đám lau lách vô tổ chức đó để đi. Càng xuống cuối dốc đường càng rộng và thoáng đãng hơn, từ đây đã nhìn thấy Núi Bông đứng sừng sững như một con voi lớn nằm phủ phục ngay bên đường, rõ ràng đây là một cứ điểm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bởi nó kiểm soát cả một vùng rộng lớn và toàn bộ sự đi lại trên Đường 14. Theo Sơn cho biết thì bộ binh đã đánh núi Bông từ hôm hai mươi nhưng không ăn thua gì, nó vẫn "rắn" lắm.

Xuống gần hết dốc thì đã ba giờ chiều, Thận bảo:

- Nội dung trinh sát đường cơ động chỉ đến đây thôi, bây giờ hai cậu về báo cho anh Toàn chỉ huy đại đội cơ động ngay, trước năm giờ sáng mai phải xuống hết dốc này và sẵn sàng bước vào chiến đấu, tớ sẽ đón đại đội tại chân dốc; nhớ lời anh Sơn dặn đấy nhé, tuyệt đối không dùng đèn từ khi bắt đầu xuống dốc.

- Rõ! - Cả Tập và Trang cùng trả lời.

Mấy anh em bắt tay nhau rồi chia tay. Tập và Trang vừa đi vừa chạy, vừa ăn lương khô mà chập tối một lúc lâu mới về đến chỗ đại đội trú quân, hai anh em vào báo cáo chính trị viên Toàn và đề nghị cho xuất phát ngay mới kịp.

Chính trị viên Toàn tập trung đại đội phổ biến nhiệm vụ, khi nghe đến đoạn phải đi "mò" cả hàng quân ồ lên. Đúng là trong điều kiện đường sá đèo dốc như thế này mà không cho sử dụng đèn để lái thì lạ thật, nhưng khi nghe Tập giải thích thì mọi người nhất trí ngay, thà đi chậm chứ tội gì mà gọi pháo bắn vào đầu mình. Trang cũng xin có ý kiến:

- Tôi để ý thấy suốt dọc đường hai bên um tùm lau lách, vì vậy khi lái đêm chúng ta có thể nhìn lên trời để căn đường cũng được.

Lại những tiếng "ồ", tiếng ai đó: "Lái xe sao lại nhìn lên trời mà lái được?". Nhưng rồi sau khi trao đổi nhỏ với nhau cánh lái xe cũng nhất trí sẽ chú ý để vận dụng. Cuối cùng Toàn kết luận:

- Đội hình hành quân sẽ như sau: tôi đi đầu, sau đó là xe 386, 381, 387 và cuối cùng là xe 380 của đồng chí Trang. Do trời tối lại đi không đèn nên giãn cách giữa các xe giảm xuống còn 25 đến 30 mét, trường hợp xe bị hỏng hóc thì trưởng xe phải xuống xe để báo cho xe sau biết, tránh tình trạng đâm vào nhau. Các đồng chí rõ cả chưa?

- Rõ! - Cả đại đội đáp đồng thanh.

- Về xe! Chuẩn bị xuất phát.

Đúng như Trang đã nói, ánh trăng non đầu tháng không đủ soi tỏ mặt đường, dẫu có căng mắt ra cũng không nhìn thấy hình hài con đường thế nào, và thế là cánh lái xe cứ ngước lên trời để điều khiển xe đi giữa hai hàng lau lách.

Hình như địch cũng phán đoán được các lực lượng ta đang áp sát hay để tự trấn an không biết mà thỉnh thoảng một vài quả pháo sáng được bắn lên từ phía Núi Bông, Núi Nghệ, những lúc đó có thể chạy nhanh hơn một chút vì có thể lờ mờ nhìn thấy mặt đường; còn pháo từ Mỏ Tàu thỉnh thoảng cũng bắn vài loạt lên đỉnh Động Truồi nhưng chắc là chúng bắn cầm canh.

Xuống được hết dốc thì gần sáng, bên đường đã thấy Thận và Tráng đứng đợi, Thận dẫn đại đội vào một cái khe cạn rồi hạ lệnh:

- Tất cả dỡ đồ vật chất xuống đây! Hai đồng chí Khoái và Lực có nhiệm vụ ở lại trông nom, bảo quản và sẽ đi cùng hai xe đến sau.

Toàn đại đội đỗ thành một hàng dọc để dỡ cố định, gỡ mãi chẳng được sợi dây chằng cái bánh dẫn xích Luông càu nhàu:

- Đã bảo buộc vừa vừa thôi không nghe, giờ cởi chả được.

- Buộc ít dây để rơi thì ông lại chửi tôi à? - Thọ trả đũa.

Đúng lúc đó bầu trời như bị xé rách bởi những chớp lửa và âm thanh cuồng nộ của đủ thứ hoả khí chuẩn bị: tiếng rú của hoả tiễn H12, tiếng rít của pháo 130, tiếng nổ đanh giòn của pháo 37 ly hạ nòng, tiếng trầm đục của cối 120 ly... tất cả nhằm vào núi Bông, núi Nghệ mà giội xuống.

Đại đội trưởng Thận hét át cả tiếng pháo:

- Lấy dao mà chặt! Nhanh lên!

Thế là chẳng cởi kiếc gì nữa, dao tông, búa con, rìu được huy động để dỡ cố định; chặt tất, vứt tất; cả gạo, nước, xoong nồi chậu đĩa, ba lô quần áo, khí tài dự bị... tất cả thành một đống hỗn độn nằm dưới đất. Thấy đã hòm hòm Thận quát:

- Hoả! Vào nổ máy chạy lên đường chờ!

Xe 386 từ từ bò lên mép đường dừng lại đợi, lần lượt các xe khác cũng đã ra, đứng trên đỉnh tháp pháo Thận vẫy tay và hét:

- Theo đội hình hàng dọc đã quy định, xuất phát!

Xe 386 chồm lên và tăng tốc ngay, tiếp theo là xe 381 của trung đội trưởng Trị, đi thứ ba là xe 380 của Luông, hơi lùi về phía sau là xe 387 của Tráng và đi cuối đội hình là xe 390 của Toàn. Năm chiếc xe tăng nhằm hướng Núi Bông chạy với tốc độ cao nhất, khói từ năm cái ống xả tuôn ra thành luồng. Trên đầu các loại đạn pháo, hoả tiễn vẫn tiếp tục gào rít, những cụm khói rải rác mọc lên trong cứ điểm.

Còn cách chân núi Bông chừng ba cây số thì đội hình đại đội bỏ Đường 14 mà ngoặt lên dãy đồi bên phải, từ trong xe nhìn ra Trang thấy một hàng lộ tiêu làm bằng giấy gài lên đầu đám lau lách chạy thẳng tắp về phía Núi Bông.

Lên mặt trước đồi tầm mắt bỗng mở rộng ra, từ đây sang cứ điểm Núi Bông chỉ khoảng hai nghìn mét, trời đã sáng hẳn nên nhìn rõ các công sự dã chiến của địch nằm rải rác sau hàng rào, pháo hoả chuẩn bị đã ngừng. Thận bóp công tắc ngực về phát, dõng dạc:

- 86 gọi 40! Triển khai thành đội hình bậc thang trái, xung phong! Tăng cường quan sát mục tiêu, tiêu diệt!

Chuyển về nội bộ anh hô:

- Chú ý! Mục tiêu phía trước, đạn nổ, lô cốt một nghìn tám, hành tiến bắn!

Quay kính trưởng xe về bên trái Thận liếc nhìn: hai xe 381 và 380 đã triển khai theo đúng ý định, cả đại đội gần thành một hàng ngang hướng về phía Núi Bông, các xe vẫn giữ nguyên tốc độ, thỉnh thoảng khẩu trọng pháo 100 ly lại khạc ra một bụm lửa, cứ sau mỗi phát pháo bắn một công sự của địch lại tung lên. Thận tự nhủ: "Tuyệt vời, đội hình rất đẹp, còn với khoảng cách này thì pháo tăng đã bắn là trúng". Phía xa sát chân cứ điểm đã thấy lố nhố bóng bộ binh chuẩn bị xung phong. Từ trong cứ điểm những làn đạn trọng liên M50 và đại liên M30 bắn ra xối xả, các trận địa pháo địch cũng đã bắt đầu lên tiếng, rải rác xung quanh đội hình đại đội anh là những cụm khói do pháo địch gây nên. Rất phấn khích Thận bóp công tắc phát nhắc:

- 86 gọi 40! Giữ nguyên tốc độ và đội hình, bắn mạnh vào chân cứ điểm!

Hôm qua, khi biết đoạn đường sát chân Núi Bông vẫn chưa được gỡ mìn Thận đã quyết định chọn hướng xung phong này. Quả thật cả về lý luận lẫn thực tiễn chiến thuật xe tăng thì vị trí triển khai này quá đẹp, từ triền núi này chỉ cần vượt qua một ngọn đồi thấp trước mặt nữa là đến sát chân cứ điểm thôi, địa hình này xe tăng xung phong và phát huy hoả lực bắn trực tiếp rất thuận lợi. Nhưng Thận bỗng giật mình vì xe đang chạy rất ngon tự nhiên dừng lại.

Dỡ cố định chậm hơn một chút nên hai xe 387 và 390 chạy sau đội hình chính hơi xa. Trong khi xe 386 và hai xe của trung đội Một bắt đầu rẽ lên sườn đồi thì xe của Tráng mới đến khúc cua cách đó gần năm trăm mét, anh quát Thanh:

- Chạy nhanh lên chứ! Sao bỏ xa đội hình thế kia?

Thanh nghiến răng tống số bốn và tăng ga, chiếc xe lao đi phăm phăm, ngay cả khi vào cua nó cũng chỉ hơi giảm tốc độ. Bỗng tất cả trước mắt Thanh tối sầm, một tiếng nổ dữ dội vang lên ngay dưới bụng xe, nó cảm thấy không thể điều khiển được chiếc xe nữa và gục đầu xuống kính lái.

Vừa giục Thanh tăng tốc độ xong Tráng nhổm hẳn người chống hai tay lên cánh cửa trưởng xe để quan sát, nghĩ bụng: "Chạy nhanh thế này thì chẳng mấy sẽ bắt kịp đội hình" thì có một mãnh lực nào đó hất tung lên và ném xuống buồng truyền động.

Từ phía sau Toàn thấy một quầng bụi trùm kín xe Tráng, anh biết xe 387 đã vướng mìn nên giục Tập tăng tốc độ. Xe vừa dừng đằng sau xe 387 Toàn đã hô:

- Tất cả xuống xe xem bên 387 có ai việc gì không?

Toàn và pháo hai Trường là những người xuống xe đầu tiên, cả hai hơi hoảng khi thấy Tráng nằm bất động trên buồng truyền động, còn hai chiến sĩ công binh bị hất khỏi xe đang rên rỉ bên vệ đường. Trèo lên xe Toàn vỗ mạnh vào vai Tráng:

- Tráng! Tráng! Tỉnh lại đi!

Tráng từ từ mở mắt ra rồi nhỏm dậy, lẩm bẩm:

- Xe tôi bị mìn phải không anh?

- Ừ! - Toàn xác nhận rồi nhắc Trường - Vào xe xem có cậu nào làm sao không?

Trường chui vào trong xe, trong buồng chiến đấu khói bụi chưa tan hết nhưng vẫn nhìn thấy Phong đang nằm gục đầu trên hộp điều khiển pháo, pháo hai Thành ngồi dựa lưng vào thành xe, còn lái xe Thanh gục đầu vào kính lái, cả ba đều bất tỉnh nhân sự. Trường vội lay gọi Thành, rồi Phong, cả hai đều mở mắt nhưng ngơ ngác không hiểu điều gì đã xảy ra. Lúc này cả Tập, Nguyên cũng đã trèo lên xe và đang kéo Thanh ra ngoài.

Phải mất mấy phút cả xe 387 mới định thần lại được. Quả mìn "đúp" đã làm bay cả trục bánh dẫn hướng và hơn chục mắt xích, sức mạnh của nó làm bật khoá cửa an toàn nên cả Thanh, Thành và Phong đều bị sức ép. Phong còn bị cửa an toàn đập vào làm gẫy xương cẳng chân, riêng có Tráng bị hơi thuốc nổ hất ra ngoài nhưng chỉ bị choáng nhẹ. Nhìn lên trời không thấy hoả lực chuẩn bị nữa Toàn vội nói:

- Tớ phải đi ngay. Tráng ở đây lo khắc phục và đưa anh em đi cứu chữa nhé!

- Vâng! Các anh cứ đi đi!

Toàn vẫy tay hô:

- Tất cả lên xe! Chạy nhanh lên!

Khi nhìn thấy cả một cụm le trèo lên mũi xe và lừ lừ gí sát vào kính lái thì Hoả vội dừng xe: "Hình như chỗ này đất rất mềm" và quyết định lùi xe thì Thận hỏi:

- Hoả! Tại sao lại dừng xe?

- Báo cáo, hình như xe bị sa lầy rồi thì phải! - Hoả hổn hển.

- Cứ tiến đi! - Thận giục, anh đã nhìn rõ bộ binh đang nhấp nhổm chờ xe tăng.

Hoả nghiến răng vào số, tăng dầu rồi đột ngột thả ly hợp hy vọng cú "rướn" mình này sẽ giải thoát khỏi vũng lầy. Nhưng kết cục lại hoàn toàn khác: xích càng quay xe càng chìm nhanh trong bùn, chiếc xe 386 như con voi gặp bãi lầy, nó lồng lộn tìm đủ mọi cách nhưng không thể nào thoát được ra. Ngồi trong ghế lái Hoả bất lực nhìn xe chìm dần: "Không biết chỗ này bùn có sâu không? Khéo mà chìm hẳn xe xuống thì khốn". Nhưng không, khi lớp bùn và nước đến mấp mé kính lái của Hoả thì xe không chìm nữa. Như vậy là đã chìm hết thân xe, chỉ còn mỗi tháp pháo là nhô lên khỏi mặt bùn, nước. Thận ngao ngán nghĩ: "Ai ngờ được là trên núi mà cũng có những chỗ lầy khủng khiếp thế này?". Quay kính trưởng xe sang trái anh thấy 381 cũng đang trầy trật giữa vũng bùn nhưng thỉnh thoảng vẫn bắn được một phát pháo; còn 380 có vẻ vẫn ổn, nó đang tiến tiến lùi lùi tìm đường, pháo vẫn bắn từng phát chắc nịch. Chợt anh phát hiện ra là không thấy trung đội Hai đâu, anh vội bóp phát:

- 86 gọi 90! Các anh đang ở đâu, báo cáo!

Vẫn không thấy gì Thận gọi tiếp một lần nữa thì có tín hiệu trả lời:

- 90 gọi 86! 87 bị mìn, 90 đang giúp khắc phục! Nghe rõ trả lời!

Thận hơi choáng: "Cái trung đội này làm sao thế không biết, đã hai thằng hỏng xe giờ lại đến trung đội trưởng bị mìn, coi như xoá sổ rồi".

Thận nhấn công tắc phát:

- 86 gọi 90! 86 bị sa lầy, yêu cầu 90 đến cứu kéo! Nhận đủ, trả lời!

- 90 nhận đủ! - Tiếng của Toàn từ xa tắp vọng về.

Dù đã nhận được điện của Thận cho biết đang bị lầy nhưng khi lên đến sườn núi Toàn vẫn hết sức kinh ngạc: "Chỗ này chỉ là một cái khe nối giữa hai sườn núi, làm sao lại có thể lầy nặng đến thế kia". Nguyên "béo" vẫn đang say sưa với những mục tiêu trước mặt, vừa ló lên sườn đồi này nó đã kịp "tương" vào Núi Bông mấy quả mà chẳng quan sát được có trúng hay không. Thấy xe 380 vẫn đang đảm nhiệm tốt vai trò chi viện hoả lực cho bộ binh, Toàn hô:

- Dừng bắn! Chạy thẳng đến chỗ 386 để kéo nó lên đã!

Qua kính lái xe Tập nhìn xe 386 chỉ thấy có mỗi tháp pháo nhô lên, biết xe này bị lầy nặng lắm, một xe kéo chưa chắc đã nổi nên có ý kiến:

- Phải kéo 381 lên rồi hai xe mới kéo được 386 anh ạ!

- Được! Thế thì kéo 381 đi!

Tập thận trọng cho xe tiến sát đến mép khe nước rồi dừng lại. Bên xe kia Trị, Hạnh đã đội cửa trưởng xe ra, bên này Nguyên, Trường cũng đã xuống. Thò cổ ra khỏi cửa lái xe Tập hét:

- Nối hai cáp vào! Xe không xuống được nữa đâu!

Trị, Hạnh, Nguyên, Trường bì bõm trong đám bùn đến ngang đùi nối cáp, móc cáp. Bỗng "đoành" - một tiếng nổ đanh gọn vang lên trên đỉnh đầu, tiếng mảnh đạn chém vào tháp pháo nghe chan chát. Toàn hét:

- Pháo "chơm" đấy, nhanh tay lên!

Chắc quân địch quan sát thấy quân ta tiến công ở hướng này nhưng đã hết đạn nên phải bắn pháo "chơm", loại này chủ yếu dùng để sát thương bộ binh ngoài công sự chứ bắn xe tăng thì chỉ như gãi ghẻ. Tuy nhiên vào lúc này cũng hơi đáng ngại vì quân ta đang ở ngoài xe. Lại một quả pháo "chơm" thứ hai, chẳng kể đang giữa bãi bùn bốn anh em nằm rạp xuống một lượt. Cuối cùng cáp cũng đã nối được, Toàn hô:

- Tất cả vào xe, chỉ huy bằng điện đài!

Đợi cho tất cả đã vào xe, Trị báo cáo sang đã sẵn sàng Toàn hạ lệnh:

- Tập! Bắt đầu kéo đi.

Tập gài số lùi, từ từ khởi xe để căng cáp. Khi cáp đã căng anh tăng dầu kéo mạnh, bên kia Hùng cũng tăng dầu, xe 381 lóp ngóp lùi ra khỏi bãi lầy. Bên ngoài pháo "chơm" tiếp tục nổ, mảnh đạn vẫn chém vào thành xe chan chát. Đến lúc này Toàn mới gọi Trị:

- 90 gọi 81! Tập trung kéo 86 lên đã!

- Nhận đủ! - Tiếng Trị trả lời trong tai nghe.

- 90 gọi 80! Tiếp tục bắn mạnh vào cứ điểm chi viện bộ binh và yểm trợ các xe cứu kéo!

- Nhận đủ! - Luông trả lời.

Cả hai xe 381 và 390 đã tiến sát mép cái khe nước, khoảng cách vẫn còn khá xa nên vẫn phải nối cáp. Từ xe 386 Dênh và Chỉnh đã nhảy ào xuống vũng lầy, cái thứ nước bùn sền sệt lập tức nuốt chửng chúng đến ngang bụng, bên này Hạnh và Nguyên quăng hai đầu cáp xuống, Dênh và Chỉnh mỗi đứa túm lấy một đầu cáp nối với cáp của xe chúng. Trên đầu pháo vẫn nổ, cứ mỗi quả pháo nổ gần hai thằng lại ngụp xuống đến tận cổ. Nối xong cáp Dênh chụm tay làm loa:

- Cáp nối xong rồi! Cho căng cáp đi!

Tập và Hùng từ từ tăng ga, hai sợi cáp đã căng, Dênh vẫy mạnh tay, miệng hét:

- Kéo đi! Kéo đi! Này!

Cả ba chiếc xe cùng tăng chân dầu, dưới hai băng xích của xe 386 bùn sủi lên sùng sục. Sau hai cú giật xe 386 đã lên khỏi vũng lầy, Dênh và Chỉnh rửa vội tay rồi chui vào trong xe. Nhìn bao quát một lượt thấy không có chỗ nào khả dĩ xung phong được, Thận lên đài:

- 86 gọi 40! Tại chỗ dùng hoả lực chi viện bộ binh xung phong! - Chuyển về nội bộ anh hô - Đạn nổ, bắn mạnh vào cứ điểm đi!

Dênh đã kịp cởi chiếc áo bết bùn vứt xuống sàn xe, nó nhanh chóng lấy thước ngắm và bắn liên tục gần chục phát. Đúng lúc đó từ sở chỉ huy có lệnh:

- Quân địch đang rút chạy! Yêu cầu xe tăng dùng pháo tiêu diệt xe tăng địch!

- Nhận đủ!

Thận vội trả lời rồi căng mắt nhìn, chẳng thấy cái xe tăng nào, chỉ thấy bộ binh đã ào vào cứ điểm anh đành gọi lại để hỏi:

- 86 báo cáo, không nhìn thấy xe tăng địch. Đề nghị cho truy kích theo Đường 14.

Trên sở chỉ huy ắng đi một lúc, dáng chừng có sự trao đổi gì đó rồi một giọng rất đanh, hình như của phó tư lệnh Hoàng Đan, cất lên:

- Hiện nay Đường 14 còn rất nhiều mìn, xe tăng tuyệt đối không được phép tự ý truy kích địch. Nếu quan sát thấy xe tăng địch rút chạy có thể bắn theo, không thấy thì thôi! Nhận đủ chưa, trả lời!

- Nhận đủ! - Thận vội bóp phát trả lời rồi gọi các xe - 86 gọi 40! Tăng cường quan sát, nếu phát hiện được xe tăng hoặc quân địch rút chạy thì tại chỗ dùng pháo tiêu diệt; tuyệt đối không chạy ra Đường 14! Nhận đủ, trả lời!

Bốn cái xe tăng cùng dõi pháo về phía sau Núi Bông nhưng vì vị trí đỗ quá thấp nên không nhìn thấy gì, một lúc sau từ sở chỉ huy có lệnh:

- 01 gọi 86! Cho 40 về vị trí tập kết sau chiến đấu!

Thận nhanh chóng trả lời và chỉ huy đại đội lui lại phía sau khoảng ba trăm mét rồi lợi dụng các bụi cây để giấu quân.

Sau khi xe 390 đi khỏi Tráng vội tổ chức đưa Thành và Phong đi quân y. "Cũng may có một số anh em công binh đi cùng chứ nếu không chẳng biết trông cậy vào ai" - Tráng thầm nghĩ. Xong xuôi Tráng bảo Thanh:

- Nghiên cứu xem có khắc phục được không?

Sau cơn choáng lúc đầu giờ Thanh đã tỉnh hẳn, chui xuống gầm xe quan sát và phát hiện ra hai cái hố. Thì ra đây là hai quả mìn chôn khá gần nhau, khi xích xe đè lên quả này nổ đã kích nổ cả quả thứ hai ở giữa bụng xe nên mới bẻ gãy khoá cửa an toàn được. Thanh chui vào xe ấn nút khởi động, thấy động cơ vẫn làm việc nó phấn khởi lắm và bảo Tráng:

- Bây giờ ta nối xích qua bánh chịu nặng thứ nhất là vẫn có thể chạy được!

- Thế thì làm đi! - Tráng nhanh nhảu.

Hai anh em cởi trần ra cắt xích, nối xích mất gần một tiếng thì xong, băng xích bên trái không có bánh dẫn hướng trông thật buồn cười, "y như thằng cụt chân" - Thanh nghĩ. Xoa hai bàn tay lấm lem dầu mỡ vào nhau Tráng bảo:

- Tiến lên, lùi lại một tý xem có điều khiển được không?

Thanh nổ máy, vào số, nó tiến lên độ ba mét thì dừng lại gật gật đầu ra ý tốt; Tráng cũng gật đầu rồi xoè bàn tay ra đẩy về phía sau. Thanh gài số lùi, thả ly hợp, nó kéo cần lái thử xem xe có chuyển hướng theo không, cái đầu nó vẫn gật gà gật gù ra chiều đắc ý lắm. Bỗng "ầm" một tiếng, một đụn khói từ phía sau xe bốc lên trùm kín chiếc xe, hơi thuốc nổ đẩy Tráng nằm ngã ngửa "tênh hênh" xuống mặt đường. Lái xe Thanh mặt tái mét, không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa.

Đến lúc khói đã tan, hai anh em cũng đã trấn tĩnh được mới dám lò mò ra phía sau quan sát: cả cái bánh chủ động và gần chục miếng xích đã bị quẳng đi đâu mất. Ngay chỗ đó là một cái hố toang hoác đang ngún khói - thủ phạm gây ra tiếng nổ và làm bay bánh chủ động của xe là quả mìn thứ ba. Ngồi phịch xuống mặt đường đầy bụi Tráng ngao ngán than:

- Đúng là số ăn mày; ba xe kia nó đi trước có sao đâu, đến xe mình thì lại bị. Đã thế lại bị những ba quả thì còn gì là xe nữa?

Chỗ trú quân tạm thời của đại đội Bốn nằm ngay cạnh Đường 14, chỗ này chẳng có cây cối gì mà chỉ nhiều cây dứa dại; nhiệm vụ của đại đội là thường xuyên sẵn sàng chiến đấu, khi công binh báo gỡ xong mìn là lập tức lên đường. Sau một đêm thức trắng hành quân và một buổi sáng chiến đấu căng thẳng nên khi về đến vị trí tập kết tên nào tên ấy nhai vội thanh lương khô rồi lăn ra ngủ.

Chiều xuống, khi cái mắt đã được bù đắp đẫy đà thì đến lượt cái bụng kêu gào đòi quyền lợi. Thận bảo Trị:

- Còn có bốn xe thôi, cậu tổ chức nấu ăn chung cho cả đại đội đi!

Trị về gọi Hợp, Trực:

- Hai cậu nổi lửa nấu cơm chung cho cả đại đội, tớ với Hạnh đi kiếm tý rau.

Bụng đang cồn cào đói nên được lời như cởi tấm lòng, hai thằng hào hứng bắt tay vào việc. Gạo, thịt hộp thì có rồi nhưng đi qua cả bốn xe vẫn không bói đâu ra cái nồi nào: sáng nay lúc vội vã dỡ cố định mạnh cái gì quăng cái nấy nên chẳng xe nào mang nồi, xoong theo cả; mà từ đây về đến đó phải năm sáu cây chứ ít gì. Đang bí rì rì thì Hùng có sáng kiến:

- Lấy thùng lương khô mà nấu!

Hai cái thùng lương khô được đem ra, hai cái bếp dã chiến được nhóm lên. Đang mùa khô củi vừa nhóm đã cháy đùng đùng, lát sau nước đã sôi sùng sục. Trực gọi tất cả các xe đem bi đông đến lấy nước sau đó một thùng nấu canh, một thùng nấu cơm, bốn hộp thịt kho cũng được nó vùi vào than để nướng. Một lúc sau nó hồ hởi gọi mọi người đến ăn cơm.

Nồi canh lõng bõng vài ngọn tàu bay nhưng nhiều thịt hộp và mỳ chính nên cũng tạm được, Chỉnh múc cho đại đội trưởng Thận và chính trị viên Toàn mỗi người một bát, cả hai xì xụp húp và gật gù khen ngon, nó cười:

- Bây giờ thì mầm đá cũng ngon chứ nói gì đến canh rau tàu bay, thịt hộp!

Nhưng đến lúc mở nắp thùng cơm ra thì ai cũng nhăn mặt: một mùi khê nồng nặc bốc ra, lớp cơm trên cùng cũng ám khói vàng ươm, bới sâu xuống một chút thì thấy cả thùng cơm đã cháy đen cháy đỏ và mùi khê càng đậm đặc hơn. Không ai bảo ai đều cầm bát canh vừa đi vừa húp rồi lảng tất: giữa lúc đạn bom thế này bố thằng nào dám ăn cơm khê! Thấy mọi người bỏ đi hết Chỉnh bảo Hùng:

- Sống chết có số chứ đâu phải vì cơm khê! Mày dám ăn không?

- Sợ đếch gì! Ăn chứ! - Hùng bất cần.

Thế là hai thằng ngồi bới cơm đánh chén ngon lành. Còn tất cả đại đội lại trệu trạo lương khô với nước lã.

Thời gian chờ đợi bao giờ cũng dài, mới có một ngày mà tưởng như hàng tháng. Phía trước cánh công binh vẫn cần mẫn dò từng mét đường. Quả thật không thể chủ quan được, mìn chôn đã lâu, sau một mùa mưa bị đất đá vùi lấp nên rất khó phát hiện. Mà cũng chẳng hiểu thế nào nữa, cứ xem như cái đại đội này cùng chạy trên con đường độc đạo ấy mà ba xe chạy trước thì không sao, đến xe thứ tư thì bị mà bị những ba quả.

Mãi đến quá nửa đêm ngày 24 thì thông đường, đại đội Bốn được lệnh xuất phát, mỗi xe chở theo bốn, năm chiến sĩ bộ binh của trung đoàn 9 sư đoàn 324.

Đêm giữa tháng, ánh trăng mờ ảo nhưng cũng đủ soi tỏ đường cơ động và quang cảnh tĩnh mịch xung quanh. Có thể nói đây là một nhiệm vụ khá khó khăn bởi tiến công mà không hề được trinh sát trước, không biết được phía trước mình có bao nhiêu địch và tất nhiên là không biết những ẩn họa gì đang chờ đợi mình. Vì vậy Thận chỉ huy đại đội hành tiến một cách rất thận trọng, anh luôn nhắc nhở các xe phải luôn sẵn sàng chiến đấu cao: tất cả pháo súng đạn đã lên nòng, tất cả thành viên phải ở đúng vị trí.

Gần sáng toàn đại đội đã đến La Sơn, đây chính là điểm giao nhau giữa Đường 14 với Quốc lộ Một nằm ở nam thành phố Huế chừng hai mươi cây số, ở đây theo thông báo của trên có một tiểu khu quân sự của địch. Thận cho đội hình tạm dừng để tìm hiểu tình hình. Trong ánh sáng của buổi ban mai đã nhìn thấy lá cờ ba sọc trên đỉnh một tháp canh cao nhất đang phất phơ bay, còn lại là một sự tĩnh lặng tưởng như tuyệt đối, không một bóng người, không một tiếng gà gáy, chó sủa... Đúng là một thứ im lặng đáng sợ.

Thận mở cửa xe trao đổi với người chỉ huy bộ binh, cả hai thống nhất nhận định có thể địch đã rút chạy, khả năng chúng nằm im phục kích rất ít xảy ra. Vì vậy anh quyết định sẽ dùng tốc độ cao xung phong để buộc địch bộc lộ lực lượng, nhấn công tắc phát anh nói từng tiếng một:

- 86 gọi 40! Chú ý nhận điện! Thành đội hình hàng dọc xung phong với tốc độ cao; thứ tự xung phong 81, 80, 86, 90. Khi điều kiện địa hình cho phép nhanh chóng triển khai thành đội hình hàng ngang. Tất cả các vị trí tăng cường quan sát phát hiện được mục tiêu thì tiêu diệt ngay và báo cáo cho 86! Nhận đủ trả lời?

Khi các xe đã báo cáo nhận đủ, Thận dõng dạc:

- 86 gọi 40! Xuất kích!

Trong xe 381, tranh thủ lúc dừng lái xe Hùng đã gà gật được một tý, nó chợt bừng tỉnh vì tiếng Trị oang oang:

- Tất cả chú ý! Bây giờ chúng ta sẽ xung phong, xe mình đi trước, Hùng nhớ dùng tốc độ cao; các vị trí khác tăng cường quan sát, sẵn sàng nổ súng. Nổ máy!

Hùng ấn nút khởi động, tiếng động cơ gầm lên, anh cho xe mình lách qua một bên vượt lên trước rồi lên số ba chạy với chân dầu vừa phải. Trị dán mắt vào kính trưởng xe: phía trước vẫn là sự im lìm đến tuyệt đối. Liếc qua kính mặt bằng về phía sau Trị thấy xe 380 đang theo anh rất sát, nòng pháo đánh thấp lừ lừ rê qua phải qua trái đầy đe doạ. Thấy vững tâm hơn Trị hô:

- Tăng tốc độ!

Hùng nhấn sâu chân ga, chiếc xe chồm lên lao tới cực kỳ hung hãn, cái tháp canh có lá cờ ba sọc đã rất gần mà vẫn không thấy bất cứ một biểu hiện gì. Liếc sang hai bên Trị thấy xe 380 và 386 đã tăng tốc lên ngang với xe mình hình thành đội hình hàng ngang. Phía trước đã thấp thoáng những mái nhà, rặng tre, ngay đằng sau rặng tre hình như là một con đường lớn. Trị thoáng nghĩ: "Chẳng lẽ đã đến Quốc lộ Một".

Đúng là Quốc lộ Một! Bốn chiếc xe tăng vừa tiếp cận con đường nhựa thênh thang lập tức quẹo trái hướng về phía bắc thành đội hình zíc-zắc. Ngay phía trước là cái lô cốt trên đó có tháp canh treo lá cờ ba sọc, những lỗ châu mai đen ngòm đầy bí ẩn nhưng vẫn không một động tĩnh nào. Tất cả nhà dân hai bên đường đều đóng chặt cửa, ngoài đường tịnh không một bóng người. Thận cho đại đội dừng lại, bộ binh trên các xe tản ra hai bên đường lùng sục nhưng không thấy gì. Một tốp chiến sĩ bộ binh áp sát cái lô cốt, họ thận trọng đến gần rồi mất hút vào bên trong, một thoáng sau đã thấy ba, bốn bóng người trên nóc lô cốt, một anh trèo lên gỡ lá cờ ba sọc xuống và treo vào đó lá cờ giải phóng. Trời đã sáng hẳn.

Thận gọi người chỉ huy bộ binh và các cán bộ lại hội ý, anh nói:

- Như vậy là địch đã rút chạy hết và dân cũng đi sơ tán cả rồi, từ đây về Huế chỉ còn khoảng hai mươi cây số nhưng tình hình ra sao ta cũng chưa nắm được. Vì vậy vẫn phải thận trọng và sẵn sàng chiến đấu cao. Bây giờ cho bộ đội nghỉ tranh thủ ăn sáng, ba mươi phút nữa ta sẽ xuất phát. Các anh có ý kiến gì không? - Không thấy ai nói gì Thận tiếp - Lát nữa ta vẫn giữ nguyên đội hình như sáng nay nhưng chạy tốc độ vừa phải thôi, nhắc nhở anh em hết sức cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao!

Không ai có ý kiến gì khác, tất cả về xe giở lương khô ra nhấm nháp. Lại phải chi viện lương khô cho phân đội bộ binh vì họ chẳng có gì ngoài súng đạn.

Ngay từ lúc cán bộ đi hội ý, Trang đã mở cửa lái xe và nâng ghế lên cao ngồi trầm ngâm ngắm con đường thênh thang trước mặt: thế là chỉ còn hai mươi cây số nữa là đến Huế - cái thành phố xinh đẹp, mộng mơ mà anh đã được biết đến nhiều qua sách báo, cái thành phố mà hơn hai năm nay luôn luôn là mục tiêu của bọn anh. Nửa năm trời nằm ở đường 12, hai năm trời nằm ở A Lưới lúc nào cũng mong một ngày đến Huế nay đã sắp thành hiện thực. Một cảm xúc lâng lâng khó tả trào lên trong lòng Trang làm anh chẳng muốn ăn, co mình nhảy một phát xuống mặt đường và đi đi lại lại mấy bước như muốn kiểm tra xem đó có phải là sự thật không?

Chắc cũng cùng cảm nghĩ như Trang nên hầu như tất cả anh em trong đại đội chỉ ăn qua loa thanh lương khô rồi kéo nhau xuống tụ tập dưới lòng đường. Đã mấy năm rồi mới lại nhìn thấy một con đường nhựa, ai cũng thấy có cái gì đó thật là khó tả.

Đã hết giờ nghỉ giải lao, Thận đứng hẳn lên trên nóc tháp pháo vẫy tay:

- Tất cả lên xe! Chuẩn bị xuất phát!

Đợi tất cả đã vào xe đóng cửa Thận quay sang người chỉ huy bộ binh:

- Các anh đã đủ chưa? - Thấy người chỉ huy bộ binh gật đầu anh nhấn công tắc ngực về phát hô - Giữ nguyên đội hình, xuất phát!

Suốt mấy năm trời quanh quẩn nơi rừng núi nay được xuống đồng bằng, lại được chạy trên một con đường trải nhựa rộng thênh thang nên cánh lái xe cứ nhấn ga thoải mái. Bốn chiếc xe tăng như bốn con mãnh hổ xổng chuồng lao băng băng về phía thành phố Huế, bốn nòng pháo hạ thấp gườm gườm sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ mục tiêu nào có dấu hiệu bất thường. Nhưng vẫn không có gì khác lạ xảy ra, có chăng là trên đường la liệt quân phục các sắc lính và súng ống vứt bừa bãi.

Gần một tiếng sau đã đến Phú Bài, Thận lệnh cho các xe giảm tốc độ và tăng cường cảnh giác. Vẫn không khác gì ở La Sơn, vẫn những lô cốt sừng sững đen ngòm lỗ châu mai nhưng vắng lặng, vẫn những ngôi nhà cửa giả đóng chặt và không một bóng người.

Bốn cái xe tăng vẫn thận trọng tiến lên. Bỗng xe 381 dừng cấp tốc, các xe sau nhanh chóng dồn lại: ngay trước mũi xe 381 là cầu Phú Bài đã bị phá sập, một vài thanh gỗ trên mặt cầu còn vương vất khói chứng tỏ nó bị phá chưa lâu. Trên xe 381, Trị đã chui ra khỏi xe cùng với mấy chiến sĩ bộ binh đến sát mép cầu nhìn ngó. Thận cũng vội nhảy xuống xe chạy đến sát đầu cầu quan sát: toàn bộ mặt cầu đã sập xuống lòng sông chỉ còn lại vài thanh gỗ ở hai bên mố. Con sông Phú Bài không lớn lắm nhưng nhìn dòng nước trong xanh có thể đoán là nó tương đối sâu. Thận bảo Trị tháo cần ăng-ten trên xe xuống để thăm dò, bốn đốt ăng-ten nối vào chọc xuống vẫn chưa chạm đáy, cả hai lắc đầu bất lực.

Quả thật đây là một tình huống khó khăn. Thông thường khi sử dụng xe tăng tiến công thường phải có các lực lượng bảo đảm, trong đó có bảo đảm cơ động đi cùng để sẵn sàng khắc phục những vật chướng ngại tự nhiên cũng như nhân tạo, đằng này thì chỉ duy nhất một đại đội xe tăng cùng với gần hai chục chiến sĩ bộ binh. Thận ngao ngán thở dài.

Hầu như tất cả đại đội đã tụ tập ở sát mép cầu, Trang và Hoả đang mò mẫm về hai phía để xem có chỗ nào vòng tránh qua được hay không nhưng một lúc sau đều bất lực trở về. Ai cũng sốt ruột, mà không sốt ruột sao được khi chỉ còn chục cây số nữa là đến Huế rồi!

Ngồi gục đầu suy nghĩ một lát Thận gọi người chỉ huy bộ binh lại, anh bảo:

- Ông cho lính của ông lùng sâu vào trong xóm, cố tìm lấy một vài người dân may ra hỏi xem có chỗ nào vòng tránh được không?

Người chỉ huy bộ binh vừa quay lại chưa kịp ra lệnh gì thì có hai người mặc bộ bà ba đen, đội mũ tai bèo, vai khoác AK chạy lại. Đoán chừng Thận là người chỉ huy họ tiến đến trước mặt anh:

- Chúng tôi là bộ đội địa phương, đang mắc truy kích địch. Biết các đồng chí không qua được cầu nên đến dẫn đường vòng tránh.

Thận mừng húm như vớ được vàng, anh đưa cả hai tay ra bắt tay hai chiến sĩ bộ đội địa phương. Ngồi ngay trên mặt đường hai chiến sĩ bộ đội địa phương vạch mấy đường nguệch ngoạc về đường đi, Thận bồn chồn:

- Thôi không cần vẽ nữa! Các đồng chí cho biết ngay có phải vòng xa không?

Tay chỉ về dãy núi cao phía tây anh ta nói:

- Cũng không xa lắm đâu! Bây giờ ta phải đi vào đến sát chân dãy núi kia, ở đó là nguồn của con sông này nên có thể lội qua được.

- Thế mất độ bao nhiêu thời gian? - Thận hỏi dồn.

- Chừng độ tiếng rưỡi, hai tiếng là ra đến Quốc lộ Một thôi mà.

Nhẩm tính nhanh trong đầu, cứ ngồi đây chờ thì không biết bao giờ mới qua được, Thận quyết định:

- Bây giờ các đồng chí ngồi luôn lên xe tăng để dẫn đường! Cố gắng đi đường ngắn nhất nhé!

- Được ạ!

Cả đại đội quay lại mấy trăm mét rồi rẽ về phía dãy núi xa. Con đường núi lâu ngày không sử dụng cỏ dại đã tràn hết vào mặt đường đầy những khe, những rãnh được tạo nên từ những mùa mưa trước nên không thể chạy được tốc độ cao. Gần một tiếng sau thì đến sát chân núi và đó cũng là bờ sông - ở đoạn này nó cũng rộng gần bằng đoạn dưới Phú Bài nhưng anh chiến sĩ địa phương khẳng định là xe đi qua được. Chẳng cần đắn đo Thận phẩy tay:

- Cứ đi đi, nhưng từ từ thôi! Qua từng xe một rồi chờ nhau mới được đi tiếp!

Hùng "bò liếm" về số một, anh thận trọng cho xe bò từng tý một xuống sông, quả nhiên sông chỉ sâu hơn mét, nước còn cách cửa lái xe gần một gang tay. Đợi cho 381 sang hẳn bờ bên kia Thận mới vẫy tay cho 380 sang, rồi 386 và 390 cũng sang hết bờ bên này.

Đường ở bờ bên này cũng chẳng hơn gì bên kia, toàn những tay lái lão luyện mà tốc độ vẫn như rùa bò, mất gần một tiếng nữa mới quay ra đến Quốc lộ Một.

Vừa từ đường núi ló lên Quốc lộ Một, Trị thất kinh khi thấy một cái M48 nằm lù lù trước mặt. Bấm vội nút báo gọi nội bộ Trị hét:

- Xe tăng địch! Bắn đi!

Hạnh đang loay hoay quay pháo tìm mục tiêu thì Hùng đã gọi:

- Đừng bắn! Pháo nó quay đằng kia cơ mà!

Đúng vậy, chiếc xe M48 nằm chình ình ngay bên vệ đường nhưng pháo của nó lại đang quay về phía Huế, phía sau nó hình như là một căn cứ quân sự, rào dậu cẩn thận lắm. Trị thở phào và hô:

- Thôi! Đừng bắn!

Cả đại đội đã lên hết trên mặt Quốc lộ Một, mấy nòng pháo đều đã chĩa về phía chiếc M48 nhưng nó vẫn nằm yên. Thận hô:

- Tiếp tục tiến!

Bốn cái xe tăng thận trọng tiến lên đầy cảnh giác. Đến ngang chiếc M48 Trị cho xe dừng lại, anh nhảy xuống: chiếc xe M48 vẫn đang nổ máy ình ình. Xe 386 đã áp sát, Thận nhảy xuống đường, anh vẫy mấy trưởng xe, hai chiến sĩ bộ đội địa phương và người chỉ huy bộ binh lại, tay chỉ chiếc M48 đang nổ máy anh nói:

- Chắc bọn này vừa mới phá cầu và rút qua đây, tình thế này nghĩa là bọn chúng đã hoảng loạn lắm rồi, ta cần tranh thủ thời gian truy kích càng nhanh càng tốt. Bây giờ thế này: đội hình vẫn giữ như cũ, đoạn nào trống trải thì chạy thật nhanh, đoạn nào qua phố xá, dân cư thì giảm tốc độ và phải hết sức cảnh giác. Một đồng chí địa phương tiếp tục ngồi ở xe đi đầu để dẫn đường, một đồng chí sang xe tôi, nhớ bám chắc vào nhé! Thôi! Về xe chuẩn bị xuất phát!

Lúc Thận đang hội ý thì Trang và mấy chiến sĩ bộ binh đã kịp chui vào chiếc xe M48; đã được học qua về xe địch nên Trang vào số, tăng ga nhẹ một cái chiếc M48 đã chồm lên, anh vặn vô lăng sang trái, sang phải làm chiếc xe chuyển hướng theo rất nhẹ nhàng; một tay bộ binh chắc cũng đã võ vẽ lái xe reo lên:

- Hoá ra lái nó dễ thế à?

- Xe của Mỹ mà! Điều khiển dễ lắm! - Trang nói có vẻ tự đắc.

- Ông hướng dẫn tôi một tý để tôi lái xem sao? - Vẫn tay bộ binh ấy hăng hái.

- Được rồi! Đây là cần số, chữ L là chậm, chữ H là nhanh, chữ N là số không, chữ R là số lùi; cứ đặt cần số vào đúng chữ nào mình chọn rồi tăng ga là nó chạy thôi; còn muốn nó rẽ bên nào thì vặn vô lăng về bên đó - Đúng lúc đó nghe tiếng Luông gọi, Trang vội chui ra và ngoái đầu lại dặn - Cứ thế mà lái nhé.

Bốn chiếc xe tăng lại tiếp tục nhằm hướng thành phố Huế tăng tốc độ, phía sau chiếc M48 cũng phăm phăm bám theo, lúc đầu nó chạy có phần chuệch choạc nhưng càng về sau càng thuần thục.

Trời đã gần trưa, mặt trời càng lúc càng lên cao, nhiệt độ trong xe lên đến gần bốn mươi độ cùng với làn không khí oi bức làm tăng thêm phần căng thẳng cho cuộc rượt đuổi những mục tiêu vô hình; quần áo, mặt mũi tên nào tên ấy đầm đìa mồ hôi nhưng không ai để ý vì mọi tinh lực đều dồn vào đôi mắt đang như dán vào ống kính. Chắc đã gần đến thành phố, nhà cửa dày hơn và đã ra dáng phố xá hơn; những đống quần áo rằn ri, giày đen, mũ sắt và súng ống cũng dày hơn nhưng vẫn vắng tanh vắng ngắt.

Trên xe 381 Trị vẫn mở cửa trưởng xe và nhô hẳn đầu ra ngoài, anh bộ đội địa phương hét vào tai anh:

- Huế rồi đấy!

Trị gật gật đầu: "Cũng may có hai người địa phương dẫn đường". Đã đến một ngã ba hay ngã tư gì đó, ngay đó là một cái chợ có biển rõ to "Chợ An Cựu" nhưng cũng không một bóng người, anh chiến sĩ bộ đội địa phương lại nhổm người lên hét to:

- Rẽ trái!

Trị bóp công tắc nội bộ bảo Hùng rẽ trái, thêm khoảng vài phút nữa thì một cây cầu hiện ra phía trước. Lúc này anh chiến sĩ bộ đội địa phương đã đứng hẳn dậy, giọng đầy phấn khích:

- Cầu Phú Xuân đấy! Sông Hương đấy!

Trị lại gật gật đầu nhưng còn bụng dạ nào mà ngắm sông với cầu, mắt anh vẫn phải căng ra để theo dõi mọi động tĩnh xung quanh: trên cầu không một bóng người và xe cộ, dưới sông cũng không một bóng thuyền bè, những vọng gác đầu cầu cũng trống không. Xe 381 rồi tất cả bốn xe của đại đội và chiếc M48 đã tiến vào cầu, mặt cầu khá rộng nên các xe hình thành đội hình zic-zắc, chiếc cầu bê tông rung lên từng chập dưới sức nặng của đoàn xe.

Người chiến sĩ bộ đội địa phương lại vỗ vai Trị:

- Kỳ đài kia kìa! Hình như cắm cờ giải phóng rồi.

Quả thật, trên đỉnh cột cờ cao chót vót ở phía bên kia cầu có một lá cờ giải phóng đang bay phấp phới, lá cờ tuy nhỏ nhưng vẫn nhìn rõ hai nửa xanh, đỏ và ngôi sao vàng. Thận cũng đã nhìn thấy lá cờ, nhớ lại nhiệm vụ được giao từ mấy hôm trước anh nhấn công tắc phát:

- 86 gọi 81! Bảo anh em địa phương dẫn đường đánh chiếm thành Mang Cá!

Vừa nhận điện Trị quay sang ngay người chiến sĩ dẫn đường:

- Dẫn bọn tôi vào thành Mang Cá!

Người chiến sĩ gật đầu ra chừng đã nghe được, anh ta chỉ:

- Cứ đi thẳng!

Đã qua hết cầu sang bên bờ Bắc nhưng thành phố vẫn không một bóng người, anh bộ đội địa phương tỏ ra khá thông thạo địa hình nên chỉ vài phút sau toàn đại đội đã đến trước thành Mang Cá; cũng chẳng phải bắn phát nào vì có ai đâu, mấy ngôi nhà trong thành cửa giả mở toang, giấy má bay trắng sân, trắng đường.

Huế đã được giải phóng.

Thận cho các xe tản ra thành đội hình sẵn sàng chiến đấu rồi phát lệnh: tranh thủ ăn trưa. Cái đói bị quên đi suốt từ đêm qua giờ mới lên tiếng cồn cào trong bụng, nhưng cũng chẳng có gì ăn ngoài lương khô và mấy bi đông nước.

Ngồi túm tụm trên nóc tháp pháo, Luông vừa trệu trạo nhai lương khô vừa ấm ức nói:

- Mẹ nó chứ! Giá cái cầu Phú Bài không bị phá thì chắc chắn đại đội mình sẽ là người đầu tiên giải phóng Huế chứ còn ai nữa!

- Mình chỉ chậm một tý tẹo thôi, lúc đến cầu mấy thanh gỗ còn cháy dở cơ mà - Trực phụ hoạ.

- Tiếc thật! Tao đã chuẩn bị một lá cờ còn mới để cắm ở Huế mà lại vào chậm mất một tý! Thế có tức không cơ chứ! - Đến lượt Thọ lên tiếng.

Vẫn ngồi trong ghế lái Trang nói vọng lên dàn hoà:

- Thôi! Miễn là Huế được giải phóng rồi, còn ai vào trước chả được.

Nói thì nói vậy nhưng trong lòng Trang cũng tiếc hùi hụi, giá cây cầu Phú Bài không bị phá thì chỉ tầm chín giờ đại đội anh đã có mặt ở đây rồi.

Tiêu đề: Re: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Gửi bởi: dongadoan trong 22 Tháng Tư, 2009, 07:33:10 pm

*

Mấy anh em còn đang ăn dở bữa trưa thì đã thấy lác đác một số người đeo băng đỏ của Ban quân quản xuất hiện ở khu vực thành Mang Cá. Sau đó thì Bộ chỉ huy của quân đoàn Hai cũng đến nơi. Đại đội trưởng Thận được gọi lên gặp Ban quân quản và thủ trưởng quân đoàn, một lúc sau anh trở về gọi các cán bộ trong đại đội lên phổ biến nhiệm vụ:

- Báo các các đồng chí! Hiện nay ta đã làm chủ hoàn toàn thành phố Huế, quân ngụy và đại bộ phận dân chúng Huế đã chạy về cửa Tư Hiền và cửa Thuận An để chờ tàu đi di tản. Đại đội ta có nhiệm vụ cùng với một đại đội bộ binh truy kích địch ra cửa Thuận An. Về lực lượng địch ở đó chúng ta cũng chưa nắm được cụ thể nhưng có một đặc điểm là chúng đang hoang mang đến cực độ, chúng ta cần nhanh chóng khai thác điểm này để chúng không kịp lấy lại tinh thần. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Ban quân quản, trước khi truy kích địch ra Thuận An chúng ta sẽ đi quanh một số đường phố ở nội thành Huế để biểu dương lực lượng. Sau đây, tất cả các xe về làm công tác chuẩn bị, đợi bộ binh có mặt thì chúng ta sẽ xuất phát. Có ai có ý kiến gì nữa không?

- Tôi có ý kiến - Toàn giơ tay - Trong điều kiện như hiện nay chúng ta không nắm được địa hình, đường sá gì cả. Vì vậy tôi đề nghị đồng chí "đại trưởng" nên đề nghị Ban quân quản cho người dẫn đường.

- Tôi đồng ý! Các anh cứ về xe đợi, tôi sẽ gặp Ban quân quản ngay bây giờ - Thận gật đầu.

*

Gần ba giờ chiều thì đại đội bộ binh đi cùng đã đến, vẫn là gần hai mươi tay súng đã đi cùng xe tăng từ Núi Bông, đã thành người quen cũ anh em tay bắt mặt mừng. Người dẫn đường cũng đã tới. Thận bắt tay người chỉ huy bộ binh và chiến sĩ dẫn đường:

- Đồng chí đi với tôi, còn đồng chí - Thận quay về phía người dẫn đường - Đi theo xe 381, cái xe đỗ chỗ kia kìa. Bây giờ đồng chí dẫn chúng tôi đi quanh một số đường phố chính ở nội thành, sau đó chúng ta sẽ ra Thuận An.

- Nhất trí! Nếu các anh đã chuẩn bị xong thì chúng ta đi.

Vẫn thành một hàng dọc bốn chiếc xe tăng nối đuôi nhau từ thành Mang Cá đi ra. Ngoài phố đã thấy lác đác người nhưng chủ yếu vẫn là thanh niên, sinh viên đầu đội mũ tai bèo, tay đeo băng đỏ đang đi treo cờ, băng rôn trên các đường phố; một số nhà hai bên đường đã mở cửa, treo cờ giải phóng. Đến trước cửa chợ Đông Ba người đã đông hơn, có cả già trẻ đang đứng nhìn những chiếc xe tăng với ánh mắt lạ lẫm, họ cũng vẫy tay chào mừng nhưng có vẻ hơi dè dặt. Hết chợ Đông Ba đoàn xe rẽ lên cầu Tràng Tiền, cây cầu sắt có những nhịp cong cong trông thật thơ mộng.

Đoàn xe tăng đi chầm chậm như kiểu duyệt binh, Trang thò hẳn đầu ra ngoài nghiêng ngó, nó đã đọc quá nhiều sách vở ca ngợi cảnh đẹp cũng như con người xứ Huế nên nó muốn tự mình được cảm nhận và đối chiếu. Tuy nhiên với cái cách cưỡi xe tăng xem hoa này thì nó khó có thể đưa ra một nhận xét chính xác được. Vì vậy khi có lệnh dừng lại giữa cầu Tràng Tiền Trang vội rời khỏi buồng lái trèo lên đỉnh tháp pháo phóng tầm mắt nhìn thoả thuê bốn phía. ấn tượng sâu sắc nhất đọng lại trong Trang lúc ấy là con sông Hương hiền hoà lững lờ chảy ngay dưới chân nó cùng rặng liễu thướt tha như những người đẹp đang xoã tóc soi bóng xuống mặt nước sông.

Trên cầu lúc này đã khá đông người qua lại nhưng vẫn chủ yếu là thanh niên, học sinh. Mấy cậu học sinh tinh nghịch không chỉ vẫy chào mà còn nhảy lên nắm lấy tay những người lính trên xe, có cậu còn tung lên xe tặng các anh cả một chồng sách, những tiếng chào hỏi nghe thật thân thương, nhẹ nhàng. Nhưng tất cả bỗng lặng đi khi phía trước xuất hiện những tà áo dài tha thướt, anh nào anh ấy vội vàng chấn chỉnh tác phong, quần áo nhưng khốn nỗi bộ quần áo công tác đã mấy ngày không thay giặt thì làm sao mà ngay ngắn được.

Xấu hổ vì sự luộm thuộm của mình hầu hết số lính trẻ đều chui tọt vào xe thò mỗi cái đầu ra. Mấy cô nữ sinh đã đến trước đoàn xe tăng, không biết vì xấu hổ hay do bản tính e thẹn của người Huế mà các cô cứ dúm dụm lại với nhau, vành nón nghiêng nghiêng che gần hết mặt, chỉ có cánh tay cầm cờ là vẫy rất nhiệt tình. Mấy chàng lính trẻ như bị thôi miên trước những bóng dáng mảnh dẻ thướt tha đang lướt qua ngay bên cạnh, họ chỉ bừng tỉnh khi có lệnh lên đường.

Qua hết cầu Tràng Tiền đoàn xe tăng rẽ trái ra hướng biển. Đoạn này cũng là đường nhựa nhưng hẹp hơn Đường Một nhiều, nhà cửa hai bên chủ yếu là nhà một tầng và có vườn bao quanh. Lác đác đã thấy cờ giải phóng, có chỗ còn có băng rôn đỏ đề rõ chữ "ủy ban quân quản". Nhìn thấy những lá cờ giải phóng và những tấm băng rôn lính ta có vẻ tự tin và vững lòng hơn.

Nhưng càng đi đường càng vắng, khi cách thành phố Huế khoảng năm sáu cây số thì không thấy bóng cờ và băng rôn nữa, chỉ thấy những đống quần áo rằn ri và súng ống ngày càng nhiều, một vài cái xe bọc thép, xe Jeep lăn lóc bên vệ đường.

Trời đã ngả về chiều, mặt trời đã khuất sau rặng Trường Sơn xanh thẫm, gió từ biển thổi vào đã mang vị biển và hơi lành lạnh, quang cảnh có phần thê lương và ảm đạm.

Đã gần tới Thuận An, pháo thủ Hạnh bỗng kéo chân Trị và hét lên:

- Đằng trước nhiều xe tăng lắm!

Trị vội lệnh cho Hùng dừng xe và chui vào cửa trưởng xe quay kính nhìn về phía trước, anh hoảng hồn khi thấy phía trước hàng chục chiếc xe tăng và cả pháo nữa. Các xe khác cũng đã dừng lại, Trị vội lên đài:

- 81 gọi 86! Phía trước có rất nhiều xe tăng và pháo!

Từ xe mình Thận cũng đã nhìn thấy, anh ước lượng có gần chục chiếc xe tăng đang đỗ trên đường, nhưng anh cũng đã kịp nhìn thấy tất cả những chiếc xe tăng đó đều nằm bất động và pháo đều quay ra phía biển. Thận phán đoán: "Bọn chúng chạy đến đấy thì bỏ xe để ra biển rồi". Nghĩ vậy Thận nhấn công tắc phát:

- 86 gọi 40! Tất cả chuẩn bị chiến đấu! Chú ý quan sát kỹ, nếu thấy xe nào quay pháo về phía mình thì bắn ngay!

Tiếng trả lời nhận đủ vang lên trong ống nghe, Thận hạ lệnh tiếp:

- Tiến!

Phía sau xe các chiến sĩ bộ binh cũng đã nép vào tháp pháo, súng đạn sẵn sàng; bốn chiếc xe tăng thận trọng tiến về phía trước. Bây giờ bằng mắt thường cũng đã nhìn thấy - đúng là các nòng pháo của những chiếc M48 đều quay về phía biển. Tuy nhiên những nòng pháo xe tăng vẫn gườm gườm cảnh giác và chắc chắn bất cứ sự chuyển động nào phía trước đều sẽ bị ăn đạn.

Con đường vốn đã hẹp nay lại càng hẹp hơn bởi những chiếc xe hơi cả quân sự lẫn dân sự đậu một cách vô cùng hỗn loạn. Hình như khi đến đây nó đã hoàn thành sứ mệnh nên đã bị chủ vứt bỏ không thương tiếc, nhiều chỗ chúng đậu không còn đường đi.

Nhưng rồi tất cả các họng pháo tăng đều nhất loạt quay về bên trái, ở đó là hằng hà sa số xe tăng, thiết giáp, cao xạ, pháo binh, xe hơi và tất cả những gì có thể giúp người ta chạy tới đây. Cả bãi hàng của cảng Thuận An to như một sân bóng đá giờ chật cứng các loại phương tiện, có cái vẫn đang nổ máy ình ình, nhưng tịnh không một bóng người.

Đứng nhô người trên tháp pháo quan sát Thận đoán phía trước chắc là biển rồi nên khi chạy đến đây chúng đã bỏ hết phương tiện cơ giới lại, anh vẫy tay ra hiệu cho đại đội tiếp tục tiến. Quả nhiên qua khỏi cái bãi xe mênh mông ấy vài chục mét là bến phà Thuận An. Từ bên này nhìn sang bờ bên kia và nhìn dọc theo bờ sông vẫn không một bóng người, phía bên phải là một cột ăng-ten cao dễ đến hai trăm mét.

Trời đã chạng vạng, ánh mặt trời đã tắt hẳn càng làm cái bãi hàng cảng Thuận An thêm bí hiểm, không ai biết được sau những mô đất kia, trong cái bãi xe kia là bao nhiêu người, là dân hay là lính ngụy, chắc họ cũng đang căng mắt xem mấy anh lính giải phóng sẽ xử sự ra sao?

Liếc nhìn qua đống trang bị khổng lồ Thận cũng thấy lo lo: "Với chừng này phương tiện nếu chúng đánh lại thì bốn cái xe tăng của đại đội anh và gần hai mươi tay súng bộ binh đi cùng chỉ như muối bỏ bể". Chui ra khỏi xe anh hội ý với người chỉ huy bộ binh:

- Bây giờ chúng đang hoảng loạn nên ta phải tranh thủ gọi hàng ngay. Tôi sẽ cho bắn một phát pháo và một loạt đại liên, sau đó ta sẽ gọi họ ra hàng. Anh cho các chiến sĩ bộ binh chuẩn bị sẵn sàng tiếp nhận, còn anh em xe tăng tôi vẫn phải ở trong xe để sẵn sàng đối phó với tình huống xấu.

- Đồng ý! - Người chỉ huy bộ binh trả lời.

Thận bảo Dênh và Chỉnh:

- Đánh pháo cao, quay ra hướng biển bắn một phát pháo; sau đó Chỉnh bắn một loạt 12,7 ly lên trời.

Dênh nhanh chóng quay pháo ra biển rồi bóp cò. "Uỳnh" - giữa buổi hoàng hôn trầm mặc tiếng trọng pháo nghe càng dữ dội và đe dọa. Tiếp theo Chỉnh đứng lên ghế pháo hai quay khẩu 12,7 ly ngóc lên trời, nó kéo luôn một tràng hết hòm đạn 50 viên. Tiếng 12,7 ly nổ chát chúa, những viên đạn sáng nối đuôi nhau vạch một đường đỏ thẫm trên nền trời hoàng hôn tím ngắt.

Đợi cho dư âm của những tiếng nổ im hẳn Thận đứng lên đỉnh tháp pháo cuộn một mảnh bìa anh vừa nhặt được trong vành tháp pháo thành một cái loa rồi hướng ra phía biển dõng dạc:

- Đồng bào và anh em binh lính cộng hoà chú ý! Chúng tôi là quân giải phóng, xin thông báo để đồng bào và anh em binh lính biết: thành phố Huế đã được giải phóng, chính quyền cách mạng đã được thiết lập. Chúng tôi kêu gọi đồng bào hãy trở về thành phố làm ăn sinh sống bình thường, còn anh em binh lính ra hàng sẽ được đối xử tử tế.

Thận gọi xong đưa cái loa tự tạo lại cho người chỉ huy bộ binh gọi. Một lần, hai lần, ba lần thì bắt đầu có kết quả. Không biết nãy giờ họ trú ẩn ở đâu mà ngay sau lần gọi thứ ba đã thấy lác đác những bóng người cởi trần, hai tay giơ quá đầu lầm lũi kéo ra. Trong buổi hoàng hôn nhập nhoạng những hình hài lòng khòng, ngơ ngác trông thật thảm hại. Đám lính bộ binh luôn mồm hướng dẫn:

- Anh em binh lính cộng hoà xin đứng vào hàng ở đây! Còn bà con xin mời về thẳng thành phố!

Một đống lửa lớn được đốt lên ngay cạnh xe 386, số lính ngụy ra hàng được anh em chiến sĩ bộ binh xếp thành hàng sau xe, chỉ một loáng quân số đã lên đến gần trăm.

Ngay cạnh chỗ xe 380 đỗ là một cái xe quân y đổ nghiêng, những túi thuốc và bông băng vương vãi đầy xung quanh. Trang nhặt một túi băng chạy đến cạnh Thận:

- Ở đây có rất nhiều băng, có khi mình để họ buộc băng trắng vào cánh tay thì mới dễ phân biệt anh ạ!

- Được đấy! - Thận mừng rỡ, anh nhận cái túi băng đưa cho mấy chiến sĩ bộ binh - Bảo họ buộc vào cánh tay trái. Còn cậu lấy thêm băng về đây nhé!

Không biết lúc nãy họ trú ở đâu mà bây giờ kéo ra đông thế, cái đám lộn xộn phía sau xe 381 đã lên đến hơn trăm. Thận đã cho Chỉnh đi báo cho mỗi xe chỉ để lại một người trực chiến còn xuống cả đây tiếp nhận hàng binh mà công việc vẫn không xuể vì số lính ngụy ra hàng cấp tập quá, anh bàn với người chỉ huy bộ binh:

- Phải tìm cách giải tán số này càng nhanh càng tốt chứ để tập trung tại đây đông quá không có lợi.

- Hay ta cứ cho họ đi về phía sau từng đợt một vậy - Anh chỉ huy bộ binh cũng thấy ngài ngại giữ họ ở đây với chừng này con người làm sao quản lý nổi.

Nhìn thấy mấy chiếc GMC đậu ngay cạnh đó Thận hướng về đám hàng binh hỏi lớn:

- Trong anh em có ai biết lái xe không? - Lố nhố trong đám đông vài cánh tay giơ lên, anh tiếp - Bây giờ anh em tự chở nhau về thành phố Huế, đến chỗ nào có băng rôn đề ủy ban quân quản thì dừng lại báo cáo với họ mình là hàng binh, đã được tiếp nhận ở Thuận An và cho về rồi theo sự hướng dẫn của người ta. Các anh em nghe rõ chưa?

- Rõ! - Rất nhiều tiếng trả lời.

- Bây giờ mấy anh biết lái xe lên chuẩn bị xe để chở anh em về Huế.

Mấy tay lái xe trèo lên xe nổ máy, quay đầu. Ngay khi có lệnh "lên xe" đám hỗn quân hỗn quan quần dài, cởi trần, tay trái buộc băng trắng đã chen chúc trèo lên, ba chiếc GMC chật ních lăn bánh về hướng Huế.

Từ phía bến phà Thuận An người vẫn kéo ra nườm nượp, bây giờ không chỉ có lính mà đã có cả dân. Thực ra cũng không khó phân biệt lắm: người nào cởi trần giơ tay quá đầu chắc chắn là lính; còn dân thì chủ yếu là phụ nữ, trẻ em, người nào cũng lôi thôi lếch thếch và lỉnh kỉnh va ly, túi xách.

Số hàng binh tụ lại sau xe 386 lại tăng chóng mặt, đã hết cả ô tô quanh đó nên Thận bảo họ tập trung thành đoàn rồi tự đi về, vấn đề quan trọng là phải tìm đến chính quyền cách mạng để báo cáo.

Đang lục lọi cái xe quân y để lấy thêm băng Trang bỗng giật mình khi nghe tiếng khóc ré lên của một đứa trẻ, ngẩng đầu lên thấy một thiếu phụ một tay ôm đứa bé một tay kéo theo chiếc va ly to đùng lên mặt đường. Có vẻ chị ta đã đuối sức nên kéo mãi chiếc va ly không nhúc nhích, còn đứa trẻ cứ ngoẹo đầu khóc ngằn ngặt. Trang vội tiến lại gần người phụ nữ, anh đưa tay cầm lấy quai va ly:

- Chị để tôi giúp một tay!

Người thiếu phụ ngước nhìn Trang đầy nghi ngại, trong ánh lửa bập bùng nó vẫn nhận ra bên dưới vẻ nhếch nhác, luộm thuộm là một khuôn mặt rất ưa nhìn. Trang kéo mạnh một cái chiếc va ly đã nằm gọn trên mặt đường. Đứa bé vẫn khóc ngằn ngặt, nó cứ oằn oại như muốn rơi ra khỏi cánh tay mảnh dẻ. Trang thấy ái ngại quá liền bảo:

- Chắc nó đói rồi! Chị đợi ở đây một chút!

Trang kéo chiếc va ly lại sát bên cái xe cứu thương, ấn mẹ con người thiếu phụ ngồi xuống đám bông băng vương vãi rồi trở lại xe, lúc quay trở lại trên tay anh là hai bánh lương khô và bi đông nước. Đứa bé hình như đã được vỗ về nên chỉ còn thút thít, chìa bánh lương khô cho người thiếu phụ Trang nói:

- Chị cầm lấy cho cháu ăn, chị cũng ăn đi một chút! Trông chị có vẻ mệt lắm rồi!

Người thiếu phụ vẫn không nói không rằng. Trang hiểu chị ta chưa tin các anh, anh đoán: "Chắc đây là vợ lính chạy theo chồng nhưng bị lạc nhau, họ chưa tin mình cũng là điều dễ hiểu". Nghĩ vậy, Trang bóc bánh lương khô ra bẻ đôi một thanh rồi bỏ tọt vào miệng mình một nửa, nửa còn lại đưa cho đứa bé. Thằng bé, giờ Trang đã nhận ra đó là con trai chừng ba tuổi có vẻ hơi sợ hãi nhưng rồi cũng ngập ngừng đưa tay ra cầm miếng lương khô, mắt nó ngước nhìn mẹ ra ý dò hỏi rồi đưa vào miệng nhỏ nhẻ ăn từng tý một. Trang đưa nốt chỗ lương khô cho người mẹ:

- Chị cũng ăn đi, đừng ngại gì cả!

Đến lúc này từ cái miệng xinh xinh của thiếu phụ mới bật ra một lời nhẹ nhàng như gió thoảng:

- Cảm ơn!

Mãi đến quá nửa đêm dòng người mới ngớt, Thận cho mỗi xe một người ở lại thay phiên trực, còn lại về xe đi nghỉ.

Buổi sáng ở biển đến thật sớm, mới hơn năm giờ đã thấy những tia nắng bình minh nhuộm đỏ chân trời đằng đông. Hình như chỉ đợi có thế những dòng người từ bên kia bờ lại lũ lượt kéo về. Khác hẳn tối hôm qua - hôm nay đoàn người di tản trở về thành phố có đủ nam, phụ, lão, ấu, ai cũng tay xách nách mang. Xe 380 án ngữ ngay đầu bến phà, ngồi trong xe nhìn ra Trang nói nhỏ với cả xe:

- Hình như dân thành Huế kéo nhau ra đây hết thì phải? Thảo nào hôm qua mình đến Huế thấy vắng như chùa Bà Đanh ấy.

- Thì dân người ta cũng sợ chứ, hai bên đánh nhau thế nào chả có "tên rơi, đạn lạc", chẳng biết thế nào cứ tránh đi là hơn - Luông có vẻ hiểu biết.

- Có lẽ người ta sợ như hồi Mậu Thân ấy, hồi ấy mình đánh vào rồi thì bọn Mỹ ném bom; lúc mình rút ra nó quay lại giết hết những người ở lại với giải phóng nên dân chết nhiều lắm - Trang đồng tình, nó cũng đã tìm hiểu được nhiều tư liệu về Huế trong những năm nằm ở A Lưới.

Thọ đột ngột chuyển đề tài:

- Cứ bảo con gái Huế đẹp nhưng từ hôm qua đến nay tao chả gặp "em" nào đẹp cả.

- Tao cũng thấy thế, cứ nghe đồn đại mãi mà có phải thế đâu? - Trực cũng góp chuyện.

- Bỏ nhà, bỏ cửa chạy ra đây nằm vạ nằm vật, nhịn đói nhịn khát mấy ngày thì tiên cũng thành cú vọ, mày còn đòi ai đẹp được - Trang gắt.

Quả thật, những dòng người đang diễu qua trước mắt chúng trông mới đáng thương làm sao, ai cũng tiều tụy, mệt mỏi như không còn sức sống. Anh em chúng cũng muốn ra tay giúp đỡ họ nhưng biết là không xuể vì họ quá đông mà chúng chỉ có một dúm người, lại còn lúc nào cũng phải cảnh giác sẵn sàng chiến đấu nữa chứ. Trang lại nhớ đến người thiếu phụ đêm qua, mặc dù còn trẻ nhưng nó hiểu những gì mà những con người này đã trải qua trong mấy ngày vừa rồi.

Thấy dòng người chủ yếu là dân thường Thận ra lệnh cho số lái xe đi thống kê sơ bộ các loại phương tiện mà địch đã bỏ lại đây - chủ yếu là tăng thiết giáp. Sau một hồi đếm đi đếm lại rồi leo vào tận nơi kiểm tra cả bọn kéo về xe 386, Hoả thay mặt bốn anh em báo cáo:

- Báo cáo "đại trưởng"! Tổng số có 54 xe tăng M48, 12 xe bọc thép M113, 4 xe cao xạ tự hành và mấy xe công trình; còn lại ô tô, xe kéo pháo thì nhiều lắm, đếm không xuể.

Trang còn chui vào xe nhặt về một lô quân kỳ của ngụy, những lá quân kỳ của thiết đoàn ba thêu khá cầu kỳ với những hình thù rất dữ tợn, nó vứt thành đống dưới băng xích xe:

- Cả một thiết đoàn nguyên vẹn đấy, nó mà "chơi" thì đại đội mình "toi" hết chứ còn gì!

- Đúng thế! - Thận xác nhận - Lúc mới đến đây tớ cũng nghĩ y như cậu, thế cho nên gom được ít nào phải cho về phía sau ngay, để chúng tập trung ở đây thấy bọn mình có ba chục "mống" chúng mà hăng lên đánh lại thì "toi" cả nút thật.

Vốn đã được giới thiệu về xe địch nhưng chưa bao giờ được thực hành, nay nhìn cả đống phương tiện ngổn ngang máu kỹ thuật nổi lên Tập rụt rè đề nghị:

- Xin phép "đại trưởng" cho chúng em lái thử xe của chúng một lúc!

- Được thôi! Nhưng cẩn thận đấy nhé! - Thận dặn với theo.

Đầu tiên cả bọn kéo nhau lên một chiếc M48, Hùng mò mẫm trên bảng đồng hồ, nó bật hết công tắc này đến công tắc khác, đến cái thứ tư thì máy bắt đầu nổ; chỉ tay vào cái công tắc nó dặn:

- Công tắc khởi động đây nhé! Còn số má thì ai cũng biết rồi phải không?

Thế là mỗi đứa về một xe, chúng chạy đi chạy lại một lúc rồi lại túm tụm bàn tán với nhau:

- Lái thế mới là lái chứ! Vặn khẽ vô lăng nó đã chuyển hướng ầm ầm, chả bù cho mình kéo cần lái vẹo cả sườn - Hùng phát biểu đầu tiên.

- Cần số cũng nhẹ như không ấy nhỉ, không phải nghiến răng lại mà kéo như mình - Tập cũng phụ hoạ.

- Nó còn có cả số quay tại chỗ đấy, lúc nãy các cậu có nhìn thấy một xích tiến, một xích lùi không? - Đến lượt Hoả tham gia.

Trang kết luận:

- Công nhận xe nó hơn xe mình nhiều thứ nhưng rõ ràng là thua về pháo rồi, nặng những 48 tấn mà pháo chỉ có 90 ly, thua hẳn xe mình 10 ly.

- Hay bây giờ ta đi lái ô tô đi - Hùng đưa ra sáng kiến.

- Hay đấy! - Cả bọn đồng tình.

Chui vào bãi xe, lại mò mẫm một lúc rồi tên nào cũng nổ được máy, số má thì chúng đều biết nguyên lý rồi nên chỉ một lúc sau mấy cái GMC đã chạy được, sau vòng đầu còn hơi chuệch choạc đến những vòng sau đã thấy chững chạc lắm. Nhìn cánh lái xe đang lái ô tô Thận cũng thấy ngứa ngáy chân tay, anh bảo Trang:

- Cậu cho tớ lái thử một tý!

Trang nhường tay lái cho đại trưởng và hướng dẫn sơ sơ, cánh trưởng xe pháo thủ cũng xúm đến xem và một lúc sau thì bãi hàng cảng Thuận An thành bãi tập lái xe của đại đội Bốn.

Nửa đêm 29 tháng 3 một cái xe Jeep phóng hết tốc lực từ phía Huế xuống, người sĩ quan tác chiến của quân đoàn truyền đạt mệnh lệnh ngắn gọn: "Đại đội Bốn ngay lập tức xuất phát đi đánh Đà Nẵng".

Mọi thứ đã sẵn sàng nên chỉ ít phút sau toàn đại đội đã nổ máy lên đường. Trăng cuối tháng khá sáng và đường vắng nên tốc độ hành quân tương đối cao, ra đến đường Một cánh lái xe càng chạy khoẻ, có lúc chạy cả số năm, lúc sáng rõ mặt người đã đến đèo Phước Tường.

Đã vượt qua đỉnh đèo và bắt đầu đổ dốc, Trang thấy phía trước nó vẫn là xe 386 cũng đang chạy với tốc độ khá cao. Xuống hết dốc là một đoạn đường thẳng tắp, Trang ngẩng đầu nhìn không thấy xe 386 đầu nữa. Bụng nghĩ: "tay Hoả này hôm nay chạy khiếp thế, vừa mới thấy ngay phía trước mà giờ đã không nhìn thấy đâu nữa", Trang tống vào số năm và tăng ga chạy hết tốc độ.

Nhưng cái gì thế kia? Rõ ràng là "đại trưởng" Thận và Chỉnh đang đứng ở rìa đường, quần áo ướt lướt thướt và đang vẫy tay rối rít. Trang vội hãm xe cấp tốc. Nó như không tin vào mắt mình: chiếc xe 386 chúi đầu xuống một cái cống, đuôi xe chỉ còn bám một tý trên mặt đường, lái xe Hoả cũng ướt lướt thướt đang ngồi run lẩy bẩy dưới vệ đường.

Cả đại đội đã dồn lại, tất cả xuống xe chạy đến, Toàn thốt lên:

- May mà dưới đó có nước, nếu không thì sứt đầu mẻ trán cả rồi.

Quả thật, với tốc độ đó mà lao xuống chỗ này thì những người ở trên tháp pháo đều lao đầu xuống như vận động viên bơi lội xuất phát, nếu không có nước thì chắc là gẫy cổ.

Cánh lái xe xúm vào hỏi han Hoả, hắn bảo:

- Tớ cũng chẳng biết tại sao nó lại tự chuyển hướng như thế! Rõ ràng tớ nhích cần lái bên phải mà nó lại lao ngay sang trái mới tức chứ!

- Có lẽ đây là tình huống "phản chuyển hướng" khi lực cản lăn nhỏ đấy!

Trang giải thích, thực ra hiện tượng "phản chuyển hướng" thì các lái xe đều biết rồi, nhưng thông thường nó chỉ xảy ra khi xuống dốc, còn ở đây lại là đường bằng nên không phải ai cũng nghĩ đến nó mà đề phòng.

Trên mặt đường Trị quát:

- Còn ngồi đấy làm gì? Lên đây tìm cách kéo xe đi chứ!

Cả hội lái xe kéo lên, với địa thế này tổ chức cứu kéo không khó, chỉ có điều phải dùng lực kéo rất lớn vì xe 386 bị chúc hẳn gần như dựng đứng thế kia, cuối cùng phương án được đưa ra là dùng hai xe để kéo.

Hai xe 380 và 381 được đánh lại gần, sau khi móc cáp vào đuôi xe 386 Trang và Hùng từ từ khởi xe cho căng cáp rồi dừng lại chờ hiệu lệnh thống nhất. Khi cánh tay Trị phất lên cả Trang và Hùng cùng tăng ga, hai cái động cơ gầm lên nhưng rồi gằn lại như bị bịt mũi, khói xả tuôn ra mù mịt, hai sợi cáp căng ra như dây đàn, bốn băng xích cào xuống mặt đường toé lửa. Trị vẫn vẫy mạnh tay, Trang và Hùng lại cùng tăng ga, chiếc 386 rùng mình một cái rồi từ từ được lôi lên mặt đường, toàn bộ phần đầu xe dính bùn bê bết.

Sau khi mấy anh em thay quần áo đại đội lại tiếp tục hành quân, Trang nhẩm tính: "Cứ tốc độ này chỉ trưa nay sẽ có mặt tại Đà Nẵng".

Nhưng mọi cái không như dự tính - cả đại đội vón lại thành một cục trước cây cầu Thừa Lưu đã bị phá sập. Đứng sát mố cầu nhìn dòng sông trong xanh đang lững lờ trôi Thận lẩm bẩm:

- Số đen rồi! Lại như hôm đánh Huế thôi!

Tuy vậy, cũng có cái khác so với hôm cầu Phú Bài bị phá sập là có một đại đội công binh của quân đoàn đang tìm cách làm ngầm cho các phương tiện cơ giới vượt sông. Nhìn các chiến sĩ công binh bê từng sọt đất hắt xuống lòng sông ai cũng thấy ngán ngẩm nhưng rồi cũng chẳng biết làm cách nào ngoài việc đợi. Thận lệnh cho xe lùi lại một ít đến chỗ có mấy ngôi nhà bỏ không để nấu cơm ăn.

Đang khí thế ầm ầm nay như bị giội một gáo nước lạnh tên nào tên ấy buồn xo, đã thế cánh "xê Ba" lại chạy qua vẫy tay rối rít chúc: "Đi sau vào mà nhặt ống bơ nhé" lại càng tức đẫy - Chúng nó là xe lội nước mà.

Trời đã quá trưa, cái oi nồng của trời đất như làm tăng thêm sự bức bối trong lòng người, cứ thỉnh thoảng Thận lại cho Chỉnh lên xem công binh đã làm xong ngầm chưa nhưng lần nào anh cũng nhận được cái lắc đầu.

Nóng ruột không kém "đại trưởng" mấy lái xe cũng lên đầu cầu ngồi chờ cánh công binh làm ngầm. Bỗng Trang reo lên:

- Trên kia có một cây cầu đường sắt còn nguyên kìa! Lên xem biết đâu lại đi qua được!

Cả Hoả, Tập, Hùng cùng nhìn theo hướng tay Trang, đúng là ở phía thượng nguồn cách chỗ chúng đứng chừng gần trăm mét có một cây cầu dành riêng cho xe lửa vẫn còn nguyên, nhịp cầu sắt cong cong trông còn vững chãi lắm. Cả bọn kéo nhau chạy đến: cây cầu vẫn còn nguyên vẹn nhưng vì là cầu đường sắt nên không có mặt cầu, bên trên hai rầm sắt to đùng chỉ là những thanh tà vẹt gỗ đặt cách nhau chừng sáu bảy mươi phân và trên cùng là hai thanh đường ray thép. Trang lầm bầm tính toán:

- Về tải trọng thì không lo rồi vì cả đoàn tàu còn qua được cơ mà. Không có mặt cầu cũng không sao vì khoảng cách giữa các thanh tà vẹt thế xích xe tăng sẽ trườn qua được. Vấn đề còn lại là những thanh tà vẹt đó có chịu được sức nặng của xe không thôi?

Vốn con nhà cơ khí nên Hoả tính cũng nhanh:

- Với chiều dài xích chạm đất gần bốn mét thì nếu xe nằm gọn trên đó sẽ nằm trên năm thanh tà vẹt, mỗi đầu tà vẹt sẽ phải chịu lực khoảng gần bốn tấn, tớ nghĩ nó sẽ chịu được.

Tập tham gia:

- Mà giả sử nó không chịu nổi thì xe cũng không thể rơi xuống sông được, nó chỉ sập bụng xuống đường ray thôi, kéo lên vẫn được mà.

- Thế thì đi qua xem sao nhớ? - Trang nhìn ba đồng nghiệp và hỏi.

Cả ba cái đầu cùng gật, Tập bảo:

- Nhưng phải báo cáo "đại trưởng" đã!

Hùng nhanh chân chạy về gọi Thận, Toàn lên xem. Sau khi nghe các lái xe báo cáo Thận quyết định:

- Được! Cứ đi thử xem sao? Qua được thì tốt, không qua được thì kéo lại chờ công binh. Các cậu về đưa xe lên đây!

Cả bốn cái xe đã được đánh lên gần đầu cầu, Thận chỉ Trang:

- Cậu cho 380 qua trước đi!

Trang nhảy vào cửa lái xe, Hoả dặn với theo:

- Chú ý căn hướng chính xác từ trước, đã vào cầu rồi thì không chuyển hướng nữa; chân dầu cũng phải nhẹ thôi!

Trang gật đầu, những việc này đối với cậu ta quá quen thuộc sau những ngày lái xe đi phục vụ sửa chữa. Trang khởi động xe rồi cho xe bò lên mặt đường sắt, sau khi hai thanh ray đã nằm gọn trong bụng xe nó căn hướng thật chuẩn rồi từ từ tăng ga. Phía trước Hoả vẫn vẫy tay rất nhẹ nhàng, mắt nó nhìn như dán vào hai băng xích. Trang giữ chân ga thật ổn định. Hai băng xích xe đã chớm đến thanh tà vẹt thứ nhất, thứ hai,... rồi nằm gọn trên năm thanh đúng như dự tính: không có chuyện gì xảy ra. Trang giữ nguyên chân ga cho xe đi rất từ từ và chỉ biết là đã qua hết cầu khi tiếng vỗ tay, tiếng hò hét của cả đại đội và cánh công binh vang lên.

Sau chừng hai mươi phút toàn đại đội đã qua hết bờ Nam, Thận lệnh cho đại đội lên đường với tốc độ cao nhất.

Khoảng hai giờ chiều toàn đại đội đã đến chân đèo Hải Vân, Thận cho nghỉ ngắn kiểm tra kỹ thuật trước khi vượt đèo.

Đã từng vượt qua nhiều đèo dốc trên đường hành quân từ Bắc vào, từ A Lưới xuống nên con đèo nổi tiếng này không quá khó khăn đối với cánh lái xe đại đội Bốn. Thực ra nó cũng khá hiểm trở, nhiều khúc cua đến chóng mặt nhưng mặt đường lại trải nhựa và tương đối rộng nên các xe vẫn chạy được số hai, chỉ thỉnh thoảng mới phải về số một ở những đoạn có độ dốc lớn. Vấn đề đặt ra đối với họ là độ dài của đèo rất dài - những hai mươi hai cây số, riêng chiều lên là hơn chục cây nên phải làm sao giữ cho nhiệt độ động cơ không bị quá cao.

Trang nâng ghế lái xe lên cao, anh vừa chăm chú nhìn đường vừa liếc mắt sang hai bên nhìn phong cảnh. Tính Trang vẫn vậy, từ bé anh vẫn khao khát được khám phá những vùng đất mới nên hôm nay được đặt chân tới một địa danh nổi tiếng thế này nó hào hứng lắm. Quả thật, lời đồn không ngoa, có những chỗ phong cảnh đẹp đến sững sờ - nhất là ở những khúc cua trên sống núi chìa ra phía biển, trên đầu là mây trắng bay là là, dưới tít xa kia là vịnh Tiên Sa xanh thẳm. Trang những muốn dừng lại để ngắm nhìn nhưng trưởng xe Luông luôn mồm nhắc tăng tốc độ không để xe trước bỏ quá xa, anh thầm nhủ trong lòng: "Rồi sẽ phải trở lại nơi đây ít nhất một lần trong đời".

Gần đến đỉnh đèo, trong ống kính đã thấy mấy cái lô cốt đứng sừng sững như những tên lính gác cần mẫn, Thận lệnh cho tất cả đóng cửa sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên càng đến gần nhìn càng rõ thì thấy tất cả lô cốt đều trống không, có lẽ người anh em "xê Ba" đã xua chúng đi rồi.

Đã đến đỉnh đèo, mấy cái chướng ngại vật đơn giản trên đường bị xích xe vượt qua dễ dàng, một cái lô cốt vẫn đang cháy, hai ba khẩu pháo 105 ly đang nằm chỏng chơ, mấy cái GMC vô chủ cũng đang chúi đầu vào vách núi. Rõ ràng đại đội Ba đã đi trước và chắc là không còn địch nên Thận hạ lệnh "lập tức đổ đèo".

Chiều xuống của Hải Vân hình như không hiểm trở bằng chiều lên và cũng ngắn hơn hay là do đi được tốc độ cao không biết mà chỉ chưa đầy một tiếng toàn đại đội đã xuống đến chân đèo, Thận tiếp tục cho đại đội tăng tốc độ.

Trời đã ngả về chiều, ánh hoàng hôn làm con đường dẫn vào thành phố thêm thê lương, ảm đạm: những bãi tha ma chạy dài theo hai bên đường, những nấm mộ thấp lè tè lơ thơ vài ngọn cỏ úa vàng phơ phất. Bức tượng Phật khổng lồ trầm mặc như bất lực trước những khổ đau của chúng sinh. Những đống quần áo, súng ống vứt bừa bãi như minh chứng cho một cuộc rút lui vội vã và bế tắc. Biết có một đại đội đã đi trước nên Thận khá yên tâm, anh cho lái xe thò đầu để lái.

Đã đến ngoại ô thành phố, Thận đang phân vân không biết đi theo hướng nào thì một sĩ quan tác chiến của quân đoàn đến chặn xe lại thông báo tình hình chung và nhiệm vụ của đại đội Bốn: "Thành phố Đà Nẵng về cơ bản đã được giải phóng, tuy nhiên ta chưa kiểm soát được hoàn toàn. Đại đội Bốn có nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ thương cảng Bạch Đằng, kiểm soát mọi sự qua lại trên sông Hàn". Một chiến sĩ bộ đội địa phương có nhiệm vụ dẫn đường cho đại đội anh.

Thận lệnh cho toàn đại đội tiếp tục tiến. Đường phố đã lên đèn nhưng vắng ngơ vắng ngắt nên tốc độ vẫn giữ được khá cao, lác đác đó đây đã thấy những lá cờ giải phóng và những bóng áo quân phục mang băng đỏ.

Tầm tám giờ tối toàn đại đội đã đến thương cảng Bạch Đằng, một cầu tàu bằng bê tông dài vài chục mét nằm chìa hẳn ra sông. Thận bố trí đại đội thành đội hình chiến đấu - trong ánh điện lờ mờ bốn cái xe tăng như bốn con voi nằm phủ phục, bốn khẩu pháo gườm gườm chĩa xuống mặt sông, chắc chắn không một phương tiện nào cơ động trên sông lọt qua vị trí này được, anh quy định: "trừ lái xe được ngủ, còn lại tất cả thay nhau canh gác".

Gió sông Hàn mát rượi, đêm qua đã gần như không ngủ, lại thêm một ngày vất vả nên chẳng cần ăn uống gì mấy lái xe chỉ kịp hạ ghế lái xe xuống là chìm vào giấc ngủ.

Sáng được một lúc thì Thận nhận được lệnh cho đại đội đi diễu hành phục vụ quay phim, chụp ảnh. Thấy Thận không thoải mái lắm người sĩ quan đến truyền đạt mệnh lệnh ghé tai anh nói nhỏ:

- Đi phục vụ quay phim chụp ảnh chỉ là phụ, còn thực chất là đi để biểu dương lực lượng đấy! Ông không biết chứ thành phố này phức tạp lắm, suốt từ khi Pháp đánh chiếm đến nay nó chỉ sống với cách mạng được mấy chục ngày hồi Cách mạng tháng Tám, ngay cả năm Mậu Thân ta có đánh được vào đây đâu! Sau khi quay phim về các ông vẫn phải nằm lại nội thành này mấy ngày nữa đấy!

Thôi thì nhiệm vụ nào cũng là nhiệm vụ, Thận bảo anh em xếp thành đội hình rồi đi diễu qua mấy phố trung tâm. Quả thật, người dân ở đây nhìn các anh với con mắt có phần e ngại, họ đứng nép thật sâu vào bên đường và không niềm nở vẫy chào các anh như ở Huế.

Quay phim và diễu hành xong đã gần trưa, đại đội được phép lui vào một con ngõ nhỏ đối diện với thương cảng Bạch Đằng. Chưa biết nếp tẻ thế nào nên không dám vào nhà dân nhờ, Thận cho anh em nấu cơm ngay trên hè phố.

Chắc rằng sự kiện có mấy chiếc xe tăng giải phóng nằm giữa phố đã kích thích những người hiếu kỳ kéo đến. Lúc đầu họ còn đứng xa xa nhìn ngó, bàn tán; sau dần dần họ kéo đến từng xe, người thì lấy gang tay đo nòng pháo, người thì xúm lại xem giải phóng ăn cái gì. Cuối cùng thì mỗi anh lính đều bị một đám đông xúm quanh với hàng trăm, hàng nghìn câu hỏi.

Có lẽ đây là một tình huống nằm ngoài dự kiến, những bài học chính trị về công tác dân vận ở vùng mới giải phóng chưa đủ để quân ta trả lời nhiều câu hỏi "hóc búa" đại loại như: "Tại sao năm năm tư chúng tôi đã trả cả miền Bắc cho các ông rồi mà các ông còn đánh vào đây?", "Cộng sản nghĩa là như thế nào, đem cộng hết cả tài sản của mọi người lại với nhau à?", "Giải phóng rồi thì có cho chúng tôi ở lại đây không?"...; một số thấy "bí" quá đành chọn giải pháp lỉnh vào xe ngồi tịt luôn trong đó.

Ở chỗ nấu cơm bà con cũng đang xúm đông xúm đỏ, thấy nồi hai mươi cơm gạo trắng tinh bốc hơi nghi ngút và mấy hộp thịt đã được bổ ra một người chửi đổng:

- Tổ cha chúng nó! Thế ni mà biểu giải phóng ăn toàn lá sắn, bảy người đu cọng đu đủ không gãy!

Xung quanh chính trị viên Toàn và đại đội trưởng Thận là đông người nhất, chắc bà con cũng đoán ra đó là cán bộ nên cứ xúm lại hỏi han; hai người tối tăm mặt mũi vì những câu hỏi được tuôn ra tới tấp. Tiếng Đà Nẵng đâu có dễ nghe, cứ phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần mới hiểu lõm bõm, nhưng những câu trả lời của các anh đã làm bà con tương đối yên lòng.

Trang ôm khẩu AK đứng ngay cạnh xe, nhiệm vụ của nó là không cho ai được đến gần và trèo lên xe nhưng cũng phải luôn mồm trả lời những câu hỏi của một đám đông quanh nó. Một bà má đã già lắm rồi len sát vào Trang, bàn tay dăn deo của má túm lấy cổ áo nó vạch ra và nghển cổ lên nhìn chăm chú. Trang đứng bất động không hiểu bà đang nhìn gì, nó nghĩ bụng: "chắc mặt mình bị nhọ". Nhưng không phải, bà má đang hỏi gì nó, Trang phải hỏi lại hai ba lần mới hiểu:

- Các con không có "mùng" à?

Đã đọc nhiều sách và biết nhiều về phương ngữ nên Trang hiểu bà má muốn hỏi về cái màn, anh vội trả lời:

- Chúng con có ạ!

- Có sao để "mọi" đốt thế ni? - Bà má đưa tay vào cổ nó.

Trang vội cúi xuống nhìn: cả một vạt từ cổ xuống đến ngực nó dày đặc nốt muỗi cắn như một cái bánh đa vừng. Trang chợt nhớ lại đêm qua - vừa hạ ghế xuống là ngủ luôn, muỗi sông Hàn khủng khiếp quá. Chẳng biết làm sao anh đành trả lời bà má:

- Tại hôm qua con ngủ quên mắc "mùng".

- Lần sau phải nhớ nhé! "Mọi" ở đây nhiều lắm!

- Vâng! - Mắt Trang rưng rưng, anh chợt nhớ mẹ anh ở nhà.

Một thanh niên tầm mười sáu, mười bảy lại cố len vào:

- Có phải bộ đội giải phóng bị xích vào ghế ngồi trong xe không?

- Bị xích thì chúng tôi đứng đây sao được! - Trang điềm đạm trả lời.

- Nhưng lúc đánh nhau cơ? - Anh ta vẫn cố gặng.

Trang nhìn trước nhìn sau, quy định là không cho ai lên xe nhưng trường hợp này thì hơi đặc biệt, anh định tìm Thận để báo cáo nhưng thấy anh cũng đang bị vây bởi một đám đông đến mấy chục người nên quyết định:

- Tôi sẽ cho anh lên xem có xích ở ghế không nhé! Nhưng chỉ một người thôi!

Trang trèo lên xe đưa tay kéo người thanh niên vừa hỏi lên, anh mở cửa trưởng xe và cửa pháo hai rồi đưa anh ta lại chỗ cửa lái xe:

- Có thấy xích đâu không? - Trang hỏi lớn.

- Không! - Anh ta trả lời và chửi đổng - Mẹ cha bọn chúng, toàn nói bậy.

Đám đông chỉ vãn đi lúc chiều xuống, trừ mấy chú pháo hai phải lo việc nấu cơm và mấy tay ít lời chuồn vào xe ngồi, còn lại cổ đều khản đặc.

Ngày hôm sau đại đội được lệnh di chuyển về khu vực Bảo tàng cổ vật Chàm, bốn cái xe được đưa vào một con hẻm nằm bên phải bảo tàng, từ đây có thể nhanh chóng cơ động vào trung tâm thành phố cũng như ra cảng. Nhân viên bảo tàng chắc đã bỏ đi cả nên chẳng có ai trông nom, cửa giả vẫn mở toang.

Ngay khi mới đến mấy anh em đã rủ nhau vào bảo tàng xem, vốn đã được đọc qua về nền văn hoá Chăm Pa nên Trang lại phải trở thành một hướng dẫn viên bất đắc dĩ. Hùng "bò liếm" và Thọ "pháo" hết sờ nắn bộ ngực đầy đặn của cô vũ nữ lại mân mê cái "lin-ga" to đùng rồi cười khúc khích với nhau.

Sau hai ngày được tiếp xúc với bộ đội người dân thành phố đã cởi mở hơn, có mấy nhà đã mời bộ đội vào trong nhà nghỉ ngơi, uống nước; một ông chủ hàng ăn còn dành cả bếp cho bộ đội nấu cơm, ông còn cho cả rau và gia vị nên bữa cơm của đại đội cũng tươm tất hơn.

Xe 380 của Luông đỗ ngay trước cửa một ngôi nhà mái tôn, vách gỗ dáng chừng của dân lao động. Lúc mấy anh em ở bảo tàng về đã thấy trưởng xe Luông ngồi trong nhà, ông chủ nhà ra tận xe mời Trang, Thọ, Trực vào nhà uống nước. Trong nhà ngoài ông già còn hai thanh niên và một cô con gái chừng mười bảy tuổi, theo ông chủ nhà giới thiệu thì một anh thanh niên và cô gái là con ông, anh thanh niên kia là bạn con trai và cả hai đều là thợ điện. Chắc Luông ngồi trong đó đã lâu nên không khí trong nhà khá cởi mở, chợt thanh niên con ông chủ hỏi:

- Các anh đánh vào đây bằng đường nào?

- Chúng tôi đi từ Huế vào theo quốc lộ Một! - Luông trả lời.

- Nghĩa là các anh phải vượt qua đèo Hải Vân? - Người thanh niên tỏ vẻ nghi hoặc.

- Cậu này là lái xe đấy! - Luông chỉ Trang - Cứ hỏi cậu ấy xem!

- Thật thế không anh? - Anh ta quay sang Trang.

- Thật chứ! - Trang gật đầu khẳng định.

- Nhưng cái xe to và nặng thế kia thì làm sao qua nổi? ở trong này mỗi khi phải vượt qua đèo Hải Vân người ta đều sợ lắm, nhiều người chết ở đấy lắm rồi.

- Thực ra cũng không đến nỗi nào, so với những con đèo trên Trường Sơn thì chưa thấm vào đâu. Ngay cả trên quốc lộ Một thôi đèo Hải Vân chỉ dài hơn chứ không hiểm trở bằng Đèo Ngang - Trang vẫn điềm đạm.

- Các anh cũng qua cả Đèo Ngang? - Anh ta vẫn hỏi dồn.

- Đương nhiên rồi! Nhưng phải công nhận phong cảnh cả hai con đèo đều tuyệt đẹp, một bên là núi cao, một bên là biển rộng, trên là mây bay, dưới là nước biếc; chẳng thế mà bà Huyện Thanh Quan làm được bài thơ hay thế! - Nhắc đến hai con đèo làm Trang nhớ đến bài thơ "Qua Đèo Ngang".

- Anh biết bài thơ này à? - Anh ta hơi ngạc nhiên.

- Tôi thuộc từ hồi còn đi học! Một bài thơ rất hay về nội dung, còn "niêm luật" của nó thì thật là mẫu mực - Rất tự nhiên Trang đọc bài thơ mà anh vốn thích:

"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà; Cỏ cây chen đá, lá chen hoa; Lom khom dưới núi tiều vài chú; Lác đác ven sông chợ mấy nhà; Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc; Thương nhà mỏi miệng cái gia gia; Dừng chân đứng lại: trời, non, nước; Một mảnh tình riêng ta với ta".

- Hay quá! - Người thanh niên còn lại nãy giờ im lặng bỗng thốt lên - Chắc trước khi đi lính anh đã học Văn khoa?

- Không! - Trang xấu hổ - Tôi mới chỉ học hết lớp mười, bằng lớp mười hai trong này ấy.

- Sao anh lại biết bài thơ này?

- Có gì đâu? Đây chỉ là một bài thơ trong chương trình môn văn ở trường phổ thông thôi mà! Ngoài ra thỉnh thoảng tôi cũng tìm đọc những gì mình thích.

Ông chủ nhà cứ há hốc mồm ra nghe chuyện, có lẽ ông cảm thấy có rất nhiều cái khác nhau giữa những người lính giải phóng với các sắc lính mà ông từng biết.

Ngay chiều hôm ấy ông chủ nhà thông báo: "Con trai ông và bạn của nó không phải là thợ điện mà là sĩ quan không quân, cả hai đều đã tu nghiệp ở Mỹ về, mấy hôm nay vẫn tá túc ở nhà đợi xem tình thế thế nào và trưa nay đã quyết định ra ủy ban quân quản để trình diện".

Hai ngày sau, chắc là tình hình ở nội thành đã khá yên ổn nên đại đội Bốn được lệnh sang bán đảo Sơn Trà rồi ngay sau đó lại cơ động về căn cứ của sư đoàn Ba tại Khánh Sơn để củng cố mọi mặt chuẩn bị cho những trận chiến đấu tiếp theo.

Vừa về đến Khánh Sơn đã thấy Phượng, Tráng, Bùi, Khoa, và mấy anh em ở hai xe 382, 389 ra đón. Cả hai pháo hai Khoái và Lực trông đồ dưới chân Động Truồi cũng đã được đón về đây. Mới xa nhau có một tuần mà đã có biết bao biến cố xảy ra làm cho người ta tưởng như đã xa nhau hàng tháng, hàng năm.

Căn cứ sư đoàn Ba ngụy được xây dựng khá cơ bản trên một vùng đồi đất đỏ, những dãy nhà một tầng mái tôn xây ngay hàng thẳng lối làm nhà ở cho binh lính, còn những nhà xưởng ở đây thì thật tuyệt, cao ráo, rộng rãi, hàng chục chiếc xe tăng nằm lọt thỏm trong một ngôi nhà.

Việc đầu tiên lữ đoàn tiến hành khi chuyển đến Khánh Sơn là tổ chức lại cho phù hợp với điều kiện chiến đấu sau này. Theo đó đại đội Bốn phải chia tay người anh em cùng tiểu đoàn là đại đội Ba để về tiểu đoàn Một - tiểu đoàn xe chiến đấu xung kích. Cuộc chia tay khá bịn rịn bởi dù sao cũng đã gắn bó với nhau suốt những năm tháng gian khổ nhất ở chiến trường Trị Thiên Huế, tiểu đoàn Bốn được bổ sung một đại đội xe bọc thép và sẽ cùng tiểu đoàn Năm - một đơn vị lữ đoàn 203 mới tiếp nhận của quân khu Năm hình thành hai tiểu đoàn tăng thiết giáp bơi nước của lữ đoàn.

Về Khánh Sơn ngày hôm trước thì hôm sau đại đội họp tổng kết chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chủ nhiệm chính trị lữ đoàn Lê Minh thay mặt Đảng ủy chỉ huy lữ đoàn xuống dự. Sau phần báo cáo chung của ban chỉ huy đại đội là rút kinh nghiệm, có mấy ý kiến đều phàn nàn về công tác bảo đảm cơ động - giá như hai cây cầu Phú Bài và Thừa Lưu được khắc phục kịp thời thì đại đội đã hoàn thành nhiệm vụ được tốt hơn, sớm hơn. Đến phần bình xét khen thưởng, tất cả số lái xe và gần hết số cán bộ chiến sĩ tham gia đánh Huế và Đà Nẵng đều được đề nghị thưởng huân chương các loại.

Chủ nhiệm chính trị Lê Minh phát biểu sau cùng, ông nhiệt liệt biểu dương tinh thần chủ động khắc phục khó khăn của đại đội Bốn nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong cả chiến dịch, đặc biệt đã góp phần to lớn trong chiến dịch giải phóng Huế, bắt tù binh thu chiến lợi phẩm ở Thuận An. Sau đó ông truyền đạt nội dung bức điện của Đại tướng Tổng tư lệnh: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa...". Khí thế trong đại đội lên cao hừng hực. Cuối cùng ông kết luận:

- Thực hiện khẩu hiệu "thần tốc" lữ đoàn ta sẽ cùng quân đoàn hành quân theo trục đường Một vào giải phóng những tỉnh còn lại của miền Nam, quãng đường dài hàng nghìn cây số. Vì vậy riêng đối với đại đội Bốn là đơn vị xe cũ nhất thì đồng chí lái xe nào đưa được xe đến tham gia trận đánh cuối cùng sẽ được tặng một huân chương.

Cả đại đội vỗ tay rào rào.

Biết chặng đường hành quân sắp tới dài cả nghìn cây số nên cánh lái xe đại đội Bốn rất lo lắng về tình trạng kỹ thuật của xe. So với những cái T54B mới cứng của tiểu đoàn Hai và hai đại đội trong cùng tiểu đoàn này thì 6 cái T59 đã vào chiến trường từ năm bảy mốt của bọn hắn chỉ đáng là đống sắt vụn, cái nào cái ấy cóc cáy, mốc thếch bụi đường và khói đạn, cả đại đội không còn một cái lá chắn bùn nào nguyên vẹn... Vì vậy cả bọn tập trung làm thật đầy đủ các nội dung bảo dưỡng cấp hai theo quy định, ngoài ra còn làm thêm một số nội dung nữa mà chúng thấy cần thiết - đặc biệt là đối với hệ thống điều khiển và vận hành. Ở xe 380 còn mệt hơn vì thiếu người, công việc đang ngập đầu ngập cổ thì đại đội lại điều mất pháo hai Trực đi - nó được điều về xe 381 và "lên chức" pháo thủ, trong khi đó người thay thế chưa thấy tăm hơi đâu. Đã thế Luông lại suốt ngày họp hành, Thọ thì vừa tranh thủ bảo dưỡng vũ khí vừa cơm nước nên chỉ có một mình Trang lúi húi ngoài xe suốt hai ngày nay. Mà sao thời tiết kiểu gì không biết - giữa mùa xuân lại oi bức đến thế.

Đang chúi mũi vào buồng truyền động Trang bỗng giật mình vì có tiếng ai đó gõ gõ vào thùng dầu ngoài, chẳng buồn ngẩng mặt lên nó gắt:

- Rỗi rãi thì đi chỗ khác chơi! Đang bận tối mắt tối mũi lại còn đến quấy!

Im lặng một lát thì một giọng nói rất nhẹ nhàng cất lên:

- Này! Cho tôi hỏi thăm một tý!

Trang ngẩng bộ mặt nhem nhuốc của mình lên, trước mắt nó là một thân hình lẻo khoẻo khoác trên vai cái ba lô lép kẹp, và một cây đàn ghi ta cũ đã bong tróc nhiều chỗ, nó hất hàm:

- Hỏi gì hỏi nhanh đi!

- Đây là xe 380 do anh Luông làm trưởng xe phải không?

- Phải! Có việc gì thế? - Trang hỏi trong khi tay vẫn nhoay nhoáy làm việc.

- Tôi là Duyệt, được điều về xe này làm pháo hai.

Trang hơi ngỡ ngàng, pháo hai gì mà người ngợm lại thế kia. Trong mỗi xe tăng thì đó là một trong hai vị trí mà công việc nặng nhọc nhất: cái buồng chiến đấu thì hẹp vanh vanh, mỗi viên đạn nặng hơn ba mươi cân người như thế kia thì làm ăn sao được. Hơi thất vọng về thành viên mới của xe Trang buông thõng:

- Thế à!

- Anh Luông có nhà không? - Vẫn cái giọng mềm mỏng ấy.

- Ông ấy đi họp chi bộ, còn tôi là Trang lái xe. Thôi được rồi! Ông cất ba lô lên xe rồi lau mấy khẩu súng đi.

Duyệt đặt cái ba lô và cây đàn lên xe, anh nhún mình nhảy lên xe rất nhẹ nhàng, chỉ một loáng sau đã lau và lắp đâu vào đấy khẩu 12,7 ly và hai khẩu đại liên. Trang lại một lần nữa ngỡ ngàng: "Tay này cũng được đấy chứ" - Anh nghĩ bụng. Đến bữa trưa thì cả xe đã thân thiện với nhau - Người mới đến là Nguyễn Kim Duyệt, dân Hà Nội gốc, nguyên sinh viên Đại học Nông nghiệp 1.

Ngày 6 tháng 4, tiểu đoàn Bốn và tiểu đoàn Năm lên đường, đó là hai tiểu đoàn tăng thiết giáp hạng nhẹ, được sử dụng làm phân đội phái đi trước của quân đoàn, có nhiệm vụ đánh địch, mở đường cho cánh quân duyên hải.

Ngày 10 tháng 4 các đơn vị còn lại của lữ đoàn mới xuất phát. Cuộc xuất quân khí thế lắm, xe nào xe nấy đều có hai chữ "thần tốc" trên tháp pháo. Ra đến đường Một, gần năm chục chiếc xe tăng hạng trung nối đuôi nhau chạy trông thật hùng dũng. Tất cả mọi phương tiện đang lưu thông trên đường đều dạt hẳn về một bên nhường đường, bà con hai bên đường vẫy tay chào mừng thật là thân thiện.

Cái khí thế hừng hực ấy kéo dài chưa được bao lâu thì bị giội ngay một gáo nước lạnh: hai nhịp cầu Câu Lâu bị phá mới được lắp tạm bằng "cầu Mỹ" không đủ tải cho xe tăng qua.

Để đảm bảo cho xe tăng vượt sông Thu Bồn công binh quân đoàn bố trí một bến phà dã chiến ngay bên cạnh cầu. Con sông Thu Bồn mùa nước cạn có một cái cù lao nằm ở giữa, phà phải chạy vòng qua nên mất gần hai tiếng đồng hồ chiếc xe tăng đầu tiên mới đến bờ bên kia. Trên bờ cả hai tiểu đoàn xe tăng nằm vạ vật dưới cái nắng mùa khô xứ Quảng. Lữ đoàn phó Dương Xuân Tụ phụ trách hành quân đi đi lại lại, miệng gầm gừ như con hổ bị nhốt trong cũi:

- Không biết các ông ấy làm ăn thế nào? Đã hiệp đồng như đinh đóng cột rồi mà có mỗi cái phà con con, hai tiếng một xe thì bao giờ mới qua hết được sông.

Bên trinh sát của quân đoàn cho biết về phía thượng lưu gần chục cây số cũng có một cây cầu bê tông. Như bắt được vàng Tụ lệnh cho cả đoàn xe tăng ngay lập tức hành quân đến đó. Nhưng chạy đến nơi rồi lại đâm thất vọng, cây cầu tuy là bê tông nhưng quá mảnh dẻ, chiều rộng mặt cầu không bằng chiều rộng thân xe nhưng vì hai bên không có lan can nên vẫn có thể qua được. Với vẻ không tin tưởng lắm lữ phó Tụ lệnh cho một xe của đại đội Một đi thử.

Hàng trăm cặp mắt trên bờ dõi theo từng vòng lăn xích của chiếc xe tăng trên cầu. Nó đã qua được một phần ba, ai cũng khấp khởi chắc là qua được thì "ịch" một cái: một nhịp cầu sập một đầu xuống sông, cái xe tăng chìm gần hết trong làn nước xanh ngăn ngắt chỉ thò mỗi nòng pháo lên như một cánh tay kêu cứu. Chẳng thể làm gì hơn cả đoàn xe tăng lại lầm lũi quay lại cầu Câu Lâu chờ phà.

Gần hết ngày 11 tháng 4 hai tiểu đoàn mới qua sông hết, đại đội Bốn là những người qua sông cuối cùng.

Như muốn cướp lại thời gian đã mất, qua được sông là những con chiến mã lại phóng hết tốc lực trên đường, con đường quốc lộ Một làm theo công nghệ Mỹ tuy không bị những băng xích xe tăng cày nát nhưng cũng hằn lên hai vệt trắng nhờ. Cuộc hành quân thần tốc bị khựng lại cũng vì một cây cầu - cầu Mộ Đức.

Cũng giống như cầu Câu Lâu - cầu Mộ Đức bị đánh sập một nhịp và cũng được bắc lại bằng cầu Mỹ, đây là loại cầu dã chiến được ghép lại với nhau bởi các khung thép và chỉ có trọng tải 8 tấn nên không đủ tải cho xe tăng qua. Công binh quân đoàn đang tập trung làm ngầm ở phía hạ lưu và xe tăng lại phải nằm chờ; tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ cho các đại đội dạt vào bên đường lợi dụng bóng cây tránh nắng.

Mộ Đức là một vùng quê có truyền thống cách mạng từ lâu đời, nghe tin hôm nay có một tiểu đoàn xe tăng hành quân qua nghỉ lại Hội mẹ chiến sĩ tổ chức đến uý lạo và khao quân. Tiểu đoàn thông báo trưa nay các đơn vị không phải nấu cơm mà sẽ ăn cơm tập trung từng đại đội.

Gần trưa, ba chiếc xe lam chở cơm và thức ăn đến vị trí tập trung của ba đại đội. Đến với đại đội Bốn là hai bà má đã ngoài sáu mươi, dáng người nhỏ thó nhưng còn khá khoẻ mạnh. Dưới cái nắng trưa gay gắt hai má xăng xái chia cơm, thức ăn vào những bộ xoong chậu quân nhu do các xe mang tới. Thức ăn các má chuẩn bị để khao quân hôm nay gồm cá biển kho, canh chua cá lóc và rất nhiều rau sống - cái thứ rau sống của người Quảng Ngãi cũng thật lạ - đó là một hỗn hợp của rất nhiều thứ: rau muống chẻ, rau má, rau diếp cá, ruột cây chuối thái mỏng và đặc biệt nhất là có cả những lát mỏng mít xanh... Sau gần một tháng quanh đi quẩn lại với lương khô, thịt hộp nay trông thấy canh chua và rau sống tên nào tên ấy cứ nuốt nước bọt ừng ực, chỉ đợi chính trị viên cảm ơn các má vài câu và phát lệnh bắt đầu là lao vào ăn như "rồng cuốn". Tích cực nhất phải kể đến Sáu Bùi, nó phồng mang trợn mắt lèn từng cuộn rau to đùng vào cái miệng rộng hoác, ai hỏi có ngon không cũng chẳng trả lời được, đầu thì gật mà miệng vẫn nhai rau ráu.

Nhìn lũ lính trẻ ăn ào ào như người đói khát lâu ngày, hai má bỗng bật khóc hu hu. Lúc đầu chỉ là những tiếng nấc nhỏ nhưng sau chắc không giữ được các má khóc như mưa như gió. Đang mở hết tốc độ ăn cả lũ bỗng dừng cấp tốc tròn mắt nhìn nhau, Thận và Toàn vội chạy lại bên hai má, cả hai không biết vì lẽ gì mà các má khóc dữ như vậy nên hết sức lúng túng. Toàn ấp úng:

- Má... má... làm sao vậy? Chúng con có gì không phải thì bảo chúng con!

Hai má vẫn khóc nhưng không còn khóc to nữa, một má cất cái giọng Quảng Ngãi vốn đã khó nghe nay lại càng khó nghe trong cơn khóc:

- Mồ tổ tụi bay! Một tiểu đoàn mà chỉ có từng này người thôi sao?

- Vâng! Chúng con chỉ có bấy nhiêu thôi! - Toàn vội trả lời.

Hai má lại oà lên khóc. Xúm lại bên hai má bây giờ không chỉ có Toàn và Thận mà cả hàng chục gương mặt trẻ, đứa nào đứa nấy cứ ngỡ mình mắc lỗi gì. Bỗng hai má ngừng khóc và bật cười, cả lũ lại càng ngạc nhiên. Nhìn những bộ mặt ngây hết cả ra hai má vừa cười vừa giải thích:

- Nghe nói bọn bay có cả một tiểu đoàn, các má tưởng bọn bay đông lắm. Hội các má chỉ có ít tiền nên phải mua cá, mua rau để đãi tụi bay. Biết tụi bay chỉ có bấy nhiêu người thì các má đã thịt một con heo để chúng bay ăn chứ tội gì để tụi bay phải ăn khổ thế này!

- Trời ơi! Thế mà má làm chúng con hết hồn! - Toàn cười hết cỡ - Chúng con ăn thế này là ngon lắm rồi, má cứ xem xem, mâm nào cũng gần hết rồi đấy!

- Ngon thiệt không? - Một má nghiêm giọng hỏi.

- Ngon thiệt mà! Chúng con đi như thế này mấy chục ngày rồi, ngày nào cũng lương khô, thịt hộp nên chỉ thèm rau thôi! - Thận chen vào giải thích.

- Thế thì còn nhiều lắm! Tụi bay cứ ăn đi, các má về lấy thêm.

Chiếc xe lam lại chạy thêm một chuyến nữa về lấy rau, mâm nào lại về mâm ấy tiếp tục cuộc chiến đấu còn đang dang dở. Hai má ngồi nhai trầu bỏm bẻm nhìn đám lính trẻ đang nhồm nhoàm nhai, vẻ mặt đầy mãn nguyện.

Cơm nước xong xuôi thì bên công binh báo đã làm xong ngầm, lữ phó Tụ quyết định cho một xe xuống đi thử. Chiếc xe đã qua gần hết ngầm thì chết máy, nước vào động cơ đành nằm lại giữa sông. Để nó nằm đấy thì công binh không làm tiếp được, ông Tụ cho nối cáp vào để kéo xe lên và lệnh cho "xê Mười Một" khẩn trương khắc phục.

Nhìn những đoàn ô tô vẫn nối đuôi nhau qua cầu lữ phó Tụ càng sốt ruột, ông biết chắc chắn rằng cái ngầm này muốn để cho xe tăng qua được còn tốn nhiều công lắm, có nhanh thì cũng hết đêm nay mới xong. Lững thững đến sát đoạn cầu Mỹ bắc tạm ông thấy mỗi chiếc xe ô tô qua cây cầu tạm chỉ hơi võng xuống một tý, các chốt nối của cầu đều bằng những đoạn thép to gần bằng cổ chân nên khá chắc chắn. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nảy ra trong óc ông: "với kết cấu như thế này có thể cho xe tăng qua được!". Nghĩ là làm, Tụ cho gọi Thận lên:

- Xe 389 vẫn đi cùng đấy phải không?

- Vâng ạ! - Thận trả lời mà vẫn chưa hiểu tại sao.

- Anh gọi nó lên đây cho tôi.

- Để làm gì lữ phó? - Thận vẫn chưa hiểu.

- Thì để nó đi thử cái xem sao!

Thận đã hiểu ra: "Xe 389 là cái xe bị mảnh bom chém vào nòng pháo, các chuyên gia về vũ khí đều cho rằng nếu xe này mà bắn pháo thì nòng có thể bị gãy ở chỗ đó, vừa rồi trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng nó lại bị kẹt lại sau xe 382 ở Đường 73 nên chưa biết thực hư thế nào. Khi vào đến Đà Nẵng lữ đoàn vẫn quyết định cho đi, đến đâu hay đến đấy. Còn hôm nay chắc ông Tụ muốn thí tốt đây".

Thận chạy về chỗ đại đội nghỉ chân, anh bảo Tráng:

- Cậu cho xe lên đầu cầu gặp lữ phó Tụ!

Tiêu đề: Re: Hành trình đến Dinh Độc Lập - Truyện ký

Gửi bởi: dongadoan trong 24 Tháng Tư, 2009, 07:07:47 pm

Lái xe Nghị đang lơ mơ ngủ bị dựng dậy, mắt nhắm mắt mở nó đánh xe lên đầu cầu. Lữ phó Tụ đã đứng đó đợi, ông gọi Tráng và Nghị lên:

- Bây giờ các cậu trên xe xuống hết, chỉ một mình lái xe ở lại trên xe - Ông quay sang hỏi Nghị - Cậu có biết bơi không?

- Tôi bơi tốt! - Nghị trả lời.

- Vậy thì thế này nhé: cậu sẽ lái thử cái xe này qua cầu, cứ bình tĩnh, đi chân dầu thật êm, trước khi vào cầu phải căn hướng cho chính xác, đã vào cầu tạm rồi tuyệt đối không chuyển hướng nữa; nếu không may rơi xuống sông thì cứ bình tĩnh đợi cho nước tràn đầy vào xe thì bơi ra. Rõ chưa? - Ông nhìn như xoáy vào mắt Nghị.

- Rõ rồi ạ! - Nghị gật đầu ra ý hiểu.

- Nào, bắt đầu nhé!

Tráng gọi Trung, Thành xuống rồi đi bộ vượt sang bên kia cầu, Nghị vào xe nổ máy, Tụ cho người chặn xe hai đầu cầu lại rồi trực tiếp chỉ huy xe. Nghị cũng thấy hơi căng thẳng nhưng nó tặc lưỡi: "cùng lắm thì rơi xuống sông". Nghĩ vậy rồi nó thấy vững dạ hơn và nổ máy đưa xe vào cầu theo tín hiệu của lữ phó.

Quân lính hai tiểu đoàn, rồi đám công binh và người từ những chiếc xe bị chặn hai đầu cầu cùng dán mắt vào từng động tĩnh của xe 389.

Nó đã vào phần cầu chưa bị sập..., rồi nó từ từ bò lên nhịp cầu tạm..., những khung sắt nghiến rào rạo và oằn xuống. Nghị vẫn giữ chân dầu thật êm. Chiếc xe đã bám được băng xích vào mố cầu bên này rồi qua hẳn, nhịp cầu tạm lại vồng lên như cũ, tiếng vỗ tay lộp độp nổi lên.

Lữ phó Tụ quay lại nhắc hai tiểu đoàn trưởng:

- Về nhắc anh em lái xe: đi qua cầu phải thật nhẹ nhàng, không được chuyển hướng. Giao các anh đứng đây điều hành cho từng xe qua một, rõ chưa?

- Rõ! - Hai tiểu đoàn trưởng mặt tươi hơn hớn trả lời.

- Từ nay gặp cầu Mỹ cứ thế mà qua nhé! - Tụ cười hóm hỉnh, tất cả những người có mặt cùng cười theo.

Chỉ hai mươi phút sau hai tiểu đoàn xe tăng đã qua hết cầu.

Đường tốt, cầu sập đã có giải pháp nên tốc độ hành quân được đẩy lên rất cao. Thực ra hành quân như thế này chỉ cánh lái xe là vất vả, còn các thành phần khác đều tranh thủ nghỉ ngơi được - kể cả trưởng xe.

Con đường thiên lý cứ trải dài trước mắt, hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày, cứ vài chục cây lại nghỉ một chặng - tiếp nhiên liệu, ăn uống, nghỉ ngơi, kiểm tra kỹ thuật... Mấy tên lái xe có dịp gặp nhau lại đùa: "Không nhớ hôm qua, hôm kia mình ngủ vào lúc nào nhỉ?".

Đại đội Bốn là đơn vị đi cuối trong đội hình hành quân của lữ đoàn, trong đại đội thì xe 380 lại đi cuối cùng thành ra con "tuấn mã sứt môi" trở thành xe đi "chặn hậu". Ngay từ khi xuất phát từ Đà Nẵng Trang đã bảo Phượng và Luông:

- Các anh cứ yên tâm mà ngủ đi! Đường sá thế này sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu!

Quả có thế thật, với trình độ của đội ngũ lái xe trong đại đội thì điều kiện đường sá thế này chả có gì đáng lo cả, song cái mà đại đội phó Phượng lo nhất là tình trạng kỹ thuật của xe cộ. Sáu chiếc xe của đại đội anh là sáu chiếc T59 đã vào chiến trường từ năm bảy mốt, lại phải hành quân vượt Trường Sơn vào Tây Huế trong điều kiện độc lập. Những năm hoà bình sau Hiệp định Pa-ri cũng không được củng cố một cách cơ bản nên khó có thể tránh khỏi các sự cố trên chặng đường hành quân hàng nghìn cây số lần này. Dụng ý của anh lần này bố trí xe 380 chạy cuối đội hình là vì anh tin vào tình trạng kỹ thuật của nó, lại tin vào khả năng của Trang có thể giúp anh nhanh chóng khắc phục những hỏng hóc thông thường của các xe trong đại đội. Mấy năm làm trợ lý kỹ thuật tiểu đoàn và hơn hai năm làm đại đội phó kỹ thuật đại đội Bốn này anh đã hiểu tính nết, khả năng của từng xe cũng như của từng lái xe trong đại đội. Suốt từ hôm bắt đầu đi từ A Lưới, nhìn cánh lái xe lúc nào cũng tất bật, vất vưởng, mặt mũi hốc hác, hai mắt thâm quầng anh thương lắm nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ thỉnh thoảng nhảy vào lái đỡ chúng nó một đoạn.

Cái lo của Phượng không phải vô căn cứ, mới vào đến Bình Định xe 381 đã giở chứng đầu tiên - nó bị vỡ ống dầu. May mà Hùng kịp thời phát hiện ra chứ không chỉ chạy thêm vài phút nữa là "đi" luôn cái động cơ, mà đang hành quân thế này bị cháy động cơ chỉ có bỏ lại đấy cho bộ phận "thu dung" của "xê Mười Một". Xe 380 phải dừng lại để cùng khắc phục.

Đoạn đường này chạy ngay gần biển, hai bên đường toàn dừa. Xe vừa mới dừng Duyệt đã tranh thủ dân vận được mấy quả dừa tuy không to nhưng ngọt lịm. Từ xe 381 về Trang thấy Thọ đang nói chuyện rất thân mật với một trung niên có nước da đen bóng, nó chui vào buồng lái định tranh thủ ngủ một giấc thì Thọ chui vào theo và thì thầm:

- Nó gạ đổi dầu lấy cá, có đổi không?

Trang hơi ngại vì dù sao nhiên liệu cũng rất quan trọng nhưng nhớ đến bữa cá các má đãi ở Mộ Đức lại thấy thèm, anh gật:

- Cứ đổi đi! Dầu thì thiếu đếch gì, lấy ngay ở tổ ngoài ấy.

- Mày cứ ngủ đi để tao lấy cho - Thọ lục hòm dụng cụ lấy cờ lê tháo dầu.

- Nhưng nhớ kin kín một tý, đừng để ai trông thấy - Trang dặn với theo.

Lúc sửa xong xe 381, vừa về xe Phượng đã phát hiện ra ngay:

- Cá mú ở đâu mà tanh thế?

Thọ tỉnh bơ:

- Em với thằng Duyệt vừa dân vận được một ít - Thọ chỉ cái thùng 10 lít gần đầy cá nục - dân ở đây quý bộ đội lắm.

- Thế à! Trưa nay nhớ chia cho các xe kia ăn với! Còn bây giờ phải tăng tốc để đuổi đội hình Trang nhé!

*

Cuộc hành quân từ đấy diễn ra khá suôn sẻ, những sự cố kỹ thuật xảy ra cũng tương đối đơn giản và được khắc phục kịp thời. Đã qua hết đất Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà mà chưa có xe nào bị rớt lại. Cả một miền duyên hải đã trôi qua dưới hai băng xích, biết bao địa danh cảnh đẹp mê hồn như Đại Lãnh, Cam Ranh, Nha Trang, Mũi Né... mà nào có được dừng lại để thưởng thức, chỉ có "sáng kiến" đổi dầu lấy cá được áp dụng luôn nên bữa nào cũng có cá ăn.

Đêm qua Phan Rang trời sáng trăng vằng vặc, những ngọn Tháp Chàm trầm mặc và đầy huyền bí dưới trăng cũng không che lấp được những dấu tích của một trận đánh vô cùng ác liệt đã diễn ra trước đó mấy ngày: nhiều hố bom trúng giữa mặt đường vẫn chưa kịp lấp, đó đây rải rác xác lính ngụy chết chưa được chôn cất đã bắt đầu bốc mùi, những chiếc xe tăng cả của địch và ta cháy ngổn ngang.... Nghe nói tiểu đoàn Bốn, tiểu đoàn Năm đã đánh nhau ở đây dữ dội lắm, có mấy xe bị cháy và Cát "thợ săn" đã hy sinh - nó mới chuyển sang đại đội Ba hồi đầu năm. Nghe tin Cát chết ai cũng thương, cái thằng vừa chịu khó lại hiền như đất, ai trêu chọc gì cũng chỉ nhe răng cười, cứ vài hôm lại lầm lũi một mình vác súng vào rừng đi săn, thú rừng cũng bắn mà lợn nhà cũng bắn...

Nhìn quang cảnh khốc liệt của chiến trường ai cũng hiểu sẽ chẳng dễ dàng gì trong cuộc chiến đấu sắp tới, kẻ địch đã cùng đường và ai biết được chúng sẽ giở những ngón đòn hiểm độc nào nữa đây để đối phó với họ.

Ngày 23 tháng 4 năm 1975 đội hình hành quân của lữ đoàn 203 đã đến Rừng Lá. Đây là một địa điểm nằm ở phía Nam Phan Thiết, ngay trước mặt đã là Xuân Lộc. Từ đây đến Sài Gòn cũng chẳng còn bao xa nữa.

Sau gần nửa tháng hành quân liên tục trên chặng đường ngót nghìn cây số mà không thấy ai kêu rằng mình quá mệt. Ngay cả cánh lái xe, suốt chặng đường dài vừa qua mỗi ngày chỉ được ngủ ba, bốn tiếng đồng hồ, cái mặt thì quắt đi, đôi mắt thì đỏ ngầu nhưng bộ dạng cứ tươi hơn hớn. Có gì lạ đâu: suốt mấy năm qua đơn vị họ đã ăn chờ nằm chực trên rừng, bao khát vọng đã dồn nén trong tâm can họ. Vì vậy ngay từ khi nhận lệnh rời hậu cứ đi chiến đấu họ đã như được chắp cánh bay, niềm phấn khích được tham gia chiến đấu đã giúp họ chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ và những mệt mỏi thường ngày. Mới chỉ một tháng trôi qua họ đã cùng những con chiến mã trung thành tung hoành trên đất Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng; rồi lại rong ruổi trên những nẻo đường dằng dặc miền Trung cho đến hôm nay đã ở cửa ngõ "miền Đông gian lao mà anh dũng". Mỗi một vòng xích lăn họ lại biết thêm một vùng đất mới, những địa danh mà trước đây họ chỉ được biết đến trong sách vở. Tầm mắt họ như được mở rộng thêm và trái tim họ cũng đập nhanh hơn khi cái đích cuối cùng của cuộc hành quân đang ngày một đến gần. Niềm phấn khích càng lên cao khi ai cũng biết rằng chỉ ngày một, ngày hai nữa họ sẽ bước vào trận đánh cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ suốt mấy chục năm của toàn dân tộc. Có thể đó sẽ là trận đánh vô cùng ác liệt, có thể chính họ sẽ ngã xuống ở đó nhưng ai cũng tin rằng thắng lợi cuối cùng rồi sẽ đến.

*

Đưa được đủ sáu xe của đại đội có mặt ở Rừng Lá, Phượng mừng ra mặt. Tại đây toàn đơn vị tổ chức củng cố về mặt kỹ thuật để chuẩn bị tham gia chiến đấu.

Ngay phía trước là Xuân Lộc - cánh cửa thép trên tuyến phòng thủ Sài Gòn - theo cách gọi của đài Sài Gòn lúc đó. Những tin tức truyền về cho biết cuộc chiến đấu ở đó vô cùng ác liệt và đã kéo dài hàng chục ngày mà ta vẫn chưa vượt qua được. Cánh "tham mưu con" ngồi bàn tán với nhau đoán già đoán non là 203 sẽ được tung vào tiến công Xuân Lộc để dứt điểm cánh cửa thép này.

Nhưng không phải vậy, toàn quân đoàn đã đột ngột bỏ đường Một để di chuyển xuống phía Bà Rịa - Vũng Tàu hình thành nên mũi tiến công phía Đông vào nội đô Sài Gòn.

Gần đến lúc xuất phát thì lại xảy ra sự cố: xe 386 của "đại trưởng" Thận đột ngột không chuyển hướng được vì ly hợp chuyển hướng bị hỏng, Phượng và tất cả số lái xe trong đại đội tập trung khắc phục nhưng không đủ điều kiện vì không có cẩu và cũng không có khí tài dự trữ.

Nghe Phượng báo "không thể khắc phục được", Thận lập tức lên báo cáo tiểu đoàn, tình hình trên nhanh chóng được phản ánh lên Ban chỉ huy lữ đoàn. Không thể để cho một đại đội đã tham gia chiến đấu từ Huế vào đến đây mà chỉ có năm xe và không có xe "đại trưởng", lữ đoàn đã quyết định điều xe 843 của đại đội Năm tiểu đoàn Hai bổ sung cho đại đội Bốn. Đúng lúc ấy Hùng "bò liếm" lái xe 381 cũng lên cơn sốt rét đùng đùng.

Thận triệu tập cán bộ lên hội ý và quyết định:

- Xe 386 phải để lại đây cho bộ phận "thu dung" của lữ đoàn đến giải quyết sau, ta sẽ cho đồng chí Dênh và đồng chí Chỉnh ở lại trông nom; đồng chí Hoả cùng tôi sang lái xe 843. Như vậy xe 843 sẽ gồm tôi, lái xe Lữ Văn Hoả, pháo thủ Thái Bá Minh và pháo hai Nguyễn Văn Kỷ. Riêng đồng chí Hồng lái xe 843 tạm thời về lái xe 381 thay đồng chí Hùng bị ốm.

Không ai có ý kiến gì, tất cả đều đang nóng lòng làm công tác chuẩn bị để lên đường xuống phía đông.

Ngày 24 toàn lữ đoàn xuất phát, Dênh và Chỉnh đứng lặng nhìn theo, mắt hai thằng ầng ậng nước chỉ chực trào ra.

Từ lúc rời khỏi đường Một hầu như đoàn xe tăng toàn chạy theo những con đường phân lô trong những cánh rừng cao su không biết đã được trinh sát từ bao giờ. Đất miền Đông màu mỡ nuôi những cánh rừng cao su xanh tốt bạt ngàn tưởng chừng không bao giờ đi hết. Nhìn những lô cao su bát ngát và bằng phẳng Thận thầm nghĩ: "Địa hình này mà tác chiến xe tăng thì thật tuyệt vời".

Sau hơn một ngày đêm chạy dưới tán rừng cao su, đêm 25 tháng 4 toàn lữ đoàn đã đến khu vực đồn điền Ông Quế. Đây chính là vị trí tập kết trước chiến đấu của lữ đoàn. Nghe nói đây chỉ cách Sài Gòn chưa đầy một trăm cây số, ai nấy háo hức lắm.

Đại đội Bốn giấu quân ở bìa một lô cao su non mới cao quá đầu người. Thực ra với không quân ngụy bây giờ thì vấn đề giữ bí mật khu trú quân không nặng nề cho lắm nhưng Thận vẫn yêu cầu các xe cho xe rúc sâu vào những khoảnh rừng non vẫn còn lác đác ven lô cao su, vấn đề nấu nướng cũng vẫn phải cẩn thận theo đúng quy tắc giữ bí mật.

Ngay sáng hôm sau Thận được triệu tập đi nhận nhiệm vụ, vừa về đến đại đội anh đã cho gọi tất cả cán bộ từ trưởng xe trở lên đến nghe phổ biến tình hình. Với vẻ mặt đầy phấn khích Thận nhấn mạnh từng lời:

- Báo cáo toàn thể các đồng chí! Tôi vừa đi nhận nhiệm vụ ở trên lữ đoàn về xin phổ biến với các đồng chí một số vấn đề sau. Trước hết xin thông báo với các đồng chí trên đã quyết định đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn này là Chiến dịch Hồ Chí Minh, sẽ có năm cánh quân cùng tiến công vào Sài Gòn, chúng ta là cánh quân phía Đông. Nhiệm vụ của lữ đoàn ta là sử dụng tiểu đoàn Hai tăng cường cho các đơn vị bộ binh đánh tiêu diệt các cứ điểm phòng ngự vòng ngoài, còn đại bộ phận lữ đoàn sẽ đi đầu làm lực lượng thọc sâu vào nội đô với mục tiêu chủ yếu là Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Đại đội ta cũng nằm trong lực lượng thọc sâu đó. Trước mắt đề nghị các đồng chí tổ chức cho anh em làm công tác chuẩn bị mọi mặt, đảm bảo khi có lệnh là bước vào chiến đấu được ngay.

Sau khi chính trị viên Toàn phổ biến một số biện pháp giáo dục tư tưởng cho bộ đội trước khi bước vào chiến dịch và đại đội phó Phượng nêu một số yêu cầu về mặt kỹ thuật thì Trị có ý kiến:

- Tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của các đồng chí. Tuy nhiên có một vấn đề mà ta hết sức phải quan tâm là thành phố Sài Gòn rất rộng lớn, ta lại không được đi trinh sát trước nên đề nghị "đại trưởng" xin trên một cái bản đồ về cho anh em nghiên cứu trước đi, tránh tình trạng vào thành phố không biết đường nào mà đi.

Đến lúc này Thận mới giở cái bọc anh vẫn ôm khư khư từ lúc về và cười:

- Bản đồ quân sự Sài Gòn thì không có nhưng bản đồ du lịch thì có đấy!

Thận lấy trong bọc ra những túi ni lông nhỏ, trong mỗi túi có một bao thuốc lá, một bánh xà phòng thơm, một cái khăn mặt và một cuốn sổ tay nhỏ đưa cho mọi người và tiếp:

- Đây là quà của Hội sinh viên Sài Gòn gửi tặng bộ đội ta, trong cuốn sổ tay này có một tấm bản đồ du lịch loại nhỏ. Thôi thì không có bản đồ chính quy ta dùng tạm cái này cũng được - Anh mở tấm bản đồ bằng tờ giấy học sinh ra - Các anh cũng giở bản đồ ra đi. Thế này nhé, ta sẽ tiến công vào Sài Gòn theo xa lộ, sau khi qua cầu Sài Gòn sẽ đến cầu Thị Nghè, từ đó vào cứ đi thẳng theo đường Hồng Thập Tự đến ngã tư thứ bảy thì rẽ trái là đến Dinh Độc Lập.

Thấy mọi người vẫn tần ngần, mảnh bản đồ quá nhỏ và sơ lược, Toàn nhắc:

- Tạm thời cứ như vậy đã, vào trong ấy nếu cần tìm dân mà hỏi. Còn bây giờ thì về chuẩn bị đi đã.

Chiều hôm đó đại đội Bốn vẫn nằm nguyên vị trí tại đồn điền Ông Quế, tầm 5 giờ chiều thấy vọng về tiếng pháo lớn từ hướng Nam, Thận bảo với mấy anh em trong xe:

- Chiến dịch bắt đầu nổ súng rồi đấy!

Gần trưa ngày 27 một chiếc xe Jeep ào tới vị trí trú quân của đại đội, đồng chí sĩ quan tác chiến lữ đoàn nhảy xuống xe. Thận vội đứng dậy lại gần, người sĩ quan tác chiến nói ngay:

- Lữ đoàn lệnh cho đại đội Bốn các anh cho một xe đi làm nhiệm vụ ngay!

- Sao lại chỉ một xe? Mà anh có thể cho biết nhiệm vụ gì được không? - Thận hỏi lại.

- Anh cứ thực hiện đi! Nhiệm vụ gì đến nơi khắc biết, tôi sẽ để lại một đồng chí trinh sát để dẫn đường. Còn bây giờ tôi phải về ngay - người sĩ quan tác chiến tỏ ra hết sức vội vã.

- Thôi được! Anh cứ về đi! Chúng tôi hội ý một lát rồi sẽ cử ngay.

Thận chạy vội sang xe 390, bên ấy đang chuẩn bị ăn cơm, anh nhắc lại lệnh của lữ đoàn rồi hỏi Toàn:

- Theo anh ta nên cử xe nào?

- Đại đội chỉ còn sáu xe, trong đó bốn xe là xe cán bộ, chỉ còn 380 và 382 anh cử cái nào thì cử - Toàn phân vân.

- Hiện tại chưa biết đi làm nhiệm vụ gì, chỉ biết là có một xe nên mình phải chọn "thằng" nào vững vững một tý. Vì vậy theo tôi ta cử "thằng" 380 đi, dù sao nó cũng đã trải qua chiến đấu ở Huế và Đà Nẵng rồi nên có kinh nghiệm hơn.

- Tôi đồng ý! - Toàn gật đầu.

Thận bảo Nguyên chạy đi gọi Luông, mấy phút sau trưởng xe 380 đã có mặt; vỗ vai Luông Thận bảo:

- Lữ đoàn yêu cầu ta đưa một xe đi làm nhiệm vụ; tôi với anh Toàn đã trao đổi với nhau là chọn xe 380 đi. Bây giờ cậu về động viên anh em chuẩn bị lên đường ngay, có trinh sát của lữ đoàn dẫn đường kia rồi - Anh chỉ về phía người chiến sĩ trinh sát đang đứng đợi.

- Nhưng làm nhiệm vụ gì hả "đại trưởng"? - Luông hỏi.

- Thực ra tớ cũng không rõ lắm! Hình như các cậu phải đến chốt giữ một cây cầu hay một đoạn đường nào đó thì phải.

Luông và người chiến sĩ trinh sát cùng trở lại xe, Duyệt đã nấu cơm xong đang gọi mọi người đến ăn. Thấy người trinh sát có vẻ nóng ruột Luông hỏi:

- Đi có xa không?

- Cũng không xa lắm! Khoảng gần một tiếng thôi.

- Thế thì đi đã! Đến đó rồi ăn! - Luông quyết định.

Duyệt bê nồi cơm nóng ủ vào tấm bạt rồi đổ cả nồi canh vào cái bi đông xe, Trang bảo người trinh sát ngồi lên bên cạnh cửa xe để dẫn đường; nó nổ máy chạy theo con đường lô cao su, đất đỏ ba-dan đã bị những bánh xích xe đi trước nghiền thành bụi giờ bốc lên mù mịt. Đến An Viễn thì Luông và cả xe mới biết: sau khi đánh Trường Thiết giáp tương đối thuận lợi đại đội Năm đã cùng bộ binh tiến công căn cứ Nước Trong để tiến ra Ngã ba Thái Lan thì gặp khó khăn, bị tổn thất nặng hiện chỉ còn ba xe, xe đại đội trưởng cháy, đại đội trưởng cũng hy sinh... và xe 380 được điều lên bổ sung cho đại đội Năm tiếp tục đánh Nước Trong. Người ra đón chúng không phải ai khác - đó chính là Hoà Râu, trợ lý tác chiến tiểu đoàn - nguyên trưởng xe 380 nay được cử xuống phụ trách đại đội trưởng đại đội Năm, vẫn cái miệng rộng đầy râu cười rất tươi:

- Lại gặp các chú mày, đúng là quả đất tròn!

Cử xe 380 đi rồi Thận vẫn thấy trong lòng có gì đó bất an, linh tính mách bảo anh sẽ có chuyện xảy ra đối với xe này. Nghĩ cũng thương chúng nó, đang ở cùng đại đội nay lại rút ra đi làm nhiệm vụ một mình, vì thế anh thấy hơi lo lo.

Suốt buổi sáng ngày 28 vẫn thấy những tiếng pháo lớn vọng về, nghe tiếng pháo Thận có thể đoán được đâu là tiếng pháo tăng, đâu là tiếng pháo mặt đất - pháo 100 ly trên tăng là loại pháo bắn thẳng nên tiếng nổ thường đanh hơn các loại pháo khác; anh đoán trận chiến đấu đang diễn ra rất ác liệt.

Đúng là như vậy, sáng 28 xe 380 đã cùng ba xe còn lại của đại đội Năm tiến công căn cứ Nước Trong. Tại cổng Trường Thiết giáp Long Thành đơn vị bộ binh mà họ đến phối thuộc cho biết: "Bọn địch lợi dụng rừng cao su để giấu xe tăng và hệ thống công sự ở bìa rừng để chống cự quyết liệt, từ hôm qua đến nay sau khi xe tăng rút về phía sau để củng cố bọn chúng đã đẩy lùi được bộ binh ta về phía sau một ít. Hiện tại bộ binh vẫn trụ lại ở phía trước và chờ xe tăng lên sẽ cùng tiến công".

Luông gọi mấy anh em trèo lên cái bờ luỹ bên đường quan sát, cái đầu tiên đập vào mắt mấy tên là xác một chiếc xe tăng của ta bị cháy đen thui ở ngay trước mặt, anh Hoà bảo:

- Xe đại đội trưởng đấy, vừa lên đến đây đã bị bắn cháy!

Nằm ngay trên đường nhựa - con đường từ Trường Thiết giáp ra Ngã ba Thái Lan - là một chiếc xe bọc thép K63, nghe nói nó bị đạn xuyên vào trong làm bị thương gần hết số trinh sát trong xe và hỏng động cơ nhưng không bị cháy; chếch về bên trái là chiếc xe mang số 703, xe này cũng bị một viên đạn chống tăng làm lái xe và pháo thủ bị thương nhưng viên đạn không trúng chỗ hiểm nên cũng không cháy... Nhìn về phía xa những lô cao su bạt ngàn nối tiếp nhau, xen kẽ vào đó là những trảng cỏ Mỹ - loại cỏ tốt ngập đầu người - làm cho việc quan sát mục tiêu hết sức khó khăn, Luông dặn Thọ phải quan sát kỹ phát hiện chính xác mục tiêu rồi mới bắn để tiết kiệm đạn.

Sau khi có lệnh xung phong Trang tăng tốc độ chạy theo con đường nhựa một quãng rồi tản ra thành đội hình hàng ngang, anh lợi dụng các hõm đất, lùm cây và tiến một cách thận trọng để Thọ có thể quan sát và bắn được. Không biết trận địa đặt ở đâu mà pháo địch bắn dữ dội vào đội hình xung phong của xe tăng, nhìn những cụm khói xuất hiện dày đặc phía trước xe, Trang nghĩ: "Pháo thế này thì bộ binh chịu sao nổi".

Thấy khó quan sát Trang tăng tốc cho xe trườn ra đám cỏ Mỹ, ở đây dễ quan sát hơn nhưng cũng dễ bị phát hiện hơn. Thọ đã nhìn thấy một số công sự, anh luôn miệng giục Duyệt nạp đạn nổ và bắn liền sáu phát, mấy cái công sự bung lên, bóng một vài tên mặc rằn ri nhao vào rừng, pháo địch lại trùm lên vị trí xe đỗ.

Ba xe của đại đội Năm chạy hơi lùi về phía sau, họ bắn liên tục vào rừng cao su, Luông lẩm bẩm:

- Quái lạ! Cái bọn này nó bắn không cần ngắm hay sao ấy!

Trang cho xe luồn vào vườn điều để chờ mấy xe phía sau tiến lên ngang hàng, chắc đã mất mục tiêu nên không thấy pháo giội nữa. Duyệt tranh thủ đội cửa pháo hai chui lên hẳn trên đỉnh tháp pháo để quan sát cho rõ hơn, nó bảo:

- Trong rừng cao su có mấy cái xe tăng thì phải, nhưng mắt thường khó nhìn lắm!

Đúng lúc ấy Luông nghe trên đài tiếng Hoà Râu:

- 50 gọi 02! 50 đã hết đạn, dầu cũng gần hết, xin phép về phía sau để bổ sung!

Trên sở chỉ huy chưa kịp trả lời lại thấy tiếng Hoà đề nghị tiếp, Luông lẩm bẩm: "Mẹ kiếp! Bắn cứ như đổ đạn vào rừng ấy thì làm gì mà chẳng hết". Chợt Luông thấy sở chỉ huy gọi mình:

- 02 gọi 80! Tình hình 80 thế nào, báo cáo!

Ngẫm nghĩ một lát Luông mới trả lời:

- 80 gọi 02! 80 báo cáo: dầu còn nhiều, đạn còn hơn 20 viên! Báo cáo hết!

Trên sở chỉ huy lắng đi một lúc, chắc là có sự trao đổi gì đó rồi giọng ông Toàn tiểu đoàn trưởng rành rẽ:

- 02 gọi 50! Để 80 ở lại hiệp đồng cùng bộ binh giữ vững trận địa, các xe hết dầu, hết đạn cho về phía sau bổ sung. Nhận đủ trả lời!

Tiếng Hoà Râu trả lời rõ nhanh:

- 50 nhận đủ! 50 gọi 80! 80 ở lại hiệp đồng với bộ binh giữ vững trận địa! Nhận đủ, trả lời!

Luông tức lắm nhưng vẫn phải đồng ý:

- 80 nhận đủ!

Luông bảo Trang tắt máy, anh phổ biến tình hình chung và bảo:

- Bây giờ còn mỗi xe mình ở đây thôi đấy! Ba xe kia rút về phía sau hết rồi! Phải xem bộ binh ở đâu để bắt liên lạc với họ.

- Bộ binh ở mãi đằng sau kia kìa, chỗ tôi dừng cho một tay lên xe ấy! - Trang giãy nảy lên.

Luông quay kính trưởng xe nhìn, đúng là xe anh đã tiến vượt bộ binh một quãng xa, Trang bảo:

- Cứ yên tâm! Mình đang ở trong vườn điều nó không thấy gì đâu, giờ tôi sẽ cho xe lùi lại một ít cho gần với bộ binh vậy!

Trang nổ máy lùi một đoạn, thấy có một hõm đất anh cho xe xuống.

Dường như cả hai bên đã quá mệt mỏi nên chiến trường im ắng hẳn, chỉ thỉnh thoảng một vài quả đạn pháo bắn cầm canh vào trận địa của bộ binh. Luông bảo cả xe tranh thủ ăn trưa. Nhắc đến ăn cả bọn mới thấy đói, từ hôm qua đến giờ có ăn uống gì đâu. Thế là mỗi tên bóc một bánh lương khô ra ăn nhỏ nhẻ, đói nhưng khó nuốt quá.

Đã quá trưa, sốt ruột Duyệt lại đội cửa đứng lên tháp pháo quan sát, vừa nhỏm dậy hắn đã vội thụp xuống:

- Phía trước có mấy chiếc xe tăng đang chạy!

Luông vội quay kính trưởng xe về phía Duyệt chỉ nhưng không thấy gì vì xe đỗ hơi thấp, hắn bảo Trang:

- Cho xe lên chỗ cao hơn đi!

Trang nổ máy, nó cho xe tiến lên một đám đất cao, từ đây Luông đã nhìn thấy một đoàn xe tăng chạy từ phía Vũng Tàu lên, anh đoán: "chắc bọn ở phía Vũng Tàu rút về tăng cường cho bọn ở đây" và hạ lệnh:

- Thọ! Bắn đi!

Mãi không thấy Thọ bắn, Luông quát:

- Sao không bắn đi?

- Hình như cờ Giải phóng anh ạ! - Thọ trả lời.

Luông lại dán mắt vào kính trưởng xe, anh cũng thấy hơi phân vân, tuy nhiên khoảng cách quá xa nên không thể phân biệt được, cuối cùng Luông quyết định:

- Đằng ấy không thể có xe tăng ta được, cứ bắn đi!

Thọ chỉnh lại đường ngắm rồi bóp cò, anh giục Duyệt lắp tiếp viên đạn nữa thì một tiếng nổ chát chúa vang lên, buồng chiến đấu mù mịt khói, cả xe lịm đi.

Pháo thủ Thọ là người tỉnh lại đầu tiên, anh hốt hoảng: ngay sau anh Luông gục đầu trên đài vô tuyến điện; bên kia Duyệt ngồi dựa vào thành xe, mặt mũi bê bết máu; phía trước Trang cũng gục đầu vào kính lái, cửa lái xe bị sức ép bật ra mở toang. Thọ vội đạp vào lưng Trang, anh từ từ quay đầu lại, đôi mắt đờ đẫn như người say thuốc lào. Thọ hét:

- Luông với Duyệt bị thương rồi!

Trang tỉnh hẳn lại, anh nhoài người nhìn ra phía sau. Thấy Duyệt và Luông bị thương quá nặng Trang quyết định: "Phải nhanh chóng đưa Luông và Duyệt về phía sau cấp cứu". Anh nổ máy chạy về Trường Thiết giáp - nơi sáng nay anh đã nhìn thấy có lá cờ của Trạm quân y.

Đưa Luông và Duyệt xuống giao cho trạm quân y Thọ và Trang mới ra xem lại xe: xe của họ bị trúng một quả đạn pháo cỡ lớn làm thủng chóp quạt gió trên tháp pháo, khẩu 12,7 ly đã bị bay đi mất, khẩu đại liên K53 bẹp rúm, pháo cũng bị kẹt cứng không quay được, mấy cái ba lô buộc ngoài tháp pháo cũng mất tiêu. Riêng đối với Trang còn đau hơn vì cuốn sổ tay "bất ly thân" trong ba lô cũng bị bay mất.

Nhớ lại Duyệt có cái ba lô dúi sâu trong vành tháp pháo hai anh em móc ra định đem vào Trạm quân y cho cậu ta. Nhưng vừa mở nắp ba lô ra cả hai đều sững sờ: trong ba lô chỉ có một cái võng bạt đã cũ, còn lại toàn là sách, những cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp dày cộp.

Thọ rưng rưng:

- Thế mà hôm thấy nó dúi vào đây mình cứ tưởng có gì quý lắm.

Hai tên vội vàng mang cái võng vào chỗ Duyệt. Duyệt đang nằm thiêm thiếp như ngủ. Những vết máu trên mặt, trên người Duyệt đã được lau sạch. Một vòng băng trắng cuốn quanh đầu kéo xuống bả vai và cánh tay trái. Nhưng khuôn mặt thư sinh của anh lại thanh thản vô cùng.

Tại sở chỉ huy lữ đoàn, lữ trưởng Nguyễn Tất Tài đi đi lại lại vẻ rất sốt ruột. Như vậy là cái căn cứ Nước Trong này đã kìm chân quân ta hai ngày trời, nó đã làm một đại đội của ông gần như bị xoá sổ, bổ sung lên cho một xe nay cũng lại bị thương. Tài gọi lữ phó Tụ lại hỏi:

- "Thằng xê Năm" coi như bị xoá sổ rồi mà chưa thông qua được Nước Trong, ông tính sao đây?

- Phải tung hẳn một đại đội lên đánh chứ cứ bổ sung nhỏ giọt thế này thì lên cái nào chết cái đó thôi - Tụ trả lời.

- Tôi đồng ý với ông, nhưng đưa "thằng" nào lên bây giờ?

- Theo tôi tốt nhất là "xê Bốn", nó là "thằng" thiện chiến hơn cả - Tụ nói chắc như "đinh đóng cột".

- Được! Ông cho truyền đạt mệnh lệnh đi, điều "xê Bốn" lên Trường Thiết giáp bắt liên lạc với 304, quân đoàn chỉ thị nửa đêm nay là nổ súng tiến công đấy - Tài hất đầu.

- Rõ! - Tụ rảo bước ra ngoài.

Nghĩ đi nghĩ lại một lát lữ phó Tụ quyết định sẽ trực tiếp xuống giao nhiệm vụ cho "xê Bốn' chứ không dùng sĩ quan tác chiến đi truyền đạt nữa. Ông vẫy người lái chiếc xe Jeep của Phòng Tham mưu lại, hai thầy trò phóng như bay xuống vị trí trú quân của đại đội Bốn.

Người lái xe đã đến đây hôm qua nên nhanh chóng tìm được vị trí đỗ xe của đại đội trưởng Thận, vừa xuống xe Tụ đã hất hàm hỏi một cách thân tình:

- Thế nào? "Xê Bốn" vẫn đánh nhau được chứ?

- Thủ trưởng chỉ hay đùa, "xê Bốn" lúc nào chả sẵn sàng! - Thận cũng thân mật đáp lời.

Từ hồi trở về đội hình lữ đoàn lúc nào lữ phó Tụ cũng rất quan tâm đến "xê Bốn", lý do cũng đơn giản vì so với những đơn vị khác thì nó vất vả nhất. Từ lữ đoàn tách ra độc lập chiến đấu ở Đường 12, những năm sau Hiệp định Pa-ri nó vẫn phải nằm trong A Lưới cách lữ đoàn những hơn hai trăm cây số.

- Ừ! Thế thì có nhiệm vụ cho các cậu đây! Cậu cho gọi cả cậu Toàn lên đây nghe luôn.

- Vâng ạ! - Quay ra sau Thận bảo - Kỷ sang xe 390 gọi anh Toàn sang đây ngay.

Mở tấm bản đồ quân sự trải lên nắp hòm dụng cụ Tụ đứng trầm ngâm suy nghĩ, mắt như dán vào một điểm trên bản đồ. Thấy Toàn đến ông đưa tay ra bắt và vào ngay vấn đề:

- Trước hết nói sơ qua về tình hình để các cậu nắm được - Ông chỉ tay vào một điểm trên bản đồ - Lữ đoàn ta đã bước vào chiến đấu từ chiều tối ngày 26, các đơn vị của tiểu đoàn Hai phối thuộc cho bộ binh có nhiệm vụ đánh bóc vỏ. Nhìn chung lúc đầu khá thuận lợi, trên hướng chính đã chiếm được Trường Thiết giáp ngay trong đêm. Nhưng khi ta phát triển ra Ngã ba Thái Lan thì gặp khó khăn, địch đã thiết lập một phòng tuyến khá vững chắc ở khu vực Nước Trong. Thằng "xê Năm" đã thiệt hại mất bốn xe ở đây, ngày hôm qua lấy thêm của các cậu cái 380 lên tăng cường nhưng nó cũng bị thương rồi, trưởng xe Nguyễn Đình Luông bị thương, pháo hai Nguyễn Kim Duyệt đã hy sinh, pháo súng bị hỏng cả, hai thằng còn lại cũng bị thương nhẹ. Vì vậy Ban chỉ huy lữ đoàn quyết định chọn "xê Bốn" các cậu làm nhiệm vụ đột phá Nước Trong để mở đường cho quân đoàn tiến về Sài Gòn. Các cậu có làm được không?

Thận nhìn sang Toàn, gương mặt người chính trị viên vẫn điềm đạm như thường lệ, anh liền trả lời:

- Các thủ trưởng đã tin tưởng thì chúng tôi quyết tâm thôi.

- Vậy thì cụ thể thế này nhé - Tụ giơ tay xem đồng hồ - Bây giờ là 16 giờ 30, trước 20 giờ các cậu phải có mặt tại khu vực Trường Thiết giáp, đến đó khẩn trương bắt liên lạc với sư 304, có nhiều khả năng nửa đêm nay sẽ nổ súng đấy. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ "xê Bốn" các cậu sẽ về làm dự bị cho lữ đoàn. Nhiệm vụ thế các cậu rõ cả chưa?

- Rõ! - Cả Thận và Toàn cùng trả lời.

- Các cậu nên nhớ "thằng xê Năm" đã hai lần "húc" vào đấy và cũng hai lần ôm đầu máu trở về! - Tụ đưa tay thọc vào sườn Thận - Nếu ngày mai mà các cậu cũng ôm đầu máu quay về thì người đầu tiên tôi bắn là cậu đấy.

- Tôi có chết cũng chết vì đạn địch chứ không chết vì đạn của thủ trưởng đâu - Thận cũng giở giọng đùa cợt trả lời.

- Nói vậy thôi, chỗ đó "rắn" đấy, tớ với anh Tài cũng phải bàn bạc mãi mới quyết định đưa "xê Bốn" lên đánh vì tin vào các cậu. Cố gắng lên nhé! - Tụ đưa tay ra bắt tay Thận và Toàn - Tớ đi trước đây!

- Thủ trưởng cứ yên tâm! - Toàn điềm đạm trả lời.

Tụ đi rồi Thận quay sang Toàn:

- Bây giờ mình cho anh em ăn chiều đi đã, sau đó cơ động lên Trường Thiết giáp còn sớm chán; đến đó ta sẽ tranh thủ trinh sát nắm tình hình và thống nhất phương án sau. Anh thấy thế nào?

- Tôi nhất trí!

- Thế thì anh về ăn cơm đi! - Quay về phía xe Thận gọi - Kỷ đâu! Đi báo cho các xe ăn cơm chiều, 17 giờ 30 xuất phát.

Từ đồn điền Ông Quế đến Trường Thiết giáp cũng không xa lắm nên chưa đến 20 giờ đại đội Bốn đã có mặt theo quy định, lữ phó Tụ đã đón ở đó. Thận cho anh em tạm nghỉ còn anh theo Tụ tìm vào sở chỉ huy sư đoàn 304. Khi biết hai anh bên xe tăng đến phối thuộc đồng chí sư trưởng vồn vã:

- Mời các đồng chí ngồi đợi một lát để tôi gọi Phòng tham mưu lên ta sẽ trao đổi luôn - Anh gọi cậu công vụ - Sang tham mưu mời tham mưu trưởng và trưởng ban tác chiến lên ngay chỗ tôi nhé!

Quay lại chỗ Tụ và Thận anh phàn nàn:

- Gay quá các anh ạ, hai ngày rồi mà không vượt qua được chỗ này, bên tôi thương vong cũng nhiều, xe tăng cũng mất mấy cái. Vì vậy, hôm nay ta phải bàn kỹ về cách đánh một chút.

- Nhất trí! - Cả Tụ và Thận đều đồng tình.

Các thành phần có mặt đủ, đồng chí sư trưởng giới thiệu Tụ, Thận và nêu vắn tắt về nhiệm vụ quân đoàn đặt ra, sau đó yêu cầu tham mưu trưởng báo cáo tình hình. Tay cầm chiếc đèn pin chiếu vào tấm bản đồ quân sự treo trên tường tham mưu trưởng sư đoàn dằn từng tiếng:

- Báo cáo sư trưởng và các đồng chí! Trước hết tôi xin báo cáo về tình hình địch: về lực lượng có dấu hiệu chúng được bổ sung một số tàn quân từ Bà Rịa, Long Thành chạy lên nhập bọn, trong đó có một số xe tăng được giấu ở bìa rừng cao su. Về vị trí vẫn nguyên như trưa nay sau trận tiến công không thành của ta. Chiều nay chúng vẫn tiếp tục củng cố công sự và pháo binh vẫn tiếp tục bắn cầm canh vào trận địa phòng ngự của ta. Về phía ta trung đoàn Chín đã được bổ sung thêm quân và vẫn tiếp tục trụ lại giữ vững trận địa, anh em đã được ăn tối và bổ sung đầy đủ đạn dược. Chúng tôi dự kiến 24 giờ hôm nay sẽ nổ súng tiến công để tạo yếu tố bất ngờ. Về cách đánh đề nghị xe tăng nhanh chóng xung phong vượt lên trước dẫn dắt bộ binh. Báo cáo hết!

- Xin ý kiến các đồng chí! - Sư trưởng chìa tay.

Tụ ghé tai Thận trao đổi gì đó rồi Thận giơ tay:

- Tôi có ý kiến! Đại đội chúng tôi vừa mới cơ động đến đây, tình hình địch thì mới chỉ được nghe các đồng chí thông báo, còn tình hình địa hình thì hoàn toàn chưa nắm được. Ngoài ra pháo xe tăng là loại pháo bắn ngắm trực tiếp, nếu đánh ban đêm sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy tôi đề nghị lùi thời gian tiến công sang rạng sáng ngày mai, như vậy một mặt phát huy tốt hơn hoả lực xe tăng, một mặt chúng tôi cũng có thêm thời gian để trinh sát thực địa. Hết ý kiến!

Mấy cán bộ bộ binh chụm đầu bàn bạc sôi nổi, cuối cùng sư trưởng kết luận:

- Tôi đồng ý với ý kiến phía các đồng chí xe tăng, đúng 5 giờ sáng mai ta sẽ bắt đầu nổ súng. Từ giờ đến lúc đó đồng chí tham mưu trưởng truyền đạt mệnh lệnh cho trung đoàn Chín và yêu cầu anh em giữ vững trận địa, khi nào xe tăng vượt qua sẽ xung phong. Các đồng chí rõ cả chưa? - Thấy không ai nói gì anh tiếp - Nếu không có vấn đề gì mời các đồng chí nghỉ!

Rời khỏi sở chỉ huy sư đoàn 304, Thận và Tụ vừa đi vừa trao đổi, Tụ thông báo thêm cho Thận một số đặc điểm địa hình và tình hình địch ở khu vực này mà anh nắm được sau hai ngày theo dõi các trận đánh của đại đội Năm. Qua đó Thận cũng nắm được khá nhiều thông tin nên anh quyết định sáng mai sẽ xác định nhiệm vụ cho các xe tại thực địa luôn vì bây giờ có lên quan sát cũng chẳng nhìn thấy gì. Hai người vừa về đến chỗ xe 843 đỗ đã thấy Thọ và Trang đứng đó, nhác thấy bóng hai người Trang đã lên tiếng:

- Chào các thủ trưởng!

- Chào các đồng chí! Có vấn đề gì thế? - Tụ hỏi.

- Đây là hai đồng chí còn lại của xe 380 thủ trưởng ạ! - Thận đã nhận ra và giới thiệu với Tụ.

- Thủ trưởng ơi! Cho bọn em về với "xê Bốn" đi!

Nghe đến đây Tụ chợt nhớ ra "xê Năm" vẫn còn ba xe và xe 380 bị thương, anh nói:

- Suýt quên mất! "Xê Năm" vẫn còn ba xe nữa đang ở đây, tớ sẽ cho nó nhập vào "xê Bốn" luôn Thận nhé! - Quay sang hai chiến sĩ xe 380 Tụ hạ giọng - Nghe nói xe các cậu bị thương nặng lắm cơ mà, lại chỉ còn hai người thì đánh nhau thế nào được?

- Tất nhiên không được như bình thường nhưng vẫn đánh được ạ! - Thọ nói.

- Tớ còn lạ gì! Thôi, không mè nheo gì nữa, ngày mai các cậu cố gắng khắc phục được đến đâu hay đến đó rồi đi cùng lực lượng dự bị của lữ đoàn - Tụ nói một cách dứt khoát.

- Thôi, không đánh trận này thì đánh trận sau - Thận cũng an ủi hai thằng - Ngày mai là gay go lắm.

Thọ và Trang tiu nghỉu trở về xe, Tụ và Thận cũng bắt tay nhau - Tụ về sở chỉ huy lữ đoàn.

Gần sáng Thận đã đôn đốc tất cả cán bộ lên nghiên cứu địa hình. Đứng trên đỉnh bờ luỹ cổng Trường Thiết giáp có thể nhìn bao quát được khu vực tác chiến, anh nhận thấy địa hình phía trước khá bằng phẳng nên phác nhanh trong đầu một phương án và thống nhất chung:

- Theo thông báo của bên 304 thì địch đang tổ chức phòng ngự ở bìa rừng cao su kia - Anh chỉ tay về những lô cao su vẫn còn đang mờ mịt trong sương sớm - Về lực lượng của chúng chủ yếu là bộ binh được tăng cường một số xe tăng, vật cản hầu như không có gì, còn công sự chủ yếu là gỗ đất. Về phía ta bộ binh vẫn chốt giữ ở trên đó, đợi khi xe tăng ta vượt qua sẽ cùng xung phong. Với địa hình này tôi quyết định sẽ sử dụng đội hình hàng ngang lấy con đường nhựa làm trục chính của hướng xung phong. Các xe của đại đội Bốn sẽ xung phong phía bên phải, còn ba xe của đại đội Năm sẽ ở phía bên trái con đường. Từ đây ra ta sẽ đi theo đội hình hàng dọc, sau khi qua ngã ba "gia binh" sẽ triển khai thành đội hình hàng ngang đồng loạt xung phong. Các đồng chí có ý kiến gì không?

Khum hai bàn tay lên trán nhìn như dán vào bìa rừng cao su trước mặt một lát mà chẳng nhìn thấy gì Toàn có ý kiến:

- Tôi có ý kiến thế này, tôi đã cố gắng quan sát rất kỹ nhưng hiện tại trời còn quá sớm, các lô cao su vẫn còn sương mù và rất tối nên không thể quan sát được mục tiêu. Vì vậy tôi đề nghị ta nên lùi thời gian nổ súng lại ít phút chờ cho sương mù tan hết. Hết ý kiến!

Thận cũng khum hai bàn tay lên trán nhìn. Quả thật những lô cao su đều còn đen ngòm trong thứ ánh sáng yếu ớt của buổi ban mai, từ trong rừng những làn sương vẫn phảng phất bay ra. Thận quyết định:

- Tôi đồng ý với ý kiến anh Toàn, 7 giờ ta sẽ nổ súng! Tôi sẽ báo cáo lữ đoàn và thông báo lại cho bộ binh biết. Còn bây giờ các anh nghiên cứu thêm địa hình sau đó về xe tiếp tục làm công tác chuẩn bị.

Đúng 7 giờ Thận đứng hẳn lên ghế trưởng xe ngoái đầu nhìn lại phía sau, năm xe của đại đội anh và ba xe của đại đội Năm mới nhập vào đã xếp thành một hàng dọc trên đoạn đường trước cổng Trường Thiết giáp trong tư thế sẵn sàng. Anh lên đài kiểm tra mạng vô tuyến điện lần cuối, khi tất cả đã trả lời nghe tốt anh ra lệnh:

- 43 gọi 40! 100 (xuất kích)!

Đợi cho các trung đội trưởng báo cáo nhận đủ xong anh chuyển về nội bộ:

- Lái xe, tiến!

Hoả nổ máy xe, gài số và nhanh chóng xuất phát, các xe sau cũng đồng loạt tiến. Khói xả từ tám động cơ phun ra mù mịt, tiếng động cơ gầm gào phá tan cái yên tĩnh của buổi ban mai.

Đến ngã ba "gia binh" các xe đều tăng tốc độ, Hoả vẫn bám theo trục đường, bốn xe của đại đội Bốn tăng tốc độ vượt lên dàn thành hàng ngang phía bên phải đường, ba xe của đại đội Năm cũng đã chuyển sang đội hình hàng ngang ở phía bên trái. Tuy nhiên các xe vẫn chưa bắn được vì không quan sát được mục tiêu. Dường như đã phát hiện được cuộc tiến công mới của ta đã bắt đầu, pháo địch bắt đầu bắn dữ dội vào đội hình xe tăng. Những chớp lửa bùng lên phía trước, phía sau, bên phải, bên trái, mảnh đạn chém vào thành xe chan chát. Phía trước bìa rừng cao su vẫn tối om, bí hiểm. Thận nghĩ: "Cứ để thế này mãi thì nguy, phải làm sao đó cho nó quang quẻ ra mới đánh được". Một ý nghĩ bỗng loé lên trong đầu Thận, anh quyết định:

- 43 gọi 40! Bìa rừng cao su phía trước, 10 phát đạn nổ, cấp tập!

Chẳng đợi các xe báo cáo anh nhấn luôn nút nội bộ:

- Minh! Đóng 10 phát đạn nổ vào bìa rừng cao su phía trước!

Minh hạ thấp nòng pháo, Hoả vẫn chạy chân dầu trung bình cho xe được êm, tiếng Kỷ vang lên trong tai nghe:

- Đạn nổ, xong!

Minh quay tầm hướng nhằm bìa rừng cao su phía trước bóp cò, các xe khác cũng đã bắt đầu bắn cấp tập vào dải rừng phía trước.

Những chớp lửa nhoáng lên, những thân cây thi nhau đổ gục xuống hoặc gẫy hết cành lá. Đã thấy lộ diện những tháp pháo sơn màu loang lổ ngay bìa rừng, Thận bóp phát:

- 43 gọi 40! Chú ý diệt xe tăng địch phía bên phải - Anh bóp nội bộ luôn - Đạn xuyên, bên phải, tăng trong hầm, 800, hành tiến, bắn!

Minh đã nhìn thấy chiếc xe tăng M48 nằm sát bìa rừng, phía bên kia hình như địch cũng đã bắt đầu dùng pháo tăng bắn trả, những viên đạn xuyên bay xẹt qua mũi xe như một tia chớp. Minh nhanh tay quay pháo và bóp cò, một ánh chớp bùng lên, viên đạn vạch đường như một mũi tên bay thẳng về phía chiếc M48. Không phải chỉ một viên mà mấy viên cùng nhằm vào một đích đến, tích tắc sau cái xe M48 nằm trong bìa rừng bốc cháy đùng đùng. Đạn pháo vẫn trùm lên đội hình xe tăng đang xung phong, từ phía trận địa phòng ngự của địch đạn bắn ra như vãi trấu, thỉnh thoảng một quả đạn xuyên của pháo tăng và đạn chống tăng M72 vạch một đường lửa xẹt qua tháp pháo. Thận nghĩ: "như vậy các hoả điểm của địch đã bị bộc lộ, đạn con này chưa cần quan tâm, trước hết phải diệt hết xe tăng đã" và anh lại lên đài:

- 43 gọi 40! Tăng cường quan sát tiêu diệt hết xe tăng rồi mới bắn bộ binh! Nhận đủ trả lời? - Anh bóp ngay nội bộ - Minh chú ý lùng sục tìm xe tăng nhé!

Thêm hai xe M48 và một xe M41 nữa bị bắn cháy, khoảng cách đến bìa rừng cao su chỉ còn vài trăm mét, đã trông thấy lô nhô những công sự được đắp vội vàng. Thận quét kính trưởng xe hai ba lượt không thấy cái xe tăng nào nữa nên đã yên tâm, anh bóp phát:

- 43 gọi 40! Dùng đạn nổ tiêu diệt bộ binh phía trước.

Chưa đợi anh gọi một số xe đã bắt đầu dùng đạn nổ và súng máy bắn vào các công sự gỗ đất từ lúc nãy.

Bên xe 390, từ đầu trận đánh đại đội phó Phượng đã vào buồng pháo hai giúp Trường nạp đạn, anh lấy sẵn những viên đạn trên thành tháp pháo hay từ các giá đạn ra đưa cho Trường nạp vào buồng đạn nên tốc độ bắn rất nhanh. Khi thấy đã hết xe tăng và chỉ còn bộ binh Trường bảo:

- Anh nạp đạn đi! Em lên bắn 12,7 ly.

Trường đội cửa pháo hai lên ôm khẩu trọng liên 12,7 ly nhằm thẳng các công sự bộ binh ở bìa rừng để nhả đạn. Nhưng cái ghế pháo hai mà anh đang đứng lại làm vướng cho Phượng khi nạp đạn nên Trường co chân lên ngồi hẳn lên miệng cửa pháo hai để bắn. Khi anh đang say sưa kéo cò khẩu 12,7 ly bắn loạt dài vào một công sự thấp thoáng mấy bóng rằn ri thì một quả pháo nổ ngay cạnh xe. Sau một ánh chớp chói loà Trường chỉ thấy một nửa người tê dại đi, anh nghiến răng chịu đau tiếp tục bắn cho đến khi hết hòm đạn mới cúi nhìn xuống: bàn chân phải của anh bị mảnh pháo chém cụt ngón cái máu đang chảy đầm đìa, một mảnh khác chém vào hông làm anh không ngồi được. Trường chỉ kịp nghĩ: "May mà có cánh cửa pháo hai che cho không thì toi", rồi gục xuống đuôi khẩu 12,7 ly.

Khoảng cách đến bìa rừng cao su chỉ còn vài chục mét, bọn tàn quân đã bỏ chạy tán loạn vào rừng cao su, những tên bị thương không chạy được đang quáng quàng bò loạn xạ, Thận bóp phát hô:

- 43 gọi 40! Tăng tốc độ truy kích địch!

Tám cái xe tăng vẫn dàn hàng ngang xông vào rừng, những băng xích nghiền nát mấy cái công sự đắp vội. Không biết khi xe tăng đã vào đến rừng pháo địch mất mục tiêu hay vì quá gần trận địa phòng ngự của chúng nên không thấy bắn nữa. Mừng rỡ khi thấy con đường nhựa trước mặt Thận lập tức lên đài báo cáo:

- 43 gọi 01! Đã đánh chiếm được ngã ba Thái Lan! Xin chỉ thị!

Trong tai nghe thấy có tiếng ồn ào, chắc là ở sở chỉ huy mọi người đang rất phấn khởi rồi có tiếng trả lời:

- 01 gọi 43! Tổ chức cho 40 chốt giữ khu vực ngã ba để bảo đảm cho đội hình lữ đoàn hành tiến! Nhận đủ trả lời!

- 43 nhận đủ! - Thận trả lời ngay tức khắc, sau đó anh gọi toàn đại đội - 43 gọi 40! Toàn 40 tạm dừng, chiếm địa hình có lợi giữ vững địa bàn vừa chiếm được! Nhận đủ, trả lời!

- Nhận đủ! - Cả Trị và Tráng lần lượt trả lời.

Lúc đó là gần 10 giờ ngày 29 tháng 4.

Không được đại đội cho tham gia chiến đấu Trang và Thọ vừa buồn vừa tức, ngay sáng ra cả hai kiểm tra lại một lượt tình hình xe máy, vũ khí: xe thì không sao, vẫn chạy tốt nhưng phần vũ khí thì rất gay go - khẩu 12,7 ly đã bị bay mất, khẩu đại liên song song cũng bị hỏng nặng không bắn được, khẩu pháo 100 ly thì bị kẹt cứng về tầm, chỉ còn khẩu đại liên phía trước của lái xe là còn tốt, cái lỗ thủng trên đỉnh quạt gió không ảnh hưởng gì. Trang bảo:

- Xe pháo thế này các ông ấy không cho đi đánh nhau là phải rồi. Vấn đề bây giờ là phải xem pháo bị kẹt ở đâu thì khắc phục sao cho nó quay được!

Hai tên lúi húi xem xét, thì ra tấm thép trên cổ pháo bị sức ép của quả đạn làm biến dạng nhét vào khe hở giữa máng pháo và thành tháp pháo dẫn đến pháo bị kẹt. Trang lấy cái đục sắt đặt vào rìa tấm thép rồi bảo Thọ:

- Mày quai mấy nhát búa tạ vào đây xem sao?

Thọ vớ cái búa tạ, nó lựa thế đứng cẩn thận rồi giương búa lên quai liền ba nhát, tấm thép rúm ró đã được kéo ra một ít. Trang đặt lại đục sắt và Thọ quai một nhát quyết định, tấm thép bắn văng ra ngoài. Thọ chui vào tháp pháo quay thử tay tầm, pháo lại lên xuống trơn tru cậu ta sướng quá:

- Chỉ cần thế này là đánh nhau được rồi!

- Thế ai nạp đạn cho mày bắn? - Trang độp luôn.

Nghe câu hỏi Thọ ngớ người ra, quả thật pháo bây giờ đã bắn được nhưng không có pháo hai thì lấy ai nạp đạn, anh thần mặt ra một lúc rồi bảo:

- Không lo đâu! Cứ bắn xong một phát tao sẽ chui sang nạp đạn, tốc độ bắn có chậm hơn nhưng vẫn đánh nhau được.

Thấy cũng chẳng còn cách nào hơn Trang đồng ý:

- Đành phải thế vậy! Bây giờ lắp sẵn một viên đạn xuyên vào nòng pháo và phải luôn nhớ rằng đây là viên đạn sinh tử đấy, chỉ khi nào thật cần thiết mới được bắn, bắn xong mày lại chui sang nạp viên khác vào ngay. Còn nếu gặp bọn bộ binh thì để tao xử lý bằng súng máy phía trước cho. Thế được không?

- Được đấy! - Thọ đã có vẻ tươi tỉnh hơn.

Đúng lúc đó lữ đoàn bắt đầu tiến qua, Trang vội nổ máy nhập vào đội hình.

Sau khi xuyên qua cánh rừng cao su ra tới quốc lộ 15 Thận cho đại đội dừng lại lợi dụng địa hình địa vật triển khai đội hình phòng ngự lâm thời để chờ lữ đoàn đến. Trường đã được đưa về phía sau gửi vào quân y sư 304, bộ đội tranh thủ ăn trưa bằng lương khô.

Khi nhìn thấy đội hình lữ đoàn đã tiến đến gần Thận rời xe ra đón, vừa gặp anh lữ phó Tụ đã cười:

- May cho cậu mà cũng may cho tớ! - Ý lữ phó Tụ nhắc đến câu đùa chiều qua.

- Tôi cũng đã nói với thủ trưởng rồi, tôi có chết thì chết rồi chẳng đợi thủ trưởng bắn - Thận cũng cười đáp lại.

- Các cậu đã vất vả nhiều rồi, bây giờ chờ ở đây đợi xe tải chở đạn lên bổ sung rồi đi cùng dự bị lữ đoàn nhé! - Tụ nói rồi giơ tay vẫy cho đoàn xe tăng vượt qua, đi đầu là hai xe thiết giáp trinh sát, tiếp đó là đại đội Một và đại đội Ba của tiểu đoàn Một, phía xa xa là tiểu đoàn Bốn và tiểu đoàn Năm, ông chợt quay lại nói thêm với Thận - Còn "thằng" 380 tớ sẽ trưng dụng nó đi kéo mấy cái xe bị hỏng của tiểu đoàn Hai nhớ!

- Vâng ạ! - Thận trả lời và đưa tay ra bắt tay Tụ.

Đợi cho các xe lấy đạn xong Thận hạ lệnh tăng tốc độ chạy theo lữ đoàn. Hơn một giờ sau các anh đã đuổi kịp - cả lữ đoàn đang ùn lại vì cầu Sông Buông đã bị địch phá khi rút chạy qua.

*

Gần đến Ngã ba Thái Lan thì xe 380 bị lữ phó Tụ vẫy dừng lại, Trang từ từ hãm xe và tắt máy theo hiệu lệnh của lữ phó. Đợi cho Trang tắt máy xong Tụ lại gần, ông bảo:

- Bây giờ hai cậu cho xe quay lại kéo tất cả những xe bị hỏng của đại đội Năm lên đường nhựa để "xê Mười Một" khắc phục cho nhanh. Rõ chưa?

Đang hăng máu đi đánh nhau lại bị bắt đi kéo xe hỏng hai thằng ấm ức lắm nhưng cũng đành bấm bụng:

- Rõ rồi ạ!

- Rõ rồi thì đi đi! - Tụ vẫy tay.

Trang hậm hực quay đầu xe, anh phóng như bay về phía Trường Thiết giáp; có hai chiếc xe bị hỏng nhưng không bị cháy, chiếc nào cũng nằm cách đường vài chục mét, Trang đưa xe đến cạnh chiếc mang số 703 rồi bảo Thọ:

- Xuống móc cáp rồi chui vào buồng lái, lúc nào tao dừng thì đạp bàn đạp hãm cho nó khỏi húc vào đuôi xe mình là được.

Đang vội để đi nên hai thằng thao tác nhanh lắm, chỉ mươi mười lăm phút chúng đã đưa được hai cái xe hỏng lên đường nhựa, chợt một ý nghĩ nảy ra trong đầu Trang: "tại sao mình không quay lại chỗ hôm qua bị trúng đạn một tý nhỉ?". Nghĩ là làm, Trang quay đầu xe chạy thẳng đến chỗ hôm qua xe nó bị trúng đạn trước sự ngỡ ngàng của Thọ.

Vừa dừng xe Trang đã nhảy vọt ra ngoài, Thọ cũng từ trên tháp pháo nhảy xuống. Trang nhìn quanh quất, anh phát hiện ra cách đó hơn chục bước chân là khẩu 12,7 ly sứt sẹo nằm còng queo và la lớn:

- Đúng chỗ kia rồi!

Cả hai cùng chạy lại, bên cạnh xác khẩu 12,7 ly là ba cái ba lô rách bươm, Trang thụp ngay xuống cạnh cái ba lô của mình, anh mừng húm như vớ được vàng vì mấy quyển sổ tay của nó vẫn còn mặc dù cũng bị mảnh đạn chém cho xơ xác. Mấy cái ba lô đã bị ai đó lục lọi và lấy đi những gì còn lấy được, chỉ còn vài bộ quần áo cũ lỗ chỗ mảnh đạn nên hai thằng bỏ luôn lại đó. Về đến xe là Trang nổ máy và chạy hết tốc độ để đuổi theo đội hình lữ đoàn.

Mãi đến hơn mười giờ đêm chiếc cầu tạm do công binh quân đoàn làm mới xong. Lệnh của quân đoàn cho 203 tăng tốc độ dẫn đầu binh đoàn thọc sâu nhanh chóng tiến về Sài Gòn. Cây cầu tạm cứ nhún xuống như muốn sập mỗi khi một chiếc xe tăng bò qua nhưng thật may nó đã đứng vững. Dẫn đầu đội hình lữ đoàn lúc này vẫn là trung đội trinh sát cơ giới và hai đại đội của tiểu đoàn Một, ngay sau đó là đại đội Bốn mới được lữ đoàn điều lên lúc đợi công binh làm cầu.

Có lẽ quân địch đã rệu rã nên suốt từ cầu Sông Buông ra đến xa lộ Biên Hoà đội hình binh đoàn thọc sâu không gặp sự kháng cự nào đáng kể, một vài tiếng súng nổ lẻ tẻ nhằm vào đội hình nhanh chóng bị phân đội trinh sát dập tắt. Đúng nửa đêm phân đội đi đầu ra đến Ngã ba Tam Hiệp. Con đường xa lộ hướng về Sài Gòn rộng thênh thang đã ở ngay trước mắt.

Vừa ló đầu lên xa lộ một loạt đạn đủ các cỡ đã trùm ngay lên đội hình. Pháo tầm xa, pháo xe tăng và các loại súng của bọn địch từ bên kia đầu cầu Xa Lộ cùng thi nhau bắn xối xả. Các xe tăng được lệnh toả ra hai bên đường lợi dụng nhà dân và các công trình xây dựng để tiến lên đầu cầu. Dưới ánh chớp của đủ các thứ đạn những xe đi đầu phát hiện bốn chiếc M113 dàn hàng ngang trên mặt cầu, mấy khẩu pháo cùng phát hoả, cả bốn chiếc xe thiết giáp trên mặt cầu bùng cháy ngay lập tức, đạn trong xe nổ như hoa cà hoa cải. Lửa từ mấy xe cháy lan sang một xe ô tô chở đạn đỗ ngay bên cạnh, chiếc xe bùng cháy và lát sau đạn trên xe nổ ngày một dữ dội hơn. Cả một đoạn cầu đỏ rực như một bức tường lửa không thể vượt qua được, lữ đoàn hạ lệnh tạm dừng chờ cho nổ hết đạn mới vượt qua.

Bọn địch bên kia sông vẫn bắn như phát rồ nhưng chẳng phát nào trúng đích. Gần sáng, đạn trên các xe cháy đã nổ hết, mấy chiếc xe chỉ còn âm ỉ cháy, tiếng súng từ bên kia bắn sang cũng thưa thớt hơn - chắc chúng đã rút chạy. Lữ đoàn lệnh cho bộ phận đi đầu tiếp tục tiến.

Bốn chiếc xe thiết giáp dàn hàng ngang gần kín mặt cầu chỉ còn chừa một lối đi hẹp, xe tăng phải lách qua và một băng xích phải trèo lên phần lan can dành cho người đi bộ mới vượt qua được, cả lữ đoàn 203 như một cơn lốc nhằm thẳng hướng Sài Gòn.

Trên con đường xa lộ rộng thênh thang không một bóng người, chỉ thấy từng đống quần áo, súng ống vứt bừa bãi ven đường, thỉnh thoảng vài quả pháo tầm xa bắn vào đội hình nhưng những chiếc xe tăng không hề giảm tốc độ. Đến Ngã tư Thủ Đức đội hình đi đầu bất ngờ bị chùn lại vì nhiều loại đạn được bắn ra từ Trường Võ bị phía bên trái đường. Các xe tăng dàn thành đội hình chiến đấu nhưng mới chỉ bắn được vài phát thì lữ đoàn lệnh xuống: "Bỏ qua Thủ Đức, tiếp tục tiến!". Tiểu đoàn Một xốc lại đội hình tiếp tục theo xa lộ hướng về Sài Gòn.

Qua cầu Rạch Chiếc một đoạn đã thấy nhà cửa dày hơn, đã nhìn thấy lò cao của Nhà máy xi măng Hà Tiên và những tấm quảng cáo lớn như những mái nhà nằm rải rác, Sài Gòn đã ở ngay trước mắt.

Tiểu đoàn Một vẫn tiến nhưng tốc độ chậm hơn, xa xa đã nhìn thấy một cây cầu cong cong nằm vắt mình qua dòng sông rộng, ai cũng hồi hộp vì biết rằng đó là cầu Sài Gòn, bên kia cầu đã là nội đô, sào huyệt cuối cùng của địch.

Đã tiến gần hơn đến cầu, ngay gần đầu cầu là những chướng ngại vật được xếp bằng thùng phuy đứng sừng sững. Bất chợt những chiếc xe tăng nấp sau chướng ngại vật phát hoả, từ phía bên kia cầu cũng xuất hiện mấy chiếc xe tăng lợi dụng mặt cầu cong nhô lên bắn dữ dội vào quân ta. Trên đầu hai chiếc máy bay quần lượn định nhào xuống cắt bom, pháo tầm xa cũng bắn liên tục vào đội hình.

Ngay loạt đạn đầu của pháo tăng địch hai xe tăng của đại đội Một đã bị cháy, chiếc xe thiết giáp của phân đội trinh sát cũng trúng một quả pháo. Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ và một số chiến sĩ hy sinh, đội hình cả tiểu đoàn bị ùn lại. Các xe nhanh chóng tản ra hai bên đường lợi dụng địa hình địa vật để tránh pháo và tiêu diệt xe tăng địch, xe 381 lùi hẳn xuống một chỗ trũng ven đường.

Nhìn qua kính trưởng xe Thận thấy xe tăng địch chỉ nhô một tý tháp pháo lên sau các chướng ngại vật và mặt cầu nên rất khó bắn, để diệt chúng cần phải tập trung hoả lực của vài xe, anh lên đài gọi các xe trong đại đội:

- 43 gọi 40! Theo lệnh tôi tập trung hoả lực diệt từng xe tăng địch! Bắn chiếc gần nhất, bắt đầu! - Anh bóp báo gọi bảo Minh - Bắn cái gần nhất ấy!

Bên các xe khác cũng đã nghe được lệnh, cả mấy xe cùng bắn vào chiếc tăng gần nhất, sau hai loạt đạn thì chiếc M48 bốc cháy. Thận lập tức lên đài:

- 43 gọi 40! Bắn cái thứ hai!

Lại một loạt đạn tập trung vào cái M48 thứ hai nấp sau chướng ngại vật bên trái đường, chiếc xe bốc cháy ngay lập tức. Bên ta thêm hai xe nữa của đại đội Một bị trúng đạn bởi pháo tăng trên mặt cầu. Thận lại bóp phát:

- 43 gọi 40! Ngắm sẵn vào mặt cầu, đợi nó nhô lên thì bắn ngay!

Quả nhiên cách này có tác dụng, chiếc M48 vừa nhô tháp pháo lên đã bị mấy quả đạn xuyên lao tới, nó không bốc cháy nhưng lùi xuống mất dạng. Hai chiếc máy bay sau nhiều vòng quần lượn định lao xuống nhưng bị cao xạ của ta bắn hất lên cũng đã bỏ đi, pháo địch bắn tới cũng thưa hơn. Đạn trên hai chiếc M48 cháy bắt đầu nổ dữ dội, khói lửa mù mịt phía đầu cầu.

Lợi dụng lúc hoả lực địch yếu đi đội hình đi đầu đã nhích sát chân cầu, Trang cũng đã cho xe len lách lên ngay phía sau đại đội mình. Dưới sông hai cái tàu chiến chạy về phía hạ lưu, chúng quay súng lên bắn như vãi trấu về phía bờ Bắc, Thận gọi:

- 43 gọi 40! Quay pháo ra sông diệt tàu chiến!

Mấy khẩu pháo cùng gầm lên, những cột nước bốc lên xung quanh hai con tàu, chúng hoảng sợ dạt vội vào bờ, những bóng áo lính bỏ tàu chạy lên nhốn nháo.

Trong tai nghe của Thận bỗng thấy vang lên tiếng lữ phó Công:

- 01 gọi "dê Một"! Lập tức cho "xê Ba" xung phong vượt cầu, "xê Bốn" sẵn sàng yểm hộ!

Mệnh lệnh được nhắc đi nhắc lại hai lần nhưng không có ai trả lời - chắc do tiểu đoàn trưởng Nhỡ đã hy sinh chưa có ai thay thế, tuy nhiên các đại đội trưởng đều đã nghe được. Thận vội lên đài:

- 43 gọi 40! Sẵn sàng xung phong vượt cầu!

Đã thấy một xe của "xê Ba" lao lên mặt đường, Thận hô:

- 43 gọi 40! Xung phong vượt cầu! - Nhấn nút nội bộ anh giục Hoả - Tiến!

Chiếc 843 chồm lên, ngay sau đó là xe 390 và vài xe khác trong tiểu đoàn.

Quân địch hầu như đã bị tê liệt nên không thấy đạn từ các ổ đề kháng đầu cầu bắn ra nữa, từng chiếc xe lách qua chướng ngại vật để lên cầu. Khói lửa từ hai chiếc xe tăng cháy vẫn bốc ra mù mịt, thỉnh thoảng một ngọn lửa lại bùng lên cao do đạn nổ. Cầu Sài Gòn đã hiện ra ngay trước mắt, hơn chục chiếc xe tăng nối đuôi nhau vượt qua cầu, cái 380 sứt sẹo lóc cóc chạy cuối đội hình.

Lên đến đỉnh cầu Sài Gòn tầm mắt được mở rộng ra hơn, từ độ cao này đã nhìn rõ những toà cao ốc trong trung tâm thành phố, những dãy nhà lúp xúp ngay dưới chân cầu và con đường trải rộng trước mắt không một bóng người. Đoàn xe tăng rầm rập đổ dốc lao vào trung tâm, các lái xe vừa dán mắt vào kính lái nhìn đường, nhìn địch và tìm điểm chuẩn là cầu Thị Nghè.

Đúng lúc Hoả nhìn thấy cầu Thị Nghè cũng là lúc hai ánh chớp nhoáng lên phía bên kia cầu, hai chiếc xe M41 phục kích bên kia cầu đang bắn vào đội hình ta, chiếc xe đi đầu bị trúng đạn nhưng cũng kịp bắn diệt một cái, Hoả vội dạt sang một bên đường, Thận hét:

- Minh! Xe tăng phía trước!

Minh đã nhìn thấy cái M41 đang quay nòng pháo về phía xe nó, biết Kỷ đã lắp sẵn một viên đạn xuyên trong nòng pháo nên vừa đưa được mục tiêu vào đầu ngắm nó nhanh tay bóp cò luôn. Viên đạn xuyên lao vút đi, cái M41 bốc cháy đùng đùng. Chiếc xe 866 dẫn đầu đã bị thương, lửa cháy lem lém ở thùng dầu ngoài, trên xe anh em đang kéo trưởng xe ra đưa xuống đất để băng bó. Té ra chẳng phải ai xa lạ - đó chính là Lê Tiến Hùng, một pháo thủ cũ của "xê Bốn" này. Thận lệnh cho Hoả tăng tốc độ dạt sang bên trái đường để vượt qua, bám sát theo xe anh là xe 390 và mấy xe khác trong đại đội.

Đường phố vẫn vắng tanh vắng ngắt, những ai bất ngờ có việc ra đường đều nhanh chân dạt vào trong các hẻm hai bên đường, Hoả vẫn đang lẩm nhẩm trong đầu: "chạy thẳng đến ngã tư thứ bảy rẽ trái" thì nghe tiếng Thận trong máy nói:

- Hoả! Rẽ trái!

Không kịp hỏi lại Hoả kéo mạnh cần lái bên trái, chiếc xe rẽ ngoặt vào một đường phố khác. Hơi ngần ngừ một chút rồi Hỏa nhấn ga, bụng bảo dạ: "Đường phố bao giờ cũng như bàn cờ, cứ đi đường này rồi rẽ phải thế nào cũng đến".

Từ phía sau Tập đã nhìn thấy xe 843 rẽ trái, anh lẩm bẩm: "Thằng cha Hoả này lạc đường rồi, phải đi thẳng mới đúng chứ" rồi nhấn ga cho xe chạy thẳng. Hai xe M113 bất ngờ xuất hiện, Nguyên chẳng đợi khẩu lệnh trưởng xe bắn luôn một phát. Mấy xe ở phía sau cũng bắn, hai chiếc M113 bốc cháy như hai bó đuốc.

Chạy đằng sau Trang thấy rõ ràng đoàn xe tăng phía trước đã chia thành hai ngả, một vài xe rẽ trái theo 843, hầu hết lại chạy thẳng theo xe 390. Anh rất phân vân không hiểu ra làm sao nhưng rồi đi đến quyết định rất nhanh: "Cứ đi theo xe đại trưởng", nên đến cái ngã tư ấy Trang cũng kéo cần lái rẽ về bên trái.

Đường phố vẫn không một bóng người, một vài cái xe Jeep, xe mô tô vứt chỏng chơ trên đường. Thận trở nên bối rối vì cứ nghĩ đơn giản rằng vào thành phố thấy cái nhà nào cao, to mà treo cờ ba sọc thì đó chính là Dinh Độc Lập. Nhưng vào đến đây anh mới thấy thành phố lớn quá, nhà cao to treo cờ ba sọc cũng nhiều quá, vì vậy anh quyết định sẽ phải tìm người để hỏi.

Đã chạy hết một dãy phố nhưng đường phố thì vắng tanh, nhà nào nhà ấy đóng cửa im ỉm, chỉ thấy giấy tờ bay ngập đường chẳng có "ma" nào để hỏi đường Thận quyết định cho xe dừng lại ở một chỗ rất nhiều cây xanh. Chiếc xe vừa nép vào bóng rặng cây ven đường dừng lại thì một phụ nữ trẻ phóng chiếc xe máy đi tới, mừng như bắt được vàng Thận vẫy cô ta đứng lại. Không biết vì sợ hay vì ngại mà cô ta vẫn chạy, cáu tiết và cũng chẳng còn cách nào hơn Thận nâng khẩu AK vẫn để ngay cạnh mình lên bắn chỉ thiên một loạt. Nghe tiếng súng người phụ nữ vội dừng xe, Thận vẫy cô ta đến gần. Thì ra đó là một phụ nữ còn khá trẻ mới chừng ba mươi tuổi, gương mặt khá xinh, cô ta bước tới gần chiếc xe tăng mà hai chân cứ ríu vào nhau chực sụp xuống, mặt thì cắt không còn hột máu. Nhìn bộ dạng ấy Thận biết cô ta đang rất sợ nên hỏi rất mềm mỏng:

- Cô gái! Chúng tôi là quân giải phóng, cô làm ơn chỉ giúp đường nào đến Dinh Độc Lập?

- Tôi... không... rõ... rõ...! - Cô gái lập bập nói chẳng ra hơi.

Thận bỏ hẳn mũ công tác ra hỏi lại:

- Dinh Độc Lập là chỗ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu làm việc ấy mà!

- Tôi... không... không... biết! - Cô ta vẫn lặp lại.

- Cô cứ bình tĩnh nghĩ đi! Chúng tôi là quân giải phóng vào đây chỉ đánh Mỹ - ngụy chứ không làm gì hại tới đồng bào. Nếu cô không giúp đỡ chúng tôi nghĩa là cô ủng hộ Mỹ - ngụy nên chúng tôi sẽ bắt cô.

- Đừng... đừng... bắt tôi! Tôi nghĩ ra rồi! Đó gọi là Dinh Tổng thống phải không? Thế thì nó ở ngay trước mặt các ông kia kìa, ngôi nhà màu trắng ấy! - Người phụ nữ đưa tay chỉ về một ngôi nhà màu trắng thấp thoáng phía xa.

Thận nheo mắt nhìn, quả thật đằng sau những tán lá cây xanh mướt có một ngôi nhà khá lớn màu trắng đứng sừng sững, anh gặng lại một lần nữa:

- Có đúng thế không?

- Đúng vậy! - Người phụ nữ đã bình tĩnh hơn nên khẳng định một cách chắc chắn.

- Thế thì cảm ơn cô! Cô đi được rồi!

Thận ngoảnh lại phía sau, cách anh vài trăm mét có một vài xe đang tiến đến, anh chui vào xe và nói ngắn gọn với cả xe:

- Dinh Độc Lập đang ở ngay phía trước chúng ta, hiện giờ không biết lực lượng địch và khả năng chống cự của chúng thế nào nên cứ phải liều thôi. Bây giờ tất cả các loại vũ khí đều phải để ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu, Hoả dùng tốc độ cao lao vào. Tất cả rõ cả chưa?

- Rõ! - Hoả, Minh, Kỷ cùng đáp.

- Tiến!

Hỏa khởi động động cơ và nhanh chóng cho xe chạy, khi đã đủ đà anh tống lên số ba và tăng chân dầu, chiếc xe lao ầm ầm trên đường như con voi sổng chuồng. Đã nhìn rõ ngôi nhà bốn tầng màu trắng nằm chính diện với con đường, trên nóc lá cờ ba sọc phất phơ bay, Thận khẳng định: "Đúng là Dinh Độc Lập rồi".

Chẳng biết quân địch trong đó thế nào, Thận nghĩ: "Phải làm cho chúng nó sợ cái đã" và quyết định:

- Minh! Đánh pháo cao bắn lên trời một phát!

Pháo thủ Minh hơi ngỡ ngàng nhưng cũng răm rắp làm theo, nó quay tầm cho pháo lên cao hết cỡ rồi bóp cò, không có tiếng nổ. Minh giật vội cần lên cò lại và bóp cò tiếp một lần nữa nhưng đạn vẫn không nổ. Hơi cuống nhưng Minh vẫn nghĩ ra, anh hét:

- Kỷ! Lắp viên đạn khác!

Kỷ đang loay hoay tháo viên đạn hỏng ra thì xe đã tới ngay gần cổng dinh, tại đây quân ngụy đã bày rất nhiều những hàng rào sắt làm chướng ngại vật. Thận hô:

- Cứ lao thẳng vào!

Đang chạy với tốc độ cao lại phải lượn tránh mấy cái chướng ngại vật làm xe hơi lệch sang trái so với cổng chính nên Hoả quyết định sẽ húc vào cổng bên trái, anh giật cần lái trái cho xe nhao hẳn sang một bên rồi giật cần lái bên phải lấy lại hướng cho chính diện. Chưa kịp lấy lại hướng thật chính xác thì chiếc xe đã húc vào cổng Dinh, băng xích bên phải thúc vào làm một cánh cổng đổ nghiêng xuống, cánh cổng bên kia cũng mở ra; băng xích bên trái đâm vào trụ cổng, tiếng động cơ gằn lên rồi lịm hẳn.

Sau khi diệt được hai chiếc M113, Tập tăng tốc độ chạy, đường phố trước mặt không một bóng người, anh hơi "ngợp" bởi những dãy nhà cao tầng san sát nhau. Nhớ ra việc xe 843 không chạy thẳng theo kế hoạch Toàn lên đài gọi Thận:

- 90 gọi 43! 43 đã bị lạc đường! Nhận đủ, trả lời!

Trên tai nghe vẫn chỉ thấy tiếng xào xạo của nhiễu, Toàn bóp công tắc phát gọi lại lần nữa nhưng vẫn không thấy Thận trả lời, anh nghĩ bụng: "Chắc do khuất nhà cao tầng không liên lạc được" nên bóp công tắc nội bộ nhắc Tập:

- Tăng tốc độ! Chú ý không lạc đường!

Tập dấn thêm ga, chiếc xe lao sầm sập trên đường phố vắng tanh vắng ngắt, mắt anh như dán vào kính lái, hai tay liên tục thao tác cho xe chạy thành hình chữ chi còn miệng thì lẩm bẩm: "Đã qua một ngã tư, kia là cái thứ hai...". Không biết Tập lãng đi lúc nào nhưng đến một ngã tư tiếp theo anh phân vân: "Không biết đây là thứ sáu hay thứ bảy nhỉ?". Chưa hết phân vân thì xe đã vọt qua ngã tư, đến lúc này thì Tập nhớ ra cái ngã tư mà anh vừa vượt qua chính là ngã tư thứ bảy nên vội dạt sát vào lề đường bên phải rồi về số để quay đầu.

Thấy xe dừng Toàn vội hỏi:

- Tập! Tại sao lại dừng!

- Mình đi quá mất rồi! - Tập trả lời ngắn gọn, tay kéo mạnh cần lái trái cho xe quay 180 độ về phía sau, anh vào số hai và quay lại đến ngã tư thì rẽ phải vào một con đường rợp bóng cây, khi xe đủ đà anh lên số ba và tăng chân dầu chạy miết.

Xe chạy được vài phút thì ra đến đoạn đường khá quang đãng và nhà cửa ít hơn, qua kính trưởng xe Toàn nhìn thấy chiếc 843 đang lao tới rồi khựng lại trước cổng. Tập cũng đã nhìn thấy xe 843, anh đạp ly hợp cho xe giảm tốc độ rồi hỏi:

- Anh Toàn! 843 đang dừng ở đằng trước, xe mình thế nào?

- Cứ chạy đi! - Toàn quả quyết.

Tập nhả ly hợp, chiếc xe chồm lên và tăng dần tốc độ, đã nhìn thấy ngôi nhà cao tầng màu trắng sau hàng rào sắt phía bên tay phải, trên nóc là lá cờ ba sọc; Toàn khẳng định: "Dinh Độc Lập đây rồi" và hô:

- Tăng tốc độ lao thẳng vào cổng chính!

Khi động cơ gằn lên rồi chết lịm Hoả vội đạp ly hợp rồi ấn nút khởi động, tiếng bánh răng động cơ khởi động lao ra nhưng không kéo nổi động cơ xe tăng, anh nghĩ rất nhanh trong đầu: "Tại hộp số vẫn ở số ba nên bình điện không kéo nổi động cơ" và đưa tay giật vội cần số về số "không". Cái cần số bướng bỉnh nằm yên không nhúc nhích như trêu ngươi, Hoả lỏng tay đạp ly hợp hai lần rồi lại nghiến răng giật mạnh nhưng vẫn không được. Quay sang phải Thận đã nhìn thấy xe 390 đang lao đến, anh hỏi Hoả:

- Sao thế Hoả?

- Xe bị kẹt số, không nổ được máy! - Hoả vừa kéo cần số vừa trả lời.

Thận ngẩng đầu lên đặt mắt vào kính trưởng xe và nhìn như bị hút hồn vào ngôi nhà bốn tầng màu trắng ngà trước mặt: mục tiêu chủ yếu của trận đánh này, của cả cuộc chiến tranh này đã nằm ngay trước mặt anh, các anh đánh chiếm được nó sớm phút nào thì chiến tranh kết thúc sớm phút đó và sẽ bớt đi bao nhiêu máu đổ. Trong khoảnh khắc những hình ảnh các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô cắm cờ trên nóc nhà Quốc hội Đức và bộ đội ta cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên Phủ thoáng hiện trong óc Thận. Ngôi nhà vẫn nằm đấy im lìm và đầy bí hiểm, ai biết được đằng sau những ô cửa kia, những cột trụ kia là những gì, có tay súng nào đang nhắm vào các anh hay không? Để đến được đây các anh đã phải đi qua biết bao đường đất, biết bao xương máu đã chất đầy trên con đường đó. Chỉ còn một đoạn ngắn nữa thôi, dẫu có hy sinh ngay tại đây cũng không hề uổng phí, mà đằng sau anh còn xe anh, còn bao đồng đội của anh đang đến, họ sẽ bảo vệ anh và sẽ trả thù cho anh. Nghĩ vậy Thận quyết định sẽ chạy bộ vào, anh dặn cả xe:

- Nếu một lúc nữa không thấy tớ xuống thì coi như tớ đã hy sinh, còn bao nhiêu đạn các cậu cứ nã hết vào Dinh.

Nói rồi Thận bật cửa trưởng xe nhô đầu lên vít cần ăng-ten lấy lá cờ giải phóng.

Đúng lúc ấy xe 390 đã đến trước cổng Dinh, Tập hơi giảm chân dầu và kéo cần lái bên phải về vị trí "hành tinh", chiếc xe cua một vòng chín mươi độ nằm đối diện với cổng chính. Tập tăng chân dầu lao thẳng vào cổng, một cánh cổng đổ sập xuống, cánh kia bung bản lề đổ nghiêng, theo đà tiến xe tăng lao hẳn vào trong sân Dinh.

Thận đã tháo được lá cờ, anh nhảy xuống chạy băng qua thảm cỏ bên cạnh xe 390 về phía cửa chính, thấp thoáng một vài bóng người cầm máy ảnh phía trước.

Từ trong xe Toàn đã thấy Thận cầm lá cờ chạy bộ ngay bên cạnh xe mình. Nghĩ thầm trong bụng: "Nguy hiểm quá! Đã biết lực lượng địch trong Dinh thế nào mà anh ấy lại xuống xe thế kia", Toàn nhắc Tập:

- Giảm tốc độ! Chạy từ từ thôi.

Hoả đã đưa được cần số về số "không" và ấn nút khởi động, động cơ nổ được ngay, anh lùi lại một chút chỉnh hướng rồi lao vào sân dinh sau xe 390 vài mét. Hoả tăng ga cho xe chạy song song với xe 390, hai chiếc xe như hai người lính cận vệ hai bên cho đại đội trưởng của mình.

Cả hai xe lao đến sát tiền sảnh Dinh thì dừng lại, đại đội trưởng Thận vẫn cầm lá cờ chạy lên bậc tam cấp và khuất dạng sau cánh cửa. Chính trị viên Vũ Đăng Toàn ra lệnh:

- Anh Phượng lên ôm 12,7 ly, cả xe sẵn sàng bảo vệ cho anh Thận và tôi.

Ra lệnh xong Toàn bật nắp cửa trưởng xe cắp khẩu AK nhảy xuống chạy theo Thận vào trong dinh. Đại đội phó Lê Phượng đội cửa pháo hai lên ôm lấy khẩu 12,7 ly, bên xe 843 pháo hai Nguyễn Văn Kỷ cũng đã đội cửa lên, cả hai nhìn như dán vào Dinh, tay lăm lăm bóp cò. Hoả và Tập vẫn ngồi nguyên vị trí, họ vẫn để ở số hai và dừng xe bằng cần lái, như thế này nếu cần chỉ đẩy hai cần lái về phía trước là xe sẽ chồm lên ngay. Trên ghế pháo thủ Minh và Nguyên cũng đang dán mắt vào kính mặt bằng, hai nòng pháo vẫn chĩa thẳng vào Dinh, hai ngón cái đặt sẵn vào nút cò điện.

Chạy đằng sau xe 843 vài trăm mét, Trang thấy rất rõ tình hình diễn ra phía trước. Khi nhìn thấy chiếc xe 843 khựng lại Trang đã thót tim vì lo cho Hoả - không hiểu đã có chuyện gì xảy ra, anh bảo Thọ:

- Chú ý quan sát nhé! Thấy thằng nào thật nguy hiểm thì mới bắn!

Nói rồi Trang nhấn ga tăng tốc độ, chiếc xe lao phăm phăm trên con đường rộng thênh thang không một bóng người. Còn khoảng vài trăm mét Trang chợt nhìn thấy chiếc 390 từ bên phải chạy sang rồi cua một vòng "hành tinh" cực kỳ điêu luyện vào ngay chính diện cổng chính. Phía sau xe 390 là mấy xe của đại đội anh và đại đội Ba, có cả một cái K63 - 85 lội nước không hiểu sao cũng đã đến được đây. Trang thở phào nhẹ nhõm.

Khi hai chiếc xe 843 và 390 đã tiến sát tiền sảnh, đội hình xe tăng tiếp theo tản ra thành hình vòng cung trên thảm cỏ hình thành thế bao vây ôm chặt lấy dinh, những nòng pháo vẫn gườm gườm chĩa thẳng vào dinh sẵn sàng nhả đạn, hàng chục chiếc động cơ 550 mã lực vẫn gầm rú như đàn voi chiến đang còn say máu. Vài giây sau không thấy động tĩnh gì tiếng động cơ nhỏ dần rồi tắt hẳn, những nắp cửa bật tung ra. Từ trong xe những thân hình nhem nhuốc nhảy ra ôm lấy nhau hò reo mừng rỡ, hàng chục chiếc mũ công tác tung lên, mấy tên pháo hai hứng chí quay 12,7 ly ngỏng lên trời kéo cò luôn cả hòm 50 viên đạn.

Phía sau các ô tô, xe bọc thép chở bộ binh cũng đang dồn đến ngoài cổng, trên xe bộ binh cũng giương súng lên trời xả hàng băng đạn. Cánh nhà báo lúc nãy nấp ở đâu không biết giờ kéo ra khá đông đang lăng xăng ghi hình, chụp ảnh. Bọn lính cảnh vệ và nhân viên trong Dinh đã bị dồn lại ngồi thành một hàng ở phía bên phải sân Dinh một cách rất trật tự...

Lao chiếc 380 "sứt môi" vào sát bồn nước giữa sân Dinh, Trang dừng lại, anh vừa mở cửa lái xe đã thấy Thọ nhảy bổ xuống, hai thằng ôm lấy nhau nhảy tưng tưng, miệng hò reo như trẻ con trong ngày hội. Trên xe 381 trung đội trưởng Trị cắp khẩu AK vào nách đứng trên đỉnh tháp pháo hô lớn:

- Chú ý nghe đây! Các lái xe và pháo hai không được rời xe! Còn lại theo tôi vào Dinh!

Thọ bỏ Trang ra lao bổ về phía Dinh, Trang và cánh lái xe tiu nghỉu đứng nhìn đồng đội mình đang lao vào Dinh như một dòng thác. Một tay nhà báo lăm lăm cái máy ảnh đang hướng về phía Trang. Đến lúc này Trang mới chú ý đến mình - bộ quần áo mặc từ hôm 27 đến giờ chưa thay lấm lem bụi đất đỏ rừng cao su và dầu mỡ, nhiều chỗ còn dính máu pháo hai Duyệt. Tai hại hơn - không biết quạc vào đâu mà ống quần bên trái của anh rách một đường từ trên đầu gối xuống đến tận gấu quần. Bối rối quá Trang quay đi và chui tọt vào ghế lái xe.

Chính lúc ngồi trong ghế lái xe nhìn ra xung quanh Trang mới cảm nhận thật đầy đủ cái sự kiện vĩ đại mà anh và các đồng đội của anh đã góp phần làm nên và tận mắt được chứng kiến, Trang hiểu rằng từ giờ phút này chiến tranh đã hoàn toàn chấm dứt, không còn đổ máu, không còn chết chóc... Cúi nhìn đồng hồ hành trình Trang thấy con số 3.100 hiện trên công-tơ-mét, anh chợt liên tưởng đến con đường mà bao thế hệ đã đi qua để hôm nay đến được cái đích cuối cùng này. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc, Trang vội vàng móc cuốn sổ tay "bất ly thân" đã rách te tua ra ghi vội:

"Khi chiếc xe tăng dừng trước Dinh Độc Lập

Ta ngỡ ngàng - đây thật hay mơ?

Cây số cuối cùng - cuộc trường chinh dằng dặc

Đến rồi chăng? Hai mắt bỗng dưng nhoà".

Sài Gòn - trưa 30 tháng 4 năm 1975

Hai mắt Trang nhoà đi thật, anh biết rằng để hôm nay các anh đến được cái đích này, đến "cây số cuối cùng" này đã có biết bao người phải đổ máu, hy sinh. Chỉ riêng "xê Bốn" này thôi tám đồng đội của anh đã vĩnh viễn gửi lại tuổi thanh xuân trên những chặng đường chiến đấu. Mới chỉ hôm kia thôi Nguyễn Kim Duyệt - pháo hai chính cái xe 380 này cũng đã ngã xuống mà hành trang để lại chỉ là một ba lô sách. Trang gập cuốn sổ tay, tỳ trán vào cửa lái xe và nhắm mắt lại để kìm cơn xúc động.

Khi đã tĩnh trí Trang ngẩng lên nhìn - trên nóc Dinh Độc Lập đại đội trưởng Thận đang kéo lá cờ giải phóng lên cột cờ. Lá cờ xanh đỏ giữa có ngôi sao vàng nhuốm màu khói súng và lỗ chỗ vết đạn gặp gió tung bay phấp phới trên bầu trời tháng Tư Sài Gòn xanh ngắt.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip